Friday, December 18, 2020

NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU

NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
NGHI THUC TUNG KINH VU LAN VA KINH BAO HIEU




NGHI THUC TUNG KINH VU LAN VA KINH BAO HIEU

-----------------               



NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
NGHI THỨC TỤNG

KINH VU LAN VÀ KINH BÁO HIẾU

(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài Cúng Hương)

CÚNG HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sanh

Cầu Phật từ gia hộ:

Tâm Bồ-đề kiên cố

Chí tu học vững bền

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)

KỲ NGUYỆN

Nay là ngày chư Tăng mãn hạ, đem đức lành phổ hoá chúng sanh. Chúng con một dạ chí thành, cúng dường trì tụng Hồng danh đức Ngài. Nguyện khắp cả ba ngôi Tam Bảo, Đức Bổn sư Từ phụ Thích-ca, Lạc Bang Giáo chủ Di-đà, cùng là Bồ-tát, các vị Thánh Tăng. Hiệp ba cõi mười phương Tăng chúng, mong từ bi tiếp độ hương linh. Cửu huyền Thất tổ siêu thăng, mẹ cha hiện thế phước tăng thọ trường. Khắp chúng sanh rõ đường đạo đức, thoát muội mê chứng bậc quang minh. Ngưỡng mong đức cả oai linh, từ bi thương xót chứng minh hộ trì.

NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO. (3 lần)

 (Đứng dậy cắm hương vào lư và đọc bài kệ tán thán Phật)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương Vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loại,

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận.

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo toạ thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

(Xá 1 xá rồi xướng lạy)

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp chư Tôn Bồ-tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. (1 lạy)

(Đứng hay ngồi tùy ý, vô chuông mõ và đồng tụng)

TÁN LƯ HƯƠNG

Lò hương vừa bén chiên đàn,

Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương

Hiện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiềng

Pháp thân toàn thể hiện tiền

Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ-TÁT MA-HA-TÁT. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ-TÁT. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.

Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da, ma ha tát đoả bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả.

Nam mô tất kiết lật đoả, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đoả, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra, hô lô hô lô, hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà đạ, ta bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. (3 lần)

KHAI KINH KỆ

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu.

Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu.

Con nay nghe thấy chuyên trì tụng.

Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ-TÁT. (3 lần)

PHẬT NÓI

KINH VU LAN BỒN

Ta từng nghe lời tạc như vầy:

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,

Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung,

Mục Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,

Không uống ăn tiều tuỵ hình hài,

Mục Liên thấy vậy bi ai!

Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,

Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu,

Thấy cơm, mẹ rất lo âu,

Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn.

Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,

Sợ chúng ma cướp giựt của bà,

Cơm đưa chưa đến miệng đà,

Hoá thành than lửa nuốt mà đặng đâu.

Thấy như vậy âu sầu thê thảm,

Mục Kiền Liên bi cảm xót thương,

Mau mau về đến giảng đường,

Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn.

Phật mới bảo rõ ràng căn cội.

Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu,

Dầu ông thần lực nhiệm mầu,

Một mình không thể ai cầu đặng đâu.

Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,

Tiếng vang đồn thấu đến cửu Thiên,

Cùng là các bậc Thần kỳ,

Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên vương

Cộng ba cõi sáu phương tụ tập,

Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi,

Muốn cho cứu đặng mạng người,

Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.

Pháp cứu tế Ta toan giảng nói,

Cho mọi người thoát khỏi ách nàn

Bèn kêu Mục Thị đến gần,

Truyền cho Diệu pháp ân cần thiết thi.

Rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ,

Mười phương Tăng đều dự lễ này,

Phải toan sắm sửa chớ chầy,

Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.

Lại phải sắm giường nằm nệm lót,

Cùng thau, bồn, đèn, đuốc, nhang, dầu,

Món ăn tinh sạch báu mầu,

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

Chư Đại đức mười phương thọ thực

Trong bảy đời sẽ được siêu thăng,

Lại thêm cha mẹ hiện tiền,

Đặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn.

Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ,

Dầu ở đâu cũng tụ hội về,

Như người thiền định sơn khê,

Tránh điều phiền não chăm về Thiền-na.

Hoặc người đặng bốn toà đạo quả,

Công tu hành nguyện thoả vô sanh,

Hoặc người thọ hạ kinh hành,

Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng.

Hoặc người đặng Lục thông tấn phát,

Và những hàng Duyên Giác, Thanh Văn,

Hoặc chư Bồ-tát mười phương,

Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh.

Đều trì giới rất thanh, rất tịnh,

Đạo đức dày chánh định chơn tâm,

Tất cả các bậc Thánh, phàm,

Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hoà.

Người nào có sắm ra vật thực,

Đặng cúng dường Tự tứ Tăng thời,

Hiện tiền phụ mẫu của người,

Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.

Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,

Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,

Như còn cha mẹ hiện tiền,

Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ trường;

Như cha mẹ bảy đời quá vãng,

Sẽ hoá sanh về cõi Thiên cung,

Người thời tuấn tú hình dung,

Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân,

Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng,

Phải tuân theo thể thức sau này:

Trước khi thọ thực đàn chay,

Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.

Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,

Định tâm thần quán đủ đừng quên,

Cho xong định ý hành thiền,

Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.

Khi thọ dụng, nên an vật thực,

Trước Phật đài hoặc tự tháp trung,

Chư Tăng chú nguyện viên dung,

Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,

Mục Liên cùng Bồ-tát chư Tăng

Đồng nhau tỏ dạ vui mừng,

Mục Liên cũng hết khóc than rầu buồn.

Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy,

Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan,

Mục Liên bạch với Phật rằng:

Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn.

Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo,

Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra.

Như sau đệ tử xuất gia,

Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh.

Độ cha mẹ còn đương tại thế,

Hoặc bảy đời có thể đặng không?

Phật rằng: Lời hỏi rất thông,

Ta vừa muốn nói con liền hỏi theo.

Thiện nam tử, Tỳ-kheo nam nữ,

Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần,

Tam công, Tể tướng, Bá quan,

Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần.

Như chí muốn đền ơn cha mẹ,

Hiện tại cùng thất thế tình thâm.

Đến Rằm tháng Bảy mỗi năm,

Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về.

Chính ngày ấy Phật Đà hoan hỷ,

Phải sắm sanh bá vị cơm canh,

Đựng trong bình bát tinh anh,

Chờ giờ Tự tứ chúng Tăng cúng dường.

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ,

Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi,

Cùng cầu thất thế đồng thì,

Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên,

Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp,

Lại xa lìa nạn khổ cực thân,

Môn sanh Phật tử ân cần,

Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.

Thường cầu nguyện thung huyên an hảo

Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh,

Ngày Rằm tháng Bảy mỗi năm,

Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền.

Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,

Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng,

Ấy là báo đáp thù ân,

Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu,

Đệ tử Phật lo âu gìn giữ,

Mới phải là Thích tử Thiền môn.

Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn,

Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan.

Mục Liên với bốn ban Phật tử,

Nguyện một lòng tín sự phụng hành.

Trước là trả nghĩa sanh thành,

Sau là cứu vớt, chúng sanh muôn loài.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ-TÁT. (3 lần)

PHẬT NÓI 

KINH BÁO ĐÁP CÔNG ƠN CHA MẸ

Ta từng nghe lời tạc như vầy::

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,

Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung,

Chư Tăng câu hội rất đông,

Tính ra đến số hai muôn tám ngàn,

Lại cũng có các hàng Bồ-tát,

Hội tại đây đủ mặt thường thường,

Bấy giờ, Phật lại lên đường,

Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.

Đáo bán lộ đành rành mắt thấy,

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,

Thế Tôn bèn vội đến nơi,

Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng

Đức A-nan trong lòng ái ngại,

Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương,

Vội vàng xin Phật dạy tường:

“…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài.

Ai ai cũng kính Thầy dường ấy,

Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?”

Phật rằng: Trong các môn đồ,

Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công.

Bởi chưa biết đục trong chưa rõ,

Nên vì ngươi Ta tỏ đuôi đầu:

Đống xương dồn dập bấy lâu,

Cho nên trong đó biết bao cốt hài.

Chắc cũng có ông bà cha mẹ,

Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh,

Luân hồi sanh tử, tử sanh,

Lục thân đời trước, thi hài còn đây.

Ta lễ bái kỉnh người tiền bối,

Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.

Đống xương hỗn tạp chẳng vừa,

Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.

Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ,

Phân làm hai bên nữ, bên nam,

Để cho phân biệt cốt phàm,

Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.

Đức A-nan trong lòng tha thiết,

Biết làm sao phân biệt khỏi sai,

Ngài bèn xin Phật tỏ bày,

Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.

Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt,

Cách đứng đi ăn mặc phân minh,

Chớ khi rã xác tiêu hình,

Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.

Phật mới bảo: A-nan nên biết,

Xương nữ nam phân biệt rõ ràng,

Đàn ông xương trắng nặng oằn,

Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Ngươi có biết cớ sao đen nhẹ?

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,

Sanh con ba đấu huyết ra,

Tám hộc bốn đấu sữa hoà nuôi con.

Vì cớ ấy hao mòn thân thể,

Xương đàn bà, đen nhẹ hơn trai.

A-nan nghe vậy bi ai,

Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo,

Phương pháp nào báo hiếu song thân?

Thế Tôn mới bảo lời rằng:

Vì ngươi Ta sẽ phân trần khá nghe!

Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc,

Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang,

Tháng đầu, thai đậu tợ sương,

Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.

Tháng thứ nhì dường như sữa đặc.

Tháng thứ ba như cục huyết ngưng.

Bốn tháng đã tượng ra hình.

Năm tháng ngũ thể([1]) hiện sinh rõ ràng.

Tháng thứ sáu lục căn([2]) đều đủ.

Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương.

Lại thêm đủ lỗ chân lông,

Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.

Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ.

Chín tháng thì đầy đủ vóc hình.

Mười tháng là đến kỳ sinh.

Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn,

Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu.

Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung,

Làm cho cha mẹ hãi hùng,

Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân.

Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc,

Cũng ví như được bạc được vàng.

Thế Tôn lại bảo A-nan:

Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.

Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo,

Mười tháng trường chu đáo mọi bề.

Thứ hai sanh đẻ gớm ghê,

Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.

Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng,

Cực đến đâu, bền vững chẳng lay.

Thứ tư ăn đắng nuốt cay,

Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con.

Điều thứ năm lại còn khi ngủ,

Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.

Thứ sáu sú nước nhai cơm,

Miễn con no ấm chẳng nhờm, chẳng ghê.

Điều thứ bảy không chê ô uế,

Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.

Thứ tám chẳng nỡ chia riêng,

Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo

Điều thứ chín miễn con sung sướng,

Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam,

Tính sao có lợi thì làm,

Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm.

Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt,

Dành cho con các cuộc thanh nhàn,

Thương con như ngọc như vàng,

Ơn cha, nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.

Phật lại bảo: A-nan nên biết!

Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người,

Mười phần mê muội cả mười,

Không tường ơn trọng đức dày song thân.

Chẳng kính mến, quên ân, trái đức,

Không xót thương dưỡng dục cù lao.

Ấy là bất hiếu mặc giao,

Thì những người ấy đời nào nên thân.

Mẹ sanh con cưu mang mười tháng,

Cực khổ dường gánh nặng trên vai,

Uống ăn chẳng đặng vì thai,

Cho nên thân thể hình hài kém suy.

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết,

Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề,

Ví như thọc huyết trâu dê,

Nhứt sanh thập tử nhiều bề gian nan.

Con còn nhỏ phải lo săn sóc,

Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,

Phải tắm, phải giặt, rửa trôn,

Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì.

Nằm phía ướt, con nằm phía ráo,

Sợ cho con ướt áo, ướt chăn,

Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân,

Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.

