LÃO TỬ - CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH
LAO TU - CON DUONG HUYEN NHIEM TAM LINH
LÃO TỬ - CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH
ĐỨC LÃO TỬ VÀ CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH
*Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Sử gia Tư Mã Thiên thuật lại lời đức Khổng nhận định về đức Lão Tử như sau: «Con chim, ta biết nó có thể bay, con cá, ta biết nó có thể lội, con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy, thời có thể chăng dò; lội, thời có thể chăng lưới; bay, thời có thể bắn tên; đến như rồng, thời ta không thể biết: Nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp Lão Tử, Ngài thực là rồng vậy.»
Và tôi nhớ lại sách xưa bàn về rồng như sau: «Rồng có thể tối hay sáng, nhỏ hay to, ngắn hay dài. Xuân phân bay bổng lên trời, Thu phân lặn sâu đáy vực.»
Như vậy, tức là rồng thiên biến vạn hóa, tức là đức Lão Tử thiên biến vạn hóa. Đã thiên biến vạn hóa, thì chúng ta khó có được một cái nhìn toàn bích về Ngài. Quí vị cùng tôi, chúng ta đều được mục kích cái thiên biến vạn hóa ấy, nhưng mỗi người chúng ta chỉ nhìn thấy một khía cạnh. Tôi hôm nay mạo muội đem trình bày những khía cạnh, những nhãn quan của tôi về Lão Tử, chỉ cốt mong là để làm giàu thêm cho những khía cạnh, những nhãn quan mà quí vị đã có về đức Lão Tử, chỉ vậy thôi.
*Trong bài thuyết trình này, tôi sẽ lần lượt trình bày:
I. ĐỨC LÃO TỬ LÀ AI?
Với những phụ tiết:
1. Đức Lão Tử qua văn liệu và niềm tín ngưỡng dân gian
2. Nhận định và giải thích các quan điểm trên
3. Ít nhiều nhận định riêng tư về đức Lão Tử
II. CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH CỦA ĐỨC LÃO TỬ
Với những phụ tiết:
1. Thế nào là con đường huyền nhiệm
2. Những giai đoạn, những chặng đường trên lộ trình đó
III. KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
I. ĐỨC LÃO TỬ LÀ AI?
1. Đức Lão Tử qua văn liệu và tín ngưỡng dân gian :-
Tiểu sử đức Lão Tử thật ra rất mơ hồ ẩn ước, trong đó thực tế xen lẫn với huyền thoại, nên khó mà có được một ý niệm chính xác.
a. Có người cho rằng Lão Tử sinh ra trước Khổng tử, và đã có lần gặp đức Khổng. Cũng có những học giả dựa vào Tư Mã Thiên và Chiến quốc sách, lại cho rằng Ngài sinh sau Đức Khổng và đã sống vào khoảng những năm 300 tcn.[2]
b. Trang Tử Nam Hoa Kinh, chương 3 - Dưỡng sinh chủ, cho rằng đức Lão Tử đã chết.
c. Học giả Henri Doré, dựa vào sách Phật tổ thông tải đã toán ra rằng: Đức Lão sinh năm 584 gặp đức Khổng năm 526 (tức là năm Ất Hợi, năm Cảnh Vương thứ 19) và mất năm năm sau khi ngài 84 tuổi, tức là năm Kỷ Mão tức tây lịch 500 tcn.[3]
d. Tư Mã Thiên cho rằng, sau khi rời ải Hàm Cốc, không còn biết hành tung Ngài ra sao.[4]
e. Tư Mã Thiên cho rằng: Đức Lão Tử cũng là một người như ai, có vợ, có con. Con Ngài tên Tông làm tướng nước Ngụy ở xứ Đoạn Can. Tư Mã Thiên kể danh tính con cháu đức Lão Tử đến 11 đời, tức là đến khoảng đời Tư Mã Thiên, để cho thấy rằng những lời ghi chép của ông về đức Lão Tử là chính xác.
g. Biên Thiều, tác giả Lão Tử minh (tức là bia nói về đức Lão) thời Hán Văn đế (năm 165 Công Nguyên) đã ghi rằng: đối với dân chúng, Lão Tử đã có từ muôn kiếp. Như vậy Ngài là Người Trời.
h. Hoá Hồ kinh, do Vương Phù viết vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 (đời vua Hán Huệ đế 290-306), cho rằng Lão Tử sau khi rời Hàm Cốc, đã đi về các nước rợ vùng Tarim, rồi sang Ấn Độ để dạy đạo cho đức Phật. Sách còn chủ trương rằng: đức Phật Thích Ca chính là hậu thân hay đồ đệ của đức Lão. Quyển sách này đã gây nên không biết bao nhiêu là cuộc bút chiến, khẩu chiến giữa các Phật tử và các đạo sĩ suốt các đời Lương (năm 520 Vũ Vương thời Lương), đời Đường trong các đời vua Cao Tông (668) và Vũ Hậu (696), thời Nguyên đời Mông Ca (1252) và Nguyên Thế tổ (1280-1294) – (Xem Léon Wieger, Textes historiques, p.1420).
i. Biến Hoá kinh, viết vào khoảng năm 612 sau CN (thời Tùy Dạng Đế) cho rằng Lão Tử chẳng những có từ muôn thuở, mà Ngài chính là Thượng Đế. Ngài đã giáng trần nhiều lần, để cứu độ muôn dân.
k. Khảo thư tịch đạo Lão, ta thấy dân gian tin rằng đức Lão Tử là một trong 3 ngôi Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ba ngôi đó là:
- Nguyên Thủy Thiên tôn, hay Thiên Bảo quân hay Ngọc Hoàng ở cung Ngọc Thanh.
- Linh Bảo Thiên tôn, hay Linh Bảo quân ở cung Thượng Thanh.
- Thần Bảo Thiên tôn, hay Lý Lão Quân hay Lão Tử ở cung Thái Thanh.
Ba Ngôi tuy danh hiệu khác nhau, nhưng đồng một Bản Thể.[5]
1. Sách Thăng Huyền kinh (viết vào khoảng thể kỷ 3 hay 4 CN) cũng cho rằng: tuy gọi là Ba Ngôi nhưng thực ra vẫn là Một Vị.[6]
2. Khảo tín ngưỡng dân gian, thư tịch đạo Lão, khảo các đàn cơ, ta thấy dân chúng xưa nay thường coi đức Lão Tử là đức Thái Thượng Lão Quân giáng trần. Mà đức Thái Thượng Lão Quân theo danh từ Lão giáo, chính là Thượng Đế.
1. Thái Thượng Lão Quân là Thượng đế.
2. Lão Tử chính là đức Thái Thượng Lão Quân phân tánh giáng phàm.
Hai điểm này có lẽ cũng sẽ đáp ứng lại được phần nào những mong đợi của tín hữu Cao Đài nơi thuyết trình viên ngày lễ vía đức Thái Thượng đạo quân hôm nay.
1. Thái Thượng Lão quân là Thượng đế
Khảo thư tịch Đạo Lão, ví dụ như quyển Tính Mệnh khuê chỉ, hay quyển Huỳnh Đình nội cảnh, do Tử Hà chú giải,[7] ta sẽ thấy những danh từ khác nhau như:
- Nguyên Thủy Tổ Khí,
- Vũ trụ chi tể,
- Huyền Tẫn chi môn,
- Thiên Địa linh căn.[8]
- Tiên Thiên nhất khí,
- Tiên Thiên nhất khí Thái Thượng Lão Quân,
- Thái Thượng Lão Quân,
- Lão Quân,
- Lão Quân nhất khí,[9]
Đó đều là những danh xưng khác nhau để chỉ Thượng Đế: hoặc Thượng Đế vô ngã (Dieu impersonnel), hoặc Thượng Đế hữu ngã (Dieu personnel), hoặc Thượng Đế vô ngã - hữu ngã tương dung (Dieu à la fois impersonnel et personnel).[10]
Phân tách bốn chữ Thái Thượng Lão Quân, ta thấy:
- Thái Thượng là rất cao, hay tối cao. Đấng Rất Cao chính là danh từ mà Âu Châu hiện nay dùng để chỉ Thượng Đế (Le Très Haut).
- Lão Quân, là vị Vua già. Có trước đất trời, làm chủ tể quần sinh, mà gọi là Vua già là Lão Quân, thì chẳng xứng đáng hay sao?
* Thái Thượng Đạo Tổ cũng có khi xưng mình là Thầy, từ cung Đâu Suất giáng đàn. Ví dụ trong quyển Thượng Thừa Chân Pháp, Hỏa Diệm Hồng Liên do Cao Minh Quang, Trường Chân Đạo, xuất bản năm 1969, nơi tr. 242, trong bài đàn cơ Tí thời ngày 15/2 năm Đinh Mùi 1967, tức cũng là ngày thánh đản đức Thái Thượng Lão quân, hay Lý Lão Tổ mà ta mừng hôm nay, có bài thơ bát cú, với 8 chữ khoán thủ là: ĐẠO TỔ THÁI THƯỢNG GIÁNG CUNG ĐÂU XUẤT, như sau:-
ĐẠO pháp hoằng khai độ vạn linh,
TỔ quang chiếu lộ bóng không hình.
THÁI dương chiếu sáng càn khôn định,
THƯỢNG hạ âm dương tượng lý tình.
GIÁNG điển thanh thiên truyền diệu lý,
CUNG trời tá thế luyện thông minh.
ĐÂU ngôi ứng hiện, Thầy phân tánh,
XUẤT nhập trò tu mấy bộ kinh.
*Và một bài trường thi, trong đó có 4 câu đầu như sau:-
Ngôi Đâu Xuất, Thượng Tôn Thầy giáng,
Cảnh Tiên Cung trước án giờ đây;
Thái Thượng Đạo Tổ là Thầy,
Mở khai quan khiếu đủ đầy ánh linh…
*Đạo Cao Đài có bài kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ. [11] Một phần của kinh ấy như sau:-
Tiên thiên khí hóa,
Thái Thượng đạo quân,
Thánh bất khả tri,
Công bất khả nghị.
Vô vi cư Thái cực chi tiền,
Hữu thủy siêu quần chân chi thượng.
Diệu Hóa Tam thanh.
Đức hoán hư linh,
Pháp siêu quần thánh.
Nhị nguyệt thập ngũ,
Phân tánh giáng sanh,
Nhất thân ức vạn,
Diệu huyền thần biến,
Tử khí Đông lai,
Quảng truyền Đạo Đức… [12]
先 天 氣 化
太 上 道 君
聖 不 可 知
功 不 可 議
無 為 居 太 極 之 前
有 始 超 群 真 之 上
妙 化 三 清
德 煥 虛 靈
法 超 群 聖
二 月 十 五
分 性 降 生
一 身 億 萬
妙 玄 神 變
紫 氣 東 來
廣 傳 道 德
...............
Tôi thấy kinh này rất quan trọng về phương diện giáo lý :-
Phần trên từ câu: «Tiên thiên khí hóa…» đến câu: «Pháp siêu quần thánh» chứng minh Thái Thượng đạo quân, hay Thái Thượng Lão Quân chính là Thượng Đế.
Nếu không phải Thượng Đế sao dám nói là:
- Vô vi có trước Ngôi Thái cực.
- Hữu thủy, siêu xuất quần chân?
Nếu không phải là Thượng Đế, thì sao tự xưng là:
- Một khí Nguyên thủy,
- Diệu hóa Tam Thanh.
- Đức của mình hoán chuyển được hư linh,
- Pháp của mình vượt trội muôn thần vạn thánh.
Nếu không phải Thượng Đế, sao lại nói được:
- Nhất thân mà hóa ra được thành muôn ức,
- Biến hóa diệu huyền.
Vả chăng, trong sách Lao-Tse et le Taoisme (Lão Tử và Lão giáo) của L.M. Henri Doré, nơi chương: Vũ trụ luận của Lão giáo, có đoạn sau: «Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn, trong khi giải thích Đạo tạng cho chúng thần, đã kể lại sự khởi nguyên của vạn hữu như sau: Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn, đấng huyền nguyên vô thủy, đã dùng khí mình mà sinh ra Tam thanh và chúng thần.» [13]
- Còn nơi chương I của Huỳnh Đình nội cảnh, do Tử Hà chân nhân giải, có lời chú giải về Tam thanh như sau:
«Tam thanh đều là một Khí hóa ra, chia thành: Tam Thiên, Tam Cảnh, Tam Bảo, Tam Nguyên, Tam quân:
(1) Ngọc Thanh Thánh cảnh, Nguyên thủy Thiên Bảo quân;
(2) Thượng Thanh Chân cảnh, Ngọc thần Linh Bảo quân;
(3) Thái Thanh Tiên cảnh, Đại Đức Thân Bảo quân…
- Sách Cửu Thiên sinh thần khí cho rằng: «Tam hiệu tuy khác nhau, nhưng cùng một Bản Thể.»
- Sách Đỗng Chương cho rằng: «Lão Quân nhất khí hóa Tam thanh…»
- Sách Thái Thượng Đỗng Huyền vô lượng độ nhân thượng phẩm kinh bàn rằng: «Lão Quân nhất khí đã hóa sinh chư thiên, đã khai minh ra Tam cảnh. Lão Quân tự sinh nên không tiên tổ. Ngài lấy Đạo làm thân thể mình. Lão Quân là Thủy tổ Đạo khí, là nguồn gốc vạn hóa.» [14]
So sánh các kinh sách trên, ta thấy:
- Thái Thượng Lão Quân sinh Tam Thanh và vạn hữu. (Kinh Tiên giáo, qui tâm, chí mạng lễ)
- Nguyên Thủy Thiên Tôn sinh Tam Thanh và vạn hữu. (Lao-Tse et le Taoisme)
- Tiên Thiên nhất khí sinh Tam Thanh và vạn hữu.
- Lão Quân sinh Tam Thanh và vạn hữu. (Huỳnh Đình nội cảnh, Tử Hà chú)
Ta dễ dàng đi đến kết luận: Thái Thượng Lão Quân là Nguyên Thủy Thiên Tôn, là Lão quân, là Tiên Thiên nhất khí.
Mà thực ra cũng phải tìm đâu xa để chứng minh. Đàn cơ đã có lần long trọng tuyên xưng: «Thái Thượng Lão Quân chính là Thượng đế.» Bài Thánh giáo giáng cơ đó là:-
«Nhiên Đăng Cổ Phật thị ngã,
燃 燈 古 佛 是 我
Thích Ca Mâu Ni thị ngã,
釋 迦 牟 尼 是 我
Thái Thượng Nguyên Thủy thị ngã,
太 上 元 始 是 我
Kim viết Cao Đài.» [15]
今 曰 高 臺
2. Đức Lão Tử chính là đức Thái Thượng Lão Quân phân tính giáng phàm :-
Nơi đây chúng ta cũng nên ghi nhận sự khác biệt rất xa nhau về từ ngữ.
- Nói rằng đức Thái Thượng Lão Quân giáng phàm làm đức Lão Tử thì khác.
- Nói rằng Ngài phân tánh, phân thân để giáng phàm mặc hình hài đức Lão Tử thì khác.
Hai đàng rộng hẹp hết sức khác nhau… Là một nhà sưu khảo, tôi chỉ biết thâu lượm tài liệu liên quan đến vấn đề nay, còn sự khai thác là tùy quyền tùy ý quí vị.
Bài kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ ghi rõ rằng:-
Nhị nguyệt thập ngũ
二 月 十 五
Phân tánh giáng sinh
分 性 降 生
Nhất thân ức vạn
一 身 億 萬
Diệu huyền thần biến
妙 玄 神 變
Tử khí Đông lai
紫 氣 東 來
Quảng truyền Đạo đức…
廣 傳 道 德
Đạo Trưởng Huệ Lương, giải thích đoạn trên rằng: «Đời Châu Mục Vương năm thứ 52, ngày rằm chia tánh giáng sanh…» [16]
Trong quyển Tiểu sử Ngũ giáo thánh nhân, Tam trấn và đức Khương Thái Công của Đạo Trưởng Huệ Lương xuất bản năm 1964 nơi trang 25, ta thấy ghi: «Trong quyển Thanh Tĩnh kinh, công nghiệp của Đức Thái Thượng Lão Quân chẳng phải chỉ có một kiếp Ngài lâm phàm lấy tên là Lão Tử mà thôi đâu. Ngài thiên biến vạn hóa lâm phàm nhiều kiếp, kể không xiết. Từ đời hỗn độn sơ khai cho tới bây giờ, không có đời nào mà Ngài không hạ thế…» [17]
Nhưng đến khi tôi đọc các bài thơ do Cơ bút, thì không thấy bài nào nói lên được rằng Lão Tử là phân thân của đức Thái Thượng, mà chỉ toàn thấy đồng hóa đức Thái Thượng với đức Lão Tử. Nếu có chư vị nào có được bài Cơ bút nào, bài thi văn nào xác minh thêm được rằng Lão Tử là phân tánh, phân thân của đức Thái Thượng đạo tổ, thì xin vì công ích mà bổ sung cho bài thuyết trình nầy.
Tuy nhiên, chỉ cần dựa vào kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ , ta cũng có thể kết luận rằng:
- Giáo hữu đa số chỉ coi đức Lão Tử là phân tánh, phân thân của đức Thái Thượng Lão Quân.
- Có thể cũng có người coi đức Lão Tử chính là đức Thái Thượng Lão Quân giáng phàm, nhưng chắc là số ít.
Sau những lời minh xác trên, tôi xin cống hiến quí vị mấy bài thơ do cơ bút, liên quan đến đức Thái Thượng Lão Quân và đức Lão Tử:
- Trong quyển kinh Thượng Thừa Chân Giáo, nơi tr. 28 có bài thơ Bát cú có khoán trung: ĐẠO TỔ LÃO ĐAM, THÁI THƯỢNG TIÊN ÔNG.
Tam Kỳ ĐẠO mở, độ quần sinh,
Thanh tịnh TỔ truyền chỉ nẻo lành.
Bửu cá LÃO lai đời mạt hậu,
Điện tiền ĐAM dạy chớ đua tranh.
Giáo khai THÁI cực qui nguyên bổn,
Lý chánh THƯỢNG thừa để luyện phanh.
Đạo pháp TIÊN thiên thâu hấp dẫn,
Chân ngôn ÔNG dụng kiết nhi anh.
- Đạo Trưởng Chí Thuần cũng cho tôi mượn một bài thơ không rõ xuất xứ, nhưng rất hay vì ghi rõ Thái Thượng Lão Quân là đức Lão Tử với khoán thủ: TIÊN THIÊN KHÍ HÓA THÁI THƯỢNG ĐẠO QUÂN; Và khoán trung: NGÃ DANH LÃO TỬ GIÁO CHỦ ĐẠO TIÊN.
Bài thơ đó như sau:
TIÊN tri NGÃ giáng lập Long Hoa,
THIÊN đạo DANH lưu vạn quốc hòa.
KHÍ mãn LÃO đồng vô ẩm thực,
HÓA nhi TỬ thánh đạo chương tòa.
THÁI hoàng GIÁO huấn đời an lạc,
THƯỢNG trí CHỦ tâm mối đạo nhà.
ĐẠO chánh, ĐẠO trời qui bá đạo,
QUÂN ban TIÊN tịch hội kỳ ba.
Khảo thư tịch Đạo Lão thấy người xưa đã xưng tụng đức Lão là:-
- Hỗn Nguyên Thánh,
- Thái Thượng Hỗn Nguyên Lão Tử,
- Thái Thượng Lão Quân,
và đã có những sách xuất bản dưới nhan đề là:
- Hỗn Nguyên Thánh kỷ,
- Thái Thượng Lão Quân niên phả yếu lược.
- Thái Thượng Hỗn Nguyên Lão Tử sử lược.[18]
Nhân tiện đây cũng xin đề cập đến một vấn đề hết sức nan giải. Đó là năm đức Thái Thượng Lão Quân phân tánh giáng phàm làm Lão Tử, nói cách khác, năm đức Lão Tử đản sinh là năm nào?
Ngày tháng sinh của Ngài, ta đã biết. Đó là ngày rằm tháng 2 và hằng năm kỷ niệm, đó cũng chính là ngày lễ vía hôm nay mà chúng ta mừng. Còn năm sinh của đức Lão là khó mà xác định.
Có rất nhiều ý kiến:-
1. Sách Đạo Tạng tập yếu Do Long truyện và Sưu Thần ký cho rằng đức Lão sinh ngày 15 tháng 2 năm Canh Thìn năm thứ 9 đời vua Vũ Đinh nhà Thương, tức là năm 1316 tcn.[19]
2. Sách Tục Văn Hiến thông khảo và Thần Tiên thông giám lại cho rằng Ngài sinh năm 1291 tcn tức là năm thứ 34 đời vua Vũ Đinh (năm Canh Thìn).[20]
3. Sách của Đạo Trưởng Huệ Lương cho rằng Ngài sinh đời Châu Mục Vương thứ 52, tức 910 tcn, ngày 15/2. (Sách trích dẫn, tr. 70)
4. Bộ Uyên giám Loại Hàm cho rằng Ngài sinh năm Ất Mão năm thứ 42 đời Châu Tuyên Vương, tức là năm 786 tcn.[21]
5. Có người lại chủ trương Ngài sinh vào khoảng đời vua Định Vương nhà Châu vào những khoảng năm 605-585,[22] tức là đồng thời với Đức Khổng, niên kỷ nầy cắt nghĩa được sự kiện hai Ngài gặp nhau vào khoảng các năm:
- 526, năm Cảnh Vương thứ 19, theo sách Phật tổ thông khảo.[23]
- 518, năm Bình Vương thứ 1, theo thư tịch Khổng giáo.
- 503, năm Nhâm Tuất tức năm 17 đời vua Châu Kính Vương[24] theo thư tịch đạo Lão như:
. Hỗn Nguyên Thánh kỷ.
. Thái Thượng Lão Quân niên phả yếu lược.
. Thái Thượng Hỗn Nguyên Lão Tử yếu lược.[25]
6. Henri Doré dựa vào sách Phật tổ thông khảo, toán ra rằng đức Lão Tử sinh năm 584, mất năm 500 (xem chú thích 1 nơi trang 2 ở trên).
7. Học giả M.H. Dubs dựa vào Sử Ký Tư Mã Thiên và Chiến Quốc Sách, đã cho rằng đức Lão Tử đã sinh sống vào khoảng những năm 300 tcn. Như vậy, so lại các năm sinh của Ngài là thấy xê xích nhau từ 300 đến 600, đến 1000 năm, thật là ly kỳ hết sức.
8. Khi đã nhận định được rằng dân chúng xưa nay thường coi đức Lão Tử là Thái Thượng Lão Quân phân tính giáng trần, là Thượng Đế giáng trần, chúng ta sẽ không lấy làm lạ, khi đọc thấy Chân Loan, trong quyển Tiếu Đạo Luận, đã chủ trương rằng đức Lão Tử đã phân thân mình để tạo dựng nên trời, nên đất, nên vạn hữu. Sách viết: «Đức Lão Tử hóa thân. Mắt trái Ngài thành mặt trời, mắt phải Ngài thành mặt trăng, đầu Ngài thành núi Côn Lôn, râu Ngài thành Ngũ hành tinh và Nhị thập bát tú. Thịt Ngài biến thành muông thú, ruột Ngài biến thành các loại rắn, bụng Ngài biến thành biển cả, các ngón tay Ngài thành Ngũ Nhạc, lông Ngài thành cỏ cây, trái tim Ngài thành chòm sao Hoa Cái, và hai trái thận Ngài hợp lại thành Chân yếu phụ mẫu của Thực Tại.» [26]
Huyền thoại nầy cũng tương đương như Huyền thoại Bàn Cổ, hay Purusha phân thân thành vũ trụ.
9. Cũng nên ghi nhận rằng ở Việt Nam cũng có nhiều người chủ trương rằng đức Lão Tử chỉ là một phân thân của Thượng đế, một sứ giả của Thượng đế.[27]
Sau khi đã trình bày khái quát những nhận định của thế nhân về thân thế đức Lão qua triền không gian và thời gian, hôm nay, nhân ngày thánh đản, để tưởng niệm Ngài tôi sẽ trình bày tiểu sử Ngài, phác họa lại chân dung Ngài cho rõ ràng hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn và để cho đượm màu quang hoa tuế nguyệt tôi sẽ mượn lời của Tư Mã Thiên, của Biên Thiều và của tác giả Biến Hóa kinh để mô tả Ngài.
* Lược sử đức Lão Tử theo Tư Mã Thiên
Lão Tử là người thôn Khúc Nhân 曲 仁, làng Lệ 厲,[28] huyện Khổ 苦, nước Sở 楚.[29] Ngài họ Lý 李, tên Nhĩ 耳, tự Bá Dương 伯 陽, thụy là Đam 聃. Làm quản thủ thư viện nhà Chu.
Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ, Lão Tử nói: «Những người mà ông đề cập tới, đã hóa ra người thiên cổ từ lâu. Nay chỉ còn lại những lời nói của họ. Người quân tử khi đắc thế, thời đi xe; khi thất thế thời đi chân mặc rách. Tôi nghe nói rằng một con buôn giỏi tất nhiên thu sâu, dấu kín, hình như không có gì. Người quân tử đạo đức cao dày thường có vẻ ngoài như kẻ ngu si. Ông hãy từ bỏ sự kiêu căng và dục tình. Hãy từ bỏ những kiểu cách bên ngoài lòe loẹt và những tham vọng. Những cái đó chỉ làm hại cho ông. Đó là những gì tôi muốn nói.» [30]
Khổng Tử ra về nói với đệ tử rằng: «Con chim ta biết nó có thể bay; con cá, ta biết nó có thể lội; con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy thời có thể chăng dò, lội thời có thể đánh lưới, bay thời có thể bắn tên; đến như rồng, thời ta không thể biết; nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp Lão tử, ngài thực là rồng vậy.»
Lão Tử tu đạo đức. Cái học của ngài trọng ẩn dật, vô danh. Ở Chu lâu năm, sau thấy nhà Chu suy, liền ra đi. Tới quan ải, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: «Ngài sắp đi ẩn, xin cố vì tôi viết sách.»