Trọn ba năm bú nương sữa mẹ,

Thân gầy mòn nào nệ với con,

Đến khi vừa được lớn khôn,

Mẹ cha dạy bảo cho con vỡ lòng,

Cho đi học mở thông trí huệ,

Dựng vợ chồng có thế làm ăn,

Ước mong con được nên thân,

Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.

Con đau ốm tức thì lo chạy,

Dầu tốn hao cách mấy cũng đành,

Khi con căn bệnh đặng lành,

Thì cha mẹ mới an thần định tâm.

Công dưỡng dục sanh bằng non biển,

Cớ sao con chẳng biết ơn này!

Hoặc khi lầm lỗi bị rầy,

Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang.

Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt,

Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi,

Bà con chẳng kể ra chi,

Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường.

Lời dạy bảo song đường không kể,

Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng.

Trái ngang chống báng mọi đàng,

Ra vào lui tới mắng càn người trên.

Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng,

Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn,

Lớn lên theo thói hung hăng,

Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung.

Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ,

Nết tập quen làm sự trái ngang,

Nghe lời dụ dỗ quân hoang,

Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người

Trước còn tập theo thời theo thế,

Thân lập thân tìm kế sinh nhai,

Hoặc đi buôn bán kiếm lời,

Hoặc vào quân lính với đời lập công.

Vì ràng buộc đồng công, mối nợ,

Hoặc trở ngăn vì vợ vì con,

Quên cha quên mẹ tình thâm,

Quên xứ quên sở lâu năm không về.

Ấy là nói những người có chí,

Chớ phần nhiều du hý mà thôi,

Sau khi phá hết của rồi,

Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.

Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc,

Phạm tội hình, tù ngục phải vương,

Hoặc khi mang bệnh giữa đường,

Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng.

Hay tin dữ, bà con cô bác,

Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu,

Thương con than khóc ưu sầu,

Có khi mang bệnh đui mù vấn vương.

Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ,

Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,

Hoặc nghe con chẳng lo lường,

Trà đình, tửu điếm, phố phường ngao du.

Cứ mải miết theo đồ bất chánh,

Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang,

Làm cho cha mẹ than van,

Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.

Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu,

Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều,

Ốm đau đói rách kêu rêu,

Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương.

Phận con gái còn nương cha mẹ,

Thì có lòng hiếu đễ thuận hoà,

Cần lao phục dịch trong nhà,

Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi.

Song đến lúc tòng phu xuất giá,

Lo bên chồng chẳng sá bên mình,

Trước còn lai vãng viếng thăm,

Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.

Quên dưỡng dục song thân ân trọng

Không nhớ công mang nặng đẻ đau,

Chẳng lo báo bổ cù lao,

Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay.

Nếu cha mẹ la rầy quở mắng,

Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng,

Chớ chi chồng đánh liên miên,

Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.

Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ,

Nói không cùng nghiệp dữ phải mang.

Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng,

Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay!

Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi,

Đập vào mình, vào mũi vào hông,

Làm cho các lỗ chân lông,

Thảy đều rướm máu, ướt đầm cả thân.

Đến hôn mê tâm thần bất định,

Một giây lâu mới tỉnh than rằng:

Bọn ta quả thiệt tội nhơn,

Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù.

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc,

Ruột gan dường như nát như tan,

Tội tình khó nỗi than van,

Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu.

Trước Phật tiền ai cầu trần tố,

Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân,

Làm sao báo đáp thù ân,

Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình.

Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món,

Phân tỏ cùng Đại chúng lắng nghe,

Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề,

Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.

Ví có người ơn sâu dốc trả,

Cõng mẹ cha tất cả hai vai.

Giáp vòng hòn núi Tu-di,

Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền.

Ví có người gặp cơn đói rét,

Nuôi song thân dâng hết thân này,

Xương nghiền thịt nát phân thây,

Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng.

Ví có người vì công sanh dưỡng,

Tự tay mình khoét thủng song ngươi,

Chịu thân mù tối như vầy,

Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.

Ví có người cầm dao thiệt bén,

Mổ bụng ra, rút hết tâm can,

Huyết ra khắp đất chẳng than,

Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn,

Đâm vào mình bất luận chỗ nào,

Tuy là sự khó biết bao,

Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.

Ví có người vì ơn dưỡng dục,

Tự treo mình cúng Phật thế đèn,

Cứ treo như vậy trọn năm,

Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.

Ví có người xương nghiền ra mỡ,

Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình,

Xương tan thịt nát chẳng phiền,

Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.

Ví có người vì công dưỡng dục,

Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan,

Làm cho thân thể tiêu tan,

Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.

Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi,

Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,

Đồng thinh bạch Phật lời rằng:

Làm sao trả đặng thâm ân song đường?

Phật mới bảo các hàng Phật tử,

Phải lắng nghe Ta chỉ sau này,

Các ngươi muốn đáp ơn dày,

Phải toan biên chép Kinh đây lưu truyền.

Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng,

Cùng ăn năn những tội lỗi xưa,

Cúng dường Tam Bảo sớm trưa,

Cùng là tu phước chẳng chừa món chi.

Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự tứ

Thập phương Tăng đều dự lễ này,

Sắm sanh lễ vật đủ đầy,

Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ,

Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn,

Ấy là báo đáp thù ân,

Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.

Mình còn phải cần chuyên trì giới,

Pháp Tam quy Ngũ giới giữ gìn,

Những lời Ta dạy đinh ninh,

Khá nên y thử phụng hành đừng sai

Được như vậy mới là khỏi tội,

Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,

Trong năm đại tội kể ra,

Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay.

Sau khi chết bị đày vào ngục

Ngũ Vô Gián, cũng gọi A-tỳ

Ngục này trong núi Thiết Vi,

Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.

Trong ngục này hằng ngày lửa cháy,

Đốt tội nhân hết thảy thành than,

Có lò nấu sắt cho tan,

Rót vào trong miệng tội nhân hành hình.

Một vá đủ cho người thọ khổ,

Lột thịt da đau thấu tâm can,

Lại có chó sắt, rắn gang,

Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân,

Ở trong ngục có giường bằng sắt,

Bắt tội nhân nằm khắp đó xong,

Rồi cho một ngọn lửa hồng,

Nướng quay kẻ tội da phồng thịt thau.

Móc bằng sắt, thương đao, gươm giáo,

Trên không trung đổ tháo như mưa,

Gặp ai chém nấy chẳng chừa,

Làm cho thân thể nát nhừ như tương.

Những hình phạt vô phương kể hết,

Mỗi ngục đều có cách trị riêng,

Như là xe sắt phân thây,

Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le.

Chớ chi đặng chết liền rất đỡ,

Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân,

Ngày đêm chết sống muôn lần,

Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.

Sự hành phạt tại A-tỳ ngục,

Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,

Chúng ngươi đều phải ân cần,

Thừa hành các việc phân trần khoản trên.

Nhứt là phải Kinh này in chép,

Truyền bá ra cho khắp Đông Tây

Như ai chép một quyển này,

Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn

Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy,

Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên

Do theo nguyện lực tuỳ duyên,

Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền.

Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh.

Lại hoá sanh về cảnh Thiên cung.

Khi lời Phật giảng vừa xong,

Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.

Lại phát nguyện thà thân này nát

Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài,

Dầu cho lưỡi kéo trâu cày,

Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên.

Ví như bị bá thiên đao kiếm.

Khắp thân này đâm chém phân thây.

Hoặc như lưới trói thân này,

Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai.

Dẫu thân này bị cưa, bị chặt,

Phân chia ra muôn đoạn rã rời,

Đến trăm ngàn kiếp như vầy,

Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên.

Đức A-nan kiền thiền đảnh lễ,

Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh,

Ngày sau truyền bá chúng sinh,

Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành.

Phật mới bảo: A-nan nên biết!

Quyển Kinh này quả thiệt cao xa,

Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”,

Cùng là “ÂN TRỌNG” thiệt là chơn Kinh.

Các ngươi phải giữ gìn chu đáo,

Đặng đời sau y giáo phụng hành,

Sau khi Phật dạy đành rành,

Bốn ban Phật tử rất mừng, rất vui,

Thảy một lòng vâng theo lời Phật,

Và kính thành tin chắc vẹn truyền,

Đồng nhau tựu tại Phật tiền,

Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ-TÁT. (3 lần)

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Đức Bồ-tát hiệu Quán Tự Tại,

Dầy công tu huệ mới mở mang!

Chân như một áng linh quang,

Chiếu soi năm uẩn đều không có gì.

Bát-nhã huệ soi đi khắp chốn,

Dứt mọi đường khổ khốn tai nàn!

Xá-lợi tâm chớ nghi nan,

Sắc kia nào khác cái không đâu mà!

Cái không nọ nào xa cái sắc,

Sắc là không, không sắc như nhau.

Thọ, tưởng, hành, thức khác đâu,

Chân không xét cũng một mầu thế thôi

Này Xá-lợi nghĩ coi có phải?

Những pháp không xét lại thực là:

Chẳng sanh, chẳng dứt đó mà,

Sạch dơ, thêm bớt cũng là chân không

Ấy vậy phải xét thông mọi lẽ,

Như hư không sắc vẻ gì đâu?

Thọ, tưởng, hành, thức sạch làu,

Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt còn đâu nương nhờ

Thân, ý cũng hững hờ như thế,

Lục trần kia cũng kể là không.

Đã không nhãn giới suốt thông

Đến ý thức giới cũng không thấy gì.

Vô vô minh nương chi mà có?

Bổn tánh không soi nó phải tiêu!

Đã không lão tử hiểm nghèo,

Còn đâu già chết, hòng theo quấy rầy?

Khổ, Tập, Diệt, Đạo không thay!

Trí còn không có, đắc này được đâu?

Vô sở đắc là câu tuyệt diệu!

Bồ-tát xưa khéo liệu đường tu.

Chân không bổn tánh như như,

Nhờ huệ Bát-nhã thật hư soi làu!

Không ngăn ngại còn đâu lo sợ!

Mộng tưởng không tâm chẳng đảo điên

Chân như bổn tánh thiên nhiên,

Niết-bàn cõi ấy, chứng nên đạo mầu!

Tam thế Phật ngôi cao chứng quả,

Thảy đều nhờ Bát-nhã tu nên.

Bát-nhã này rất thiêng liêng!

Ấy đại thần chú giúp nên đạo thiền.

Ấy thần chú đại minh sáng chói!

Chú vô thượng vòi vọi cao xa!

Vô đẳng đẳng chú ấy mà,

Gồm đủ thần lực thật là tối linh!

Những khổ não thênh thênh trừ hết,

Lời nói này chân thật chẳng ngoa.

Vậy nên Bát-nhã thuyết qua,

Này câu thần chú niệm ra như vầy:

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề ta bà ha. (3 lần)

VÃNG SANH THẦN CHÚ

Nam mô A-di-đà bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di ni, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

NIỆM PHẬT

Di-đà thân Phật sắc vàng tươi,

Tướng tốt quang minh vẹn đủ mười.

Ánh sáng toả hình năm núi lớn,

Mắt trong tợ nước bốn nguồn khơi.

Hào quang hoá Phật bao nhiêu ức,

Bồ-tát hiện thân gấp mấy mươi.

Bốn tám lời nguyện mong độ chúng,

Hoa sen chín phẩm rước lên ngôi.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật.

Nam mô A-di-đà Phật. (Nhiều, ít tuỳ thời gian)

Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. (3 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát.      (3 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)

Mam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát. (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

SÁM VU LAN

Đệ tử chúng con,

Vâng lời Phật dạy.

Ngày Rằm tháng Bảy,

Gặp hội Vu Lan,

Phạm vũ huy hoàng,

Đốt hương đảnh lễ,

Mười phương Tam thế,

Phật Pháp Thánh Hiền.