Lão Tử bèn viết Đạo đức kinh chia thành hai thiên gồm hơn năm nghìn chữ, đoạn đi, không biết sau ra sao.
Có người nói rằng: [Lão Lai tử chính là Lão Tử.] Lão Lai tử cũng là người nước Sở, viết sách mười lăm thiên, nói về chuyện đạo gia, đồng thời Khổng Tử.
Có người cho rằng Lão Tử biết cách tu dưỡng nên đã thọ 160 hay 200 tuổi. Lão Tử là một vị ẩn cư. Con ngài tên Tông 宗. Tông làm tướng nước Ngụy 魏, ở xứ Đoạn Can 段 干. Tông có con tên là Chú 注. Chú có con tên là Cung 宮. Cháu sáu đời của Cung tên là Giả 假, làm quan đời Hán Văn đế (179-156). Con của Giả tên là Giải 解, làm quan thái phó cho vua Ấn nước Tề, ở xứ Giao Tây.
Người học Lão Tử thời châm biếm đạo Nho; người theo đạo Nho thời châm biếm Lão tử. Thế mới hay: Chẳng đồng đạo, thì chẳng cộng tác với nhau được. Lý Nhĩ vô vi để tự hóa; thanh tĩnh để tự chính.[31]
* Lược sử Lão Tử theo Lão Tử minh 老 子 銘 (Bia khắc chuyện Lão Tử) [32]
Ngày Giáp Tí năm Diên Hi thứ tám, tức là ngày 8/8 tức ngày 24, 9/165 sau Công nguyên, Biên Thiều được lệnh Hán Hoàn Đế khắc bia kỷ niệm đức Lão và dựng tại đền thờ Ngài ở Khổ huyện. Xin được dẫn ít đoạn trong bi ký đó:
Sau khi lược thuật lại cuộc sống gian truân của đức Lão, Biên Thiều viện dẫn tư tưởng của những người sùng Đạo, mà luận về đức Lão Tử như sau:-
Ngài cùng với Hỗn nguyên ly hợp,
Với tam quang, ngài vượt thời gian.
Trông trời, đoán vận trần hoàn,
Bảy vì tinh đẩu, nhẹ nhàng xuống lên.
Cùng với ngày, biến thiên chín bận,
Tùy theo mùa, khi giảm khi tăng.
Tinh huy, qui củ chuẩn thằng,
Tứ linh, tứ tượng vốn hằng chầu bên.
Ngưng thần khí, đơn điền não bộ,
Cung nê hoàn mấy độ tiêu dao.
Sánh vai Thái nhất ra vào,
Đạo thành, thân thoát, từ bao độ đời.
Từ Hi, Nông, đến thời hiện tại,
Bao thánh hiền, ngài mãi là thầy...
*Sau đó Biên Thiều dùng tư tưởng Đạo đức kinh phác họa lại đời sống Lão Tử như sau:-
Đức Lão Tử sinh thời Chu mạt.
Yêu hư vô, mà bạn thanh nhàn,
Không cầu danh với thế gian,
Không ưa những thói phô phang đức tài.
Coi chức trọng là nơi nguy hiểm,
Vui sống trong chốn kém, chốn hèn,
Tặng cho đức Khổng lời khuyên,
Giã từ thế tục, lâm tuyền ẩn cư.
Thay họ mạc cũng như danh tánh,
Sợ đời hay, nên lánh chuyện đời.
Vừng dương sáng tối lần hồi,
Vầng trăng tròn khuyết đầy vơi tương tùy.
Thêm với bớt thịnh suy ấy gốc,
Và trên đời họa phúc theo nhau,
Trời kia nào thích đầy đâu,
Mà thương những kẻ gót đầu khiêm cung.
Theo Lão tử, lao lung vất vả,
Định giang sơn mấy nả mà mong?
Vì dân xin chớ kể công,
Công lênh rôt cuộc cũng không ích gì.
Ngài nay được tôn suy, sùng thượng,
Chính vì xưa chẳng tưởng công danh,
Một ngày một giảm công trình,
Sống trong hư tĩnh, siêu linh tuyệt vời.
Rằng ngài trước đất trời sinh xuất,
Chính vì ngài chẳng mất lòng son,
Thiên chân giữ được vẹn tròn,
Cho nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.
Nên tôi mạn mà ghi tiếp tục:
IV. Đức độ ngài rất mực cao siêu,
Hư không, thanh tĩnh đến điều,
Ưa nơi thấp kém, chê chiều quang hoa.
Giây khi thẳng, thời đà thẳng dẵng,
Nhưng đem khoanh cũng chẳng ngại cong,
Trời làm chấn động ba sông,
Can vua, vả khiến cho lòng dân an.
Nếu Âm chẳng lăng loàn lấn át,
Át Dương kia, tan tác sao sinh?
Cơ suy vừa lộ mối manh,
Thời đà rũ áo, ẩn mình từ đây.
Người nài nỉ: ra tay sáng tạo,
Đạo đức kinh di cảo dạy đời.
Nhẹ nhàng chỉ trích đương thời,
Đem điều sáng sủa soi nơi mịt mùng.
Cùng Thái nhất thủy chung bầu bạn,
Treo cho đời gương sáng chính trung.
Dặn dầy, chân thực thời ưng,
Mỏng manh hào nháng thời không ngó ngàng.
Ưa cốt cách, bạc vàng rẻ rúng.
Bao dục tình chặn đứng mới nghe.
Trở về trạng thái Anh nhi,
Mái sương vượt quá hạn kỳ trần gian.
Hành tung ngài, khó toan, khó luận,
Luật gian trần chẳng bận niềm riêng,
Khinh phiêu phơi phới tự nhiên,
Vô vi, vô dục biến thiên mặc tình.
Tiến hay thoái phiêu linh tùy tiện,
Tùy thời cơ thiên biến vạn năng.
Xá chi kiến thức gian trần,
Dẫu đầy mà vẫn ngỡ rằng còn vơi.
Bậc đại nhân siêu thời xuất thế,
Kẻ phàm phu, hồ dễ mà hay.
Uổng công xếp hạng nọ này,
Miệng phàm hồ dễ xấu lây danh người.
Cùng nhật nguyệt chói ngời sáng láng,
Cùng ngũ tinh chiếu rạng quang huy.
Vào ra nơi chốn đan trì,
Huỳnh đình lên xuống muôn bề khinh phiêu.
Cùng lưu tục chẳng điều quyến luyến,
Dấu phong quang làm biến hình hài.
Chắt chiu ôm ấp tính trời,
Muôn nghìn biến hóa theo đòi thần minh.
Hô hấp khí khinh thanh thuần túy,
Trong trần hoàn hồ dễ ai hay,
Vĩnh sinh ấy chính là ngài,
Đời rằng ngài với đất trời trường sinh.
Vua tế tự linh đình bày biện,
Để oai ngài trình hiện muôn nơi,
Tôi nay muốn để tiếng Người.
Cho nên ghi tạc những lời ngợi khen.
* Lược sử Lão Tử theo Biến Hóa Kinh:-
Biến Hóa kinh do Vương Trù chép và được một đạo sĩ Huyền Đô xem lại. Chép ngày 14/8 Âm lịch năm Đại Nghiệp thứ 8 đời Tùy Dạng Đế (605-618), tức là 14/9 năm 612 . Bản kinh này viết rất khó hiểu lại có đôi khúc mắc. Ông M.Yshioka và ông M.Obuchi có đề cập bản kinh này nhưng không sửa lại. Bà Anna K.Seidel đã lược dịch kinh này trong quyển La Divinisation de Lao tseu dans le Taoisme des Hán. Tôi đã dịch thoát kinh này và trình bày nơi đầu quyển Đạo đức kinh của tôi.
Biến Hóa Kinh dứt khoát chủ trương rằng đức Lão Tử là Thượng đế, có từ muôn thủa, và đã giáng trần nhiều lần để cứu độ chúng sinh, nên đã dành cho đức Lão những lời lẽ hết sức là kính tôn, đẹp đẽ.
*Biến Hóa Kinh viết:-
Những từ có trước đất trời,
Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.
Thung dung từ thủa thái sơ,
Khi còn chưa có bến bờ đục trong.
Tịch nhiên tiêu sái, vô song,
Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.
Hai bề ẩn, hiện lại qua,
Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.
Đục trong biến chuyển dòng đời,
Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.
Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,
Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.
Mượn nơi đất Sở giáng sinh,
Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.
Có văn tam ngũ rõ ràng,
Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;
Mũi hai sống, lỗ tai ba,
Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.
Thiên nhiên vô dục tính trời,
Vô vi ấy chính nết người ở ăn.
Giúp trời lại giúp thánh quân.
Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.
Đời người ẩn ước ly kỳ,
Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.
Gặp khi vận nước nhiễu nhương,
Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,
Giã từ nước Sở, lánh trần,
Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,
Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,
Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.
Tinh hoa trời đất gồm thâu.
Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.
Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,
Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.
Âm dương mặc sức phân phôi,
Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.
Hư vô chưởng quản mặc tình,
Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.
Bao trùm khắp tám phương trời,
Đất thời lo chở, trời thời lo treo.
Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,
Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.
Chư thần Lục Giáp nương hơi,
Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.
Tứ thời chuyển biến thong dong,
Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.
Tiêu phù cầm gọn nơi tay,
Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.
Lão quân sáng tối tùy nghi
Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.
Khuất thân, tiến thoái mặc tình,
Không gì thoát khỏi uy linh của người.
Đi vào nước lửa như chơi,
Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.
Gặp cơn bức bách chẳng sao,
Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.
Trường sinh chẳng có hạn kỳ,
Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.
Sánh đôi mà vẫn đơn thân,
Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.
Ngài luôn gần gũi con người.
Không ai có thể sánh tài vô vi,
Chẳng ai mà chẳng phải tùy,
Người người đều dõi bước đi của ngài.
Hành vi Lão tử để đời,
Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.
Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,
Những điều biến hóa mung lung khôn lường…
Biến Hóa kinh cho rằng từ thời Phục Hi cho đến thời Hán đức Lão Tử đã giáng trần 17 lần, và nguyên trong khoảng 20 năm từ năm 132 đến năm 155 Ngài đã hiển linh, đã hiện ra nơi nọ nơi kia 5 lần để cứu độ chúng sinh.
Biến Hóa kinh chép:
Ngài sinh cùng với Hư vô,
Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.
Khi lui, nguyên thể tài bồi,
Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.
Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử,[33]
Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;[34]
Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,[35]
Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người.[36]
Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,[37]
Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;[38]
Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,[39]
Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài.[40]
Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,[41]
Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung.[42]
Đời Văn, ngài thủ thư tàng,[43]
Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành.[44]
Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,[45]
Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;[46]
Trong lòng mẹ bảy hai năm,
Ra đời mới gọi tên bằng Lý Đam.
Ngài cũng có Bá Dương là tự.
Và từng là quản thủ thư tàng;
Bảy trăm tuế nguyệt chứa chan,
Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.
Lại gặp khi Bình vương ngoan cố.
Đạo đức trời tới độ suy vi.
Ngài liền bỏ Sở ra đi,
Băng chừng tây tiến lâm ly dặm trường.
Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,
Đạo đức kinh ngài ký thác cho;
Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,[47]
Tên ngài Phù Khánh [48] thời Hồ nhiễu nhương.
Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,[49]
(Mỗi khi cần, ngài mỗi hiện ra;)
Năm đầu niên hiệu Dương Gia,[50]
Thành đô núi Tước hiện ra đường hoàng.
Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,
Đỉnh non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa.[51]
Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,
Nơi đền Bạch Lộc hiện ra với đời.[52]
Kiến Hòa vào khoảng năm 2,
Lão quân lại hiện cửa ngoài Thành đô.[53]
Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,
Đầu non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân.[54]
Những là lẳng lặng trầm ngâm,
Dẫu ai gạn hỏi cũng không trả lời.
Đời sau lập miếu thờ ngài,
Xưng ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh.[55]
Ngài rằng:
Ta vui trong cảnh Thái thanh,
Quang hoa xử sự, tinh thành trị dân.
Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,
Lấy tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.
Chu du bốn biển phiêu khinh,
Tứ thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.
Dòng đời khinh khoát vượt qua,
Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.
Tam thai ta đội làm khăn,
Áo ta đã được dệt bằng Hư vô.
Phàm phu sao biết được ta,
Tử sinh, phản phục, biết là bao phen.
Dân ta đông đảo muôn miền,
Phàm phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.
Quang huy thu liễm vào trong,
Tinh thần sung mãn bởi không hao gầy.
Ai về ta tưởng đêm ngày,
Ta luôn phù trợ phút giây chẳng rời.
Ai mà mơ đến ta hoài,
Hiển linh, ta sẽ vì người hiện ra.
Cơ đồ nhà Hán phôi pha,
Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.
Phàm phu nhảy nhót dể duôi,
Nhưng mà trí giả nghe lời bảo ban.
Đất trời nghiêng ngửa nguy nàn,
Ta bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.
Nay ta lựa chọn hiền tài,
Người hay người phải, ta thời nhận ra.
Những ai mà muốn tìm ta,
Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,
Tội khiên phải biết tự tân,
Làm người tri kỷ, tri thân mới là.
Ta đây chẳng ở đâu xa,
Thần người cùng với Thần ta khác nào.
Cha con tưởng nhớ gần sao,
Bằng không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.
Chớ nên biếng nhác buông tuồng,
Biếng lười, thần có cũng nhường như không.
Theo ta mau mắn mới mong,
Mới mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.
Trắng, xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,
Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.
Sinh ta, màu đỏ ấy công,
Ta sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.
Rượu nồng người chớ có ham,
Để ta đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.
Tu thân người phải nên lo,
Tâm thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!
Vô vi, vô dục thảnh thơi,
Lầm than, hoạn nạn có đời nào đâu !
Cốc thần khăng khít trước sau,
Con đường giải thoát cơ mầu là đây.
Lìa ta, suy tưởng dông dài,
Tâm thần lạc lõng, càng ngày càng mê.
Cương nhu cân nhắc mọi bề,
Hai chiều thành bại, đi về do ta.
Tả biên sinh khí mới là,
Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.
Giữa là Hoàng khí mung lung,
Nguyên dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.
Khuyên chư đồng tử sớm chiều,
Tiềm tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.
Ta đà căn dặn từ lâu,
Kim tinh lệch lạc thì cầu tới ta.
Mau mau rong ruổi mới là,
Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.
Chớ đừng bịn rịn tơ vương,
Xuân ngày Quí tỵ nên thương thả tù.
Đâu đâu dân cũng âu lo,
Bệnh tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.
Ta nay hoán cải mối giường,
Cơ đồ nhà Hán tan hoang từ rày.
Dân ta đã biết, đã hay,
Tránh điều vạ gió, tai bay sá nào.
Những người thành khẩn thanh cao,
Việc ta thông tỏ tơ hào khó chi.
Ý ta hiền thánh minh tri,
Phàm phu nào biết vân vi gót đầu.
Bao lần giáng thế trước sau,
Theo dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.
Hiểu ta hỏi mấy thánh hiền,
Chê ta, vô số phàm hèn bấy nay.[56]
2. Nhận định và giải thích các quan điểm trên :-
Khảo các tiểu sử về đức Lão Tử và những huyền thoại về Lão Tử, những quan điểm dân gian về đức Lão Tử trên đây đã trình bày, ta có thể qui lại thành 5 điểm như sau:
(1) Ngài có một cuộc thai sinh kỳ bí: ở trong lòng mẹ 72 năm, khi sinh ra đã bạc đầu.[57]
(2) Ngài là một người trời, sống vĩnh cửu cùng với đất trời.
(3) Ngài chính là Thượng Đế giáng trần nhiều lần để cứu độ chúng sinh.
(4) Ngài là một phân thân của Thượng đế.
(5) Ngài là một sứ giả của Thượng đế.
1. Về cuộc thai sinh kỳ bí của Lão Tử, ta không nên lấy làm lạ, vì dân gian xưa nay đều thêu dệt rất nhiều huyền thoại quanh cuộc thai sinh của vị giáo chủ mình.
2. Một đặc điểm khác trong tiểu sử của đức Lão Tử cho thấy rằng Ngài có từ trước đất trời và sống vĩnh cửu cùng trời đất. Đây cũng không phải là một dữ kiện gì mới mẻ trong hiện tượng đạo giáo:
- Đối với Phật giáo, thì đức Phật cũng đã có từ muôn kiếp.
- Đối với Công giáo, thì chúa Jesus cũng đã có từ muôn kiếp.
- Hơn thế nữa, Trang tử còn dám nói:
Ta và trời đất cùng sinh,
Ta và vạn vật sự tình chẳng hai.[58]
Quyển Từ Viên tiên sư chân kinh, có các câu thơ sau:
«Đương thời vị hữu tinh, hà, đẩu,
Tiên hữu ngô, đương hậu hữu thiên.»
Dịch:-
Trước khi Thiên Hàn, quần linh có,
Trước đã có Ta, mới có trời.
Và:
«Ngã thể bản đồng thiên địa lão,
Tu Di sơn đảo, Tính do tồn.» [59]
Dịch:
Tính ta vốn thọ cùng trời đất,
Tu Di nghiêng đổ, Tính vẫn còn.
Tất cả những sự kiện trên chỉ có thể hiểu được, nếu ta chấp nhận rằng con người có 2 phần:
1. Phần Thiên, phần Thần, bất sinh, bất tử, có từ muôn thủa, mà Lão Tử gọi là Đạo, Nho gia gọi là Thái cực, Bà la môn gọi là Atman, Phật giáo gọi là Chân như, hay Bản Lai diện mục…
2. Phần Nhân, phần Tâm, phần Hồn, có sinh có tử mà ta thường gọi là phàm tâm, vọng tâm, hay vọng ngã, tiểu ngã.
Như vậy, thì chẳng cứ gì Lão Tử và các vị giáo chủ mà cả mọi người trong chúng ta đều có cái phần vĩnh cửu, các phần bất sinh, bất tử ấy. Có mà không biết, có của quí trong tay, mà vẫn cho rằng mình khó, mình hèn, chuyên đi xưng tụng người khác, thèm thuồng số phận người khác. Thật là câu chuyện hết sức trái khoáy, hết sức ly kỳ.
Đúng như lời kinh Dịch chê nơi quẻ Di: «Xả nhĩ linh qui, Quan ngã đóa di.» 舍 爾 靈 龜, 觀 我 朵 頤 (Mình có sẵn linh qui thì lại bỏ, để đi nhìn mồm người khác ăn mà thèm thuồng. (Xem Quẻ Di 頤, hào sơ cửu).
3. Một sự kiện cần được giải thích nơi đức Lão Tử là chuyện người được dân chúng nhất là từ thời nhà Hán coi như là Thượng Đế giáng trần, chẳng những một lần mà nhiều lần.
Khảo về các đạo giáo, ta thấy ở nhiều dân, nhiều nước đã có nhiều vị chân nhân được dân chúng coi như là hiện thân của Thượng đế, như là Thượng Đế giáng trần.
Ấn Độ coi Rama Krishna, và gần đây coi Ramakrishna như là Thượng Đế giáng trần.
Âu Châu tin rằng chúa Jesus là Thượng Đế giáng trần.
Lịch sử cho thấy có nhiều người đã xưng mình là Thượng Đế giáng trần. Xưng mình là hiện thân của Thượng đế.
Ví dụ Al-Hallaj, một thánh nhân Hồi giáo thường xưng mình là Thượng Đế, là Chân lý, nên đã bị cầm tù từ năm 915 đến ngày 23/3/922, thì bị xử tử, chặt tay chân, đoạn treo trên thập giá, mấy ngày sau mới chém đầu, vì tội dám phối hợp lẫn lộn trời người, gây hoang mang cho mọi người.
Al-Hallaj đã nói: «Ta là đấng ta yêu, đấng ta yêu là ta. Chúng ta là hai thần trong một xác. Nếu Bạn thấy ta, Bạn sẽ thấy Ngài, nếu Bạn thấy Ngài, Bạn sẽ thấy ta.»
Ta có thể dịch lại lời trên thành thơ như sau:
«Ta cùng với đấng ta yêu,
Hai đàng là một, khôn chiều qua phân.
Một thân mà có hai thần,
Thấy ta, thấy Chúa cũng ngần ấy thôi.» [60]
Chúa Jesus cũng xưng mình là Thượng đế, và trong Phúc Âm, cũng có một lời tuyên bố tương tự như lời Al-Hallaj Chúa phán: «Ai đã thấy ta, tức là thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi? Ngươi há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta hay sao?» (Jean, 14, 9-10)
Chúng ta có thể giải thích sự kiện trên như sau:
- Xưa nay các bậc thượng trí, thượng nhân đều tin rằng Trời chẳng xa người, mà đã ngự ngay nơi tâm khảm con người, Trời chính là cốt lõi, là tin hoa, là bản thể, là trục cốt là căn cơ của con người.
- Thiên đạo, hay Huyền học chỉ cốt dạy con người chân lý thiết yếu ấy.
- Thánh nhân, chân nhân là những người đã đạt đạo. Mà đạt đạo tức là sống phối kết với Thượng Đế, ngay từ ở gian trần nầy, nên đã được đồng hóa với Thượng Đế trong hào quang tình yêu và lòng xót mến.
Cũng có thể giải sự kiện này bằng thuyết Nhất thể tán vạn thù, vạn thù qui nhất của Á Đông. Nếu chấp nhận nhất thể tán vạn thù, thì ai trong chúng ta lại chẳng là một điểm linh quang từ Thượng Đế tung tỏa, chiếu diệu xuống cõi hồng trần này. Nếu chấp nhận Vạn thù qui nhất thể thì kẻ trước người sau, ai trong chúng ta mà lại sẽ không trở về nhập thể lại với vừng dương muôn thủa, trở về kết hợp với Thượng Đế:
Theo nhãn quan này, thì Phật, Lão Tử, Chúa Jesus, Khổng Tử dù được ca tụng đến đâu, thần thánh hóa đến đâu, cao sang đến đâu, cũng chỉ là những tiền thân của chúng ta. Con đường các Ngài đi, chúng ta sau trước cũng sẽ đi lại. Những trạng thái các Ngài đã kinh qua, rồi đây chúng ta cũng sẽ kinh qua. Cho nên bàn về thân thế quá vãng các Ngài, chính là bàn về thân thế tương lai của chúng ta. Có được thái độ như vậy, thì chúng ta vẫn xưng tụng các Ngài, vẫn suy tôn các Ngài, và vẫn giữ được giá trị siêu việt của chúng ta.
4. Còn như coi đức Lão Tử như là một phân thân của Thượng Đế sứ giả của Thượng đế, giáng trần với sứ mạng dạy dân, dạy đời, thì là một quan điểm hợp tình, hợp lý, chẳng có gì đáng chỉ trích…
3. Ít nhiều nhận định riêng tư về đức Lão Tử :-
Trên đây, tôi đã trình bày để quí vị thấy rằng xưa nay có rất nhiều nhận định về đức Lão Tử, nhiều quan điểm về đức Lão Tử. Các quan điểm ấy khác nhau, tùy theo lập trường của mỗi người.
- Người thì cho rằng đức Lão Tử chỉ là một vị ẩn tu, ẩn sĩ.
- Người thì cho rằng Ngài là một người trời có từ muôn thủa.
- Người thì cho rằng Ngài chính là Thượng Đế giáng trần.
- Người thì cho rằng Ngài chỉ là một phân thân của Thượng Đế, sứ giả của Thượng Đế.
Và tôi đã cố gắng giải thích các quan điểm trên. Tiện đây, tôi mạo muội cũng xin trình bày một vài nhận định riêng tư về đức Lão Tử.
*Trước hết tôi nhận định rằng:
(1) Đức Lão Tử là một con người hiếu cổ
Thực ra đức Lão Tử không phải là người đầu tiên đã khám phá được chân lý, chân đạo. Nhiều bậc Chân nhân trước Ngài đã tìm ra được và thực hiện được chân lý, chân đạo.
Khi nghiên cứu Đạo Đức kinh, tôi đã thấy rằng đức Lão Tử đã học rất nhiều điều của người xưa.
Trương Kỳ Quân, trong quyển Trung Hoa ngũ thiên niên sử, quyển 3, nơi chương nói về Lão Tử cũng có chủ trương y thức như tôi. Ông đưa ra 9 bằng cớ để chứng minh rằng trong khi viết Đạo Đức kinh, Lão Tử đã tham bác các tác phẩm các học thuyết của người xưa, nhất là của Sử Dật.
Dẫu sao thì trong Đạo Đức kinh, đức Lão Tử nhiều lần đã long trọng tuyên dương đường lối và đời sống cao siêu của người xưa, những phương châm cao đại của người xưa, mục đích cao đại của người xưa.
Ngài đã để cả chương XV để ca tụng đời sống huyền diệu của các nhà huyền học thời xưa, các bậc chân nhân thời xưa. Ngài viết:
Ai người xưa, khuôn theo đạo cả,
Sống huyền vi, rất khó tri tường;
Nay ta gạn ép văn chương,
Hình dung, dáng dấp liệu đường phác ra.
Họ e ấp như qua băng tuyết,
Họ ngỡ ngàng như khiếp láng giềng;
Hình dung phong thái trang nghiêm,
Băng tan, tuyết tán, như in lạnh lùng.
Họ đầy đặn in chừng mộc mạc,
Nhưng khinh phiêu man mác hang sâu;
Hỗn mang ngỡ nước đục ngầu,
Đục ngầu lắng xuống một màu trong veo.
Ngỡ ù cạc một chiều an phận,
Nào ai hay sống động khôn lường.
Phù hoa gom góp chẳng màng
Đã say đạo cả, coi thường phù hoa.
Sống ẩn dật, không phô thanh thế.
Việc thế gian hồ dễ đổi thay…
Nơi chương 41, Ngài viết:
«Lời xưa đã từng khi truyền tụng,
Biết đạo thời như vụng như đần;
Tiến lên mà ngỡ lui chân
Tới bên Đạo cả mà thân tưởng hèn…»
Nơi chương 42 Ngài nhắc lại phương châm người xưa:
«Người xưa dạy câu này chí lý,
Ta cũng đem ta chỉ cho đời;
Xin đừng bạo động ai ơi!
Ai mà bạo động, chết thôi bạo tàn.
Đó là then chốt ta ban…»
Nơi chương 68, Ngài viết: «Sống kết hợp với Trời, là tuyệt điểm của người xưa.»
Liệt Tử cho rằng câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn.» 谷 神 不 死 是 謂 玄 牝 đã có trong Hoàng đế thư.[61]
Trang Tử cho rằng: «Câu thất đạo nhi hậu đức 失 道 而 後 德… Thất nghĩa nhi hậu lễ 失 德 而 後 禮 … v.v…» là lời của Hoàng Đế.[62]
Hàn Phi Tử cho rằng câu: «Tương dục hấp chi, tất cố trương chi.» 將 欲 歙 之,必 故 張 之 v.v… là lời của Chu thư.[63]
Các chương 22, 46, 57, 69, 78 của Đạo Đức kinh đều trích dẫn cổ thư .[64]
Xem như vậy thì Lão Tử:
- Chuộng cổ nhân.
- Mộ đạo cổ nhân.
- Yêu nếp sống thiên nhiên của cổ nhân.
- Đã đạt tới tinh hoa mà cổ nhân đã đạt.
- Muốn làm sống lại đời sống đạo đức, nếp sống thanh đạm, giản dị, mộc mạc, khinh phiêu, của cổ nhân, về phương diện cá nhân cũng như về phương diện chính trị.
Cho nên về phương diện hiếu cổ, hoài cổ, ta thấy đức Lão Tử hoàn toàn giống đức Khổng Tử. Trong Luận Ngữ, đức Khổng cũng đã nói:
«Ta trần thuật nhưng không sáng tạo,
Tin cổ nhân, độ đạo cổ nhân.» [65]
Như vậy, người xưa phải có cái gì đẹp đẽ siêu việt cho nên các bậc thánh hiền sau này mới ra công khai thác, bảo vệ và lưu lại cho hậu thế.
- Cái tinh hoa siêu việt của người xưa là gì?
a. Người xưa sống gần Đạo, gần Trời.
Đã đành không phải mọi người xưa đều có cái diễm phúc sống gần Đạo, gần Trời, nhưng chắc chắn là đã có nhiều bậc chân nhân đã đạt tới cực điểm tinh hoa đó.
b. Người xưa đã trực giác được rằng Đạo thể hay Thượng đế, hay Đạo tâm đã tiềm ẩn trong lòng sâu vạn hữu, trong lòng sâu con người.
Cho nên muốn tìm Đạo, tìm Trời, phải tìm nơi sâu thẳm đáy lòng, phải tìm nơi trung tâm điểm đầu não con người.
Càng đi sâu vào đáy lòng, vào trung tâm đầu não con người, càng thấy hiện rõ lên Đạo thể huy hoàng, sán lạng. Và khi vào đến tâm điểm đầu não con người, sẽ nhận chân được rằng nơi đó có đủ Tam Thanh, Tam Cảnh, nơi đó chính là động phủ thần tiên, sở cư của Cốc Thần bất tử…, nơi đó chính là nguồn mạch huyền vi mà Bản thể đã tung tỏa ra muôn ngàn hiện tượng.
Tính Mệnh Khuê Chỉ chép: «Xưa Hoàng đế lên núi Nga mi gặp Thiên Chân Hoàng Nhân ở Ngọc Đường và hỏi về cái đạo Chân Nhất. Hoàng Nhân đáp: Đó là điều quí trọng nhất của Đạo gia. Kinh của Đạo này Thượng Đế giấu trong năm thành của núi Côn Lôn, cất trong hòm ngọc, viết vào thẻ vàng, phong bằng bùn tía, đóng ấn bằng chữ Trung. Nhất đó ở Thái Uyên Bắc cực, trước có Minh Đường, sau có Ngọc Chẩm, trên là Hoa Cái, dưới là Giáng Cung.» [66]
Với những lời lẽ mập mờ, ẩn hiện đó, ta thấy Hoàng Nhân muốn nói như sau: Muốn tìm Đạo, tìm Trời, tìm Chân Nhất, tìm Trung, phải tìm nơi Tâm điểm đầu não con người.
Hiểu được điều này, ta sẽ lần ra được chuỗi liên châu đạo thống nối liền cổ kim:
- Lão Tử, nơi chương 6 Đạo Đức Kinh, nói: «Cốc thần bất tử thị vị Huyền Tẫn, Huyền Tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.» 谷 神 不 死, 是 謂 玄 牝 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. Liệt tử bình rằng: Câu này đã có trong Hoàng Đế thư, tức là từ đời thượng cổ.[67]
- Huỳnh Đình ngoại cảnh viết: «Tử dục bất tử tu Côn Lôn.» 子 欲 不 死 修 崑 崙 (Ch.6) Mà Côn Lôn chính là đầu não con người.
- Tính Mệnh Khuê chỉ nơi quyển Hanh, tr.21b, có câu: «Đầu hữu cửu cung, trung hữu Nê Hoàn.» 頭 有 九 宮 中 有 泥 汍.
- Đạo Trưởng Huệ Lương ghi lại một đoạn cơ bút như sau: «Huyền quan nhất khiếu ấy là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở ngay Nê Hoàn cung, gom trọn chơn dương chánh đạo. Hai con mắt các con là nhục nhãn, tức là Âm với Dương. Thì cũng như Thái Cực là Thiên Nhãn, còn lưỡng quang là Nhật, Nguyệt hằng soi sáng khắp Càn Khôn, cứ toàn hoàn mãi, hết ngày đến đêm, hết đêm lại ngày, không bao giờ dứt được sự tuần hoàn của Tạo Hóa.»
Mới hay xác định được Nê Hoàn cung là tìm ra manh mối tất cả. Thảo nào mà người xưa dùng lẫn lộn hai chữ Niết Bàn với Nê Hoàn. (Xem Phật học từ điển Đoàn Trung Còn, nơi chữ Nê Hoàn.)
c. Người xưa cho rằng: Cực điểm tinh hoa là Phối Thiên (Đạo Đức Kinh, ch. 68)
d. Người xưa sống trong cảnh tĩnh lãng buổi ban sơ có một tâm thần hồn nhiên tiêu sái; họ không bị dục vọng cuốn lôi, không bị lợi danh dụ dỗ, không phải lo đấu tranh để sinh tồn là bao nhiêu, không bị tập tục, qui ước, luật lệ xã hội gò bó, thằng thúc, chính vì vậy mà họ thảnh thơi, khinh khoát. Đó chính là nếp sống lý tưởng mà đức Lão Tử đã phác họa lại trong Đạo Đức Kinh.
(2) Lão Tử là một chân nhân đắc đạo, một nhà Huyền học :-
Tôi cũng chủ trương rằng: Đức Lão Tử là một bậc chân nhân đã sống phối kết với Đạo, với Trời. Theo danh từ quốc tế hiện đại, thì Ngài là một nhà Huyền Học.
Nói như vậy, tức là Ngài không phải là Thượng Đế giáng trần để cứu nhân loại như người Trung Hoa thời xưa đã chủ trương, mà Ngài chính là một con người nhờ công phu tu luyện, học hỏi, đã liễu đạt được chân tính con người, đã sống phối kết với Trời với Thượng đế.
Suy tôn Ngài là Thượng Đế giáng trần chẳng những một lần, mà nhiều lần để cứu nhân loại như Biến Hóa kinh đã chủ trương, hay như một con người bất tử đã sang cả Ấn Độ để dạy đạo cho đức Phật như Hóa Hồ kinh chủ trương, thực ra cũng chẳng có lợi gì cho chúng ta, vì như vậy chúng ta không có cách gì để tìm cho ra được đường lối của Ngài.
Ngược lại, coi Ngài là một người vì học vấn, vì công phu tu luyện, đã tìm ra được chân đạo, đã đạt tới trạng thái cực cao minh linh diệu của con người, sẽ giúp ta hiểu đạo Ngài, và giúp ta biết đường theo chân nối gót Ngài.
Cát Hồng tiên sinh viết: «Các học giả có óc chật hẹp hòi đã coi Lão Tử là một người Trời siêu xuất quần sinh và khuyên các thế hệ tương lai bắt chước Ngài; nhưng làm như thế tức là ngăn cản không cho mọi người tin được rằng nhờ học hành mà tìm ra được bí quyết trường sinh bất tử.” Thực vậy, nếu Lão Tử là một hiền nhân đã đắc đạo, thì mọi người phải hết sức để theo gương Ngài, bắt chước Ngài, nhưng nếu ta nói rằng: đó là một nhân vật đặc biệt, có thiên tính, thì ta không thể nào bắt chước Ngài được nữa.[68]
Mạnh Tử cũng viết: «Phàm những vật đồng loại, thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại, người ta lại nghi rằng bản tính chẳng tương tợ. Những vị thánh nhân và chúng ta đồng một loại …» [69]
Nói Lão Tử là một nhà huyền học, nhiều người tưởng rằng làm như vậy đã giảm giá đức Lão Tử. Trái lại, nếu chúng ta hiểu thế nào là huyền học, ta sẽ thấy đó là một huy hiệu rất cao siêu.
Huyền học (mystique) là một danh từ tặng dữ cho những ai có một đời sống siêu nhiên mãnh liệt, y thức như đã tiếp xúc được với nguồn huyền lực vô biên của vũ trụ.
Những nhà huyền học là những người:
- Có tâm thần hết sức thông minh, tinh tế.
- Nhìn thấy được tấn tuồng biến thiên, ảo hóa của vũ trụ cũng như của lịch sử nhân quần.
- Cố tu luyện, cố thanh lọc tâm thần để đi đến chỗ cao minh linh diệu.
- Sống phối kết với Trời, coi mình là hiện thân, là biểu dương của Trời, của Thượng Đế …
Các nhà huyền học Đông cũng như Tây đều tin tưởng rằng sau bức màn hiện tượng biến thiên chất chưởng, còn có một Bản thể siêu việt, Tuyệt đối. Các Ngài không biết dùng danh từ gì để mô tả Tuyệt đối thể ấy cho hay cho xứng, cho nên hoặc là tuyên bố mình bất lực trước Tuyệt đối thể vô biên ấy, hoặc là dùng những danh từ tiêu cực, mơ hồ để diễn tả, để đề cập tới.
Các Ngài cho rằng con người sinh ra phải tìm về cho được nguồn mạch linh thiêng huyền diệu ấy, và tất cả các biến hóa của vũ trụ lúc chung cuộc cũng kết thúc trong đại thể vô biên tế ấy.
Mà nguồn mạch linh thiêng huyền diệu ấy đã tiềm ẩn ngay trong lòng con người. Con người chỉ việc lắng lòng lại, chỉ việc thu thần định trí, nhìn sâu vào tâm khảm mình sẽ tìm ra được Bản thể siêu việt, huyền diệu ấy …
Tìm ra được rồi, chỉ việc sống một đời sống khiêm cung, giản dị, hồn nhiên, tiêu sái, hạnh phúc. Từ nay không còn lo âu, không còn háo hức, vì biết rằng ngoại cảnh chẳng qua là những tấn tuồng phù du biến ảo. Từ nay, sẽ thoải mái, hạnh phúc, vì biết rằng mình đã nắm giữ được một cái gì quí báu nhất trần gian …
II. CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH CỦA ĐỨC LÃO TỬ
1. Thế nào là con đường huyền nhiệm tâm linh?
Như trên đã chứng minh, đức Lão Tử là con người thực hiện được Thiên Chân, đã tìm ra được con đường huyền nhiệm. Chính vì thế mà Ngài trở thành vị Tiên phong, hướng đạo, soi đường cho chúng ta bước vào con đường huyền nhiệm, con đường dẫn tới Thiên chân, Đạo thể.
Tôi nghĩ rằng tất cả giá trị Đạo Đức Kinh cũng như của đạo Lão chính là ở chỗ đã vạch cho chúng ta con đường nội tâm, với những giai đoạn, những công phu tu luyện để trở về phối kết với Đạo thể, Đạo tâm.
Henri Maspero có lẽ là một học giả Âu Châu đầu tiên đã nhận định về Lão Trang một cách hết sức đúng đắn, tinh tế, sâu sắc. Ông nói: «Thực hiện một đời sống huyền đồng, đó là một khám phá mới lạ nhất của môn phái Lão Trang. Họ là những người đầu tiên ở Trung Hoa đã đi trên con đường đó, và đã mô tả những giai đoạn của đường đó.» [70]
*Tại sao gọi là con đường huyền nhiệm?
Thưa vì con đường dẫn tới Đạo tới Trời mà Lão Tử sẽ đưa chúng ta đi, sẽ không phải là một con đường lộ liễu bên ngoài. Nó không băng qua Đạo đường, đạo quán, không băng qua ảnh tượng, lễ nghi, mà thực ra đã ẩn áo trong mỗi con người.
*Tại sao gọi là con đường huyền nhiệm tâm linh?
Vì con đường đạo hạnh này sẽ không xuyên qua núi non, sông biển, để đi đến một non Bồng, nước Nhược nào ở bên ngoài, cũng không phải là một con đường băng qua thinh không, vượt qua Ngưu, Đẩu, để lên tới một cảnh giới thiên đường xa xăm nào, mà chính là con đường băng qua hình hài, hướng thẳng tới nội tâm, băng từ biên khu thân xác, hình hài, qua óc não, phách hồn, vào thẳng tới tâm khảm con người nơi Đạo, nơi Thần, nơi Nhất ngự trị.
- Đã đề cập tới một con đường, thì chúng ta phải xác định:
. Đâu là khởi điểm
. Đâu là đích điểm
. Các giai đoạn trên lộ trình đó ra sao.
Cho nên, trước khi bàn về các giai đoạn trên lộ trình đó, tôi sẽ đề cập đến khởi điểm và đích điểm.
- Xin quí vị hãy tạm thời cùng tôi chấp thuận:
. Khởi điểm là Ngũ quan, tứ chi, bá hài mà nơi đây tôi tượng trưng bằng đôi mắt. Đôi mắt đây, cũng là Âm Dương, mà Âm Dương ám chỉ tất cả những gì thuộc về Thế giới hiện tượng, hữu hình, mâu thuẫn, tương đối.
. Đích điểm là Đạo, là Trời, là Thiên Nhãn, theo danh từ Cao Đài. Mà ở trên đây tôi đã dùng các bài cơ bút xác định được vị trí là ở Tâm điểm não bộ, ở nơi Nê Hoàn Cung.[71] Mà Đạo, Trời, Thiên Nhãn là gì nếu không phải là Bản thể con người, là Căn nguyên, trục cốt của con người và đồng thời cũng là Căn nguyên, Trục cốt của vũ trụ? Vả chăng chúng ta cũng biết Đạo, Trời, Thiên Nhãn thời Tuyệt Đối, thời siêu việt, thời Hằng Cửu, thời Chân thực.
Nếu quí vị chấp nhận đích điểm và khởi điểm mà tôi vừa trình bày trên, quí vị chẳng những thực sự vẽ lại được một con đường. Hơn thế nữa, quí vị còn thấy con đường huyền nhiệm tâm linh này dẫn:
- Từ thấp tới cao,
- Từ hèn tới quí,
- Từ phù sinh đến vĩnh cửu,
- Từ giả đến chân,
- Từ tăm tối đến ánh sáng,
- Từ hiện tượng đến bản thể,
- Từ hữu vi, hữu tướng tới Vô vi, vô tướng.
- Từ tương đối, tới tuyệt đối,
- Từ vạn, từ đa tạp, tới Nhất, tới Thuần thể.
Vả lại, con đường này ngắn ngủi chứ chẳng có xa xăm, diệu vợi.
Hai mắt và Thiên Nhãn hợp với nhau thành một hình tam giác đều. Đường nối hai đồng tử mắt là đáy hình tam giác. Thiên Nhãn là đỉnh hình tam giác.
Khoảng cách giữa hai mắt ta đo được: Nó dài khoảng chừng 3 tấc ta, tức là khoảng bề ngang 4 ngón tay xếp khép liền.
Như vậy thì từ Nhục Nhãn tới Thiên Nhãn, khoảng cách cũng như vậy. Vả ta biết được rằng Thiên Nhãn hay Đạo hay Cốc Thần là ở trung điểm Nê Hoàn cung như trên đây đã dùng kinh điển xác minh.
***
Đoạn đường ấy gần thì thật gần, vì biết đi, thì chẳng đi đã tới, như lời Đạo Đức Kinh, chương 47; nhưng xa thì cũng thiệt là xa, vì chẳng biết đường đi thì muôn năm cũng chẳng tới nơi.
Đoạn đường nầy, gần thì thực gần, nhưng phàm thánh xưa nay đều quanh quẩn ở điểm này, điểm nọ trên khoảng đường ấy mà thôi, chẳng khác nào Tề Thiên Đại Thánh, khi đã nhảy lên bàn tay Phật, thi triển thần thông, ruổi rong muôn vạn dặm đường, mà đến khi kiểm điểm lại, vẫn thấy mình còn đứng trên ngón tay giữa của Phật.
Vả con đường này thường cũng chẳng có thông suông, vì như lời Mạnh Tử, lau lách dục tình đã lấp kín con đường nội tâm này rồi. Mạnh Tử nói: «Kim mao tắc tử chi tâm hĩ.» 今 茅 塞 子 之 心 矣 (Nay lau lách đã lấp kín tâm hồn bạn rồi.)[72]
Chính vì thế mà trong tập Trung Dung yếu chỉ tôi đã viết:-
Biên khu luân lạc từ bao!
Tìm sao cho thấy đường vào Trung Dung.
Đường Trung Dung linh lung ẩn khuất,
Nẻo Bồng Lai, gai lấp lau che … .
Trên đã nói: Đích điểm là Đạo. Khởi điểm là thế giới phù sinh. Mà nơi đây tôi quán xuyến bằng đôi con mắt. Chính vì vậy mà nơi chương đầu Đạo đức kinh, đức Lão Tử bàn về Đạo, tức là về Bản Thể, căn cơ con người, đồng thời cũng là đích điểm con người. Nhận định rằng Đạo chính là Hóa Công, là Trời, là Khuôn thiêng đã tạo ra muôn loài, muôn vật, đồng thời cũng là đích điểm, là mục phiêu của công trình phản bản hoàn nguyên, nên tôi đã mạo muội dịch Đạo là Hóa Công, là Khuôn thiêng.
Lão Tử viết:
Hóa Công hồ dễ đặt tên,
Khuôn thiêng hồ dễ mà đem luận bàn.
Không tên sáng tạo thế gian,
Có tên là mẹ muôn vàn thụ sinh.
Tịch nhiên cho thấy uy linh,
Hiển dương cho thấy công trình vân vi.
Hai phương diện, một Hóa Nhi,
Huyền linh khôn xiết, huyền vi khôn lường.
Ngài là Chúng diệu chi môn,
Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi …
Tiếp theo ngay nơi chương 2, đức Lão Tử bàn về sự phù du, chất chưởng, mâu thuẫn, tương đối của kiếp phù sinh, hiện tượng này. Ngài viết:
Người đời thấy đẹp biết khen,
Thế là cái xấu đã chen vào rồi.
Điều hay đã rõ khúc nhôi,
Thời đà dang dở, lôi thôi sinh dần.
Mới hay không, có chuyển vần,
Dễ sinh ra khó, ngắn nhân thành dài.
Thấp, cao tùy ngó ngược, xuôi,
Tiếng ca trầm, bổng, dòng đời trước sau.
Thánh nhân khinh khoát tầng cao,
Vô vi, thầm lặng tiêu hao dạy đời.
Kìa xem muôn vật thảnh thơi,
Im lìm sinh hoạt, một lời cũng không.
Ngày đêm chẳng kể công,
Công thành phơi phới, tuyệt không bận lòng.
Không nấn ná lúc thành công,
Cho nên tồn tại mãi cùng thiên thu …
Khi đã cho ta thấy rõ, Cùng điểm và Khởi điểm của con đường Huyền nhiệm tâm linh, đức Lão Tử khuyên mọi người đi vào con đường Qui Căn, Phản Bản. Ngài viết nơi chương 16:
Thử tách khỏi dòng đời luân chuyển,
Để lặng thinh ngắm chuyện trần hoàn;
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn Bản Nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng;
Biết truờng tồn, mới là thông,
Trường tồn không biết, ra lòng tác yêu.
Biết trường tồn muôn đời thư thái,
Lòng ung dung hưởng khoái công hầu;
Công hầu, vương tước xa đâu,
Vượt thang thần thánh lên bầu trời cao.
Lên trời thẳm, hòa vào Đạo cả,
Cùng đất trời, muôn thủa trường sinh,
Xác tan, chẳng hại chi mình ...
Bước được vào con đường huyền nhiệm nội tâm ấy, tuy ngồi nhà mà vẫn hay thiên hạ sự. nơi chương 47, đức Lão Tử viết:
Ở nhà chẳng bước đi đâu,
Thế mà thiên hạ gót đầu vẫn hay.
Tuy rằng cửa đóng then gài,
Thế mà vẫn hiểu đạo trời vân vi.
Con đường phiêu lãng càng đi,
Càng xa, càng lạc, biết gì nữa đâu.
Cho nên hiền thánh trước sau,
Không đi mà đến, không cầu mà nên.
Cần chi vất vả bon chen,
Không làm mà vẫn ấm êm, vuông tròn ...
2. Những giai đoạn, những chặng đường trên lộ trình đó :-
Từ nhiều năm nay, tôi đã hình dung ra được các chặng đường trên con đường Huyền nhiệm tâm linh, nhờ đọc chương 38 của đức Lão Tử.
Chương 38 có một đoạn sau đây:
Hễ ĐẠO mất nặng tình với ĐỨC,
ĐỨC không còn, lục tục theo NHÂN;
Hết NHÂN, có NGHĨA theo chân,
NGHĨA không còn nữa, thấy thuần LỄ NGHI.
Nên NGHI LỄ là chi khinh bạc,
Cũng là mầm loạn lạc chia ly;
Bề ngoài rực rỡ uy nghi,
Bề trong tăm tối, ngu si ngỡ ngàng.
Nên quân tử chỉ ham đầy đặn,
Chứ không ham hào nhoáng phong phanh;
Chỉ cần thực chất cho tinh,
Không cần bóng bẩy lung linh bên ngoài.
Bắc cân khinh trọng cho tài,
Biết đường ôm ấp, biết bài rẻ khinh.
Nghiên cứu kỹ chương này, tôi thấy đức Lão Tử đã cho biết từ xưa, đến nay, tôn giáo đã suy thoái qua 5 giai trình:
ĐẠO ⇨ ĐỨC ⇨ NHÂN ⇨ NGHĨA ⇨ LỄ
Đạo là giai trình cao nhất. Lễ là giai trình thấp nhất.
Tôi liền đặt ngược lại vấn đề: Muốn tiến tới Trời, tới Đạo, chúng ta cũng phải băng qua 5 giai trình:
LỄ ⇨ NGHĨA ⇨ NHÂN ⇨ ĐỨC ⇨ ĐẠO
Từ nhiều năm nay, tôi đã cụ thể hóa 5 giai trình trên, bằng cách gắn liền chúng, phối hợp chúng với các tầng lớp tương ứng trong con người, và với các hiện tượng đạo giáo. Và như vậy, con đường huyền nhiệm tâm linh sẽ có 5 giai trình, 5 chặng đường từ thấp đến cao, từ gần đến xa.
1. Chặng đường thứ nhất: Chặng đường LỄ
Chặng đường LỄ, hay NGHI LỄ này tương ứng với giác quan, với thân thể, tứ chi, bá hài.
Về phương diện tôn giáo, nó bao quát hết mọi hình thức LỄ NGHI (Formes extérieures du culte), thanh âm, hương sắc…
Về phương diện tu trì, nó bao quát hết mọi phần động công, tĩnh công, có liên quan đến giác quan và cơ thể.
Chặng đường này là chặng đường thấp nhất, dễ nhất trên con đường tu luyện.
Người đạo sĩ chỉ cần làm sao làm chủ được thân xác, ngũ quan, đừng để cho những thú vui giác quan làm tản thần, hao khí, đừng để cho chúng buông lung, làm cho tâm hồn trở nên bất định, không còn hoàn toàn chuyên chú được vào công trình trọng đại nhất, đó là thực hiện THIÊN CHÂN.
Chính vì vậy mà nơi chương 12 Đạo Đức Kinh, đức Lão Tử viết:
Sắc, năm màu là ta choáng mắt,
Thanh, năm cung ngây ngất lỗ tai;
Năm mùi tê lưỡi nếm sai,
Ruổi rong săn bắn, lòng người hóa điên.
Của, hiếm có ngả nghiêng nhân đức,
Khinh giác quan giữ chắc lòng son;
Thánh nhân hiểu lẽ mất còn…
2. Chặng đường thứ hai: Chặng đường NGHĨA
Chặng đường thứ hai là Chặng đường NGHĨA hay NGHĨA LÝ. Chặng đường này gắn liền với óc não, với tiểu trí.
Về phương diện Đạo giáo, nó bao quát hết mọi GIÁO LÝ, TÍN ĐIỀU (dogmes).
Về phương diện tu trì, nó bao quát hết mọi công trình suy tư, học hỏi. Người đạo sĩ phải học, phải hỏi để biết đạo mình, đạo người, để mở rộng kiến văn, kiến thức, nhưng đừng bao giờ nên có thái độ khép kín, thái độ bất tương dung. Nhất là phải nhận chân được rằng đa số tín lý, giáo điều của các đạo giáo thường chỉ có giá trị qui ước, tương đối. Chính vì vậy mà đừng bao giờ nên vì giáo lý, tín điều mà làm thương tổn niềm hòa khí, lòng bác ái, vị tha.