Noi gương đức Mục Kiền Liên,

Nguyện làm con thảo,

Lòng càng áo não,

Nhớ nghĩa thân sanh,

Con đến trưởng thành,

Mẹ dày gian khổ,

Ba năm nhũ bộ,

Chín tháng cưu mang,

Không ngớt lo toan,

Quên ăn bỏ ngủ,

Ấm no đầy đủ,

Cậy có công cha,

Chẳng quản yếu già,

Sanh nhai lam lũ.

Quyết cùng hoàn vũ,

Phấn đấu nuôi con,

Giáo dục vuông tròn,

Đem đường học đạo.

Đệ tử ơn sâu chưa báo,

Hổ phận kém hèn.

Giờ này quỳ trước đài sen,

Chí thành cung kính,

Đạo tràng thanh tịnh,

Tăng Bảo trang nghiêm,

Hoặc thừa Tự tứ,

Hoặc hiện tham thiền,

Đầy đủ thiện duyên,

Rủ lòng lân mẫn,

Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con,

Đượm nhuần mưa pháp.

Còn tại thế,

Thân tâm yên ổn,

Phát nguyện tu trì.

Đã qua đời,

Ác đạo xa lìa,

Chóng thành Phật quả.

Ngưỡng trông các Đức Như Lai

Khắp cõi hư không,

Từ bi gia hộ.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ-TÁT. (3 lần)

SÁM MỤC LIÊN

Con quỳ lạy Phật Thích-ca,

Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên,

Lòng con mộ đạo tu hiền,

Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm mai.

Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày,

Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành,

Lục thông đầy đủ nên danh,

Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công,

Đền ơn cho bú, ẵm bồng,

Liền dùng đạo nhãn xem vòng thế gian.

Thấy vong mẹ khổ muôn ngàn,

Ốm gầy, đói khát trong đàng quỷ ma.

Mục Liên kêu mẹ khóc la,

Đau lòng thương mẹ đoạ sa Diêm đình.

Thanh Đề nhìn thấy con mình,

Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công

Con ơi! Mẹ đói trong lòng,

Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than,

Vội vàng trở lại thế gian,

Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng,

Và cơm vô miệng nửa chừng,

Chén cơm hoá lửa phừng phừng thành than.

Mục Liên xem thấy kinh hoàng,

Trong lòng đau đớn, khóc than buồn tình.

Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình,

Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già.

Thích-ca Đức Phật phân qua,

Mẹ ngươi tội nặng đoạ sa nghiệp hành.

Ta truyền cứu tế pháp lành,

Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền.

Cầu cho phụ mẫu hiện tiền,

Lục thân, quyến thuộc bình yên điều hoà.

Bảy đời phụ mẫu đã qua,

Về trời hưởng phước sáng loà hào quang

Vui chơi thong thả an nhàn,

Ngày Rằm tháng Bảy lập đàn trai Tăng.

Sắm sanh trăm món đồ ăn,

Trái cây ngũ quả, hương đăng rõ ràng,

Chiếu, giường, bồn nước, mùng màn.

Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm,

Những đồ vật quý bông thơm,

Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh.

Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh,

Chư Tăng tịch giới giữ gìn nghiêm trang

Cầu cho thí chủ trai đàn,

Tâm hành thiền định, vái van chúc nguyền.

Thanh Đề khổ ách hết liền,

Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.

Noi gương hiếu thảo đời đời,

Xót thương phụ mẫu hiện thành nuôi con.

Nhai cơm cho bú hao mòn,

Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.

Trời cao đất rộng mênh mông,

Biển hồ lai láng sánh đồng Thái Sơn

Tu hành báo tứ trọng ân,

Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành

Mục Liên đại hiếu tu hành,

Báo ơn phụ mẫu nên danh độ đời.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ-TÁT. (3 lần)

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức vô biên

Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa

Chúng sanh pháp giới bao la

Đều về Cực Lạc Di-đà Tây thiên.

Nguyện tiêu ba chướng não phiền

Nguyện khai trí tuệ vô biên sáng ngời

Nguyện trừ tội chướng bao đời

Hành theo Bồ-tát đời đời vị tha.

Nguyện sanh Tịnh độ Di-đà

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình

Hoa khai ngộ pháp Vô sanh

Cùng chư Bồ-tát bạn lành với ta.

Nguyện đem công đức tạo ra

Hướng về khắp cả gần xa hưởng nhờ

Con cùng muôn loại thân sơ

Đều thành Phật đạo, đến bờ an vui.

PHỤC NGUYỆN

Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo.

Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật.

Tác đại chứng minh.

Giờ này đệ tử, cùng với đại chúng, cung kính trước Phật, thành tâm đọc tụng, kinh... Và xưng danh hiệu Phật. Nguyện đem công đức này hồi hướng: đạo Phật sáng thêm, xe Pháp thường chuyển, gió hoà mưa thuận, đất nước hưng thịnh, thế giới hoà bình, nhân dân an lạc.

Thứ nguyện: Cầu an đệ tử ..... cùng chư thiện nam tín nữ, nghiệp chướng tiêu trừ, tai qua bệnh khỏi, thân tâm an lạc, thường được kiết tường, vạn sự như ý, phát tâm Bồ-đề, quay về chánh đạo, thấm nhuần mưa pháp, phước huệ song tu, gia quyến an khang, lòng tin Tam Bảo càng sâu, tâm từ đối chúng sinh tăng trưởng.

Lại nguyện: Cầu siêu hương linh ..... cùng chư hương linh, cửu huyền thất tổ, các gia các tộc, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, nương nhờ sức Phật, đến được đạo tràng, nghe kinh nghe Pháp, sớm thoát đường mê, sinh về Tịnh độ.

Khắp nguyện: Kẻ mất siêu thăng, người còn phúc lạc, âm dương lưỡng lợi, pháp giới nhân thiên, đồng thành Phật đạo.

Nam mô A-di-đà Phật!

TAM TỰ QUY

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo Đạo cả, phát lòng Vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý Đại chúng, tất cả không ngại. (1 lạy)

HÔ KỆ TỊNH TOẠ

Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

Kính thưa đại chúng, đã đến giờ hô kệ niệm Phật tịnh toạ, kính mời đại chúng chắp tay trang nghiêm, lắng lòng thanh tịnh, nghe hô kệ niệm Phật tịnh toạ.

“Đến giờ niệm Phật ngồi lặng yên,

Ba nghiệp thanh tịnh Phật hiện tiền,

Tin sâu lời Phật hằng niệm Phật,

Chí tâm hướng đến cảnh Tây thiên.”

“Biển ái sóng bao la,

Nhận chìm cả ta bà,

Muốn thoát luân hồi khổ,

Phải gấp niệm Di-đà.”

Ngưỡng mong đại chúng nhất tâm đồng niệm Phật.

Nam mô A-di-đà Phật! (3 lần)

HỒI HƯỚNG

Nam mô A-di-đà Phật!

Đã hết giờ tịnh toạ, kính mời đại chúng chắp tay đồng hồi hướng.

“Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chúng sanh,

Đồng sanh về Tịnh độ.”

Kính chúc quý Phật tử có một đêm an lành trong chánh niệm.

Nam mô A-di-đà Phật!

([1]) Đầu, hai tay, hai chân

([1]) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý




-----------------               


NGHI THỨC TỤNG

KINH VU-LAN VÀ BÁO HIẾU

________________________________________

NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI

CHÂN-NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI

                     Úm, lam xoá ha.     (Tụng 7 lần, O)

(Trì thần chú này thì thân mình và cảnh quan đều thanh-tịnh)

 

CHÂN-NGÔN TỊNH  KHẨU-NGHIỆP

 Tu dị tu dị, ma ha tu dị, tu tu dị ta bà ha.         

(Tụng 7 lần, O)

              (Trì  thần chú này thì miệng và lời nói đều thanh-tịnh)

                                                                                                                

CHÂN-NGÔN TỊNH TAM-NGHIỆP

       Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám.       (Tụng 3 lần, O)                                                                                                    

                 (Trì thần chú này thì tâm, khẩu và ý đều thanh-tịnh)      

                                                            

CHÂN-NGÔN PHỔ CÚNG-DƯỜNG

Án nga nga nẵng, tam bà phạ  phiệt nhật ra hồng.  (Tụng 3 lần, O)                                                   

      (Trì thần chú này thì hoa, hương cùng với tiếng tụng niệm, lời nguyện chân thành của người tụng sẽ tới mười phương Phật)        

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam-Bảo

Thề trọn đời giữ Ðạo

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ.

Tâm Bồ-Ðề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (1 lạy, O)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp-Vương Vô-Thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời, người,

Cha lành chung bốn loại

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

    Ức kiếp không cùng tận.   (O)

KỲ-NGUYỆN

Hôm nay, ngày rằm tháng bẩy, ngày Lễ Vu-Lan, đệ-tử chúng con là……………… Pháp danh....................theo lời Phật dạy, chúng con noi theo ngài Mục-Kiên-Liên tề tựu nơi đây tổ chức đại-lễ Vu-Lan báo đền công lao dưỡng dục, sinh thành của ông bà, cha mẹ.

Chúng con cùng chúng-sinh trong pháp- giới nguyện ngôi Tam-Bảo thường-trụ trong mười phương đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đức Tiếp-dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, đức Đương-Lai Hạ-Sanh Di-Lặc Tôn Phật, từ-bi gia-hộ cho chúng đệ-tử tâm Bồ-Đề được bền chắc, tự-giác giác-tha, hạnh giác-ngộ viên mãn, mọi tội lỗi gây ra từ vô-thỉ cho đến ngày nay liền được tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, một thời đồng chứng Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác. Mai sau khi lâm-chung được Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát cùng hàng Thánh chúng tới tiếp-dẫn chúng con về Tây phương Cực-Lạc, thế giới của Phật A-Di-Đà.

Nay chính là ngày chư Tăng kiết-hạ đem đức lành chú nguyện chúng sinh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam-Bảo, Nguyện Ðức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðức Tiếp-dẫn Ðạo-Sư A-Di-Ðà Phật, cùng các vị Bồ-Tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ-bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ-tử, cùng tất cả chúng sinh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u-đồ, siêu sinh Cực-Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp-độ. (1 lạy, O)

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sinh tính thường rỗng lặng

Đạo cảm-thông không thể nghĩ bàn

Lưới Đế-Châu ví Đạo-Tràng

Mười Phương Phật-Bảo Hào Quang sáng ngời

Trước Bảo Tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thề nguyện quy-y. (O)                                                   

 

Chúng con chí tâm đảnh lễ:

1- Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền, Thánh Tăng thường trụ Tam-Bảo.                                                (Lạy 1 lạy, O)

2- Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Đại-từ Đại-bi Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Đương-Lai Hạ Sinh Di-Lặc Tôn-Phật, Đại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát, Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ-Tát.                (Lạy 1 lạy, O)

3- Nam mô Tây Phương Cực-Lạc Thế-Giới Đại-Từ Đại-Bi Tiếp-Dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ-Tát.                                            (Lạy 1 lạy, O)        

TÁN LƯ HƯƠNG

      Lư hương vừa ngún chiên đàn,

      Khói hương ngào ngạt muôn ngàn cõi xa.

      Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

      Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng

      minh. 

Nam mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-ha-tát.

                                                                  (3 lần, O)

 

 

KINH VU-LAN

Đây là những lời

Chính tôi được nghe.

Nhân một thuở kia,

Tại nước Xá-Vệ,

Phật ở Tịnh-xá

Cất trong cảnh vườn

Ông Cấp-Cô-Độc,

Giữa đám cổ thụ

Do ngài Thái-tử

Kỳ-Đà dâng cúng.

Bấy giờ trong hàng

Đệ tử cao cấp,

Có ngài Mục-Liên,

Vừa mới chứng được

Sáu phép thần-thông.