Đức Lão Tử thực ra không coi trọng cái tiểu học, tiểu trí. Nơi chương 29 Đạo Đức Kinh, Ngài viết:
Dứt bỏ thánh, khinh thường tiểu trí,
Trong dân gian lợi sẽ gấp trăm;
Nơi chương 30, Ngài viết:
Rũ tục học, sẽ quên lo lắng,
Dạ với ơi, khác đặng bao lăm…
Nơi chương 48, Ngài viết:
Học nhiều càng lắm rườm rà,
Càng gần Đạo cả, càng ra đơn thuần.
Giản phân rồi lại giản phân,
Tần phiền rũ sạch còn thuần Vô Vi…
3. Chặng đường thứ ba: Chặng đường NHÂN
Chặng đường này tương ứng với Trung Não (diencéphal) gồm các Thể Lam (Thalamus), Thể Hạ Lam (Hypothalamus) và Não đế (Mésencéphale và myélencephale), nghĩa là với TINH PHÁCH, với Phần Âm của Nhân tâm. Theo khoa học hiện đại, thì các Thể Lam, Thể Hạ Lam và Não đế có liên quan nhiều đến vấn đề cảm giác, cảm xúc. Chính vì thế mà tôi nghĩ rằng nơi đây hàm chứa thất tình, lục dục.
Về phương diện tôn giáo, giai trình này tương ứng với các giới luật tu trì, với luân lý.
Giai đoạn này chính là giai đoạn tẩy tâm, theo từ ngữ Dịch kinh, hay là hàng phục kỳ tâm, theo từ ngữ Kim Cương kinh. Nó tương ứng với công trình luyện tinh hóa khí của Lão giáo.
Ở giai trình này, người đạo sĩ phải học chế ngự phàm tâm, chế ngự thất tình, lục dục…
Chương 48, Lão Tử viết: «Vi Đạo nhật tổn.» 為 道 日 損. Thế nghĩa là, nếu chúng ta muốn đi tìm Đạo, tìm Trời chúng ta phải đi vào con đường rũ bỏ:
- Chúng ta phải rũ bỏ lòng tư kỷ, tư dục.
- Chúng ta phải từ bỏ lòng ham lợi, ham danh.
- Chúng ta phải rũ bỏ tà tâm, tà niệm.
- Chúng ta phải rũ bỏ tất cả những gì làm xao xuyến tâm hồn, làm mất sự tĩnh lãng của tâm hồn.
- Chúng ta phải rũ bỏ hết mọi nhân dục.
Lý Long Uyên cho rằng: «Khi mà nhân dục đã hủy hết, thiên lý sẽ trở nên thuần hoàn. Khi mà tính đã yên như ngọc lưu ly không còn vấn vương một chút chi ô nhiễm, không còn bợn một chút chi nhơ bẩn, lúc ấy bản thể sẽ hiện ra sáng láng, cái chân tu tâm tu tại, cái bản lai diện mục của chúng ta sẽ hiển lộ ra rõ ràng, và lúc ấy Vô Cực Chân Nhân mới để lộ dung quang.» [73]
Chương 50, đức Lão Tử viết:
Nẻo đường sống chết đôi nơi
Bên nào sống chết cũng thời mười ba.
Kiếp phù sinh phôi pha tàn úa,
Truy kỳ nguyên cũng có mười ba;
Kiếp người tàn úa phôi pha,
Chung qui là tại quá ưa hưởng đời…
Lý Long Uyên bình rằng: «Căn do chết chóc có 13: Đó cũng chính là thất tình lục dục. Đối với người tu, thì đó là cửu đưa vào cõi sống, đối với người phóng túng, thì đó là cửu đưa vào cõi chết. Muốn biết một người hướng về sống chết ra sao, chỉ cần xem người ấy sử dụng tấm thân ra sao…» [74]
Như vậy, nếu phóng túng dục tình, để cho thất tình lục dục làm băng hoại tấm thân, sẽ đi vào cõi chết.
Nếu biết tu tâm, luyện khí, hàm dưỡng tính tình, bảo toàn được tinh hoa của trời đất, sẽ trở thành Chân nhân, sẽ trường sinh cùng trời đất. Trường sinh đây phải hiểu về phương diện tâm thần. Đức Lão Tử cũng đã nói:
«Tử nhi bất vong giả thọ.» 死 而 不 亡 者 壽 (Chết vẫn còn, là thọ muôn đời). (Đạo Đức Kinh, ch.33)
Nơi chương 26, Ngài cũng viết:
Buông tuồng là mất căn nguyên,
Lo toan trăm mối là quên mất Trời.
輕 則 失 根, 躁 則 失 君 (Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân…)
4. Chặng đường thứ tư là chặng đường ĐỨC
Đức là gì? Đức đây chính là vẻ sáng của Thượng Đế, của Đạo. Giai đoạn này tương ứng với Hồn, với Nguyên khí trong con người. Lúc này người tu Đạo y như đã vào được cung trời Chân Thanh.
Về phương diện Đạo giáo, giai đoạn ĐỨC này tương ứng với đời sống hồn nhiên tiêu sái. Thiên Chúa giáo dùng chử Ân Sủng, chữ Thiên ân để mô tả tình trạng con người lúc nầy. Mà Ân Sủng, mà Thiên ân chữ Pháp là Grâce. Grâce chính là Duyên dáng. Lúc này, nguồn mạch linh thiêng sống động đã bắt đầu tung tỏa vào trong tâm hồn con người, làm cho con người trở nên hồn nhiên hơn, sảng khoái hơn, duyên dáng hơn, và đã bắt đầu tỏa ra được một thần lực nào đó để cảm hóa người khác… Cuộc sống trở thành một cuộc sống vui, sống hồn nhiên, sống nghệ thuật.
Về phương diện tu trì, đây chính là giai đoạn luyện khí hóa thần. Mà luyện khí hóa thần chính là thanh lọc dần mãi cho hết tà tâm tà niệm, là tĩnh định để đi đến chỗ thanh tĩnh.
Người tu đạo, khi lên tới giai trình này sẽ thấy:
- Lòng thanh tĩnh,
- Tâm thần sảng khoái,
Tiên học diệu tuyển (tr.198) có câu: «Tức điều, tâm tĩnh khả dĩ nhập đạo.» 息 調 心 靜 可 以 入 道. (Thở đều, tâm tĩnh có thể vào Đạo.)
«Nhân năng thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai qui.» 人 能 常 清 靜 天 地 必 皆 歸 (Người mà luôn thanh tĩnh được, trời đất ắt chầu về.) [Sđd, tr.27]
Người xưa cũng nói: «Thần tiên vô biệt pháp, Chỉ sinh hoan hỉ, mạc sinh sầu.» 神 仙 無 別 法, 只 生 歡 喜, 莫 生 愁 (Thần tiên phép lạ nào đâu; Chỉ sinh vui vẻ, chớ sầu chẳng sinh.) [Sđd, tr. 311]
Thế tức là đã «Thánh» thì không «Sầu»; Đã «Sầu» thì không «Thánh».
Đạo Đức Kinh nơi chương 38 viết:
Người đức cả, coi thường tục đức,
Thế cho nên thơm phức hương nhân.
Phàm phu nệ đức phàm trần,
Cho nên xơ xác thêm phần xác xơ…
Người đức cả, vô vi khinh khoát,
Kẻ phàm phu lao tác tây đông…;
Cũng có thể dùng chương 52 để mô tả những đại đức trên như sau:
Âm thầm ấp ủ tấc sen,
Một đời trần cấu, chẳng mòn mỏi ai,
Mặc ai đày đọa hình hài,
Một đời tất tưởi, phí hoài tấm thân…
Quang minh là thấu vi phân,
Cương cường là biết giữ phần mềm non.
Hãy dùng ánh sáng ngàn muôn,
Đem về soi tỏ gốc nguồn chói chang.
Thế là thoát mọi tai ương,
Thế là biết sống cửu trường vô biên.
5. Chặng đường thứ năm: Chặng đường ĐẠO.
Chặng đường Đạo; cũng là đích điểm. Đây là giai đoạn huyền đồng, sống hợp nhất với trời với đạo. Lão giáo gọi thế là: Vô Vi, là Đắc Nhất, là Thủ trung bão nhất, là Trí hư cực thủ tĩnh đốc, là Đắc Đạo…
Tới đây là thành tiên, đắc đạo, là thành Phật, thành Thánh. Tới đây là đạt tới Đạo, tới Bản thể tuyệt đối, thực hiện được Bản Lai diện mục, trở về với Thiên Tâm, với Trạng thái thuần phác nguyên thủy…
Đại Thừa Chân Giáo nơi trang 56, cho rằng lúc này là lúc linh hồn con người phá được Thiên Môn để nhập vào Thượng Thanh Cung.
Mà Thiên Môn chính là Nê Hoàn Cung, chính là Cái Khiếu Nê Hoàn Cung. Và Thượng Thanh chính là Nguyên Thần.
- Đây là giai đoạn huyền đồng, lúc mà các vị Chân Nhân đều gặp nhau trong Bản Thể Tuyệt đối của Thượng đế.
- Đây là giai đoạn vô ngã, vô nhân, mà người xưa cho rằng Dịch kinh đã đề cập bằng hai câu trong quẻ Cấn: «Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân.» 艮 其 背, 不 獲 其 身. 行 其 庭, 不 見 其 人. Khi dịch bộ Kinh Dịch, tôi đã dịch cho hết sức thoát ý hai câu trên như sau:
Cấn là dừng lại sau lưng,
(Dừng nơi chí thiện) quên thân, (quên người).
(Bản thân khi đã quên rồi,)
Trong sân đi lại quên người lỗi chi.
- Đó là giai đoạn mà Thần Hội gọi là Vô Niệm. Người xưa cho rằng: Nhất Niệm bất sinh, toàn thể hiện. 一 念 不 生 全 體 現.
- Lão giáo mô tả giai đoạn này là: Hư Cực Tĩnh đốc hay Hư Tâm. Chương 10, Đạo Đức Kinh viết:
Làm sao đem hết xác hồn,
Hòa mình với Đạo chẳng còn lìa xa.
Làm sao giữ vẹn tinh hoa,
Sống đời thanh thản như là Anh Nhi.
Làm sao rũ sạch hà tì,
Gương lòng vằng vặc, quang huy vẹn tuyền.
Nơi chương 20, đức Lão Tử có mô tả trạng huống tâm thần của người đắc Đạo, và kết luận người đắc đạo khác người thường vì không còn rời xa MẸ THIÊN NHIÊN. Ngài viết:
Người vui như hưởng cỗ bàn,
Vui như trẩy hội đăng đàn tiết xuân.
Riêng ta nín lặng tần ngần,
Như tuồng trẻ nít, không phân biệt gì.
Ta ngơ ngẩn biết đi đâu tá,
Người giàu sang, ta há bị quên;
Lòng ta ngu độn thấp hèn,
Người đời sáng suốt sao riêng ta đần.
Người xét nét, biện phân mọi lẽ,
Chỉ riêng ta quạnh quẽ trông suông;
Mênh mang trên mặt trùng dương,
Mặc cho gió cuốn sóng vương không ngừng.
Ai cũng có chỗ dùng ích lợi,
Chỉ riêng ta thô kệch ương hèn.
Nay ta sống khác trần gian,
Vì không xa Mẹ muôn ngàn thụ sinh ...
3. Ít nhiều tư tưởng chỉ nam khái quát.
Sau khi phác họa ra con đường huyền nhiệm tâm linh, hay là con đường hồi quang phản chiếu, đi vào Tâm mà tìm Đạo tìm Trời của Lão giáo, ta thấy con đường này chẳng qua là con đường Qui Nguyên Phản Bản, con đường Phản Phác Hoàn Thuần mà Á Đông thường đề cập tới. Đây cũng chính là con đường Hoàn Thiện, con đường Trung Dung mà Khổng Mạnh thường đề cập tới.
Chu Hi, khi chú thích chương I Trung Dung đã viết:
Những học giả muốn tìm Đạo ấy,
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai;
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có, đồng thời khuếch sung.[75]
Mạnh Tử viết:
«Cả vạn vật ở trong ta đó,
Quay về ta, ta cố tinh thành;
Kiện toàn hoàn thiện tinh anh,
Vui nào hơn được vui mình đang vui…» [76]
- Theo đức Lão Tử, thì con đường huyền nhiệm tâm linh, chẳng qua là con đường phản phác hoàn thuần, rũ bỏ phù phiếm trở về với tinh hoa. Nơi chương 19 Ngài viết:
Ra chi phù phiếm vẻ văn,
Cốt sao nắm giữ được phần tinh hoa.
Hiển dương Đạo, sống cho phác thiệt,
Ít đam mê, và ít riêng tây.
- Muốn trở về với Đạo, với Trời, phải sửa sang cho hết những gì chếch mác dở dang nơi con người. Thiết tưởng đó là một định lý mà chắc chắn đạo giáo nào cũng phải chấp nhận.
Nơi chương 22 Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết:
Bao dang dở làm cho tươm tất,
Bao cong queo hãy nắn cho ngay;
Hãy san chỗ trũng cho đầy,
Cũ càng đổi mới, mới ngay tức thì.
Đạm thanh sẽ thỏa thuê đầy đủ,
Phiền toái nhiều, trí lự ám hôn;
Thánh nhân một dạ sắt son,
Hòa mình với Đạo, treo gương cho đời.
Ít phô trương, (nhưng) rạng ngời sáng quắc,
Chẳng khoe khoang, (nhưng) vằng vặc trăng sao.
Chẳng vênh váo, vẫn cao công nghiệp,
Chẳng huênh hoang ngồi tít tầng cao;
Không tranh ai nỡ tranh nào,
Lời người xưa nói nhẽ nào sai ngoa ....
Bao dang dở làm cho tươm tất,
Tươm tất rồi ắt sẽ về Ngài ....
- Điều quan trọng nhất của đời sống vẫn là giữ sao cho vẹn Thiên chân, đừng để ngoại cảnh làm cho hư hạo phá tán.
Nơi chương 28 Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết:
Thiên chân phân tán, vãi vương,
Sẽ thành đồ đạc để nương, để dùng;
Thánh nhân nếu lâm vòng hữu dụng,
Bất quá làm trưởng thượng bách quan;
Mới hay phép lớn mênh mang,
Không chia, không cắt, vẹn toàn mới hay ...
- Hơn nữa người tu đạo cũng nên sống thuần phác, thao quang ẩn tích. Nơi chương 56, đức Lão Tử viết:
Biết thời xẻn tiếng, xẻn lời,
Những người không biết thường thời huênh hoang.
Âm thầm đóng khóa ngũ quan,
Mà cho sắc sảo, mà san tần phiền ...
Hòa mình trong đám dân đen,
Cho mờ ánh sáng, cho nhem phong trần.
Ấy là đạo cả huyền đồng ...
Nơi chương 8 ĐĐK, đức Lão Tử nói:
Người trọn hảo giống in làn nước,
Nuôi muôn loài chẳng chút cạnh tranh;
Ở nơi nhân thế rẻ khinh,
Nên cùng Đạo cả, mặc tình thảnh thơi.
Người trọn hảo, chọn nơi ăn ở,
Lòng trong veo cố giữ đức nhân;
Những là thành tín nói năng,
Ra tài bình trị chúng dân trong ngoài.
Mọi công việc an bài khéo léo,
Lại hành vi mềm dẻo hợp thời;
Vì không tranh chấp với ai,
Một đời thanh thản ai người tranh ta ...
Nhìn bao quát lại năm chặng đường huyền nhiệm tâm linh này, ta sẽ thấy nó đi từ biên cương thân xác, giác quan hình hài, băng qua óc não, phách, hồn, vào tới Nê Hoàn, tới Tâm khảm nơi Đạo, nơi Trời ngự trị.
Bến chặng đầu, có thể gọi là tu luyện hình hài và tâm hồn mà đạo gia, tiên gia thường gọi là tu hữu vi, hay tu mệnh.
Chặng sau cùng, chính là giai đoạn huyền đồng, sống phối kết với Đạo với Trời, giai đoạn Ngưng thần.
Hư tâm, mà Đạo gia, Tiên gia gọi là tu vô vi, hay tu tính. Tất cả các giai trình hợp lại thời là Tính mệnh song tu, vạn thần khuê chỉ, theo từ ngữ của Doãn Chân nhân, tác giả bộ Tính mệnh khuê chỉ.
*
**
Trên đây tôi đã nói: Thiên Nhãn (tức là Thái Cực) và hai con mắt (tức là Âm Dương) trong con người hợp lại thành một hình tam giác đều.
1. Từ Thiên Nhãn ra mắt hữu, từ mắt hữu sang mắt tả, từ mắt tả trở về Thiên Nhãn, là toàn thể vòng Đại Chu Thiên là toàn thể vòng Dịch.
2. Từ Thiên Nhãn ra mắt hữu, là con đường phóng ngoại con đường của các Linh Quang giáng thế, giáng phàm.
3. Từ mắt phải sang mắt trái, tượng trưng cho con đường hồng trần mà mọi người chúng ta phải băng qua, để mà phục vụ, để mà thương yêu, để mà giúp đỡ, để mà bao bọc đồng loại, để mà làm các nhiệm vụ đối với gia đình, quốc gia xã hội, với giang sơn tổ quốc, với toàn thể nhân quần…
4. Từ mắt trái trở về Thiên Nhãn chính là con đường HUYỀN NHIỆM TÂM LINH, con đường QUI NGUYÊN PHẢN BẢN, con đường HỒI QUANG PHẢN CHIẾU, con đường PHẢN PHÁC HOÀN THUẦN, mà tôi vừa phác họa lại cùng quí vị với các giai trình.
Nói rõ ra thế, để quí vị hiểu tại sao còn nhiều vấn đề mà bài thuyết trình này chưa đề cập tới…
- Trong khi trình bày về 5 giai trình này, quí vị đã thấy tôi hoặc là trình bày một cách rõ ràng, hay là đề cập tới một cách hàm ngụ, mấy ý niệm sau đây:
+ TINH TIẾN,
+ VƯƠN VƯỢT,
+ RŨ BỎ,
+ GIẢN DỊ HÓA MÃI MÃI để trở về tinh hoa, thuần phác.
Trang Tử nơi thiên Đại Tông Sư cũng có chủ trương tương tự như vậy. Và đây là đại khái tư tưởng của Trang Tử.
Đời trần thế là đời mộng ảo,
Tỉnh với mê lộn lạo khác chi;
Tử sinh như ở với đi,
Như thay hình tướng có chi bận lòng…
Dù Nam, Bắc, Tây, Đông cũng vậy,
Trời bảo sao ta hãy vui theo;
Mặc cho ngoại cảnh xoay chiều,
Giữ lòng Tạo Hóa khinh phiêu mặc tình…
Đem thân gửi mênh mông bát ngát,
Thời thân này mất mát làm sao;
Muốn tìm ra Đạo chí cao,
Mà không suy tưởng lẽ nào tìm ra,
Hãy thâu lượm tinh hoa sử sách,
Hãy khơi tung nguồn mạch đáy lòng;
Hư Vô khi đã khai thông,
Rồi ra sẽ được Huyền đồng chẳng sai.
Tìm Trời phải quên đời quên cảnh,
Quên phù sinh ảo ảnh bên ngoài;
Tâm hồn khi hết pha phôi,
Mới mong rực rỡ ảnh trời hiện ra.
Đã thấy Đạo đâu là kim cổ,
Hết cổ kim vào chỗ trường sinh;
Ham sinh thời lại điêu linh,
Phù sinh chẳng chuộng, thần linh ấy là.
Hãy cố gắng vượt qua nhân nghĩa,
Hãy quên đi nghi lễ của đời;
Quên mình, quên cả hình hài,
Thông minh trí tuệ gác ngoài tâm linh.
Hãy hợp với vô hình, vô tượng,
Cùng Đại Thông vô lượng sánh đôi;
Thế là được Đạo được Trời,
Thoát vòng biến hóa muôn đời trường sinh.
Ai chỉ vẽ sự tình sau trước,
Ấy là Thầy ta, đại lược cho ta;
Thầy ta muôn vật điều hòa,
Mà nào kể nghĩa với là kể ơn…
Ban phúc trạch cho muôn thế hệ,
Mà chưa hề lấy thế làm nhân;
Trường tồn đã mấy muôn năm,
Mà chưa hề thấy có phần già nua…
Thầy ta chở cùng che trời đất,
Lại ra tay điêu khắc muôn loài;
Thế mà một mực thảnh thơi,
Chưa hề có bảo là tài là hay…
(Đại tông sư, các đoạn G,H,I,K).
III. KẾT LUẬN
Trong bài đức Lão Tử và con đường huyền nhiệm tâm linh này, tôi đã trình bày xong cùng quí vị 3 vấn đề:
- Đức Thái Thượng Lão Quân là ai?
- Đức Lão Tử là ai?
- Con đường huyền nhiệm tâm linh mà Ngài đã vạch ra cho chúng ta là thế nào?
Dĩ nhiên là bài thuyết trình của tôi còn có nhiều thiếu sót, và tôi cũng hết sức mong đợi được quí vị ưu ái bổ khuyết cho. Nhưng dù sao, tôi cũng đã hết sức cố gắng, và hết sức thành khẩn trong khi trình bày vấn đề.
Ước mong bài thuyết trình bày giải tỏa được phần nào những thắc mắc của quí vị về đức Thái Thượng Lão Quân, và về đức Lão Tử, cũng như bồi bổ thêm được phần nào cho những sự hiểu biết về đạo giáo, và kinh nghiệm tâm linh của quí vị.
Kính thưa quí vị,
Kỷ niệm ngày thánh đản của một vị Giáo chủ bao giờ cũng là điều tốt. Nhưng học hỏi về đạo của Ngài lại còn tốt hơn, nếu lại đem đạo ấy ra mà thi hành thì lại càng tốt hơn nữa.
Chính vì vậy mà, thay vì trình bày nguyên về thân thế đức Lão Tử, tôi đã mạo muội toát lượt tinh hoa học thuyết, tinh hoa đạo giáo của Ngài.
Chính đức Lão Tử cũng ước mong chúng ta hiểu Ngài, bắt chước Ngài. Nơi chương 70 Đạo Đức Kinh, Ngài viết: «Tri Ngã giả hi. Tắc Ngã giả quí.» 知 我 者 希,則 我 者 貴 (Kẻ hiểu biết ta thời ít. Kẻ bắt chước ta thời quí.)
Ước gì quí vị đứng trong hàng ngũ những người hiếm, người quí ấy.
Ước gì chúng ta sẽ bước vào và sẽ tiến mãi trên con đường THỰC HIỆN THIÊN CHÂN mà từ ngàn xưa đức Lão Tử đã vạch ra cho nhân quần.
Ước gì chúng ta sẽ: «Đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế” 徒 難 於 其 易, 為 大 於 其 細 theo đúng chủ trương của đức Lão Tử nơi chương 63 Đạo Đức Kinh. Và tôi cũng xin mượn luôn lời đức Lão Tử nơi chương 63 để làm lời kết thúc cho bài thuyết trình này như sau:
Thảnh thơi ta sống thảnh thơi,
Đời ta chẳng chút lôi thôi tần phiền.
Đời ta thơm phức hương tiên,
Bao nài lớn nhỏ, sá xem ít nhiều,
Cởi giây thù oán chẳng đeo,
Ta đem đức độ, đổi điều gian ngoan.
Khó gì ta cũng cứ làm,
Bắt đầu từ dễ chuyển sang khó dần.
To gì ta cũng chẳng cần,
Bắt đầu từ nhỏ ta lần sang to.
Đời người vạn sự gay go,
Đều đi từ dễ lần mò mãi ra.
Những điều cao đại xưa giờ,
Đều từ nhỏ nhặt đem vo cho thành.
Cho nên những bậc tinh anh,
Chẳng cần lớn lối vẫn dành cao sang.
Những ai hứa hẹn muôn ngàn,
Tình suông rồi sẽ bẽ bàng đơn sai.
Những ai khinh thị cuộc đời,
Càng ngờ dễ dãi, càng vời khó khăn.
Cho nên những bậc thánh nhân,
Biết e cái khó, khó khăn chừa người…
(Đạo Đức Kinh, chương 63)
* Đề tài thuyết trình tại: Hội trường Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý trong ngày lễ thánh đản đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN rằm tháng 2 Định Tị (3/4/1977).
*PHỤ LỤC :-
.PHỤ LỤC
I. Lược sử đức Lão Tử theo Tư Mã Thiên
☸ Nguyên văn chữ Hán:
老 子 者, 楚 苦 縣 厲 鄉 曲 仁 里 人 也 姓 李 氏, 名 耳, 字 伯 陽 諡 曰 聃 周 守 藏 室 之
史 也 孔 子 適 周, 將 問 禮 於 老 子 老 子 曰: «子 所 言 者, 其 人 與 骨 皆 已 朽 矣, 獨
其 言 在 耳 且 君 子 得 其 時 則 駕, 不 得 其 時 則 蓬 累 而 行 吾 聞 之,
良 賈 深 藏 若 虛,君 子 盛 德, 容 貌 若 愚 去 子 之 驕 氣 與 多 欲, 態 色 與 淫 志,
是 皆 無 益 於 子 之 身 吾 所 以 告 子, 如 此 而 已.»
孔 子 去 謂 弟 子 曰: «鳥 吾 知 其 能 飛 魚 吾 知 其 能 游 獸 吾 知 其 能 走 走 者
可 以 為 罔, 游 者 可 以 為 綸, 飛 者 可 以 為 矰 至 於 龍, 吾 不 能 知 其 乘 風 雲
而 上 天 吾 今 日 見 老 子 其 猶 龍 耶.»
老 子 修 道 德 其 學 以 自 隱 無 名 為 務 居 周 久 之,見 周 之 衰, 乃 遂 去 至 關,
關 令 尹 喜 曰: «子 將 隱 矣, 強 為 我 著 書.» 於 是 老 子 乃 著 書 上 下 篇, 言 道
德 之 意 五 千 餘 言, 而 去, 莫 知 所 終. 或 曰 老 萊 子 亦 楚 人 也 著 書 十 五 篇,
言 道 家 之 用, 與 孔 子 同 時 云 蓋 老 子 百 六 十 餘 歲, 或 言 二 百 餘 歲 以 其
修 道 而 養 壽 也.
老 子 隱 君 子 也 老 子 之 子 名 宗 宗 為 魏 將 封 於 段 干 宗 子 注 注 子 宮 宮 玄
孫 假 假 仕 於 漢 文 帝 而 假 之 子 解 為 膠 西 王 印 太 傅, 因 家 於 齊 焉 世 之
學 老 子 者 絀 儒 學 儒 學 則 絀 老 子 道 不 同 不 相 為 謀 豈 謂 是 耶 老 子 無
為 自 化, 清 靜 自 正.
☸ Phiên âm:
Lão Tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng Tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử. Lão Tử viết: «Tử sở ngôn giả, kỳ nhân dữ cốt giai dĩ hủ hĩ. Độc kỳ ngôn tại nhĩ. Thả quân tử đắc kỳ thời, tắc giá; bất đắc kỳ thời, tắc bồng lụy nhi hành. Ngô văn chi, lương cổ thâm tàng nhược hư; quân tử thịnh đức dung mạo nhược ngu. Khứ tử chi kiêu khí dữ đa dục, thái sắc dữ dâm chí. Thị giai vô ích ư tử chi thân. Ngô sở dĩ cáo tử như thử nhi dĩ.» [77]
Khổng Tử khứ vị đệ tử viết: «Điểu ngô tri kỳ năng phi, ngư ngô tri kỳ năng du; thú ngô tri kỳ năng tẩu. Tẩu giả khả dĩ vi võng, du khả giả dĩ vi luân, phi giả khả dĩ vi tăng. Chí ư long, ngô bất năng tri kỳ thừa phong vân thượng thiên. Ngô kim nhật kiến Lão tử, kỳ do long da?»
Lão Tử tu đạo đức. Kỳ học dĩ tự ẩn vô danh vi vụ. Cư Chu cửu chi, kiến Chu chi suy, nãi toại khứ. Chí quan, quan lệnh Doãn Hỉ viết: «Tử tương ẩn hĩ, cưỡng vi ngã trứ thư.» Ư thị Lão Tử nãi trứ thư thượng hạ thiên, ngôn đạo đức chi ý, ngũ thiên dư ngôn, nhi khứ, mạc tri sở chung.
Hoặc viết: «Lão Lai tử diệc Sở nhân dã, trứ thư thập ngũ thiên, ngôn đạo gia chi dụng, dữ Khổng Tử đồng thời vân.»
Cái Lão Tử bách lục thập dư tuế, hoặc ngôn nhị bách dư tuế dĩ kỳ tu đạo nhi dưỡng thọ dã.
Lão Tử ẩn quân tử dã. Lão Tử chi tử danh Tông. Tông vi Ngụy tướng phong ư Đoạn Can. Tông tử Chú. Chú tử Cung. Cung huyền tôn Giả. Giả sĩ ư Hán Văn đế. Nhi Giả tử Giải vi Giao Tây vương Ấn thái phó, nhân gia ư Tề yên.
Thế chi học Lão Tử giả tắc chuyết Nho học. Nho học tắc chuyết Lão tử. Đạo bất đồng bất tương vi mưu. Khởi vị thị da? Lão Tử vô vi tự hóa, thanh tĩnh tự chính.
II. Lược sử Lão Tử theo Lão Tử Minh 老 子 銘 (Bia khắc chuyện Lão Tử)
☸ Nguyên văn chữ Hán:
第 一 段
老 子 姓 李 字 伯 陽 楚 相 縣 人 也. 春 秋 之 後 周 分 為 二 稱 東 西 君 晉 六 卿
專 征 與 齊 楚 並 僭 號 為 王 以 大 并 小 相 縣 虛 荒 今 屬 苦. 故 城 猶 在 在 賴
鄉 之 東 渦 水 處 其 陽 其 土 地 鬱 螉 高 敝 宜 生 有 德 君 子 焉. 老 子 為 周 藏
室 史.當 幽 王 時 三 川 實 震 以 夏 殷 之 季, 陰 陽 之 事 鑒 喻 時 王 孔 子 以 周
靈 王 廿 (混 元 作 二 十 一 ) 年 生. 至 景 王 十 年 年 十 有 七 學 禮 於 老 聃 計
其 年 紀 聃 時 以 一 百 餘 歲 聃 然 老 耄 也. 孔 子 卒 後 百 廿 九 年 或 謂 周 太
史 為 老 子 莫 知 其 所 終
第 二 段
其 二 篇 書 稱 天 地 所 以 能 長 且 久 者 以 不 自 生 也 厥 初 生 民 遺 體 相 續
其 死 生 之 義 可 知 也 或 有 谷 神 不 死 是 謂 玄 牝 之 言 由 是 世 之 好 道 者
觸 類 而 長 之 與 老 子 離 合 於 混 沌 之 氣 與 三 光 為 終 始 觀 天 作 讖 降 升
斗 星 隨 日 九 變 與 時 消 息 規 矩 三 光. 四 靈 在 旁 存 想 丹 田 太 一 紫 房 道
成 身 化 蟬 蛻 渡 世. 自 羲 農 以 來 為 聖 也 作 師 班 固 以 老 子 絕 聖 棄 智 禮
為 亂 首 與 仲 尼 道 違 述 漢 書 古 今 人 表. 檢 以 法 度 抑 而 下 之 與 楚 子 西
同 科 材 不 及 荀 卿 孟 軻. 二 者 之 論 殊 矣 所 謂 道 不 同 不 相 為 謀 也.
第 三 段
延 熹 八 年 八 月 甲 子 皇 上 尚 德 弘 道 含 閎 光 大 存 神 養 性 意 在 凌 雲 是
以 僭 心 黃 軒 同 符 高 宗 夢 見 老 子 尊 而 祀 之 于 時 陳 將 邊 韶 典 國 之 禮
材 薄 思 淺 不 能 測 度 至 人 辯 是 與 非 按 據 書 籍 以 為 老 子 生 於 周 之 末
世 玄 虛 守 靜 樂 無 名 守 不 德 危 高 官 安 下 位 遺 孔 子 以 仁 言 避 世 而 隱
居 變 易 姓 名 惟 恐 見 知 夫 日 以 幽 明 之 節 月 以 虧 盈 自 成 損 益 盛 衰 之
原 倚 伏 禍 福 之 門 天 道 惡 盈 而 好 謙 蓋 老 子 勞 不 定 國 功 不 加 民 所 以
見 隆 崇 于 今 為 時 人 所 以 享 祀 乃 昔 日 逃 祿 處 微 損 之 又 損 之 之 餘 昨
也 顯 虛 無 之 清 寂 云 先 天 地 而 生 乃 守 真 養 壽 獲 五 福 之 所 致 也 敢 演
而 明 之.
第 四 段
其 辭 曰 : 於 惟 玄 德 抱 虛 守 清 樂 居 下 位 祿 執 不 盈 為 繩 能 直 屈 之 可 縈.
三 川 之 對 舒 憤 散 逞. 陰 不 填 陽 孰 能 滯 并. 見 機 而作 需 郊 出 坰. 肥 遁 之
吉 避 世 隱 聲. 見 迫 遺 言 道 德 之 經. 譏 時 微 喻 尋 顯 推 冥. 守 一 不 失 為 天
下 正. 處 厚 不 薄 居 實 含 榮. 稽 式 為 重 金 玉 是 輕. 絕 嗜 去 欲 還 歸 嬰 兒 皓
然 歷 載 莫 知 其 情. 頗 違 法 言 先 民 之 程. 要 以 無 為. 大 化 用 成 進 退 無 恆.
錯 綜 其 貞. 以 智 為 愚 充 而 不 盈. 大 人 之 度 非 凡 所 訂. 九 等 之 敘 何 足 累
名. 同 光 日 月 合 之 五 星. 出 入 丹 爐 呼 吸 至 精. 世 不 能 原 仰 其 永 生. 天 人
秩 祭 以 昭 厥 靈. 羨 彼 延 期 勒 石 是 旌.
☸ Phiên âm:
ĐỆ NHẤT ĐOẠN
Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên. Lão Tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương. Khổng Tử dĩ Chu Linh vương trấp (Hỗn nguyên tác: nhị thập nhất) niên sinh. Chí Cảnh vương thập niên, niên thập hữu thất, học Lễ ư Lão Đam. Kế kỳ niên kỷ, Đam thời dĩ nhất bách dư tuế. Đam nhiên lão mạo dã. Khổng Tử tốt hậu bách trấp cửu niên, hoặc vị Chu thái sử vi Lão tử, mạc tri kỳ sở chung.
ĐỆ NHỊ ĐOẠN
Kỳ nhị thiên thư xưng: thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ bất tự sinh dã. Quyết sơ sinh dân, di thể tương tục, kỳ tử sinh chi nghĩa khả tri dã. Hoặc hữu Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn chi ngôn. Do thị thế chi hiếu đạo giả, xúc loại nhi trưởng chi, dĩ Lão Tử ly hợp ư hỗn độn chi khí, dữ tam quang vi chung thủy, quan thiên tác sấm, giáng thăng đẩu tinh. Tùy nhật cửu biến, dữ thời tiêu tức, qui củ tam quang. Tứ linh tại bàng, tồn tưởng đan điền. Thái nhất tử phòng, đạo thành thân hóa. Thiền thoát độ thế. Tự Hi Nông dĩ lai, vi thánh giả tác sư. Ban Cố dĩ Lão Tử tuyệt thánh khí trí lễ vi loạn thủ, dữ Trọng Ni đạo vi, thuật Hán thư cổ kim nhân biểu, kiểm dĩ pháp độ, ức nhi hạ chi, dữ Sở Tử Tây đồng khoa, tài bất cập Tuân Khanh Mạnh Kha. Nhị giả chi luận thù hĩ. Sở vị đạo bất đồng bất tương vi mưu dã.
ĐỆ TAM ĐOẠN
Diên Hi bát niên, bát nguyệt Giáp Tí, Hoàng thượng, thượng đức hoằng đạo, hàm hoằng quang đại, tồn thần dưỡng tính, ý tại lăng vân. Thị dĩ tiềm tâm Hoàng Hiên, đồng phù Cao tông, mộng kiến Lão tử, tôn nhi tự chi. Vu thời Trần tướng Biên Thiều, điển quốc chi lễ, tài bạc tư thiển, bất năng trắc độ chí nhân, biện thị dữ phi, án cứ thư tịch, dĩ vi Lão Tử sinh ư Chu chi mạt thế, huyền hư thủ tĩnh, lạc vô danh, thủ bất đức, nguy cao quan, an hạ vị.
Di Khổng Tử dĩ nhân ngôn, tị thế nhi ẩn cư. Biến dịch tính danh duy khủng kiến tri. Phù nhật dĩ u minh vi tiết, nguyệt dĩ khuy doanh tự thành, tổn ích thịnh suy chi nguyên, ỷ phục họa phúc chi môn. Thiên đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Cái Lão Tử lao bất định quốc, công bất gia dân. Sở dĩ kiến long sùng vu kim, vi thời nhân sở dĩ hưởng tự, nãi tích nhật đào lộc xử vi, tổn chi hựu tổn chi chi dư tạc dã. Hiển hư vô chi thanh tịch, vân tiên thiên địa nhi sinh, nãi thủ chân dưỡng thọ, hoạch ngũ phúc chi sở trí dã. Cảm diễn nhi minh chi.
ĐỆ TỨ ĐOẠN
Kỳ từ viết: Ư duy huyền đức bão hư thủ thanh, lạc cư hạ vị, lộc chấp bất doanh, vi thằng năng trực, khuất chi khả oanh. Tam xuyên chi đối, thư phẫn tán trình. Âm bất điền Dương, thục năng trệ tính. Kiến cơ nhi tác, nhu giao xuất quynh. Phì độn chi cát tị thế ẩn thanh. Kiến bách di ngôn, đạo đức chi kinh. Ky thì vi dụ, tầm hiển suy minh. Thủ nhất bất thất, vi thiên hạ chính. Xử hậu bất bạc, cư thật hàm vinh. Kê thức vi trọng, kim ngọc thị khinh. Tuyệt thị khứ dục, hoàn qui anh nhi. Hạo nhiên lịch tải mạc tri kỳ tình. Phả vi pháp ngôn, tiên dân chi trình. Yêu dĩ vô vi. Đại hóa dụng thành, tiến thoái vô hằng. Thác tống kỳ trinh. Dĩ trí vi ngu, sung nhi bất doanh. Đại nhân chi độ, phi phàm sở đính. Cửu đẳng chi tự, hà túc lụy danh. Đồng quang nhật nguyệt, hợp chi ngũ tinh. Xuất nhập đơn lô, hô hấp chí tinh. Thế bất năng nguyên, Ngưỡng kỳ vĩnh sinh. Thiên nhân trật tế, dĩ chiêu quyết linh, tiện bỉ diên kỳ, lặc thạch thị tinh.
☸ Dịch:
I. Lão Tử tính lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một cao nguyên cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức. Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua. Khổng Tử sinh năm 20 thời Linh vương. Đến năm Cảnh vương thứ mười, Khổng tử, mới 17 tuổi, đến học lễ với Lão Đam. Nếu ta tính tuổi, thì khi ấy Lão Đam đã hơn 200 tuổi. Đam nghĩa là đạo mạo, lão mạo. Có người quả quyết rằng, 129 năm sau khi đức Khổng mất Chu Thái sử Đam cũng chính là Lão tử. Nhưng không ai biết Ngài mất bao giờ.
II. Trong quyển sách chia làm hai thiên của ngài có chép: «Nếu trời đất trường cửu, chính là vì không vì mình sống.” Từ khi có loài người đến nay, thể xác nối tiếp nhau. Như vậy là biết ngài (Lão tử) nghĩ thế nào về tử sinh. Vì trong sách ngài có câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn.” cho nên những người yêu Đạo mới nhân đấy mà luận về Lão Tử như sau:
Ngài cùng với Hỗn nguyên ly hợp,
Với tam quang, ngài vượt thời gian.
Trông trời, đoán vận trần hoàn,
Bảy vì tinh đẩu, nhẹ nhàng xuống lên.
Cùng với ngày, biến thiên chín bận,
Tùy theo mùa, khi giảm khi tăng.
Tinh huy, qui củ chuẩn thằng,
Tứ linh, tứ tượng vốn hằng chầu bên.
Ngưng thần khí, đơn điền não bộ,
Cung nê hoàn mấy độ tiêu dao.
Sánh vai Thái nhất ra vào,
Đạo thành, thân thoát, từ bao độ đời.
Từ Hi, Nông, đến thời hiện tại,
Bao thánh hiền, ngài mãi là thầy...
Ban Cố [78] vì thấy Lão Tử khinh thường kiến văn, coi nghi lễ là đầu mối loạn, không cùng đường lối với đức Khổng, nên khi lập đồ biểu liệt kê nhân vật cổ kim trong Hán thư đã hạ Lão Tử xuống ngang hàng với Tử Sản nước Sở, và dưới hàng Mạnh tử, Tuân tử. Như vậy hai bên (phe của Ban Cố, phe của Lão giáo) có quan niệm khác nhau, chính là vì «khác đạo với nhau thì không cộng tác với nhau được.»
III. Năm Diên Hi thứ 8, tháng 8, ngày Giáp tý,[79] Hoàng thượng, vì chuộng đức, ước mong tiến tới chỗ tinh hoa cao đại, nên đã tồn thần dưỡng tính, để vươn lên đến chốn cửu tiêu. Chính vì thế nên Ngài đã tiềm tâm học đạo Hoàng Hiên[80] Ngài như Cao tông đã nằm mộng thấy Lão Tử nên đã tôn sùng và tế lễ Lão tử. Lúc này Biên Thiều tôi, đang làm tướng nước Trần, nên chủ sự cuộc tế lễ ở đây. Tôi tài hèn trí mọn không thấy hiểu được bậc chí nhân cũng không biết biện phân phải trái, nên chỉ dựa vào thư tịch mà chủ trương:
Đức Lão Tử sinh thời Chu mạt.
Yêu hư vô, mà bạn thanh nhàn,
Không cầu danh với thế gian,
Không ưa những thói phô phang đức tài.
Coi chức trọng là nơi nguy hiểm,
Vui sống trong chốn kém, chốn hèn,
Tặng cho đức Khổng lời khuyên,
Giã từ thế tục, lâm tuyền ẩn cư.
Thay họ mạc cũng như danh tánh,
Sợ đời hay, nên lánh chuyện đời.
Vừng dương sáng tối lần hồi,
Vầng trăng tròn khuyết đầy vơi tương tùy.
Thêm với bớt thịnh suy ấy gốc,
Và trên đời họa phúc theo nhau,
Trời kia nào thích đầy đâu,
Mà thương những kẻ gót đầu khiêm cung.
Theo Lão tử, lao lung vất vả,
Định giang sơn mấy nả mà mong?
Vì dân xin chớ kể công,
Công lênh rôt cuộc cũng không ích gì.
Ngài nay được tôn suy, sùng thượng,
Chính vì xưa chẳng tưởng công danh,
Một ngày một giảm công trình,
Sống trong hư tĩnh, siêu linh tuyệt vời.
Rằng ngài trước đất trời sinh xuất,
Chính vì ngài chẳng mất lòng son,
Thiên chân giữ được vẹn tròn,
Cho nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.
Nên tôi mạn mà ghi tiếp tục:
Đức độ ngài rất mực cao siêu,
Hư không, thanh tĩnh đến điều,
Ưa nơi thấp kém, chê chiều quang hoa.
Giây khi thẳng, thời đà thẳng dẵng,
Nhưng đem khoanh cũng chẳng ngại cong,
Trời làm chấn động ba sông,
Can vua, vả khiến cho lòng dân an.
Nếu Âm chẳng lăng loàn lấn át,
Át Dương kia, tan tác sao sinh?
Cơ suy vừa lộ mối manh,
Thời đà rũ áo, ẩn mình từ đây.
Người nài nỉ: ra tay sáng tạo,
Đạo đức kinh di cảo dạy đời.
Nhẹ nhàng chỉ trích đương thời,
Đem điều sáng sủa soi nơi mịt mùng.
Cùng Thái nhất thủy chung bầu bạn,
Treo cho đời gương sáng chính trung.
Dặn dầy, chân thực thời ưng,
Mỏng manh hào nháng thời không ngó ngàng.
Ưa cốt cách, bạc vàng rẻ rúng.
Bao dục tình chặn đứng mới nghe.
Trở về trạng thái Anh nhi,
Mái sương vượt quá hạn kỳ trần gian.
Hành tung ngài, khó toan, khó luận,
Luật gian trần chẳng bận niềm riêng,
Khinh phiêu phơi phới tự nhiên,
Vô vi, vô dục biến thiên mặc tình.
Tiến hay thoái phiêu linh tùy tiện,
Tùy thời cơ thiên biến vạn năng.
Xá chi kiến thức gian trần,
Dẫu đầy mà vẫn ngỡ rằng còn vơi.
Bậc đại nhân siêu thời xuất thế,
Kẻ phàm phu, hồ dễ mà hay.
Uổng công xếp hạng nọ này,
Miệng phàm hồ dễ xấu lây danh người.
Cùng nhật nguyệt chói ngời sáng láng,
Cùng ngũ tinh chiếu rạng quang huy.
Vào ra nơi chốn đan trì,
Huỳnh đình lên xuống muôn bề khinh phiêu.
Cùng lưu tục chẳng điều quyến luyến,
Dấu phong quang làm biến hình hài.
Chắt chiu ôm ấp tính trời,
Muôn nghìn biến hóa theo đòi thần minh.
Hô hấp khí khinh thanh thuần túy,
Trong trần hoàn hồ dễ ai hay,
Vĩnh sinh ấy chính là ngài,
Đời rằng ngài với đất trời trường sinh.
Vua tế tự linh đình bày biện,
Để oai ngài trình hiện muôn nơi,
Tôi nay muốn để tiếng Người.
Cho nên ghi tạc những lời ngợi khen.
III. Tiểu sử đức Lão Tử theo LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH [81]
LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH 老 子 變 化 經
☸ Nguyên văn chữ Hán:
立 大 始 端 行 乎 大 之 原 浮 熬 幽 靈 空 之 入 窈冥 之 先 門 親 乎 皆 誌 之 未 別 和 清
濁 之 外 彷 彿 之 與 切 古 慌 忽 之 廓 然 衝 撞 而 之 容 [?] 同 門 之 先 邊 印 步 宙 天
門 其 生 無 騷 獨 立 而 無 倫 行 乎 古 昔 在 天 地 之 前 乍 匿 還 歸 存 亡 則 為 先 成
則 為 人 慌 忽 天 濁 化 變 其 神 託 形 李 母 胎 中 易 身 優 命 腹 中 七 十 二 年 中, 現
楚 國 李 口 序 與 肩 頰 有 參 午 大 理 日 角 月 玄 鼻 有 雙 柱, 耳 有 三 門 足 (蹈) 二 年
(五) 手 把 天 關 其 性 無 欲 其 行 無 為 欲 天 輔 佐, 三 皇 倚 徙 觀 之 匿 見 無 常 本 皆
由 此 彌 歷 久 長 國 將 衰, 王 道 崩 毀, 則 去 楚 國, 北 之 崑 崙 以 乘 白 鹿, 訖 今 不 還
此 皆 自 然 之 至 精, 道 之 根 蒂 為 乘 之 父 母, 為 天 地 之 本 根, 為 生 梯 端 為 神 明
之 帝 君, 為 陰 陽 之 祖 首, 為 萬 物 之 魂 魄 條 暢 靈 無 造 化 應 因 挨 帝 八 極 載 地
懸 天 遊 騁 日 月, 迴 走 日 辰 呵 投 六 甲 此 乾 坤 紀 易 四 時 推 移 寒 溫 手 把 仙 錫
玉 簡 今 字 稱 以 銀 人 喜 初 鳳 頭, 絕 聖 父 制, 物 屋 命 直, 父 為 之 生 焉 老 子 能 明
能 冥, 能 亡 能 存, 能 大 能 小, 能 屈 能 申, 能 高 能 下 能 縱 能 橫, 能 反 能 覆 ; 無 所
不 施 無 所 不 能 在 火 不 燋 在 水 不 寒 ; 逢 惡 不 疾 ; 觸 禍 不 患 厭 之 不 苦, 傷 之
無 槃 長 生 不 死, 須 滅 身 形 偶 而 不 雙, 隻 而 不 奇 附 而 不 離, 莫 于 其 無 為 也 莫
能 不 隨 世 (之) 此 老 子 之 行 也 嚴 誡 眇 矣 誠 難 知 矣 老 子 既 生 九 重 之 外 形 變
化 自 然 子 知 吾 九 人 何 優 仙 夫 為 生 道, 甚 易 難 子 學 吾 生 道, 無 如 中 止, 卅 日
共 月 道 畢 滄 第 一 姓 李 名 老 字 元 陽 第 二 姓 李 名 聃 字 伯 陽 第 三 姓 李 名 中 字
伯 光 第 四 姓 李 名 石 字 子 光 第 五 姓 李 名 石 字 子 文 第 六 姓 李 名 宅 字 子 長
第 七 姓 李 名 元 字 子 始 第 八 姓 李 名 願 字 子 生 第 九 姓 李 名 德 字 伯 文 老 子
合 元 沰 元 混 成 隨 世 沉 浮 退 則 養 精 進 帝 王 師 皇 苞 羲 時 號 曰 溫 爽 子 皇 神 農
時 號 曰 春 成 子, 一 名 陳 豫 皇 祝 融 時 號 曰 廣 成 子 帝 顓 頊 時 號 曰 赤 精 子 帝 嚳
時 號 曰 真 子 名 黃 帝 時 號 曰 天 老 帝 堯 時 號 曰 茂 成 子 帝 舜 時 號 曰 廓 叔 子 化
形 舜 立 壇 春 秋 祭 祀 之 夏 禹 時 老 子 出 號 曰 李 耳, 一 名 禹 師 殷 湯 時 號 曰 斯 宮
周 父 皇 時 號 曰 先 王 國 柱 下 吏 武 王 時 號 曰 衛 成 子 成 王 時 號 曰 成 子 如 故 元
康 五 年 老 子 入 婦 女 腹 中 七 十 二 年 生 託 母 姓 名 聃 字 伯 陽, 為 柱 下 吏 七 百 年
還 變 楚 國 而 平 王 高 蹇 不 從 諫 道 德 不 流 則 去 楚 而 西 度 咸 谷 關 以 五 千 文 上
下 二 篇 授 關 長 尹 喜 秦 時 號 曰 蹇 叔 子 大 胡 時 號 曰 浮 慶 君 漢 時 號 王 方 平 陽
加 元 年 始 見 城 都 為 鶣 爵 鳴 山 建 康 元 年 化 於 白 鹿 山 託 澗 太 初 元 年 復 出 白
鹿 廟 中 治 崔 號 曰 仲 伊 建 和 二 年 於 崩 山 卒 出 城 都 左 里 城 門, 壞 身 形 為 真 人
漢 知 之 改 為 照 陽 門 楚 國 知 之 生 司 馬 照 永 壽 元 年 復 還 白 鹿 山, 號 曰 僕 人
大 賢 問 閉 口 不 言, 卅 年 建 廟 白 鹿 為 天 傅 老 子 曰 : 吾 敖 以 清 吾 事 以 明, 吾 證
以 成 吾 變 易 身 形 託 死 更 生, 周 流 四 海 時 出 黃 庭 經 歷 渡 踐 履 三 皇 戴 冒 三 台,
被 服 無 形 愚 者 不 知 死 復 更 生 儽 至 為 身 僮 兒 為 群 外 為 亡 僕, 內 自 為 真 自 屋
俱 澋, 自 有 精 神 晝 夜 念 我, 吾 不 忽 云 味 夢 想 吾, 我 自 見 信 吾 發 動 官 漢 令 自
易 身 愚 者 踊 躍, 智 者 受 訓 天 地 事 絕, 吾 自 移 運 當 世 之 時, 簡 擇 良 民, 不 須 自
去, 端 質 守 身 吾 自 知 之 翁 養 文 鱗 欲 知 吾 處, 讀 五 千 文 過 萬 變 首 自 知 身 急 來
詣 我 吾 與 精 神 子 當 念 父, 父 當 念 子 怡 忽 想 忘 去 之 萬 里, 所 治 解 怠, 神 不 為
使, 疾 來 遂 我 我 絕 綱 紀 青 白 為 表, 黃 黑 為 裡 赤 為 生 我, 從 一 而 始, 中 有 黃 氣,
可 絕 酒, 教 子 為 道, 先 當 修 己, 恬 泊 靜 寧 (穿), 撿 其 滿 手, 無 為 無 欲, 不 憂 患 谷
(苦), 道 來 附, 身 可 度 矣 精 思 放 我 神 為 走 使 吾 衡 剛, 吾 更 勝 負 生 氣 在 左, 原 氣
在 右 中 有 黃 氣 元 陽 為 上, 通 無 極 九 宮 僮 子 精 之, 思 之, 可 以 成 己 一 僶 道 成
教 告 諸 子 吾 六 度 太 白 橫 流, 疾 來 逐 我, 南 嶽 相 求, 可 以 度 危, 恐 子 稽 留, 立 春
癸 巳 放 縱 罪 囚 五 榖 驚 起, 人 民 有 憂, 疾 病 欲 至 餓 者 縱 橫 吾 轉 衝 撞 漢 事 吾
民 聞 之 自 有 志 棄 鄙 自 凍 無 姓 字 因 漢 自 識, 萬 民 見 端 直 實 心 乃 知 吾 事 合
知 聖 者 習 吾 意, 邪 心 狠 性 謂 我 何 人 吾 以 度 數 出 有 時 節 而 化 知 吾 者 少 非 吾
者 多 老 子 變 化 經 大 業 八 年 八 月 十 四 日, 經 生 王 儔 寫 用 紙 四 張 玄 都 玄 壇 道
士 覆 校 裝 潢 人 秘 書 省 寫.