Lòng hiếu phát khởi,

Muốn độ mẹ cha,

Đền ơn nhũ bộ.

Bèn dùng mắt huệ

Xem cả thế gian,

Thấy vong thân mẫu,

Trong cảnh Ngã-quỷ,

Chẳng uống chẳng ăn

Thân thể gầy ốm,

Còn da bọc xương.

Mục-Liên thương xót,

Tức thời lấy bát

Đựng cơm đem dâng.

Mẹ Ngài vui mừng,

Tay trái che bát

Tay mặt bốc cơm,

Thảm thay! thương thay!

Cơm chưa tới miệng,

Đã thành than lửa,

Ăn không thể được.

Mục-Liên thấy vậy,

Liền khóc òa lên.

Tức tốc trở về,

Bạch lại với Phật,

Đầu đuôi thảm cảnh

Mắt mình vừa thấy.

Phật bèn nói rằng:

“Mẹ con gây tội,

Gốc đã sâu dầy

Chẳng thể lấy sức

Của một mình con

Mà mong cứu được.

Dầu con hiếu thuận,

Tiếng dậy đất trời,

Thậm chí Thiên-thần,

Tà-Ma, Ngoại-đạo,

Đạo-Sĩ, Vương-thần,

Cũng đều thúc thủ.

Vậy muốn cứu mẹ,

Con phải nhờ sức

Oai thần chúng Tăng,

Khắp cả mười phương,

Mới mong độ thoát.

Hãy nghe Ta chỉ

Phương pháp này đây,

Cứu vớt mọi người,

Ách nạn lâm cơn,

Đều được thoát khỏi

U sầu cảnh khổ”.

Nói xong Phật mới

Bảo Mục-Liên rằng:

“Ngày rằm tháng bảy,

Là ngày Tự-tứ

Mười phương chúng Tăng.

Mỗi người nên vì

Hiện thời cha mẹ,

Hoặc là tiền-kiếp

Cha mẹ bảy đời,

Mắc vòng khốn khổ,

Trong đường ách nạn.

Mà sắm cho đủ:

Trăm thức món ăn,

Năm thứ trái cây,

Hương, dầu, đèn nến,

Giường chiếu để nằm,

Bồn đựng nước tắm,

Mỗi thức, mỗi vật,

Ngon tốt tuyệt trần,

Sắp thành một lễ

Dâng cúng chư vị

Đại-Đức mười phương.

Hiển nhiên ngày ấy,

Các vị Thánh-chúng:

Hoặc bậc thiền-định

Ở chốn thâm sơn,

Hoặc bậc đã chứng

Bốn đạo quả lớn;

Hoặc bậc kinh-hành

Rừng xanh mật niệm;

Hoặc là những bậc

Đã được sáu phép

Tự-tại thần-thông,

Ra công giáo hóa

Chứng quả Thanh-Văn

Hay là Duyên-Giác;

Hoặc bậc Bồ-Tát

Thập-địa đại-nhân,

Tạm xuống cõi Trần,

Làm thầy Tỳ-Kheo,

Trong hàng đại-chúng;

Đều đồng một lòng,

Chứng giám hiếu-tâm

Thọ cơm hòa-la.

Tất cả các vị

Thánh-chúng vừa kể,

Đều đã tới chỗ

Đạo đức rộng sâu,

Giới hạnh thanh khiết.

Bởi thế cho nên,

Dâng cúng chúng Tăng,

Ngày rằm tháng bảy,

Thì nào cha mẹ

Ở nơi hiện thế,

Quyến-thuộc xa gần,

Đều được ra khỏi

Ba đường khổ não,

Là cõi địa-ngục,

Ngã-quỷ, Súc-sinh,

Ứng thời giải thoát,

An nhiên, tự-tại.

Hiện-thế cha mẹ,

Đang lúc sinh tiền

Chắc chắn sẽ được

Phước lạc trăm năm.

Lại nữa cha mẹ

Bảy kiếp về trước,

Ắt cũng sẽ được

Sinh về cõi Trời,

Hưởng phước vi-diệu”.

Lúc ấy Phật mới

Truyền dạy chúng Tăng

Khắp cả mười phương,

Những lời sau đây:

“Mỗi khi gia-chủ

Dâng lễ Vu-Lan,

Bổn phận chúng Tăng

Là phải trước hết

Tận tâm chú nguyện

Cầu cho bảy đời

Mẹ cha thí-chủ

Mau được giải thoát,

Kế đó theo phép,

Ngồi thiền, định-ý,

Sau rốt mới ăn.

Lại nữa nên nhớ:

Trước khi thọ thực,

Thì phải cúng dâng

Các món tịnh chay 

Dâng trước tượng Phật

Hoặc tại bàn Phật,

Ở tháp, ở Chùa.

Chú nguyện xong rồi,

Mới tự thọ thực”.

Khi Phật nói phép

Cứu tế xong rồi,

Thì ngài Mục-Liên

Cùng các Bồ-Tát

Đều rất vui mừng,

Bao nhiêu buồn rầu

Khóc than thảm thiết

Của ngài Mục-Liên,

Tức thời tiêu hết.

Cũng  trong ngày ấy,

Thân-mẫu Mục-Liên

Được thoát khỏi kiếp

Ngã-quỷ khổ cực.

Mục-Liên cung kính

Lại bạch Phật rằng:

“Sinh mẫu đệ-tử

Nay đã thoát khổ,

Cũng nhờ ân đức

Tam-Bảo thập phương,

Và của Thế-Tôn

Cùng bao Tăng-chúng,

 Từ rày về sau,

Nếu có những người,

Theo Phật tu-trì,

Mà lòng mong muốn

Dùng lễ Vu-Lan

Cứu độ tất cả

Hiện tại phụ-mẫu,

Cho đến bảy đời

Cha mẹ kiếp trước,

Có thể được chăng?”

Phật bèn nói rằng:

“Hay lắm! Hay lắm!

Ta vừa muốn nói

Mà con lại hỏi,

Thật là thích hợp

Với tấm lòng Ta.

Thiện-nam-tử ơi!

Bất luận nam nữ

Trong hàng Tỳ-Kheo,

Các đấng Quốc-vương,

Thái-tử, Đại-thần

Tam công tể tướng,

Trăm quan, dân thứ,

Nếu phát tâm lành,

Làm hạnh hiếu từ,

Thì trước hết phải,

Vì cha, vì mẹ

Sở sinh đời nay,

Và vì cha mẹ,

Bảy đời đã qua

Đến rằm tháng bảy,

Là ngày hoan hỷ

Của Phật thập phương,

Và thời Tự-tứ,

Chúng Tăng khắp nơi,

Dùng cơm đồ ăn,

Trăm vị thơm ngon,

Thiết tiệc Vu-Lan

Dâng cúng chư Tăng,

Chí thành cầu nguyện:

Cha mẹ đời này,

Sống lâu trăm tuổi,

Khỏi đau khỏi ốm,

Khổ não mọi điều.

Nhẫn đến cha mẹ

Bảy đời quá-khứ,

Cũng thoát khổ não,

Nơi đường Ngã-quỷ,

Và được sinh về

Nơi cõi Nhân, Thiên,

Hưởng phước vui vẻ

Vô hạn vô-biên.

Những ai là người

Đệ-tử của Phật,

Tu hạnh hiếu từ

Thì trong tâm phải,

Nhớ mãi mẹ cha,

Hoặc trong kiếp này,

Hoặc bảy kiếp trước,

Mỗi năm hễ đến,

Tháng bảy ngày rằm,

Nên lấy lòng hiếu

Thiết lễ Vu-Lan

Cúng Phật, chúng Tăng,

Để báo mẹ cha

Công ơn nuôi dưỡng.

Vì thế cho nên,

Hễ là đệ-tử

Của Phật Như-Lai

Nên vâng lời này

Làm theo phép ấy.

Mục-Liên Tỳ-Kheo

Bốn hàng đệ-tử,

Nghe lời Phật dạy,

Vui vẻ phụng hành.

Nam mô Đại-Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-Tát.

                                                                                                      (3 lần, 3 lạy, O) 

SÁM VU-LAN

Đệ-tử chúng con,

Vâng lời Phật dạy,

Ngày rằm tháng bảy,

Gặp hội Vu-Lan,

Phạm-vũ huy hoàng,

Đốt hương đảnh lễ,

Mười phương Tam-thế,

Phật, Pháp, Thánh-Hiền.

Noi gương đức Mục-Kiền-Liên,

Nguyện làm con thảo,

Lòng con ảo não,

Nhớ nghĩa thân sinh,

Con đến trưởng thành,

Mẹ càng gian khổ,

Ba năm nhũ bộ,

Chín tháng cưu mang,

Không ngớt lo toan,

Quên ăn bỏ ngủ.

Ấm no đầy đủ,

Nhờ có công cha,

Chẳng quản yếu già,

Sinh nhai lam lũ,

Quyết cùng hoàn vũ,

Phấn đấu nuôi con,

Giáo dục vuông tròn,

Đem lòng học đạo.

Đệ-tử ơn sâu chưa báo,

Hổ phận kém hèn,

Giờ này quỳ trước đài sen,

Chí thành cung thỉnh.

Đạo-tràng thanh-tịnh,

Tăng-Bảo trang-nghiêm,

Hoặc thừa tự-tứ,

Hoặc hiện tham thiền,

Đầy đủ thiện-duyên,

R ủ lòng lân mẫn.

Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con,

Đượm nhuần mưa pháp,

Nếu còn tại-thế:

Thân tâm yên ổn,

Phát nguyện tu trì,

Nếu đã qua đời:

Ác-đạo xa lìa,

Chóng thành Phật quả.

Ngửa trông các đức Như-Lai,

Khắp cả mười phương

Từ-bi gia-hộ

Giang tay cứu vớt

Thoát khỏi tam-đồ

Sinh về cõi Phật.

 Nam mô A-Di-Đà Phật.                     (3 lần, 1 lạy, O)

 Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.              

                                                    (3 lần, 1 lạy, O)

 Nam mô Đại-Nguyện Điạ-Tạng-Vương Bồ-Tát.                                                      (3 lần, 1 lạy, O)

      

Chú ý: Sau đây trì niệm danh hiệu các chư vị Phật cầu cho gia tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta thoát khỏi tam đổ khổ được vãng-sinh về Tây Phương Cực-Lạc mau chóng tu hành thành Bồ-Tát, thành Phật.

(Mỗi danh hiệu Phật niệm 3 lần và lạy 1 lạy, O).

 

Nam mô Vô-Biên-Thân Như-Lai.
Nam mô Bảo-Thắng Như-Lai.
Nam mô Ba-Ðầu Ma-Thắng Như-Lai.
Nam mô Sư-Tử-Hống Như-Lai.
Nam mô Câu-Lưu-Tôn Như-Lai.
Nam mô Tỳ-Bà-Thi Như-Lai.
Nam mô Ða-Bảo Như-Lai.
Nam mô Bảo-Tướng Như-Lai.
Nam mô Ca-Sa-Tràng Như-Lai.
Nam mô Ðại-Thông Sơn-Vương Như-Lai.
Nam mô Tịnh-Nguyệt Như-Lai,
Nam mô Sơn-Vương Như-Lai
Nam mô Trí-Thắng Như-Lai
Nam mô Tịnh-Danh-Vương Như-Lai.
Nam mô Trí-Thành-Tựu Như-Lai
Nam mô Vô-Thượng Như-Lai.
Nam mô Diệu-Thinh Như-Lai,
Nam mô Mãn-Nguyệt Như-Lai,
Nam mô Nguyệt-Diện Như-Lai,
Chúng con cúi xin các đấng Thế-Tôn gia-trì cứu vớt gia-tiên, ông bà, cha mẹ của chúng con ở đời này và bẩy đời trước và các chân-linh có tên đọc ở phần sớ đều được thoát khỏi tam-đồ khổ, được sinh về Tây Phương Cực-Lạc để tu hành mau chóng thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật, lại phát nguyện đi độ sinh cứu vớt hữu-tình.  