☸ Phiên âm:
[1] Lập đại thủy đoan, hành hồ đại chi nguyên. Phù ngao u linh không chi. [2] Nhập yểu minh chi tiên môn. Thân hồ giai chí chi vị biệt.[82] Hòa thanh trọc chi ngoại.[83] [3] Phảng phất chi dữ thiết cổ hoảng hốt chi khuếch nhiên sung tràng nhi chi dung. [4] (?) đồng môn chi tiên. Biên ấn bộ trụ thiên môn. Kỳ sinh vô tao. Độc lập nhi vô luân. [5] Hành hồ cổ tích, tại thiên địa chi tiền. Sạ nặc hoàn qui tồn [6] vong tắc vi tiên, thành tắc vi nhân. Hoảng hốt thiên trọc.[84] Hóa biến kỳ thần. [7] Thác hình Lý mẫu thai trung. Dịch thân ưu mệnh. Phúc trung thất thập nhị niên trung, hiện [8] Sở quốc. Lý khẫu tự dữ [85] kiên giáp hữu tam ngọ đại lý.[86] Nhật giác, nguyệt huyền. [9] Tị hữu song trụ, nhĩ hữu tam môn; túc [87] [10] nhị niên (ngũ). Thủ bá thiên quan.[88] Kỳ tính vô dục; Kỳ hành vô vi. Dục thiên phụ. [11] tá, tam hoàng ỷ tỉ. Quan chi nặc kiến vô thường bản giai do thử. Di lịch [12] cửu trường. Quốc tương suy, vương đạo băng hủy, tắc khứ Sở quốc, bắc chi Côn lôn [13] dĩ thừa bạch lộc, cật kim bất hoàn. Thử giai tự nhiên chi chí tinh, Đạo chi [14] căn đế. Vi thặng chi phụ mẫu, vi thiên địa chi bản căn, vi sinh thê đoan [15] vi thần minh chi đế quân, vi âm dương chi tổ thủ, vi vạn vật chi hồn [16] phách. Điều sướng linh vô [89] Tạo hóa ứng nhân, sĩ đế bát cực [90] tải địa huyền thiên.[91] [17] Du sính nhật nguyệt, hồi tẩu nhật thần. Ha đầu lục giáp.[92] Thử Kiền Khôn [93] Kỷ dịch [18] tứ thời. Suy di hàn ôn. Thủ bả tiên tích [94] ngọc giản kim tự. Xưng dĩ ngân [19] nhân. Thiện sơ phụng đầu; tuyệt thánh phụ chế, vật ốc mệnh trực, phụ vi chi sinh [20] yên. Lão tử năng minh, năng minh; năng vong năng tồn, năng đại năng tiểu, năng khuất [21] năng thân; năng cao năng hạ; năng tung năng hoành; năng phản năng phúc; vô sở bất [22] thi, vô sở bất năng; tại hỏa bất tiêu; tại thủy bất hàn, phùng ác bất tật; [23] xúc họa bất hoạn. Yểm chi bất khổ,[95] thương chi vô bàn.[96] Trường sinh bất tử, tu diệt [24] thân hình. Ngẫu nhi bất song, chích nhi bất cơ. Phụ nhi bất ly mạc vu kỳ [25] vô vi dã. Mạc năng bất tùy chi.[97] Thử Lão tử chi hành dã. Nghiêm giới miểu [26] hĩ. Thành nan tri hĩ. [27] Lão tử ký sinh cửu trùng chi ngoại. Hình biến hóa tự nhiên. Tử tri ngô cửu [28] nhân hà ưu tiên. Phù vi sinh đạo, thậm dị nan. Tử học ngô sinh đạo, vô [29] như trung chỉ, trấp nhật cộng nguyệt đạo tất thương. [30] Đệ nhất tính Lý, danh Lão Đam tự Nguyên Dương. [31] Đệ nhị tính Lý, danh Đam, tự Bá Dương. [32] Đệ tam tính Lý, danh Trung, tự Bá Quang. [33] Đệ tứ tính Lý, danh Thạch, tự Tử Quang. [34] Đệ ngũ tính Lý, danh Thạch, tự Tử Văn. [35] Đệ lục tính Lý, danh Trạch, tự Tử Trường. [36] Đệ thất tính Lý, danh Nguyên, tự Tử Thủy. [37] Đệ bát tính Lý, danh Nguyện, tự Tử Sinh. [38] Đệ cửu tính Lý, danh Đức, tự Bá Văn. [39] Lão tử hợp nguyên đát, nguyên hỗn thành. Tùy thế trầm phù thoái tắc dưỡng tinh. [40] Tiên đế vương sư. [41] Hoàng Bao Hi thời, hiệu viết Ôn Sảng tử. [42] Hoàng Thần Nông thời, hiệu viết Xuân Thành tử, nhất danh Trần Dự. [43] Hoàng Chúc Dung thời, hiệu viết Quảng Thành tử. [44] Đế Chuyên Húc thời, hiệu viết Xích Tinh tử. [45] Đế Cốc thời, hiệu viết Chân tử danh Bích. [46] Hoàng đế thời, hiệu viết Thiên Lão. [47] Đế Nghiêu thời, hiệu viết Mậu Thành tử. [48] Đế Thuấn thời, hiệu viết Quách Thúc tử hóa hình. Thuấn lập đàn xuân thu tế tự [49] chi. [50] Hạ Vũ thời, Lão tử xuất, hiệu viết Lý Nhĩ, nhất danh Vũ sư. [51] Ân Thang thời, hiệu viết Tư Cung. [52] Chu phụ hoàng thời, hiệu viết tiên vương quốc trụ hạ lại. [53] Võ vương thời, hiệu viết Vệ Thành tử. [54] Thành vương thời, hiệu viết Thành tử như cố. [55] Nguyên Khang ngũ niên, Lão tử nhập phụ nữ phúc trung. Thất thập nhị niên [56] sinh. Thác mẫu tính lý danh Đam, tự Bá Dương, vi Trụ hạ lại, thất bách niên [57] hoàn biến Sở quốc, nhi Bình vương cao kiển bất tòng gián. Đạo đức bất lưu, tắc. [58] khứ Sở nhi Tây. Độ Hàm cốc quan, dĩ ngũ thiên văn dĩ thượng hạ nhị thiên, thụ [59] quan trưởng Doãn Hỉ. [60] Tần thời, hiệu viết: Kiển Thúc tử. [61] Đại Hồ thời hiệu viết Phù Khánh quân. [62] Hán thời, hiệu Vương Phương Bình. [63] Dương gia nguyên niên thủy hiện Thành Đô vi Biển Tước Minh Sơn. [64] Kiến Khang nguyên niên hóa ư Bạch Lộc sơn thác táng giản. [65] Thái sơ nguyên niên phục xuất Bạch Lộc miếu trung, trị thôi hiệu viết Trọng Y. [66] Kiến Hòa nhị niên ư Băng Sơn tốt xuất Thành Đô tả lý thành môn, hoại thân [67] hình vi chân nhân. Hán tri chi, cải vi Chiếu Dương môn. Sở quốc tri chi sinh. [68] Tư Mã Chiếu. [69] Vĩnh Thọ nguyên niên phục hoàn Bạch Lộc Sơn. Hiệu viết Bộc Nhân đại hiền. Vấn [70] bế khẩu bất ngôn, trấp niên kiến miếu Bạch Lộc, vi Thiên phó. [71] Lão tử viết: ngô ngao dĩ thanh, ngô sự dĩ minh. Ngô chính dĩ thành ngô biến [72] dịch thân hình. Thác tử cánh sinh. Chu lưu tứ hải, thời xuất Huỳnh đình. Kinh lịch [73] độ, tiễn lý Tam hoàng, đới mạo tam thai, bị phục Vô hình. Ngu giả bất tri [74] Tử phục cánh sinh. Lụy chí vi thân, đồng nhi vi quần. Ngoại vi vong bộc, nội [75] tự vi chân. Tự ốc câu cảnh, tự hữu tinh thần; trú dạ niệm ngã, ngô bất [76] hốt vân. Vị mộng tưởng ngô ngã tự kiến tín, ngô phát động quan Hán, lệnh tự [77] dịch thân. Ngu giả dũng dược trí giả thụ huấn. Thiên địa sự tuyệt, ngô tự di [78] vận. Đương thế chi thời, giản trạch lương dân, bất tu tự khứ, đoan chất thủ thân. [79] ngô tự tri chi, ông dưỡng văn lân. Dục tri ngô xứ, độc ngũ thiên văn quá. [80] vạn biến. Thủ tự tri thân. Cấp lai nghệ ngã, ngô dữ tinh thần. Tử đương niệm [81] phụ, phụ đương niệm tử, di hốt tương vong. Khứ chi vạn lý sở trị giải đãi, thần bất vi sứ; tật lai toại ngã, ngô tuyệt cương kỷ. Thanh bạch vi biểu, hoàng [83] hắc vi lý. Xích vi sinh ngã, tòng nhất nhi thủy. Trung hữu hoàng khí, khả tuyệt [84] tửu, giáo tử vi đạo, tiên đương tu kỷ, điềm bạc tĩnh ninh (xuyên), kiểm kỳ mãn thủ, [85] vô vi vô dục, bất ưu hoạn cốc (khổ) Đạo lai phụ, thân khả độ hĩ. Tinh tư [86] phóng ngã, thần vi tẩu sứ. Ngô hành cương, ngô canh thắng phụ. Sinh khí tại tả, [87] nguyên khí tại hữu, trung hữu hoàng khí Nguyên dương vi thượng, thông Vô cực cửu cung. [88] Đồng tử tinh chi, tư chi, khả dĩ thành kỷ. Nhất mẫn đạo thành, giáo cáo chư [89] tử; ngô lục độ. Thái bạch hoành lưu, tật lai trục ngã, nam nhạc tương cầu, khả [90] dĩ độ nguy. Khủng tử kê lưu, lập xuân Quí tị phóng túng tội tù, ngũ cốc [91] kinh khởi, dân nhân hữu ưu, tật bệnh dục chí. Ngạ giả tung hoành, ngô chuyển [92] xung chàng Hán sự. Ngô dân văn chi, tự hữu chí khí, bỉ tự đống vô tính [93] tự. Nhân Hán tự thức, vạn dân kiến đoan trực thực tâm, nãi tri ngô sự. [94] Hợp tri thánh giả tập ngô ý, tà tâm, ngận tính vị ngã hà nhân; ngô dĩ [95] độ số, xuất hữu thời tiết nhi hóa. Tri ngô giả thiểu, phi ngô giả đa. [96] Lão tử biến hóa kinh. [97] Đại nghiệp bát niên, bát nguyệt, thập tứ nhật, Kinh Sinh, Vương Trù tả [98] dụng chỉ tứ trương [99] Huyền đô, Huyền đàn đạo sĩ phúc hiệu. [100] Trang Hoàng nhân. [101] Bí thư tỉnh tả.
☸ Dịch nghĩa:
1. Những từ có trước đất trời,
Vui trong thái thủy tuyệt vời ngao du.
2. Thung dung từ thủa thái sơ,
Khi còn chưa có bến bờ đục trong.
4. Tịch nhiên tiêu sái, (5.) vô song,
Trước trời, trước đất thung dung vui hòa.
Hai bề ẩn, hiện lại qua,
6. Ẩn là Thái nhất, hiện ra là người.
Đục trong biến chuyển dòng đời,
Thần ngài mới mượn hình hài thế nhân.
7. Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,
Bảy hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.
8. Mượn nơi đất Sở giáng sinh,
Môi dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.
Có văn tam ngũ rõ ràng,
Hai vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;
9. Mũi hai sống, lỗ tai ba,
10. Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.
Thiên nhiên vô dục tính trời,
Vô vi ấy chính nết người ở ăn.
Giúp trời lại giúp thánh quân.
11. Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.
Đời người ẩn ước ly kỳ,
Biến thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.
12. Gặp khi vận nước nhiễu nhương,
Hôn quân vô đạo tìm đường ẩn thân,
Giã từ nước Sở, lánh trần,
Cưỡi con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,
Dặm Tần mù mịt nguồn cơn,
13. Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.
Tinh hoa trời đất gồm thâu.
14. Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.
Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,
15. Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.
Âm dương mặc sức phân phôi,
Là hồn, là phách muôn loài thụ sinh.
16. Hư vô chưởng quản mặc tình,
Biến thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.
Bao trùm khắp tám phương trời,
Đất thời lo chở, trời thời lo treo.
17. Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,
Tinh huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.
Chư thần Lục Giáp nương hơi,
Càn khôn cũng mặc ý người ruổi rong.
18. Tứ thời chuyển biến thong dong,
Hai chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.
Tiêu phù cầm gọn nơi tay,
Chữ vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.
20. Lão quân sáng tối tùy nghi
Tồn vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.
21. Khuất thân, tiến thoái mặc tình,
22. Không gì thoát khỏi uy linh của người.
Đi vào nước lửa như chơi,
Dầu lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.
23. Gặp cơn bức bách chẳng sao,
Vương thương, vết tích tơ hào chẳng khi.
Trường sinh chẳng có hạn kỳ,
24. Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.
Sánh đôi mà vẫn đơn thân,
Cô đơn mà vẫn chẳng phần lẻ loi.
Ngài luôn gần gũi con người.
25. Không ai có thể sánh tài vô vi,
Chẳng ai mà chẳng phải tùy,
Người người đều dõi bước đi của ngài.
Hành vi Lão tử để đời,
26. Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.
27. Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,
Những điều biến hóa mung lung khôn lường.
Biết ta chín kiếp nhân lương,
28. Đời ta mà biết lối đường ta hay.
29. [Không dịch] [98]
Ta là chín vị sau đây.
30-38.
Họ 姓 Tên 名 Tự 字
1. Lý 李
2. Lý 李
3. Lý 李
4. Lý 李
5. Lý 李
6. Lý 李
7. Lý 李
8. Lý 李
9. Lý 李 Lão Đam 老聃
Trung 中
Thạch 石
Thạch 石
Trạch 宅
Nguyên 元
Nguyện 願
Đức 德
Nguyên Dương 元陽
Bá Dương 伯 陽
Bá Quang 伯 光
Tử Quang 子 光
Tử Văn 子 文
Tử Trường 子 長
Tử Thủy 子 始
Tử Sinh 子 生
Bá Văn 伯 文
39. Ngài sinh cùng với Hư vô,
Tùy thời ly hợp trầm phù tiến lui.
Khi lui, nguyên thể tài bồi,
40. Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.
41. Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử, [99]
42. Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;[100]
43. Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,[101]
44. Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người.[102]
45. Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,[103]
46. Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;[104]
47. Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,[105]
48. Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài.[106]
50. Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,[107]
51. Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung.[108]
52. Đời Văn, ngài thủ thư tàng,[109]
53. Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành.[110]
54. Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,[111]
55. Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;[112]
Trong lòng mẹ bảy hai năm,
56. Ra đời mới gọi tên bằng Lý Đam.
Ngài cũng có Bá Dương là tự.
Và từng là quản thủ thư tàng;
Bảy trăm tuế nguyệt chứa chan,
57. Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.
Lại gặp khi Bình vương ngoan cố.
Đạo đức trời tới độ suy vi.
58. Ngài liền bỏ Sở ra đi,
Băng chừng tây tiến lâm ly dặm trường.
59. Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,
Đạo đức kinh ngài ký thác cho;
60. Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,[113]
61. Tên ngài Phù Khánh [114] thời Hồ nhiễu nhương.
62. Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,[115]
(Mỗi khi cần, ngài mỗi hiện ra;)
63. Năm đầu niên hiệu Dương Gia,[116]
Thành đô núi Tước hiện ra đường hoàng.
64. Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,
Đỉnh non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa.[117]
65. Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,
Nơi đền Bạch Lộc hiện ra với đời.[118]
66. Kiến Hòa vào khoảng năm 2,
Lão quân lại hiện cửa ngoài Thành đô.[119]
69. Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,
Đầu non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân.[120]
Những là lẳng lặng trầm ngâm,
Dẫu ai gạn hỏi cũng không trả lời.
70. Đời sau lập miếu thờ ngài,
Xưng ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh.[121]
71. Ngài rằng:
Ta vui trong cảnh Thái thanh,
Quang hoa xử sự, tinh thành trị dân.
72. Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,
Lấy tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.
Chu du bốn biển phiêu khinh,
Tứ thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.
Dòng đời khinh khoát vượt qua,
73. Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.
Tam thai ta đội làm khăn,
Áo ta đã được dệt bằng Hư vô.
Phàm phu sao biết được ta,
74. Tử sinh, phản phục, biết là bao phen.
Dân ta đông đảo muôn miền,
Phàm phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.
75. Quang huy thu liễm vào trong,
Tinh thần sung mãn bởi không hao gầy.
Ai về ta tưởng đêm ngày,
76. Ta luôn phù trợ phút giây chẳng rời.
Ai mà mơ đến ta hoài,
Hiển linh, ta sẽ vì người hiện ra.
Cơ đồ nhà Hán phôi pha,
77. Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.
Phàm phu nhảy nhót dể duôi,
Nhưng mà trí giả nghe lời bảo ban.
Đất trời nghiêng ngửa nguy nàn,
78. Ta bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.
Nay ta lựa chọn hiền tài,
79. Người hay người phải, ta thời nhận ra.
Những ai mà muốn tìm ta,
80. Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,
Tội khiên phải biết tự tân,
Làm người tri kỷ, tri thân mới là.
Ta đây chẳng ở đâu xa,
Thần người cùng với Thần ta khác nào.
81. Cha con tưởng nhớ gần sao,
Bằng không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.
Chớ nên biếng nhác buông tuồng,
82. Biếng lười, thần có cũng nhường như không.
Theo ta mau mắn mới mong,
Mới mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.
Trắng, xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,
83. Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.
Sinh ta, màu đỏ ấy công,
Ta sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.
84. Rượu nồng người chớ có ham,
Để ta đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.
Tu thân người phải nên lo,
Tâm thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!
85. Vô vi, vô dục thảnh thơi,
Lầm than, hoạn nạn có đời nào đâu !
Cốc thần khăng khít trước sau,
Con đường giải thoát cơ mầu là đây.
86. Lìa ta, suy tưởng dông dài,
Tâm thần lạc lõng, càng ngày càng mê.
Cương nhu cân nhắc mọi bề,
Hai chiều thành bại, đi về do ta.
Tả biên sinh khí mới là,
87. Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.
Giữa là Hoàng khí mung lung,
Nguyên dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.
88. Khuyên chư đồng tử sớm chiều,
Tiềm tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.
89. Ta đà căn dặn từ lâu,
Kim tinh lệch lạc thì cầu tới ta.
Mau mau rong ruổi mới là,
90. Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.
Chớ đừng bịn rịn tơ vương,
Xuân ngày Quí tỵ nên thương thả tù.
91. Đâu đâu dân cũng âu lo,
Bệnh tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.
Ta nay hoán cải mối giường,
92. Cơ đồ nhà Hán tan hoang từ rày.
Dân ta đã biết, đã hay,
Tránh điều vạ gió, tai bay sá nào.
93. Những người thành khẩn thanh cao,
Việc ta thông tỏ tơ hào khó chi.
94. Ý ta hiền thánh minh tri,
Phàm phu nào biết vân vi gót đầu.
95. Bao lần giáng thế trước sau,
Theo dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.
Hiểu ta hỏi mấy thánh hiền,
Chê ta, vô số phàm hèn bấy nay.
*
**
CHÚ THÍCH
[1] Bài thuyết trình tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Việt Nam, nhân ngày lễ vía đức Thái Thượng Đạo Tổ, Rằm tháng 2 năm Đinh Tị (03-04-1977)
[2] Năm 1941, ông M.H. Dubs dựa vào Sử ký Tư Mã Thiên và Chiến Quốc Sách để quyết đoán như vậy. Lý do là vì Sử ký Tư Mã Thiên có ghi: Con đức Lão Tử tên là Tông, làm tướng nước Ngụy ở Đoạn Can. Mặt khác Chiến Quốc Sách ghi là Sùng đã ký hòa ước với Tấn năm 273 tcn. Như vậy thì Lão Tử phải sống vào khoảng năm 300. (Xem Anna K. Seidel, La divinisation de Lao-tseu dans le Taoisme des Han, tr. 11).
[3] Le «Fou tsou t’ong tsai» K. IV, p.22. Cette ouvrage donne les dates suivants: L’entrevue de Confucius et de Lao-tse Lao Tan 老 聃 à la cour des Tcheou 周, et lieu là 19è année de King Wang 景 王, l’année I hai 乙 亥 526 avant J.C. Confucius avait alors 26 ans, et Lao Tan avait 79 ans accomplis. Lao Tse mourur 5 ans après, c’est à dire l’année Ki mao 己 卯, 522 à l’âge de 84 ans. D’après les documents des ouvrages Taoistes, l’entrevue de Confucius et de Lao Tse aurait lieu en 503. S’il est vrai qu’il soit mort en sa 84è année, il aurait donc vécu de 584 à 500. Confucius aurait eu 48 ans lors de l’entrevue. Cette date paraýt vraisemblable. (xem Henri Doré, Variété sinologique, no 66 Lao -tse et le Taoisme, A. Chap. II, art 110 –bản đánh máy của Ngọc Huệ Chơn, tr. 58).
[4] Xem Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Trang, Thân Hàn liệt truyện.
[5] Tam hiệu tuy thù, bản đồng nhất dã (LéonWieger, Taoisme, Tome I, p. 20).
[6] Henri Maspero dịch đoạn trên của Thăng Huyền kinh như sau: «L’immortel Teou Tseu Minh (Đậu Tử Minh) demanda: «Bien que j’observe respectueusement la pratique de «garder» les Trois Uns, je n’ai jamais pu comprendre. Je souhaite que vous me l’expliquiez, pour que désormais je l’étudie et puisse connaýtre l’essentiel. Le maýtre de la Loi dit: Les Trois Uns c’est juste Un seulement. (C’es parce que) dans les trois lieux différents où il réside) on lui donne des noms (différents) qu’on appelle les Trois Uns.» (Henri Maspéro, Le Taoisme, p. 140).
[7] Tử Hà sinh khoảng năm 1956, tức là năm Vạn Lịch thứ 27 đời vua Thần Tông nhà Minh.
[8] Tính Mệnh Khuê chỉ, các tr. 8b và 9a, Q.Hanh, nơi chương: An thần tổ khiếu, hấp tụ Tiên thiên.
[9] Huỳnh Đình nội cảnh, Tử Hà chú, Ch.I, tr. 2a.
[10] Quand je pense à l’Etre suprême comme inactif, ne créant pas, ne conservant pas, je l’appelle Brahman ou Puru sha, Dieu impersonnel. Quand je pense à lui comme actif, créant conservant, de truisant, je l’applle Cakti, ou Maya, ou Prakriti, Dieu Bersonnel, Mais la distinction entre eux ne comporte aucune différence. L’impersonnel et le personne sont le même Etre. Tel le lait et sa blancheur; tel le diamant et son éclat; tel le serpent et sa reptation. On ne peut penser à l’un sans l’autre. La mère divine et Brahman sont Un. (Xem Romain Rolland, la Vie de Ramakrishna, Paris 1952, p. 73).
[11] Tôi nghĩ rằng Kinh Tiên Giáo chí tâm qui mạng lễ, mà tín hữu Cao Đài thường trì tụng mỗi ngày, đã được đức Ngọc Lịch Nguyệt, Vĩnh Nguyên tự, phỏng theo bản chính kinh: Chí tâm qui mạng lễ trong bộ Huỳnh Đình nội cảnh, do Tử Hà chú và in năm Dân quốc thứ 5, tức năm Bính Thìn (1916), 10 năm trước khi Cao Đài giáo ra đời. (Hiện bản kinh chữ Hán này Tam Tông miếu có). Khảo 2 bản kinh, ta thấy có chỗ giống, chỗ khác, tỏ ra là đức Ngọc Lịch Nguyệt chỉ dựa đại khái vào chính bản để soạn ra bản kinh mới.
- Bản kinh cũ chẳng hạn ghi: Thiên thiên hóa khí, Thái Thượng Lão quân. Bản kinh mới ghi: Tiên thiên khí hóa, Thái Thượng Đạo quân.
- Bản kinh cũ ghi: Tử khí Đông Lai, truyền Đạo Đức ư Quan Doãn. Bản kinh mới ghi: Tử khí Đông Lai, quảng truyền Đạo Đức (xem Huỳnh Đình nội cảnh, Tử Hà chú, tr. 2a, 2b).
- Bản kinh cũ chẳng hạn ghi: Thiên thiên hóa khí, Thái Thượng Lão quân. Bản kinh mới ghi: Tiên thiên khí hóa, Thái Thượng Đạo quân.
- Bản kinh cũ ghi: Tử khí Đông Lai, truyền Đạo Đức ư Quan Doãn. Bản kinh mới ghi: Tử khí Đông Lai, quảng truyền Đạo Đức (xem Huỳnh Đình nội cảnh, Tử Hà chú, tr. 2a, 2b).
[12] Xem: Kinh Thiên đạo, thế đạo, 1952, tr.21, 22.
Huệ Lương, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Sài Gòn 1963, tr. 67, 68.
Huệ Lương, Tiểu sử Ngũ giáo Thánh nhân Tam trấn, 1964, tr. 23, 24.
[13] «Yuen Che T’ien-tsuen 元 始 天 尊 expliquant le Grand Véhicule taoiste devant l’assemblée des génies, raconte comme il suit l’origine des êtres. Yuen Che T’ien-tsuen, l’Être, sans origine, produisit de son souffle les Trois Pur San Ts’ing 三 清 et touts les génies.» (Xem Henri Doré, Varitétés sinologiques, No 66, Lao-Tse et le Taoism, B. – Chap. II: La cosmogonie Taoiste. – Bản đánh máy chép lại, sách nầy của Ngọc Huệ Chơn)
[14] Tam Thanh giả, Nhất Khí sở hóa giả dã, Phân Tam Thiên, Tam Cảnh, Tam Bửu, Tam Nguyên, Tam quân: - Ngọc Thanh Thánh Cảnh, Nguyên Thủy Thiên Bảo quân. - Thượng Thanh Chân Cảnh, Ngọc Thần Linh Bảo quân. - Thái Thanh Tiên Cảnh, Đạo Đức Thần Bảo quân. Cửu thiên sinh thần khí kinh vân: «Tam hiệu tuy thù, bản đồng nhất dã.” Đỗng chương vân: «Lão quân nhất khí hóa Tam Thanh. Hựu Thái Thượng Đỗng Huyền vô lượng độ nhân thượng phẩm diệu kinh vân: Hóa sinh chư thiên, khai minh Tam Cảnh, Thượng vô phục tổ, duy Đạo vi thân… Phù Lão quân giả, Đạo khí chi tổ, vạn hóa chi tông… 三 清 者.一 氣 所 化 者 也.分 三 天,三 境,三 寶,三 元,三 君 玉 清 聖 境,元 始 天 寶 君,上 清 真 境.玉 宸 靈 寶 君 太 清 仙 境.道 德 神 寶 君.九 天 生 神 氣 經 云 :三 號 雖 殊 本 同 一 也 洞 章 云 :老 君 一 氣 化 三 清 又 太 上 洞 玄 無 量 度 人 上 品 妙 經 云 :化 生 諸 天.開 明 三 境 上 無 復 祖,惟 道 為 身 夫 老 君 者,道 氣 之 祖,萬 化 之 宗 (Xem Huỳnh Đình nội cảnh, Tử Hà chú, tr. 1b và 2a)
[15] Đàn cơ ngày 7 Avril 1926 tại Vĩnh Nguyên Tự. Xem Thánh Ngôn hiệp tuyển bổn thứ nhất, Sài Gòn 1964, tr. 9. Xem thêm Đại Thừa Chân Giáo (Thượng Thừa chân pháp), tr. 33, 38, 39.
[16] Xem sách trích dẫn, tr. 70.
[17] Xem sách trích dẫn, tr. 25.
[18] Henri Doré, Variété sinologique, No 66, Lao-tse et le Taoisme, 1938, Chap.11 Lao-tse après Confucius. – Livre dactylographié p. 58.
[19] Henri Doré, Variété sinologique, No 66, Lao-tse Tome XVIII, A. Chap. 11, Art. 2, A quelle époque vécut Lao-tse (xem bản Lao-tse et le Taoisme, bản đánh máy của Ngọc Huệ Chơn, tr. 57) Thực ra năm 1316, năm 9 Vũ Đinh là năm Ất Sửu.
[20] Thực ra năm thứ 34 đời Vũ Đinh là năm Canh Dần. (Xem sách của Henri Doré, chương đoạn như trên, và bản đánh máy của Ngọc Huệ Chơn tr. 57).
[21] Như trên, các chương, đoạn và trang 57.
[22] Sách trích dẫn như trên, các chương đoạn như trên.
[23] Năm ấy đức Khổng mới 26 tuổi. Xem Henri Doré, Lao-tse et le Taoisme, A. Chap. 11, Art. 2. tr.58.
[24] Xem Nguyễn Văn Thọ, Chân Dung Khổng tử, tr. 41. Năm ấy đức Khổng 34 tuổi.
[25] Năm ấy đức Khổng đã 48 tuổi như vậy không đúng. Xem Henri Doré, Lao-tse et le Taoisme, A. Chap. 11, Art. 2. Xem Lao-tse et le Taoisme, bản đánh máy của Ngọc Huệ Chơn, tr. 58.
[26] Lao-Tseu transforma son corps. Son oeil gauche devint le soleil, son oeil droit devint la lune; sa tête devint le mont Kunlun, sa barbe devint les planètes et les mansions; ses os devinrent les dragons; sa chair devint les quadrupèdes; ses intestins devinrent les serpents; son ventre devint la mer; ses doigts devinrent les Cinq Pics, ses poils devinrent les arbres et les herbes; son cœur devint (la constellation du) Dais-Fleuri et ses deux reins, s’unissant, devinrent le Père et Mère du Réel ou Zhenyao fumu (Chân yếu phụ mẫu). - (Henri Maspéro, le Taoisme, p.108).
[27] Trong khi tôi viết bài nầy, tôi cũng đã tham khảo ý kiến những giáo hữu Cao đài mà tôi quen biết, để xem quan điểm của các vị về đức Lão Tử ra sao. Tôi ghi nhận mấy ý kiến sau đây:
A. Về đức Thái Thượng:
1. Đức Thái Thượng Lão Quân là Thượng Đế.
2. Đức Thái Thượng Lão Quân là ai, không dám quyết.
3. Có thể Ngài là Đức Hồng Quân Lão Tổ. (Xem Thượng thừa Chân Pháp, tr.245)
4. Có thể Ngài là đức Đông Phương Chưởng Quản vì đức Đông Phương Chưởng Quản chuyên dạy Pháp cho Cao Đài.
B. Về đức Lão:
1. Ngài là đức Thái Thượng Lão Quân giáng trần.
2. Ngài là phân tính của đức Thái Thượng Lão Quân giáng trần.
3. Ngài là phân tính của Thượng Đế giáng trần.
4. Ngài là sứ giả của Thượng Đế.
Vấn đề này cần được khai thác sâu rộng thêm.
[28] Có tiểu sử khác đọc là Lại 賴.
[29] Có sách cho rằng Khổ huyện trước thuộc nước Trần, sau mới thuộc nước Sở.
[30] Trong Lễ ký 禮 記 nơi thiên Tăng tử vấn 曾 子 問 có ghi nhận Lão tử đã dạy Khổng tử về tang lễ, táng lễ (xem Couvreur, Li Ki, t. 1, pp. 434-435, 457-459, 460, 461, 463). Trong Không tử gia ngữ 孔 子 家 語, chương 3, tr. 1a, đức Khổng nhận đức Lão tử đã dạy ngài về nguồn gốc lễ, nhạc.
[31] Tư Mã Thiên coi Lão tử là một ẩn sĩ, là một hiền triết. Đúng với luận điệu của một sử gia ông không quyết Lão tử đã sống lâu, mà chỉ nói «Có người cho rằng Lão tử biết cách tu dưỡng nên đã thọ 160 hay 200 tuổi.» Tư Mã Thiên kể con cháu của Lão tử cho đến mãi đời ông (Tư Mã Thiên sống khoảng 145 đến 86 tcn) để tỏ ra ông viết chính xác.
[32] Bia này do Biên Thiều 邊 韶, quan cai xứ Trần 陳 khắc ngày Giáp tí năm Diên Hi 延 熹 thứ 8 (24.9.165) đời vua Hán Hoàn đế 漢 桓 帝 (147-168) và được dựng tại đền thờ Lão Tử, tại Khổ huyện. Có thể chia Lão Tử minh thành bốn phần:
1. Đời sống gian trần của Lão Tử
2. Tín ngưỡng của những người theo đạo Lão. Họ coi:
– Lão Tử là Thượng đế có trước đất trời.
– Lão Tử là chẩn nhân đắc đạo.
– Lão Tử đem đạo dạy người.
3. Trong trường hợp nào đã khắc bia này
4. Bi ký thực sự.
Ghi chú : Ta thấy văn chương của bi ký này lắm đoạn rất tầm thường.
[33] Thời Phục Hi 伏 羲 ngài tên Ôn Sảng tử 溫 爽 子.
[34] Thời Thần Nông 神 農, ngài tên Xuân Thành tử 春 成 子 hay Trần Dự 陳 豫.
[35] Thời Chúc Dung 祝 融, ngài tên Quảng Thành tử 廣 成 子.
[36] Thời Chuyên Húc 顓 頊, ngài tên Xích Tinh tử 赤 精 子.
[37] Thời Đế Cốc 帝 嚳, ngài tên Chân tử 真 子.
[38] Thời Hoàng đế 黃 帝, ngài tên Thiên Lão 天 老.
[39] Thời Nghiêu 堯, ngài tên Mậu Thành tử 茂 成 子.
[40] Thời Thuấn 舜, ngài tên Khoách Thúc tử 廓 叔 子.
[41] Thời vua Vũ 禹 nhà Hạ 夏, ngài tên Lý Nhĩ 李 耳.
[42] Thời vua Thang 湯 nhà Ân 殷, ngài tên Tư Cung 斯 宮.
[43] Thời vua Văn 文 nhà Chu 周, ngài giữ chức «Tiên vương quốc trụ hạ sử.» 先 王 國 柱 下 吏.
[44] Đời Võ vương 武 王, ngài tên Vệ Thành tử 衛 成 子.
[45] Đời Thành vương 成 王, ngài tên Thành tử 成 子.
[46] Năm Nguyên Khang 元 康 thứ 5 (đời Khang Vương năm 1075).
[47] Thời Tần 秦, tên ngài là Kiển Thúc tử 蹇 叔 子.
[48] Thời Đại Hồ 大 胡, tên ngài là Phù Khánh quân 浮 慶 君.
[49] Thời Hán, tên ngài Vương Phương Bình 王 方 平.
[50] Năm Dương Gia 陽 加 thứ 4 (132 công nguyên) ngài hiện ra ở Thành Đô 成 都, trên núi Biển Tước Minh 鶣 爵 鳴 山.
[51] Năm Kiến Khang nguyên niên 建 康 元 年 (144 công nguyên) ngài biến hóa trên núi Bạch Lộc 白 鹿.
[52] Năm Thái Sơ nguyên niên 太 初 元 年 (146 công nguyên) ngài hiện ra ở đền Bạch Lộc, tên ngài là Trọng Y 仲 伊.
[53] Năm Kiến Hòa 建 和 thứ 2 (148 công nguyên) ngài hiện ra nơi cửa đông Thành đô 城 都.
[54] Năm Vĩnh Thọ nguyên niên 永 壽 元 年 (155 công nguyên) ngài hiện ra trên núi Bạch Lộc 白 鹿 xưng là Bộc Nhân đại hiền 僕 人 大 賢.
[55] Ba mươi năm sau người ta dựng miếu tại núi Bạch Lộc thờ ngài và xưng ngài là Thiên Phó.
[56] Xem phụ lục nguyên bản chữ Hán và phiên âm cuối bài này.
[57] Henri Maspéro, Le Taoisme, p.177.
[58] Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất. 天 地 與 我 並 生 而 萬 物 與 我 為 一 - Nam Hoa kinh, Ch.2, Đoạn E.
[59] Từ Viên tiên sư chân kinh, tr. 39a và 37a.
[60] Xem Marijan Molé, Les mystiques muslmans, p.70.
[61] Xem Lão Tử Đạo Đức Kinh, ch.VI. Liệt Tử, Xung Hư chân kinh, Thiên đoan chương.
[62] Xem Trang Tử Nam Hoa kinh, ch.22, tiết A. ĐĐK, ch.38.
[63] Xem Hàn Phi Tử, Thuyết lâm. Xem Trung Hoa ngũ thiên niên sử, Q.3, tr.199. Xem Lão Tử Đạo Đức Kinh, ch.36.
[64] Xem Trung Hoa ngũ thiên niên sử, Q.3, tr.199 Xem James Legge, The Texts of Taoism, p.47 và tiếp theo.
[65] Luận Ngữ ,Thuật nhi VII.
[66] Tích Hoàng đế (khoảng 2600 năm tcn) thướng Nga Mi sơn kiến Thiên Chân Hoàng Nhân ư Ngọc Đường. Thỉnh vấn Chân Nhất chi đạo. Hoàng Nhân viết: Thử đạo gia chi chí trọng, kỳ kinh Thượng đế bí tại Côn Lôn ngũ thành chi nội, tàng dĩ Ngọc hàm, khắc dĩ kim trát, phong dĩ tử nê, ẩn dĩ Trung chương. Ngô văn chi kinh vân: Nhất tại Bắc cực Thái Uyên chi trung, tiền hữu Minh Đường, hậu hữu Ngọc chẩm, thượng hữu Hoa Cái hạ hữu Giáng Cung.
昔 黃 帝 上 峨 眉 山 見 天 真 皇 人 於 玉 堂. 請 問 真 一 之 道 皇 人 曰 此 道 家 之 至 重 其 經 上
帝 秘 在 崑 崙 五 城 之 內 藏 以 玉 函,刻 以 金 札 封 以 紫 泥 , 印 以 中 章 吾 聞 之 經 云 一 在 北
極 太 淵 之 中 前 有 明 堂,後 有 玉 枕 上 有 華 蓋 下 有 絳 宮. (Tính Mệnh khuê chỉ, Lợi tr.9a)
[67] Xem Liệt tử, Xung Hư Chân kinh, ch. 1.
[68] Matgioi, La Voie rationnelle, p. 19.
[69] Mạnh tử, Cáo tử, chương cú thượng, tiết 7.
[70] Henri Maspero, Le Taoisme, Tome II, p. 23.
[71] (Xem chú thích trang trước). Huyền Quan nhất khiếu ấy là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở ngay Nê Hoàn Cung, gom trọn chơn dương, chánh đạo. (Xem Huệ Lương, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ)
[72] Mạnh Tử, Tận tâm chương cú hạ, câu 21.
[73] Lý Long Uyên, Đạo Đức Kinh giảng nghĩa, Q. Hạ, ch. 48, tr.16.
[74] Tống Long Uyên, Đạo Đức Kinh giảng nghĩa, Q. Hạ, tr.19.
[75] Cái dục học giả ư thử, phản cầu chư thân nhi tự đắc chi, nhi sung kỳ bản nhiên chí thiện.
[76] Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên. 萬 物 皆 備 於 我, 反 身 而 誠, 樂 莫 大 焉. Mạnh Tử, Tận tâm chương cú thượng.
[77] Sự tích Khổng Tử tới vấn lễ Lão Tử cũng được ghi nơi: Khổng Tử thế gia 孔 子 世 家; Lễ ký Tăng Tử vấn 禮 記 曾 子 問; Trang tử Nam hoa kinh 莊 子 南 華 經, Ngoại vật thiên 外 物 篇 và Thiên vận 天 運, đoạn F; Đại Đới ký, Tăng Tử chế ngôn thượng. (Xem Tưởng Bá Tiềm, Chư tử thông khảo 諸 子 通 考, tr. 169).
[78] Ban Cố 班 固 sinh năm 32 chết năm 92 công nguyên, đời Hán Minh đế 漢 明 帝.
[79] 24 tháng 9 năm 165 công nguyên.
[80] Hoàng đế 黃 帝 (Hiên Viên).
[81] Lão tử biến hóa kinh. (Manuscrit de Touen hoang MS. Stein Londres) 2295, do Vương Trù 王 儔 chép và được một đạo sĩ ở Huyền Đô xem lại. Ngày 14 tháng 8 âm lịch, năm Đại Nghiệp thứ 8 đời Tùy Dương đế (605-618) tức là ngày 14.9.612 Công nguyên. Bản kinh này viết rất khó hiểu, nhiều khúc lại mất. Ông M. Yosioka và ông M. Obuchi có đề cập bản kinh này nhưng không sửa lại. A. K. Seidel đã lược dịch trong sách La divinisation de Lao Tseu dans le Taoisme des Han (tr. 60-73). Bản văn cũng được chụp lại nơi cuốn sách trích dẫn. Đây tôi cũng chỉ dịch thoát nghĩa đại khái mà thôi.
[82] Quan hồ hỗn hợp chi vị biệt 觀 乎 混 合 之 未 別.
[83] Khuy thanh trọc chi vị phân 窺 清 濁 之 未 分.
[84] Hoảng hốt thanh trọc 慌 忽 清 濁.
[85] Phương khẩu hậu thần 方 口 厚 唇.
[86] Kiên ngạch hữu tam ngũ đại lý 肩 額 有 三 五 大 理.
[87] Túc đạo 足 蹈.
[88] Thủ bả thập văn 手 把 十 文.
[89] Đào dã hư vô 陶 冶 虛 無.
[90] Khâm đới bát cực 衿 帶 八 極.
[91] Thiên phúc địa tải 天 覆 地 載.
[92] Hô hấp lục giáp 呼 吸 六 甲.
[93] Xá ngự Kiền Khôn 吒 御 乾 坤.
[94] Thủ bả tích trượng 手 把 錫 杖.
[95] Nguyên văn là chữ 槃.
[96] Anna K. Seidel chữa thành chữ bàn ( 疒 + 槃 ), tức là có thêm bộ «nạch» trùm lên.
[97] Nguyên văn là chữ thế 世.
[98] Câu 29 này đại khái nói: phải mất hai mươi chín ngày hay một tháng mới thực hành được «sinh đạo» 生 道 của Lão tử.
[99] Thời Phục Hi 伏 羲 ngài tên Ôn Sảng tử 溫 爽 子.
[100] Thời Thần Nông 神 農, ngài tên Xuân Thành tử 春 成 子 hay Trần Dự 陳 豫.
[101] Thời Chúc Dung 祝 融, ngài tên Quảng Thành tử 廣 成 子.
[102] Thời Chuyên Húc 顓 頊 , ngài tên Xích Tinh tử 赤 精 子.
[103] Thời Đế Cốc 帝 嚳, ngài tên Chân tử 真 子.
[104] Thời Hoàng đế 黃 帝, ngài tên Thiên Lão 天 老.
[105] Thời Nghiêu 堯, ngài tên Mậu Thành tử 茂 成 子.
[106] Thời Thuấn 舜, ngài tên Khoách Thúc tử 廓 叔 子.
[107] Thời vua Vũ 禹 nhà Hạ 夏, ngài tên Lý Nhĩ 李 耳.
[108] Thời vua Thang 湯 nhà Ân 殷, ngài tên Tư Cung 斯 宮.
[109] Thời vua Văn 文 nhà Chu 周, ngài giữ chức «Tiên vương quốc trụ hạ sử.» 先 王 國 柱 下 吏.
[110] Đời Võ vương 武 王, ngài tên Vệ Thành tử 衛 成 子.
***
***
ĐẠO ĐỨC KINH
(Chánh văn và Bản dịch)
***
A.- CHÁNH VĂN:-
老子道德經
老子道德經第一章
「道可道,非常道,名可名,非常名。無名,天地之始,有名,萬物之母
。故常無欲以觀其妙,常有欲以觀其徼,此兩者同出而異名,同謂之玄
,玄之又玄,眾妙之門。」
老子道德經第二章
「天下皆知美之為美,斯惡已。
皆知善之為善,斯不善已。
故有無相生,難易相成,長短相形,高下相傾,音聲相和,前後相隨;
是以聖人處無為之事,行不言之教,萬物作焉而不辭;
生而不有,為而不恃,功成而弗居;
夫唯弗居,是以不去。」
老子道德經第三章
「不尚賢,使民不爭;不貴難得之貨,使民不為盜;不見可欲,使民心不
亂;是以聖人之治,虛其心、實其腹、弱其志、強其骨。常使民無知無欲
,使夫智者不敢為也。為無為,則無不治。」
老子道德經第四章
「道沖而用之,或不盈。淵兮似萬物之宗;挫其銳、解其紛、和其光、同
其塵,湛兮似或存。吾不知誰之子,象帝之先。」
老子道德經第五章
「天地不仁,以萬物為芻狗;
聖人不仁,以百姓為芻狗。
天地之間,其猶橐籥乎!
虛而不屈、動而愈出,
多言數窮,不如守中。」
老子道德經第六章
「谷神不死是謂玄牝
玄牝之門是謂天地根
綿綿若存用之不勤」
老子道德經第七章
「天長地久,天地所以長且久者,
以其不自生,故能長生。
是以聖人後其身而身先,
外其身而身存。
非以其無私耶!
故能成其私。」
老子道德經第八章
「上善若水,水善利萬物而不爭,處眾人之所惡,故幾於道。
居善地,心善淵、與善仁、言善信、正善治、事善能、動善時。
夫唯不爭,故無尤」
老子道德經第九章
「持而盈之,不如其已;揣而銳之,不可長保;
金玉滿堂,莫之能守;富貴而驕,自遺其咎。
功成身退,天之道」
老子道德經第十章
「載營魄抱一,能無離乎?
專氣致柔,能嬰兒乎?
滌除玄覽,能無疵乎?
愛國治民,能無為乎?
天門開闔,能為雌乎?
明白四達,能無知乎?
生之蓄之,生而不有,為而不恃,長而不宰,
是謂玄德。
老子道德經第十一章
「三十輻,共一轂,當其無,有車之用。
埏埴以為器,當其無,有器之用。
鑿互牖以為室,當其無,有室之用。
故有之以為利,無之以為用。」
老子道德經地十二章
「五色令人目盲,
五音令人耳聾,
五味令人口爽,
馳騁田獵,令人心發狂;
難得之貨,令人行妨;
是以聖人為腹不為目;
故去彼取此。」
老子道德經第十三章
「寵辱若驚,貴大患若身。
何謂寵辱若驚?寵為上、辱為下,
得之若驚,失之若驚,是謂寵辱若驚。
何謂貴大患若身?吾所以有大患者,為吾有身。
及吾無身,吾有何患?
故貴以身為天下,若可寄天下;
愛以身為天下,若可託天下。」
老子道德經第十四章
「視之不見名曰夷,
聽之不聞名曰希,
搏之不得名曰微,
此三者不可致詰,故混而為一。
其上不皦,其下不昧,
繩繩不可名,復歸於無物。
是謂無狀之狀,無物之象,是謂惚恍。
迎之不見其首,隨之不見其後。
執古之道,以御今之有。
能知古始,是謂道紀。」
老子道德經第十五章
古之善為道者,微妙玄通,深不可識。
夫唯不可識,故強為之容。
豫兮若冬涉川,猶兮若畏四鄰,
儼兮其若客,渙兮若冰之將釋,
敦兮其若樸,曠兮其若谷,渾兮其若濁。
孰能濁以靜之徐清,孰能安以動之徐生。
保此道者不欲盈,夫唯不盈,故能蔽而新成。
《老子道德經》第十六章
致虛極,守靜篤。
萬物並作,吾以觀復。
夫物芸芸,各復歸其根,
歸根曰靜,是謂復命。
復命曰常,不知常,妄作凶。
知常容、容乃公,
公乃全,全乃天,
天乃道,道乃久,
沒身不殆。
《老子道德經》第十七章
「太上,不知有之;
其次,親而譽之;
其次,畏之;
其次,侮之;
信不足焉,有不信焉。
悠兮其貴言。
功成、事遂,
百姓皆謂:我自然。」
《老子道德經》第十八章
「大道廢,有仁義;
智慧出,有大偽;
六親不和有孝慈,
國家昏亂有忠臣。」
《老子道德經》第十九章
「絕聖棄智,民利百倍;
絕仁棄義,民復孝慈;
絕巧棄利,盜賊無有。
此三者以為文不足,
故令有所屬。
見素抱樸,
少私寡欲。」
《老子道德經》第二十章
「絕學無憂,
唯之與阿,相去幾何?
善之與惡,相去若何?
人之所畏,不可不畏。
荒兮其未央哉!
眾人熙熙,如享太牢,如春登臺。
我獨泊兮其未兆,如嬰兒之未孩。
儡儡兮若無所歸!
眾人皆有餘,而我獨若遺。
我愚人之心也哉,沌沌兮!
俗人昭昭,我獨昏昏。
俗人察察,我獨悶悶。
澹兮其若海,飂兮若無止。
眾人皆有以,而我獨頑且鄙。
我獨異於人,而貴食母。
《老子道德經》第廿一章
「孔德之容,唯道是從。
道之為物,唯恍唯惚,
惚兮恍兮,其中有象;
恍兮惚兮,其中有物。
窈兮冥兮,其中有精,
其精甚真,其中有信。
自古及今,其名不去,
以閱眾甫。
吾何以知眾甫之狀哉?以此!」
《老子道德經》第廿二章
「曲則全,枉則直,
窪則盈,敝則新,
少則得,多則惑。
是以聖人抱一為天下式,
不自見故明,
不自是故彰,
不自伐故有功,
不自矜故長。
古之所謂曲則全者,豈虛言哉?