( Phần này Chủ lễ hoặc người Phụ lễ sẽ đọc)

 

Kính lạy Phật A-Di-Đà,
Kính lạy Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
Kính lạy các chư vị Phật, chư đại Bồ-Tát thời quá khứ, hiện-tại và vị-Lai.
Kính lạy đức Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng. (O)                                                                                                                                            
Công lao của gia-tiên, ông bà, cha mẹ với các con, cháu thật lớn lao như trời như biển. Sống nơi cõi Ta-Bà, nhiều khi vì cuộc đời phải vật lộn với cuộc sống, lo cho chúng con miếng cơm, manh áo cho đến tất cả mọi thứ lại chẳng được học Kinh-điển Phật nên các bậc phụ huynh, ông bà, cha mẹ của chúng con không khỏi phạm phải những tội lỗi như: ăn gian, nói dối, tham lam của người, sát-sinh thú vật v.v...

Chúng con ngưỡng nguyện mười phương chư Phật, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng ra tay cứu giúp những người sau đây thoát khỏi tội lỗi, được vãng sinh về Tây phương Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà. Nếu phước chưa tới cũng được sinh về Trời Đâu-Suất-Đà của đức Đương-Lai Hạ-Sanh Di-Lặc Tôn Phật nơi cõi Thiên, thoát khỏi ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc sinh.

Kính lạy Phật A-Di-Đà,
Kính lạy Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
Kính lạy các chư vị Phật, chư đại Bồ-Tát thời quá khứ, hiện-tại và vị-Lai.
Kính lạy đức Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng. (O)   
CHÚ ĐẠI-BI   

Nam mô Đại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát.

                                                                         (3 lần)

                  Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế, thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá, na ma bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê, rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà ra đế. Ma ha phạt xà ra đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.

    “Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà dạ. Ta bà ha”. (Câu cuối tụng 3 lần, O)

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÂN NGÔN

     Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chân lăng càn đế, ta bà ha. (5 lần, O)

Đệ-tử vốn tạo các vọng nghiệp, đều do vô-thỉ tham, sân, si. Từ thân miệng ý phát sinh ra. Đệ-tử thảy đều xin sám hối.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-Tát Ma-ha-tát.

(3 lạy, O)

 

CHÚ VÔ-LỰƠNG-THỌ CHÂN NGÔN

Na mô rát na tờ gia gia gia. Na mắc a ry gia. A mi ta pha gia. Ta tha ga ta gia. A rờ ha tê, sam giác sam bút đa gia. Ta đi gia tha: Om, a mờ rật tê. A mờ rật tô đờ pha vê. A mờ rật ta sam pha vê. A mờ rật ta ga ri phê. A mờ rật ta sít đê. A mờ rật ta tê rê. A mờ rật ta vi hờ rim tê. A mờ rật ta vi hờ rim ta. Ga mi nê a mờ rật ta ga ga na, ki ti ka rê. A mờ rật ta đun đa phi sờ va rê. Sạc va rờ tha sa đa nê. Sạc va kác ma, ka lê sa ka sa. Giam ka lê, sờ va ha.                                         (3 lần, O)  

 

VÔ-LƯỢNG-THỌ TÔNG-YẾU CHÂN-NGÔN   

Nam mô Rát Na Tra Da Da. Ôm, Nam Mô Ba Ga Va Tê. A Ba Ri Mi Ta A Du Cha Na. Su Bi Nít Chi Ta Ta Dê. Chô Ra Cha Da. Ta Tha Ga Ta Ya. A Ha Tê Sam Giắt Sam Bút Đa Da. Tát Da Tha. Ôm, Bu Na Dê Bu Na Dê.  Ma Ha Bu Na Dê. A Ba Ri Mi Ta Bu Na Dê. A Ba Ri Mi Ta Bu Na Da. Cha Na. Sam Ba Rô Ba Chi Tê. Ôm Sạt Va Sam Sờ Ka Ra. Ba Ri Sút Đa Đạt Ma Tê. Ga Ga Na Sa Mút Ga Tê. Xoa Ba Va Vi Sút Đê. Ma Ha Na Da Ba Ri Va Ra Dê. Xóa Ha.           (3 lần, O)     

 

CÔNG ÐỨC BẢO SƠN ÐÀ-RA-NI

Nam Mô Phật Ðà da

Nam Mô Ðạt Ma da

   Nam Mô Tăng Già da

Úm tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.           (3 lần, O)

                                             

Chúng con chí tâm đảnh lễ các vị đại-diện cho Phật thời quá-khứ:

(Tất cả đều tụng 3 lần, lạy 3 lạy)

       

Nam mô Tỳ Bà-Thi Phật . (O)

Nam mô Thi-Khí Phật. (O)    

Nam mô Tỳ-Xá-Phù Phật. (O)

Nam mô Câu-Na-Hàm Mâu-Ni Phật. (O)

Nam mô Ca-Diếp Phật. (O)

Nam mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (O)

Nam mô Câu-Lưu tôn-Phật. (O)

Chúng con chí tâm đảnh lễ các vị đại-diện cho Phật thời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai:

(Tất cả đều tụng 3 lần, lạy 3 lạy)

      Nam mô Quá-khứ Tỳ-Bà-Thi Phật. (O)

              Nam mô Hiện-tại Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (O)

Nam mô Vị Lai Di Lặc Tôn Phật. (O)

 

Chúng con chí tâm đảnh lễ:

(Tất cả đều tụng 3 lần, lạy 3 lạy)

  

Nam mô Chư-Tôn Bồ-Tát Hộ-Trì Chánh-Pháp. (O) 

 

Nam mô Phật, Bồ-Tát hiện-tại Đạo-Tràng. (O)    

 

THẦN CHÚ ĐỊA-TẠNG-VƯƠNG BỒ-TÁT

 

Nam mô Đại-Nguyện Điạ-Tạng-Vương Bồ-Tát.   

Úm, Ha Ha Ha Win Sam Mô Ti Xoa Ha.

                                                           (10 lần, O)   

 

UẾ-TÍCH CHÂN NGÔN

ĐẠI-VIÊN-MÃN ĐÀ-RA-NI

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

Nam mô Kinh-Cang Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Úm, bút quát hốt lốt, ma ha bát ra, ngân na ngái, vẫn trắp vẫn, vĩ hiệt vĩ, ma na thê, ô thâm mộ hốt lốt, hùm hùm phấn phấn tóa ha.

(5 lần, O)

CHÚ ĐẠI PHẬT ĐẢNH

Nam mô Phật Đà-Da

Nam mô Đạt-Ma-Da

   Nam mô Tăng-Già-Da

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

   Tất-Đạt-Đa Bát Ra Đa.

Bộ Lâm, Úm  (10 lần, O)

 

      VĂN-THÙ SƯ-LỢI CĂN BẢN

NHẤT TỰ ÐÀ-RA-NI

 

  Nam mô Phật Đà-Da

Nam mô Đạt-Ma-Da

   Nam mô Tăng-Già-Da

Nam mô Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Úm, Xỉ Lâm.  (10 lần, O)

 

 

NHƯ-Ý BẢO-LUÂN-VƯƠNG ĐÀ-RA-NI

Nam mô Phật Đà-Da

Nam mô Đạt-Ma-Da

   Nam mô Tăng-Già-Da

Nam mô Quán-Tự-Tại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, cụ đại bi tâm giả. Ðát diệt tha.

Án, chước yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra thước ra a yết rị, sa dạ hồng phấn ta ha.

Án, bát đạp ma chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án, bát lặc đà bát đẳng mế hồng.

(10 lần, O)

BÁT-NHÃ-BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH

     Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

     Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất

dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

     Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:

“Yết đế, yết đế, Ba-la-yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế Bồ-đề tát-bà-ha”. (Câu này tụng 3 lần)

      Ma-Ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa. (tụng 3 lần, O )

 CA NGỢI PHẬT

Phật A-Di-Đà thân sắc vàng

Tướng tốt chói sáng không gì bằng

Lông mày trắng như năm Tu-Di

Mắt xanh trong giống bốn biển lớn

Trong hào-quang hoá vô-số Phật

Vô-số Bồ-Tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng-sinh

Chín phẩm sen vàng lên giải-thoát

Quy-mạng lễ A-Di-Đà Phật

Ở Phương Tây Thế giới an-lành

Con nay xin phát nguyện vãng-sinh

Cúi xin Đức từ-bi tiếp độ. (O)

Chúng con chí tâm đảnh lễ

(Tất cả đều tụng 5 lần, lạy 3 lạy)

   

Nam mô A-Di-Đà Phật. (O)

Nam mô Đại-Từ Đại-Bi Quán-Thế-Âm

Bồ-Tát. (O)

Nam mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát. (O)

Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương

Bồ-Tát. (O)

Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng

Bồ-Tát. (O)  

PHÁT NGUYỆN

Một lòng quy kính                  

Phật A-Di-Đà                                                                                                                           

Thế-giới Cực-Lạc              

Nguyện lấy hào quang   

Trong sạch soi cho          

Lấy thệ từ-bi                               

Mà nhiếp thọ cho                    

Con nay chính-niệm                

Niệm hiệu Như-Lai              

Vì Đạo Bồ-Đề                     

Cầu xin Tịnh-Độ                 

Phật xưa có thệ:                  

“Nếu có chúng-sinh

Muốn sinh nước Ta

Hết lòng tín nguyện

Cho đến mười niệm

Nếu chẳng được sinh

Chẳng thành Chánh-Giác”

Do vì nhân-duyên

Niệm hiệu Phật này

Được vào trong bể

Đại-thệ Như-Lai

Nhờ sức từ-bi

Các tội tiêu diệt             

Căn-lành tăng trưởng                             

Khi mạng gần chung           

Biết trước giờ chết                        

Thân không bệnh khổ               

Tâm không tham luyến    

Ý không điên đảo                          

                  Như vào thiền-định                     

Phật và Thánh-chúng         

Tay nâng kim-đài                  

Cùng đến tiếp-dẫn

Trong khoảng một niệm

Sinh về Cực-Lạc 

Sen nở thấy Phật

Liền nghe Phật-thừa                       

Chóng mở Phật tuệ

Khắp độ chúng sinh

Trọn Bồ-Đề nguyện. (O)

 

Nam mô A-Di-Đà Phật.

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng- Vương Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Nam mô mười phương Đạo-sư các chư vị    Phật, các chư Đại Bồ-Tát.

 

 

Chúng con hôm hay tề tựu nơi đây, cúi đầu lễ bái, kính mong các đấng Thế-Tôn, các Chư Đại Bồ-Tát, Các bậc Thanh-Văn, Duyên-Giác, Tăng, Ni phù-hộ độ-trì cho ông bà, cha mẹ đời này và bẩy đời trước đây của chúng con, mọi tội lỗi gây ra từ vô-thỉ đến nay liền được tiêu trừ, hiện tiền được đức Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát cùng hàng thánh chúng tới tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc, sinh trên sen báu, nhanh chóng tu hành trở thành Bồ-Tát Bất-thối, thành Phật, lại phát tâm Đại-thừa, mở lòng từ-bi mà phát nguyện về mười phương quốc-độ, đem những giáo lý Kinh-điển của Phật về Pháp môn tu hành Tịnh-Độ, trì danh niệm Phật A-Di-Đà để làm lợi ích cho mọi chúng hữu-tình.

Chúng con xin đọc tên gia tiên, ông bà cha mẹ của chúng con sau đây để nương vào 48 lời thệ nguyện hàm-linh, lời thệ rộng sâu của Phật A-Di-Đà cũng như 12 lời nguyện cao vời của đức Đại-Từ Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát cùng đức Đại-Thế-Chí Bồ-Tát ngưỡng mong tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc quốc.

      (Sau đó đọc danh sách gia tiên ông bà cha mẹ của các Phật tử). Vị chủ lễ đọc tên trong danh sách, còn các Phật-tử ngồi cứ mỗi tên một người thì mọi người lại tụng:

“Nam mô A-Di-Đà Phật, xin tiếp-dẫn các chân-linh có tên vừa đọc trên đây được về Tây Phương Cực-Lạc quốc”.

 

(Sau đây tất cả Pháp hội đi ra nhiễu quanh đốt nến niệm danh hiệu Phật, rồi sau đó vào tụng tiếp nghi thức cuối của khóa lễ)

 

VÃNG-SINH QUYẾT ĐỊNH CHÂN-NGÔN

Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đá tỳ ca lan đế, A di rị đá tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.                                                                   (3 lần, O)  

BA TỰ QUY-Y

Chúng con tự quy-y Phật, cầu cho chúng-sinh hiểu rõ đạo lớn, phát lòng Vô-thượng.                                                    

(1 lạy, O)

                                                                       

Chúng con tự quy-y Pháp, cầu cho chúng sinh thấu rõ Kinh tạng, trí tuệ như biển.                                                         

(1 lạy, O)

Chúng con tự quy-y Tăng, cầu cho chúng sinh thống lý đại-chúng, tất cả không ngại.

                                                        (1 lạy, O)

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Nguyện sinh thế giới cảnh phương Tây

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật chứng vô-sinh

Bồ-Tát Bất-Thối làm bạn hữu.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ-tử và chúng-sinh

Đều trọn thành Phật-đạo.

(3 lạy, gõ 4 tiếng chuông kết thúc khóa lễ)

HẾT -
 



(Mang xôi, chè, quả xuống cúng các chân linh. Sau khoảng 15-20 phút người dự lễ mới hưởng lộc).

 

Tiếp theo vị Chủ lễ đọc Thí-thực chú để mời thân nhân, gia quyến được thọ thực phẩm vật lễ cúng.

PHẦN THÍ THỰC SAU CÙNG

Thí thực chú:

Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

Xin kính mời tất cả hương-linh gia-tiên ông bà, cha mẹ của các Phật tử có mặt hôm nay tại đây hoan-hỷ thọ thực.
Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

     

Xin hoan hỷ kính mời các chư vị Thiên-Long, Dạ-xoa, La-sát, Sơn-Vương, Hải-Vương, Hà-Vương, Đại-Thọ-Vương, tất cả chư quỷ thần v.v… thọ thực chứng minh lòng thành của chúng tôi.
Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

Duy nguyện Thánh-chúng gia trì phù-hộ cho chúng tôi mọi sự an lành, thành tựu viên-mãn… cùng các tịnh chư quyến thuộc sau khi hoan hỷ thọ thực thì mời hoàn cung.

  

Xin kính mời tất cả hương-linh những người cô-thần quả-tú, những người vô gia-cư, những người khốn khó ở khu vực quanh đây đang có mặt, hoan-hỷ thọ thực.
Chúng tôi mong các quý vị bây giờ hãy trì danh niệm Phật A-Di-Đà và các chư vị Phật cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc để được Phật tới tiếp-dẫn về đó, vĩnh viễn thoát ly sinh-tử luân-hồi, tu hành một đời thành Bồ-Tát, thành Phật, nếu chưa được duyên đó cũng vĩnh viễn thoát ba đường khổ, được sinh lại làm người hay sinh lên cõi Thiên hưởng sự vui thù thắng vi-diệu. Đây là lời Phật và ngài Địa-Tạng đã dạy trong Kinh Địa-Tạng Bổn-Nguyện, chẳng phải lời của tôi.

Xin các quý vị hãy niệm theo tôi như sau:

 

Nam mô A-Di-Đà Phật. (30 lần)

 

Sau đây niệm danh hiệu các chư vị Phật, mỗi danh hiệu niệm 3 lần.

 

Nam mô Vô-Biên-Thân Như-Lai.  

Nam mô Bảo-Thắng Như-Lai.

Nam mô Ba-Ðầu Ma-Thắng Như-Lai.

Nam mô Sư-Tử-Hống Như-Lai.

Nam mô Câu-Lưu-Tôn Như-Lai.

Nam mô Tỳ-Bà-Thi Như-Lai.

Nam mô Ða-Bảo Như-Lai.

Nam mô Bảo-Tướng Như-Lai.

Nam mô Ca-Sa-Tràng Như-Lai.

Nam mô Ðại-Thông Sơn-Vương Như-Lai.

Nam mô Tịnh-Nguyệt Như-Lai,

Nam mô Sơn-Vương Như-Lai

Nam mô Trí-Thắng Như-Lai

Nam mô Tịnh-Danh-Vương Như-Lai.

Nam mô Trí-Thành-Tựu Như-Lai

Nam mô Vô-Thượng Như-Lai.

Nam mô Diệu-Thinh Như-Lai,

Nam mô Mãn-Nguyệt Như-Lai,

Nam mô Nguyệt-Diện Như-Lai,

Tiếp theo Chủ lễ đọc Thần-chú:

   

Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

Thân chúc các quý vị thân tâm thường lạc, công đức thêm nhiều, đạo hạnh viên-mãn.

      Đốt 108 nến ở giữa sân và xếp hàng đi vòng quanh niệm danh hiệu Phật:

 

Nam mô A-Di-Đà Phật. (108 lần hoặc nhiều hơn).

 

Nam mô Đại-Từ Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

 

Nam mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát.

 

Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát. 

 

Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng   Bồ-Tát.

      

Đốt sớ:

    

Kết thúc khóa lễ  Vu-lan

__________________

           

           

Các quý vị chú ý:

Vì đây không phải chỉ có giáo lý của Phật về Lễ Vu-lan mà còn có Kinh Vu-Lan Bồn. Kinh-điển là pháp thân của Phật vì thế các bạn phải bảo vệ giữ gìn cẩn thận, thường để trên ban thờ Phật hay chỗ trang-nghiêm, thanh tịnh. Nếu các bạn mà lấy đây in ra để cúng dường cho người khác thì công-đức đó thật là vô lượng còn gấp trăm ngàn lần xây chùa tháp. Vì sao? Vì những Kinh-điển bạn in ra người nào đọc được lấy đây y-giáo phụng hành, họ đời này hay đời sau thành Phật thì hỏi công đức này lấy gì sánh bằng? Nên nói cúng dường pháp là vua trong các pháp cúng-dường.

Chúc quý vị đồng tu làm được nhiều công đức phúc báo cho mình, cho vợ, con và ông bà, cha mẹ của mình.

 

Ban biên tập Làng Phổ-Đà Liên Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải phòng ấn tống cúng dường 2014.

LỊCH SỬ NGÀY LỄ VU-LAN BỒN

    Nam Mô Đại-Mục Kiền-Liên Bồ-Tát.

Bài nói chuyện của Cư sỹ Quảng-Tịnh

Mùa Vu-Lan 2013 tại Hải Phòng.

Làng Phổ-Đà Liên-Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải Phòng in lần thứ hai năm 2015 cúng dường.

Các bạn đồng tu thân mến!

Sắp đến ngày Lễ Vu-Lan, tôi cũng như các quý vị đều một lòng luôn hướng về ông bà, cha mẹ của mình với lòng thành kính, bùi ngùi thương nhớ, mong sao lo sắm lễ, tổ chức đại-lễ để các bậc ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất tổ đều được hưởng ơn ân sâu của các chư vị Phật, chư Đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh-Tăng mà được độ thoát nơi cảnh khổ của địa-ngục hay đọa vào Ngã-quỷ, Súc-sinh.

Hễ ai đã làm bậc cha mẹ thì hẳn biết công lao sinh thành, nuôi nấng vất vả ra sao để con cháu có ngày hôm nay. Miếng cơm ngon cha mẹ nhường nhịn cho con, năm canh chẳng bao giờ được ngủ yên, phải luôn thức giấc trông con, chăm cháu. “Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ chịu”.

Lại nữa, lúc con khỏe mạnh thì vất vả là vậy, nhưng lúc ốm đau, trái gió, trở trời thì còn khổ hơn gấp trăm lần. Con mỗi khi cảm cúm, mũi ngạt, khó thở, cha mẹ truyền tay nhau bế vác, ru, dỗ thắt cả ruột gan.

Lại nữa, cuộc đời đâu có dễ dàng, miếng cơm manh áo, cho đến cuốn vở, sách đèn, ngôi nhà, nghề nghiệp, dựng vợ gả chồng v.v... tất cả những đòi hỏi để cho con, cháu có được đó là cả một đời còng lưng vất vả, mồ hôi nước mắt lam lũ mới tạo dựng nên cho con, cháu hôm nay. Nhiều khi vì quá thương con, lại gặp cảnh đời khó khăn nên biết là làm việc không phải, tạo tội mà nhiều bậc cha mẹ vẫn phải nhắm mắt mà làm. Bởi thế có câu:

Công cha như núi Thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Vất vả gần cả cuộc đời là vậy, khi tóc đã bạc, lưng đã còng mà đâu đã được nghỉ ngơi. Khi con lớn khôn, có vợ, có chồng, thương con giờ ông bà lại phải trông nom con cháu. Người ta có câu: “ Một người già bằng ba kẻ ở !”

Đúng là như vậy, về già rồi còn vất vả hơn khi lúc thanh xuân, tất cả mọi việc trong nhà con cái đi làm ông bà phải gánh vác. Thật công đức ấy nếu có hình tướng thì chất đến trời cao. Nên Phật nói: “Ông bà, bố mẹ là Phật trong nhà”.

Ông bà, bố mẹ của chúng ta là thế, vậy bạn có bao giờ hỏi giờ ở nơi đâu? Cách biệt phương nào ta đâu có biết? Ngậm ngùi thương nhớ biết phải làm sao? Những người con cháu có hiếu luôn luôn nghĩ phải làm gì để gọi chút báo đền cho khỏi tủi hận?

Bởi vậy, khi trời đất bắt đầu chuyển mình, ngày vào se lạnh, cũng là lúc mùa Vu-lan đến, chúng ta lại nhớ về ông bà cha mẹ của mình những mong đến ngày tu tập bên nhau, sắm lễ dâng hương làm đại lễ Vu-Lan cầu Trời, Phật độ cho cha mẹ ông bà được mau giải thoát.

       Image result for phat tu cau nguyen                                                                                                                    

Ảnh những người con hiếu thảo thương nhớ về ông bà cha mẹ của mình.

Nhưng thật buồn thay! Không phải ai cũng biết ý nghĩa ngày lễ này ra sao? Có từ bao giờ? Và phải làm gì?

Vì vậy tôi hôm nay muốn chia sẻ với tất cả các người hiếu tử nói về ý nghĩa của đại lễ Vu-Lan.

Các bạn đồng tu thân mến!