誠全而歸之。」
《老子道德經》第廿三章
「希言自然,
故飄風不終朝,驟雨不終日。
孰為此者?天地。
天地尚不能久,而況於人乎?
故從事於道者,同於道;
德者,同於德;
失者,同於失。
同於道者,道亦樂得之;
同於德者,德亦樂得之;
同於失者,失亦樂得之。
信不足焉,有不信焉!
《老子道德經》第廿四章
「企者不立,跨者不行。
自見者不明,自是者不彰;
自伐者無功,自誇者不長。
其於道也,曰:餘食贅行。
物或惡之,故有道者不處。」
《老子道德經》第廿五章
「有物混成,先天地生。
寂兮寥兮,獨立而不改,周行而不殆,可以為天下母。
吾不知其名,字之曰道,強為之名曰大。
大曰逝,逝曰遠,遠曰反。
故道大、天大、地大、人亦大。
域中有四大,而王居其一焉!
人法地,地法天,天法道,道法自然」。
《老子道德經》第廿六章
「重為輕根,靜為躁君;
是以聖人終日行不離輜重,
雖有榮觀,燕處超然。
奈何萬乘之主,而以身輕天下?
輕則失根,躁則失君。」
《老子道德經》第廿七章
「善行無轍跡,
善言無瑕謫,
善數不用籌策,
善閉無關鍵而不可開,
善結無繩約而不可解。
是以聖人常善救人,故無棄人;
常善救物,故無棄物。 是謂襲明。
故善人者,不善人之師;
不善人者,善人之資。
不貴其師,不愛其資;
雖智大迷,是謂要妙。」
《老子道德經》第廿八章
「知其雄,守其雌,為天下谿;
為天下谿,常德不離,復歸於嬰兒。
知其白,守其黑,為天下式。
為天下式,常德不忒,復歸於無極。
知其榮,守其辱,為天下谷。
為天下谷,常德乃足,復歸於樸。
樸散則為器,聖人用之,則為官長。故大制不割。」
《老子道德經》第廿九章
「將欲取天下而為之,吾見其不得已。
天下神器,不可為也,不可執也。
為者敗之,執者失之。
故物或行或隨,或歔或吹,
或強或羸,或載或隳。
是以聖人去甚、去奢、去泰。」
《老子道德經》第三十章
「以道佐人主者,不以兵強天下;其事好還。
師之所處,荊棘生焉!
大軍之後,必有凶年。
善者果而已,不敢以取強。
果而勿矜,果而勿伐,果而勿驕。
果而不得已,果而勿強。
物壯則老,是謂不道,不道早已。」
《老子道德經》第三十一章
「夫佳兵者,不祥之器。物或惡之,故有道者不處。
君子居則貴左,用兵則貴右。
兵者,不祥之器,非君子之器。
不得已而用之,恬淡為上。
勝而不美,而美之者,是樂殺人。
夫樂殺人者,不可得志於天下。
吉事尚左,凶事尚右。偏將軍居左,上將軍居右。
言以喪禮處之,殺人眾多,以悲哀泣之。戰勝以喪禮處之。」
《老子道德經》第三十二章
「道常無名,樸,雖小,天下莫能臣也。
侯王若能守之,萬物將自賓。
天地相合,以降甘露,民莫之令而自均。
始制有名,名亦既有,夫亦將知止;知止,可以不殆。
譬道之在天下,猶川谷之與江海。」
《老子道德經》第三十三章
「知人者智,自知者明;
勝人者有力,自勝者強;
知足者富,強行者有志;
不失其所者久,死而不亡者壽。」
《老子道德經》第三十四章
「大道氾兮,其可左右。
萬物恃之而生而不辭,
功成不名有,衣養萬物而不為主。
常無欲,可名於小;
萬物歸焉而不為主,可名為大。
以其不自為大,故能成其大!」
《老子道德經》第三十五章
「執大象,下下往;
往而不害,安平泰。
樂與餌,過客止。
道之出言,淡兮其無味。
視之不足見,聽之不足聞,用之不足既。」
《老子道德經》第三十六章
「將欲歙之,必固張之;
將欲弱之,必固強之;
將欲廢之,必固舉之;
將欲奪之,必固與之;是謂微明。
柔勝剛,弱勝強。
魚不可脫於淵,國之利器,不可以示人!」
《老子道德經》第三十七章
「道常無為而無不為,
侯王若能守之,萬物將自化;
化而欲作,吾將鎮之以無名之樸。
夫亦將無欲,無欲以靜,天下將自定。」
《老子道德經》第三十八章
「上德不德,是以有德。
下德不失德,是以無德。
上德,無為而無以為;
下德,為之而有以為;
上仁為之而無以為。
上義為之而有以為。
上禮為之而莫之應,則攘臂而扔之。
故失道而後德,失德而後仁,失仁而後義,失義而後禮;
夫禮者,忠信之薄,而亂之首。
前識者,道之華,而愚之始。
是以大丈夫處其厚,不居其薄,
處其實,不居其華,故去彼取此。
《老子道德經》第三十九章
「昔之得一者:
天得一以清,地得一以寧,
神得一以靈,谷得一以盈,
萬物得一以生,侯王得一以為天下正。
其致之也,謂天無以清將恐裂,地無以寧將恐廢,
神無以靈將恐歇,谷無以盈將恐竭,
萬物無以生將恐滅,侯王無以貴高將恐蹶。
故貴以賤為本,高以下為基,
是以侯王自謂孤寡不穀,此非以賤為本邪?非乎!
故致數譽無譽,不欲琭琭如玉,珞珞如石。」
《老子道德經》第四O章
「反者,道之動,
弱者,道之用,
天下萬物生於有,
有生於無。」
《老子道德經》第四十一章
「上士聞道,勤而行之;
中士聞道,若存若亡;
下士聞道,大笑之,不笑不足以為道。
故建言有之,明道若昧,進道若退,
夷道若纇,上德若谷,
大白若辱,廣德若不足,
建德若偷,質真若窬,
大方無隅,大器晚(免)成,
大音希聲,大象無形
道隱無名,夫唯道善貸且成。」
《老子道德經》第四十二章
「道生一,一生二,二生三,三生萬物;
萬物負陰而抱陽,沖氣以為和。
人之所惡,唯孤寡不穀,而王公以為稱;
故物或損之而益,或益之而損;
人之所教,我亦教之。
強梁者不得其死,吾將以為教父。」
《老子道德經》第四十三章
「天下之至柔,馳騁天下之至堅。
無有入無間, 吾是以知無為之有益。
不言之教,無為之益,天下希及之。」
《老子道德經》第四十四章
「名與身孰親?
身與貨孰多?
得與亡孰病?
是故甚愛必大費,
多藏必厚亡。
知足不辱,知止不殆,可以長久!」
《老子道德經》第四十五章
「大成若缺,其用不弊;
大盈若沖,其用不窮;
大直若屈,大巧若辯,
躁勝寒,靜勝熱,
清靜為天下正。」
《老子道德經》第四十六章
「天下有道,卻走馬以糞;
天下無道,戎馬生於郊;
禍莫大於不知足,咎莫大於欲得;
故知足之足,常足矣!」
《老子道德經》第四十七章
「不出戶,知天下;
不窺牖,見天道;
其出彌遠,其知彌少;
是以聖人不行而知,不見而名,不為而成。」
《老子道德經》第四十八章
「為學日益,為道日損,
損之又損,以至於無為;
無為而無不為。
取天下常以無事,
及其有事,不足以取天下。」
《老子道德經》第四十九章
「聖人常無心,以百姓心為心。
善者吾善之,不善者吾亦善之,德善。
信者吾信之,不信者吾亦信之,德信。
聖人在天下,歙歙為天下渾其心。
百姓皆注其耳目,聖人皆孩之。」
《老子道德經》第五O章
「出生入死,生之徒,十有三;
死之徒,十有三;人之生,動之死地,亦十有三。
夫何故?以其生生之厚。
蓋聞善攝生者,陸行不遇兕虎,入軍不被甲兵,
兕無所投其角,虎無所措其爪,兵無所容其刃,
夫何故?以其無死地!」
《老子道德經》第五十一章
「道生之,德蓄之,物形之,勢成之。是以萬物莫不遵道而貴德。
道之生,德之貴,夫莫之命而常自然。
故道生之,德蓄之,長之育之,亭之毒之,養之覆之。
生而弗有,為而弗恃,長而弗宰,是謂玄德。」
《老子道德經》第五十二章
「天下有始,以為天下母。
既得其母,以知其子,
既知其子,復守其母;沒身不殆。
塞其兌,閉其門,終身不勤。
開其兌,濟其事,終身不救。
見小曰明,守柔曰強,
用其光,復歸其明;
無遺身殃,是謂習常。」
《老子道德經》第五十三章
「使我介然有知,行於大道,唯施是畏。
大道甚夷,而民好徑。
朝甚除,田甚蕪,倉甚虛,
服文采,帶利劍,厭飲食,貨財有餘,
是謂盜夸,非道也哉!」
《老子道德經》第五十四章
「善建者不拔,善抱者不脫,子孫以祭祀不輟。
修之於身,其德乃真;
修之於家,其德乃餘;
修之於鄉,其德乃長;
修之於邦,其德乃豐;
修之於天下,其德乃普。
故以身觀身,以家觀家,以國觀國,以天下觀天下,
吾何以知天下之然哉,以此!」
《老子道德經》第五十五章
「含德之厚,比於赤子;
毒虫不螫,猛獸不據,攫鳥不搏;
骨弱筋柔而握固,未知牝牡之合而晙作,精之至也。
終日號而不嗄,和之至也;
知和曰常,知常曰明,
益生曰祥,物壯則老,謂之不道,不道早已!」
《老子道德經》第五十六章
「知者不言,言者不知,
塞其兌,閉其門,
挫其銳,解其紛,
和其光,同其塵。
是謂玄同。
故不可得而親,不可得而疏,
不可得而利,不可得而害,
不可得而貴,不可得而賤,
故為天下貴!」
《老子道德經》第五十七章
「以正治國,以奇用兵,以無事取天下;
吾何以知其然哉,以此!
天下多忌諱,而民彌貧;
人多利器,國家滋昏;
人多伎巧,奇物滋起;
法令溢彰,盜賊多有;
故聖人云:我無為而民自化,
我好靜而民自正,
我無事而民自富,
我無欲而民自樸!」
《老子道德經》第五十八章
「其政悶悶,其民淳淳;
其政察察,其民缺缺;
禍兮福之所倚,福兮禍之所伏;
孰知其極,其無正。
正復為奇,善復為妖。
人之迷,其日固久,
是以聖人方而不割,廉而不劌,直而不肆,光而不耀。」
《老子道德經》第五十九章
「治人事天莫若嗇,夫唯嗇是謂早服;
早服謂之重積德,重積德則無不克;
無不克則莫知其極,莫知其極可以有國;
有國之母可以長久,是謂深根固柢,長生久視之道。」
《老子道德經》第六O章
「治大國,若烹小鮮;
以道蒞天下,其鬼不神;
非其鬼不神,其神不傷人;
非其神不傷人,聖人亦不傷人;
夫兩不相傷,故德交歸焉!」
《老子道德經》第六十一章
「大國者下流,天下之交,天下之牝。
牝常以靜勝牡,以靜為下。
故大國以下小國,則取小國。
小國以下大國,則取大國。
故或下以取,或下而取。
大國不過欲兼畜人
小國不過欲入事人。
夫兩者各得其所欲,大者宜為下。」
《老子道德經》第六十二章
「道者,萬物之奧。
善人之寶,不善人之所保。
美言可以市尊,美行可以加人。
人之不善,何棄之有。
故立天子,置三公,雖有拱璧,以先駟馬,不如坐進此道。
古之所以貴此道者,何也。
不曰:求以得,有罪以免耶,故為天下貴。」
《老子道德經》第六十三章
「為無為,事無事,味無味。
大小多少,報怨以德。
圖難於其易,圖大於其細。
天下難事,必作於易。
天下大事,必作於細。
是以聖人終不為大,故能成其大。
夫輕諾必寡信,多易必多難;
是以聖人猶難之,故終無難矣!」
《老子道德經》第六十四章
「其安易持,其未兆易謀。
其脆易泮,其微易散。
為之於未有,治之於未亂。
合抱之木,生於毫末。
九層之臺,起於累土。
千里之行,始於足下。
為者敗之,執者失之。
是以聖人無為故無敗,無執故無失。
民之從事,常於幾成而敗之。
慎終如始,則無敗事。
是以聖人欲不欲,不貴難得之貨;
學不學,復眾人之所過,以輔萬物之自然而不敢為。」
《老子道德經》第六十五章
「古之善為道者,非以明民,將以愚之。
民之難治,以其智多,
故以智治國,國之賊!
不以智治國,國之福。
知此兩者,亦稽式;
常知稽式,是謂玄德。
玄德深矣遠矣!與物反矣,然後乃至大順。」
《老子道德經》第六十六章
「江海所以能為百谷王者,以其善下之,故能為百谷王。
是以欲上民必以言下之,欲先民必以身後之。
是以聖人處上而民不重,處前而民不害。
是以天下樂推而不厭,
以其不爭,故天下莫能與之爭。」
白話譯文:
「汪洋江海之所以能成為百川眾谷之王,因為它善處卑下,故能成為百川
眾谷之王。
因此,統治天下的聖人想要居於人民之上,必得以謙卑的言語來取得人民的信賴;
想要人民站出來,那麼聖人必得把自己退到後面去!
因此,聖人處在上面而人民不覺得有沉重的壓力,站在前頭領導而人民不
覺得有妨害!
這樣一來,天下人都樂意推戴他,而不會厭棄他;
這是因為聖人不與人相爭,因而天下人沒有人能與他相爭!」
《老子道德經》第六十七章
「天下皆謂我道大似不肖。
夫唯大故不肖,若肖久矣,其細也夫。
我有三寶,持而保之,一曰慈、二曰儉、三曰不敢為天下先。
慈故能勇,儉故能廣,不敢為天下先,故能成器長。
今舍慈且勇,舍儉且廣,舍後且先,死矣!
夫慈以戰則勝,以守則固,天將救之,以慈衛之。」
《老子道德經》第六十八章
「善為士者不武,
善戰者不怒,
善勝敵者不與,
善用人者為之下,
是謂不爭之德,
是謂用人之力,
是謂配天,古之極也。」
《老子道德經》第六十九章
「用兵有言曰:吾不敢為主,而為客;
吾不敢進寸而退尺,
是謂行無行,攘無臂,執無兵,扔無敵。
禍莫大於輕敵,輕敵幾喪吾寶;
故抗兵相加,哀者勝矣!」
《老子道德經》第七O章
「吾言甚易知,甚易行。
天下莫能知,莫能行。
言有宗,事有君。
夫唯無知,是以不我知。
知我者希,則我者貴;
是以聖人被褐懷玉」。
《老子道德經》第七十一章
「知不知,上;不知知,病。
夫唯病病,是以不病;
聖人不病,以其病病,是以不病。」
《老子道德經》第七十二章
「民不畏威,則大威至。
無狹其所居,無厭其所生。
夫唯不厭,是以不厭,
是以聖人自知不自見,
自愛不自貴,故去彼取此。」
《老子道德經》第七十三章
「勇於敢則殺,勇於不敢則活。
此兩者或利或害。
天之所惡,孰知其故?
是以聖人猶難之。
天之道不爭而善勝,不言而善應,不召而自來,
繟然而善謀,天網恢恢,疏而不失。」
《老子道德經》第七十四章
「民不畏死,奈何以死懼之。
若使民常畏死,而為奇者。
吾得執而殺之,孰敢!
常有司殺者殺。
夫代司殺者殺,是謂代大匠斲。
夫代大匠斲者,希有不傷其手矣!」
《老子道德經》第七十五章
「民之飢,以其上食稅之多,是以飢。
民之難治,以其上之有為,是以難治。
民之輕死,以其求生之厚,是以輕死。
夫唯無以生為者,是賢於貴生。」
《老子道德經》第七十六章
「人之生也柔弱,其死也堅強。
萬物草木之生也柔脆,其死也枯槁。
故堅強者死之徒,柔弱者生之徒。
是以兵強則不勝,木強則兵,強大處下,柔弱處上。」
《老子道德經》第七十七章
「天之道,其猶張弓與!
高者抑之,下者舉之,有餘者損之,不足者補之。
天之道,損有餘而補不足。
人之道則不然,損不足以奉有餘。
孰能有餘以奉天下?唯有道者。
是以聖人為而不恃,功成而不處,其不欲見賢。」
《老子道德經》第七十八章
「天下莫柔弱於水,
而攻堅強者莫之能勝,其無以易之。
弱之勝強,柔之勝剛,
天下莫不知、莫能行。
是以聖人云:受國之垢,是謂社稷主;
受國不祥,是為天下王。
正言若反。」
《老子道德經》第七十九章
「和大怨,必有餘怨,安可以為善;
是以聖人執左契而不責於人。
有德司契,無德司徹,天道無親,常與善人。」
《老子道德經》第八O章
「小國寡民,使有什伯之器而不用,
使民重死而不遠徙,
雖有舟輿,無所乘之;
雖有甲兵,無所陳之;
使人復結繩而用之,
甘其食、美其服、安其居、樂其俗,
鄰國相望,雞犬之聲相聞,民至老死不相往來。」
《老子道德經》第八十一章
「信言不美,美言不信;
善者不辯,辯者不善;
知者不博,博者不知;
聖人不積,既以為人己愈有,既以與人己愈多。
天之道,利而不害;
聖人之道,為而不爭。」
*作者簡介:
*林安梧
國立台灣師範大學國文學系教授、國立台灣大學哲學博士、國際儒學聯合會理事、通識教育學會理事、東方人文基金會董事;曾任清華大學通識教育中心主任、南華大學哲學所所長、《思與言》學刊主編、《鵝湖》主編暨社長,最關心的哲學論題是「人存在的異化及其歸復之道」,著有《台灣、中國:邁向世界史》、《存有、意識與實踐》、《中國宗教與意義治療》、《教育哲學講論》、《中國近現代思想觀念史論》、《當代新儒家哲學史論》、《儒學革命論:後新儒家哲學的思維向度》、《台灣文化治療:通識教育現象學引論》、《台灣解咒﹕從「主奴意識」到「公民社會」》,現正從事於「後新儒學理論的締造工作」。)
*Xem tiếp phần B : - Bản dịch
*PHẦN B
BẢN DỊCH
ĐẠO ĐỨC KINH
Lão Tử
Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là " ĐẠO " . Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.
(Ta gọi tiếng "trâu" để chỉ con trâu là do quy ước từ xưa đến nay, tiếng "trâu" không phải là tên bất biến. Nếu từ xưa ta quy ước gọi tiếng "bò" để chỉ con trâu thì ta sẽ gọi con trâu là "bò". Đạo thì không như vậy. Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu).
Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự chuyển động, bình thản vô tâm mà khéo sắp đặt mọi việc. Đạo trời không thiên vị ai, luôn giúp đỡ cho người lương thiện. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất).<câu tủ của Bao Công!>
Không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật. Đạo trời ví như cánh cửa khép mở, vạn vật từ đó đi ra rồi lại trở về đó. Đạo có tính chất trừu tượng, nó không có hình thù cụ thể, không thể nắm rõ, không sáng ở nơi rực rỡ, không mờ ở nơi tối tăm và cũng không có tiếng động. Đạo vĩnh viễn không có tên gọi. Vạn vật chuyển động theo một vòng tròn khép kín. Tất cả bắt đầu từ "có", có lại bắt đầu từ "không". Lời nói hợp đạo nghe như ngược đời.
Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả.
Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ.
Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không mắc lỗi nên không cần phải biện bạch, người nào phải biện bạch cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết [tri bất ngôn, ngôn bất tri].
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng lại. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng rắn, cáu giận là biểu hiện của chết, mềm yếu, khiêm nhường là dấu hiệu của sống. Binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì lại bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.
Mạnh về dám làm [can đảm, cương cường] thì chết, mạnh về không dám làm [thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái quả cảm, cương cường ? Danh dự với sinh mệnh, cái nào mới thật sự quý ? Người khôn ngoan không bao giờ vì trọng cái danh hão mà xem nhẹ tính mạng mình.
Lời hứa dễ dàng thì khó tin, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó. "Không" có nghĩa là "không có gì" nhưng phải "có cái gì" thì mới có cái "không có". Trong tự nhiên, ngay cả những việc khó khăn nhất cũng có thể thực hiện theo cách dễ dàng, việc lớn thành tựu từ những hành động nhỏ hơn. Người khôn ngoan đạt những thành tựu vĩ đại là nhờ biết chia nhỏ hành động của mình.
Cái gì ở yên thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình. Cây lớn sinh ra từ một cái mầm nhỏ; tháp cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân. Thường gần tới lúc thành công thì lại dễ thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.
Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách "vô vi" (taking no action), luôn giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người đắc đạo làm việc mà không tư lợi.
Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh thần bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].
Khoảng giữa trời đất như cái ống bễ lò rèn; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự yên tĩnh.
Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng cương cường.
Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước. Người chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với địch, khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Đó là cái đức của sự không tranh, đó là cái khéo của sự dùng người, đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.
Ngũ sắc làm người ta mờ mắt; ngũ âm làm người ta ù tai; ngũ vị làm người ta tê lưỡi, hưởng thụ làm cho người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta xấu xa. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.
Trời đất vĩnh cửu. Trời đất vĩnh cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Người đắc đạo đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì họ không tư lợi mà thành được việc riêng của mình ư?
Người cực khéo thì dường như vụng. Người nói giỏi thì dường như ấp úng. Cử động thì thắng được lạnh. Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật sẽ đâu vào đấy.
Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất. Người tốt thật sự không ý thức được tính thiện trong việc làm của mình, trái lại kẻ dại dột (the foolish) luôn cố gắng tỏ ra là mình tốt.
Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gợi ham muốn để lòng dân không loạn.
Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn, bọn thông minh, mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách "vô vi" thì mọi việc đều yên ổn.
Không học thì không phải lo. Đem cái hữu hạn xét cái vô hạn, há chẳng phải là ngốc lắm sao? Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, lòng "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, lòng "vô vi" càng tăng.
Con người có ba vật báu mà tôi ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.
Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn giúp ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.
Người sáng suốt nghe đạo thì cố gắng mà thi hành, người thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tối tăm nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?!
Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy.
Yếu thắng được mạnh, mềm thắng được cứng, ai cũng biết như vậy nhưng không ai thực hành được.
Vật bén nhọn thì dễ gẫy. Giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén thì lại không bén lâu. Nghèo hèn chính là gốc của giàu sang. Vàng ngọc đầy nhà [kim ngọc mãn đường], sao mà giữ nổi ? Nên biết khi nào là đủ [tri túc]. Giàu mà kiêu căng, khoe khoang là tự rước họa vào thân.
Ba mươi nan hoa cùng qui vào một cái bánh xe, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà cửa nhà mới dùng để ra vào được, nhờ có cửa sổ mà nhà không tối.
Vậy ta tưởng cái "hữu" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "vô" mới làm cho cái "hữu" có ích.
Vinh hay nhục thì lòng cũng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng rối loạn nữa ?!
Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.
Người nào giữ được đạo thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi xem xét sự vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái vô hạn.
Đứng một chân thì không thể đứng được lâu, giang chân ra thì không thể đi được, tự biểu hiện thì không bao giờ chói lọi, tự kể công thì không có công, tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường tồn. Thái độ đó được ví như thức ăn thừa, ung nhọt, người người đều ghét. Thiên bất dung gian.
Cho cái đẹp là đẹp do đó mới có cái xấu; cho cái thiện là thiện do đó mới có cái ác. Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại.
Biết người là khôn, tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Biết thế nào là đủ là người giàu; biết gắng sức là người có chí. Kẻ nào không rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ. Người hiểu đạo làm việc tuân theo quy luật tự nhiên, chỉ làm những việc cần thiết cho bản thân.
Hồn nhiên vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý. Đứa trẻ mới sinh độc trùng không chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu không vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hòa.
Tuyệt thánh, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân trở nên hiếu hòa; dứt trí khôn, bỏ lợi lộc, không còn trộm giặc.
Ba cái đó (mưu trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì chỉ là cái vẻ bên ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự đơn giản, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.
Giọng kính trọng khác với giọng xem thường bao nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Vũ trụ thật rộng lớn, không thể nào hiểu hết được.
Mọi người hớn hở như dự bữa tiệc lớn, như mùa xuân dạo chơi; bậc đắc đạo điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết gì, thản nhiên mà đi như không có nơi để về. Mọi người có thừa, riêng bậc đắc đạo như thiếu thốn, trong lòng thì trống rỗng! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng bậc đắc đạo luôn bảo thủ. Người hiểu đạo khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo).
Vạn vật tuần hoàn, trong dương có âm, âm cực dương sinh, có sinh ắt có tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở về với đạo. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được vạn vật ? Là nhờ đạo.
Có câu: "Khiêm tốn là gốc của cao quý". Người khôn ngoan giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
Có câu: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", há phải hư ngôn! Nên chân thành giữ lấy đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo.
Ít nói thì hợp với tự nhiên. Cơn gió lớn không thể thổi suốt buổi sáng, cơn mưa lớn không kéo dài suốt ngày. Ai làm ra những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống chi là con người ? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ.
Vũ khí là vật gây lo sợ, ai cũng ghét cho nên người hiểu đạo không dùng binh khí. Chỉ dùng đến nó khi bất đắc dĩ, khi bảo vệ hòa bình, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Chiến thắng mà vui mừng tức là thích giết người. Thích giết người thì không trị được thiên hạ. Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy. Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.
Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng thương tiếc mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi.
*Source:- ([url]http://thuonghylenien.com/daohoc/index.php[/url])
No comments:
Post a Comment