Chúng ta ngày rằm tháng bẩy, ngày Lễ Vu-lan do nhiều người chưa được học về Kinh-điển giáo lý của Phật nên người miền Bắc vẫn quen gọi là ngày “Xá-Tội Vong-Nhân” cúng các chúng-sinh không nhà không cửa. Còn ở miền Nam, rằm tháng 7 thường gọi là “Vu-Lan Thắng Hội”, ngày để con cái báo hiếu cha mẹ. Nhiều nội dung đúng mà nhiều khi cũng chẳng như Kinh Phật dạy mà từ ảnh hưởng của Trung Quốc đem vào, cộng với tự nghĩ của mình mà làm nên đúng ít sai nhiều, lợi ích bị hạn chế rất nhiều. Chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ càng lại để chỉnh sửa cho đúng.

Sự tích của ngày cúng rằm tháng 7 cũng bắt nguồn từ khi Phật thấy lòng hiếu thảo hết mực của Ngài Mục-Kiền-Liên với cha mẹ của mình, với lòng từ bi rộng lớn mà Ngài đã đưa ra những sắc quyết quan trọng cho ngày lễ này ra đời.

Chúng ta đi tìm hiểu vào Kinh điển Phật thì thấy rõ ý nghĩa của ngày lễ Vu-Lan này. Tôi xin trân trọng chuyển đến quý bạn đồng tu nội dung quan trọng này. 

Thưa các bạn đồng tu! Ngài Mục-Kiền-Liên một vị A-La-Hán, đệ-tử lớn của Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Mục-Kiền-Liên không phải tên thật mà chỉ là hiệu, còn Tên Ngài là La-Bộc.

Chuyện xưa kể rằng La-Bộc là con ông Phổ-Tướng và bà Thanh-Đề là người con hết mực hiếu thảo. Ngay từ nhỏ luôn biết chăm lo phụng dưỡng cha mẹ hết lòng. Vì gia đình túng thiếu, La-Bộc phải đi buôn bán ở tỉnh Kiên-Liên. Khi đã giầu có, La-Bộc nhớ tới mẹ già liền cho người về quê biếu tiền mẹ. Bà mẹ ăn xài hết nhẵn số tiền đó rồi, lại sai người giết chó làm nhân bánh biếu sư. Đến lúc La-Bộc về thì bà mẹ lại chối và nói rằng bao nhiêu tiền con gửi về cho đã đem cúng cả vào đền chùa Miếu-vũ rồi.

Chẳng bao lâu bà mẹ chết. Chịu tang mẹ 3 năm, La-Bộc đi qua nước Ki-đô là nơi Phật ở, La-Bộc xin được quy-y và ở lại đây tu luyện.                                                                                          

Đức Phật thấy La-Bộc có chí nên đã chấp thuận lời thỉnh cầu đó và sai thầy Kha-Na cắt tóc cho ông và đặt tên là Đại-Mục Kiền-Liên (gọi tắt là Mục-Liên) và cho vào tu ở chùa Lã-Bí trong rừng Quýt-Sơn. Sau một thời gian tu hành rất tinh tấn, được Phật và các chư Đại Bồ-Tát hết lòng tận tình dìu dắt, Mục-Kiền-Liên đã vượt mọi người thường và chứng quá vị A-La-Hán, có sáu phép thần-thông, nhờ đó có thể nhìn thấy rõ chúng sinh trong ba cõi từ nơi sâu tối nhất là Địa-ngục A-tỳ, cho đến cõi trời cao nhất là Trời Hữu-đỉnh.

Hôm ấy, nhân có dịp đi qua rừng Quýt-Sơn, Ngài Kiền-Liên phải đi qua ngôi chùa Thiên-Giai, đây là nơi có những âm-hồn thường kéo về đây để được nghe thầy trụ-trì là một vị Bồ-Tát giảng Kinh, thuyết pháp.

Mục-Kiền-Liên nhìn đoàn người ấy thì nhận ra trong đó có người cha của mình là ông Phổ-Tướng nhưng tìm mãi thì không thấy bà Thanh-Đề đâu. Ngài vận hết sức Thần-thông soi khắp nhân-gian, trên trời chẳng thấy, khi nhìn xuống các tầng địa-ngục thì thấy mẹ mình bị giam cầm, ở địa-ngục A-tỳ, nơi đó đen tối, ánh sáng của mặt trăng và mặt trời không bao giờ chiếu tới. Chân tay bà bị gông cùm, thân thể rất tiều tụy do bị cực hình tra tấn ngày đêm không ngừng nghỉ.                                                                                                                                                                                                                                

Nhìn thấy cảnh đó, Mục-Kiền-Liên ôm lấy mẹ mà khóc. Bà mẹ thấy con vừa mừng, vừa tủi, nước mắt hai hàng. Bà nhờ con tìm cách cứu mình thoát khỏi địa-ngục này.

Mục-Liên thấy mẹ bị như vậy liền lấy bình bát, đem cơm của mình dâng mẹ. Mẹ Ngài được cơm nhưng chưa vào miệng cơm đã hoá ra than lửa đỏ hồng. Ngài đau đớn quay về nơi Phật, sà vào lòng Phật mà khóc nức nở, Ngài kể lại chuyện mẹ mình nơi địa-ngục ra sao và mong Phật cứu giúp mẹ mình.

             Ảnh ngài Mục-Kiền-Liên dâng cơm cho mẹ.

Đức Phật thương xót mà nói: “Mẹ con tạo nghiệp ác sâu dầy nên bị đọa vào Địa-ngục A-tỳ, nơi khổ nhất trong các địa-ngục. Do bà bị đói ăn lâu ngày nên khi được con dâng cơm, sợ các cô-hồn đến tranh cướp nên đã dùng một tay che bát cơm, mắt bốc lửa nên khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành than. Dù con có sức thần-thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ mình đâu. Giờ chỉ có một cách vào ngày rằm tháng bảy 7 tới đây là ngày tự-tứ của mười phương Tăng, tất thảy các vị đều rất từ-bi, ứng thọ nên ai cúng-dường Thánh Tăng thì tất cả đều vượt ác-đạo, ứng niệm giải thoát. Con hãy lo sắm quần áo, cơm canh ngon, trai tịnh, và những mâm ngũ quả cùng hoa tươi, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Với lòng chí thành dâng lễ vật lên cúng-dường, khẩn cầu nhờ hợp lực của chư các vị Bồ-Tát, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các vị Pháp-sư cư-sỹ những người có lòng từ-bi, lại giữ gìn giới luật, đức độ ở khắp mười phương một lòng cầu các chư vị Phật, chư đại Bồ-Tát, hồi hướng công đức ấy cho mẹ của con và cả cha mẹ bẩy đời trước đây thì mới mong được giải thoát.”

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên về làm đúng lời Phật dạy, quả nhiên mẹ Ngài được giải thoát. Mục-Kiền-Liên đã đưa mẹ bay lên trời cầu xin Đức Phật xoá tội cho bảy đời cha mẹ trước đây của mình. Tất cả các bậc cha mẹ đó nhân đây cũng được giải thoát. Mục-Kiền-Liên lại bất giác nghĩ thương đến tất cả những bậc cha mẹ của bao người khác cũng giống cha mẹ của mình một sương hai nắng, tần tảo nuôi con, nhiều khi tạo tội cũng chỉ vì miếng cơm manh áo của con. Vì thế, Ngài quỳ gối chắp tay, cúi xin Phật mở lòng hải-hà, cho các người con hiếu thảo với ông bà, cha mẹ hay người thân yêu của mình cũng được có cơ hội mỗi năm dâng cúng vật lễ chay tịnh lên các chư Tăng để mong nhờ công-đức và lòng từ-bi của các chư vị mà được giải thoát.

Đức Phật khen lành thay! Ngài đã ban bố và thí phép để hàng năm mở cửa Trời ngày Rằm tháng bẩy từ 12 giờ đêm hôm 14 đến 12 giờ đêm hôm 15, các vong-linh được về gia đình mình để dự cùng con cái làm lễ Vu-Lan. Ngài cũng xác quyết, khuyến thỉnh các vị chư Bồ-Tát, Thănh-Văn, Duyên-Giác, Tăng-Ni vào ngày tự-tứ rằm tháng bẩy, hoan hỉ nhận lễ cúng-dường của mọi người con hiếu thảo dâng tiến, rồi làm đại lễ Vu-Lan cầu chư Phật, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng để độ cho ông bà, cha mẹ, người thân của các gia-chủ thoát khỏi ba đường khổ nơi Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc-sinh, lại được trở lại làm người, có cơ hội để mà tu hành cầu được giải thoát sinh-tử luân-hồi mau thành Bồ-Tát, thành Phật.

Từ đó trở đi, cứ sau mùa kiết-hạ là các chư Tăng, Ni, các Pháp-sư Cư-sỹ cùng các Phật-tử đều tổ chức ngày Lễ Vu-Lan để các người con hiếu thảo bốn phương về dâng lễ vật cầu cho ông bà cha mẹ mình được giải thoát.

 

Ảnh 108 ngọn nến lung linh được Pháp-sư cư-sỹ Quảng Tịnh và các Phật-tử thắp lên

đêm Lễ Vu-lan 2011 tại chùa Lũng-Tiên Quận Kiến-An thành phố Hải Phòng, Việt Nam.

Dựa vào tích ấy, vào ngày rằm tháng 7, các chùa đều làm lễ chay trai đàn, phá ngục cho các tội nhân. Nhà nhà cũng theo đó thành kính, làm lễ vì tin rằng ngày đó dưới âm phủ nhiều vong nhân sẽ đuợc xá tội.

Noi gương hiếu thuận của Mục-Kiền-Liên, ngày rằm tháng 7 trở thành ngày tết Vu-Lan, con cái báo ân cha mẹ. Ngày lễ ấy có giá trị đạo đức rất cao. Người ta có câu: “Giọt ranh trước rơi thế nào, giọt sau rơi thế đấy”.

Việc các quý vị báo hiếu cha mẹ mình hôm nay ra sao, sẽ có tác dụng giáo dục, bồi đắp lòng hiếu thảo của con cháu quý vị với ông bà, cha mẹ sau này, gieo nhân Bồ-Đề cho mãi mãi mai sau. Bởi thế, các quý vị đang làm một công việc đầy ý nghĩa cao cả nhất, thiết thực nhất cho Ông bà cha mẹ, người thân và cho cả chính mình.

(còn tiếp phần Sự khác nhau giữ lễ Vu-Lan báo hiếu và Ngày cúng cô hồn, xóa tội vong

SỰ KHÁC NHAU GIỮA LỄ VU-LAN BÁO HIẾU VÀ NGÀY CÚNG CÔ HỒN, XÓA TỘI VONG NHÂN

Các bạn đồng tu thân mến!

Ngày Rằm tháng bẩy theo đạo Phật thì là ngày Lễ Vu-Lan Bồn, còn theo nhân gian vì ảnh hưởng của Nho giáo và Lễ giáo Trung Hoa nên gọi ngày này là “Ngày xóa tội Vong Nhân” hay “Ngày cúng Cô-Hồn”. Nhiều người không học Kinh điển Phật nghĩ là giống nhau nhưng thực ra Ngày Lễ Vu-Lan và Lễ Cô-Hồn hoàn toàn khác nhau là hai lễ nhưng trùng vào cùng một ngày.   

Sự tích Lễ cúng Cô-hồn đại khái như sau:

Theo “Phật Thuyết Cứu-Bạt Diệm-Khẩu Ngạ-Quỷ Ðà-La-Ni Kinh” mà suy thì việc cúng cô-hồn có liên quan đến câu chuyện giữa Ngài A-Nan-Ðà, thường gọi tắt là A-Nan, người em con chú của Phật và cũng như ngài Mục-Kiên-Liên, các vị đều là đệ-tử lớn của Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Câu chuyện với một con quỷ miệng lửa (Diệm-khẩu) hay cũng gọi là quỷ mặt cháy (Diệm-nhiên).

Có một buổi tối, Ngài A-Nan đang ngồi trong tịnh-thất thì thấy một con ngạ-quỷ, thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A-Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi Ngạ-quỷ miệng lửa mặt cháy như nó.

A-Nan sợ quá, bèn nhờ Quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn Ngạ-quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng-dường Tam-Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sinh về cõi trên”.

A-Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn cho Ngài bài chú gọi là “Cứu-Bạt Diệm-Khẩu Ngạ-Quỷ Ðà-La-Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước.

Từ đó, người Trung-Hoa đã làm lễ cúng cô-hồn, gọi lễ cúng này là Phóng-diệm-khẩu, tức là cúng để bố-thí và cầu nguyện cho loài quỷ-đói miệng lửa (Ngạ-quỷ), đó là những vong-hồn vật vờ không nơi nương tựa, sống vạ vật nơi gốc cây, bờ bụi rậm hay hang hốc v.v… vì không có ai là người thân trên trần-gian để nương tựa, cúng bái.

Quỷ-đói trong Kinh-điển Phật gọi đó là loài Ngạ-quỷ, loài này đầu to, mặt mày dữ tợn đầu tóc bù xù nhưng cổ bằng cái xe điếu trong khi cái bụng thì lớn, chân tay thì gầy còm.

Vì sao? Vì hễ ăn gì kiếm được vào cổ họng nuốt chẳng thể trôi xuống cái dạ dầy, vì cổ quá bé, nên lúc nào cũng thấy đói khát.

Những người khi sống ở nhân-gian tính tình keo-kiệt, hay xâm phạm tài sản của thường-trụ như lấn chiếm đất chùa, lấy các đồ vật cho đến hoa trái trong chùa mà không được sư trụ-trì cho phép.

Lại nữa nhiều người khi sống cậy có nhiều tiền ăn chơi vung phí, cờ bạc, trai gái, rượu bia, thuốc sái, các đồ ăn thức uống thường thừa thãi nhưng đem đổ đi, trong khi người nghèo cũng như muông thú đói khát thì chẳng có ăn.

Lại nữa, có những người sống không tin nhân quả, cho rằng chết là hết nên mặc tình làm ác mà không biết sợ, những người như thế khi lâm-chung đều bị đọa làm loại Ngạ-quỷ.

Như trong Kinh Vu-Lan thì mẹ của ngài Mục-Kiền-Liên là bà Thanh-Đề vốn xưa làm nghề bán thịt, phạn tội sát sinh, lại không tin nhân-quả, đem thịt chó làm nhân bánh lừa cúng-dường Tăng, Ni mà bị đọa vào Địa-ngục A-tỳ làm thân quỷ đói (như đã nói ở trên).

Ngoài đối tượng trên đã nói còn có loại hàng cô-hồn khác, đó là những khi sống không mắc tội lớn nên không bị giam cầm trong các địa-ngục nhưng cũng lại không có đủ phúc để được siêu thoát đầu thai trở lại làm người hay được sinh lên cõi Trời.

Như chúng ta đã biết muốn đầu thai trở lại làm người thì khi sống, người ta phải thực hành đủ năm giới là:

1, Không sát sinh; 2 Không ăn cắp; 3, Không tà-dâm; 4, Không uống rượu; 5, Không nói dối.

Đây là tiêu chuẩn căn bản để khi lâm-chung được đầu thai trở lại làm người. Trong Kinh gọi đó là Hiền-nhân.

Còn những ai ngoài giữ năm giới trên đây lại thực hành thêm 5 giới nữa gọi là Thập giới, đó là:

Ba giới cho khẩu (tức là lời nói): 6, Không vọng ngữ (nói lời thêu dệt); 7, Không lưỡng thiệt (không nói lời hai chiều); 8, Không ác khẩu (không nói lời độc ác). Hai giới có ý: 9, Không giận hờn; 10, Không si mê.

Nếu thực hiện được như thế thì gọi là Thánh-nhân, người này khi lâm-chung được sinh lên cõi Trời làm Tiên, Thánh.

Số người sống ở nhân-gian là Hiền-nhân và Thánh-nhân quá ít, phần nhiều khi lâm-chung thường bị đọa vào ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ và Súc sinh.

Vì sao nói vậy? Vì người giữ giới quá ít, quá ít. Người nghiên cứu học hành Kinh-điển của Phật, làm công đức lành lại càng ít hơn. Giầu khó tu mà nghèo lại càng khó tu hơn, người không có công danh địa vị khó tu mà người làm quan, có chức sắc cũng lại càng khó tu hơn nữa”.

Như thế có hai đối tượng của ngày cúng cô-hồn là:

1, Những người đọa làm loài Ngạ-quỷ từ địa-ngục nhân ngày rằm tháng bẩy nhờ cửa địa-ngục mở mà ra.

2, Những người khi sống không mắc tội lớn nên không bị giam cầm trong các địa-ngục nhưng cũng lại không có đủ phúc để được siêu thoát đầu thai trở lại làm người hay được sinh lên cõi Trời.

Tóm lại: Ý nghĩa chính của Lễ Cúng cô-hồn là ở chỗ: những người khi sống có con cái, người thân yêu có hiếu thảo nên ngày Vu-Lan săn sóc, chăm lo tụng Kinh, làm lễ Vu-lan cầu thỉnh chư Tăng, Ni lễ Phật cho mình để được giải thoát, trong khi đó, những người vốn không có thân nhân, chẳng có con cái thì sao đây? Ai sẽ là người lo cho họ?

Sau đây là một vài hình ảnh nói về cảnh giới mà những thần thức của người khi sống ở nhân gian tạo tội ác phải chịu ở địa-ngục trong tập Địa-Ngục Biến Tướng Đồ đã miêu tả.

Khi lâm-chung, trước Diêm-Vương những người và con vật mà người ta nợ sẽ là người đến đòi trả nợ trước tiên. Không ai có thể phủi nợ trốn nợ mà đi. Vay gì, nợ gì trả đó. Vay mạng, đền mạng vay tiền trả tiền. Nhân nào quả đó không thể sai.     

Khi xưa trói người, trói thú vật hành hạ họ, hôm nay gặp quả báo không khác. Những người trói gà, lợn, chó v.v... giết chúng thì khi mạng chung phải bị hành hình như ảnh này.  

Ở nhân-gian còn có thể ỷ chức, cậy tiền chạy án, xuống âm phủ thì luật trời là Thiên-lý, không thể đổ lỗi cho người khác, chẳng thể chạy tội.

Hôm xưa giết người, sát vật thì cũng bị hành xử bị chém. 

Đức Phật lòng từ-bi, bình-đẳng thương xót tất cả không có ngằn mé, chẳng chừa một ai, kể cả đến loài cầm thú, các chúng hữu-tình. Ngài thể theo lời kể và thỉnh cầu của ngài A-Nan mà Ngài nhân ngày lễ Vu-lan, cũng cho mở cửa ngục để những cô-hồn được về ăn mày nơi cửa Phật, hay những phẩm vật của những người hảo tâm cúng-dường.

Chúng ta nên biết, thường thì đến ngày này, khi cửa ngục mở, những phạm nhân và cả những cô hồn bơ vơ vất vưởng họ hay kéo đến các Chùa chiền, Lâm-tự, cậy nhờ các tấm lòng từ-bi rộng lượng các Chư Tăng, Ni, của các Phật-tử để cầu độ thoát và nhận tín thọ của cúng-dường. Chúng ta do không có phép thần-thông, thường nhìn với mắt thịt nên không thể thấy họ, nhưng họ vẫn hiện diện trước chúng ta, đứng ngồi bên cạnh chúng ta, nhìn rõ chúng ta, chỉ có điều chúng ta lại không nhìn thấy họ mà thôi. Nhưng chúng ta vẫn cảm nhận rõ điều đó qua cảm ứng và cá biệt có người có khả năng đặc biệt nhận biết họ, cảm ứng giao tiếp được với họ, số đó không nhiều.

Trong số các Cô-hồn và cả ma, quỷ v.v… do không có phước đức nhân-duyên để đầu thai lại làm người nên nhiều khi liều mạng làm điều sai trái như nhập vào người đang sống, ép thần-thức nép vế, rồi sai khiến, điều khiển họ, làm họ bị mụ đi, tâm thần như điên như dại. Trong Kinh Phật gọi đó là loài Ma-dựa, Quỷ-dựa. Điều này nhiều bạn không biết được tình trạng này. Nhiều bạn đồng tu, đi với tôi, đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy xẩy ra và có cả người trong Đạo-tràng Liên-Hoa Tịnh-độ thành phố Hải Phòng, trong gia đình con trai họ là thanh niên khỏe mạnh cũng đã bị ma-dựa khổ sở mấy năm qua, suốt ngày trốn bố mẹ đi lang thang khắp nơi. Bố mẹ thương con đã tốn kém không biết bao nhiêu tiền mà không giải quyết được.

Chỉ khi gia đình lập ban thờ Phật, đặt tượng Địa-Tạng, tụng Kinh 21 ngày, phân tích, khuyên bảo, khuyến thỉnh vị Ma-dựa, Quỷ-dựa này, yêu cầu họ phải rời thân không nên tạo thêm nghiệp ác mà đọa vào trọng tội, vừa mềm dẻo vừa kiên quyết khuyến thỉnh ác-nhân, Ma-dựa đó quy-y Tam-bảo, rời thân người để vào chùa ăn mày cửa Phật, tu hành tụng Kinh niệm Phật để có cơ hội lớn đầu thai trở lại làm người. Thậm chí phân tích cho họ biết không có đường nào khác để chọn lựa. Một mặt tụng trì các thần-chú như Chú Đại-Bi, Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn, thành tâm sám hối, làm công-đức để hồi hướng cho pháp-giới chúng sinh, trong đó có cả những ai mà ta đã gây ra mọi khổ đau cho họ như thiệt mạng, bị đau đớn, bị tủi nhục v.v… để họ được vãng sinh về Tây phương Cực-Lạc hay vào các cảnh giới lành. Vì thế, chúng ta hóa giải được hận thù, biến thù thành bạn và họ hoan hỷ không đòi nợ ta nữa. Ta cũng cầu nguyện đến các chư vị Phật đã cho để kêu gọi Phật và chư đại Bồ-Tát, các vị Hộ-Pháp đến bảo vệ cho nạn-nhân và gia đình. Cuối cùng họ đã phải chấp nhận, tuyên thệ rời thân nạn nhân mà đi.

Nạn nhân đã bình phục, gia đình vui vẻ hoan hỷ và trở thành Phật-tử thuận thành.

Các bạn đồng tu thân mến!

Vì Phật-pháp mà tôi phải nói ra điều này với mục đích chính là để các bạn đồng tu biết được tình trạng này để phòng tránh.

Như Phật đã dạy trong Tứ-Diệu-Đế hay các Kinh-điển rằng: “Được làm thân người rất khó! Được gặp Phật-pháp lại càng khó hơn! Nên khi gặp Thiện-tri-thức thì phải biết lắng nghe tụng trì Kinh-điển giáo lý của Phật, học và thực hành để mau thoát ly sinh-tử luân-hồi, nếu bỏ qua cơ hội ngàn vàng khó mà gặp lại, làm việc công-đức cũng phải có trí-tuệ, chúng ta phải cầu thân-báo chứ đừng vì tham mà chỉ nghĩ đến tạo phước báo. Phước báo là có hạn còn thân báo là vô hạn và vĩnh cửu. Chúng ta cầu thân Phật.” 

Các bạn đồng tu thân mến!

Quay lại vấn đề ngày lễ Vu-Lan và “Ngày Xóa Tội Vong-Nhân”. Theo tín ngưỡng dân-gian, thì bắt đầu từ 12 giờ đêm ngày 14, rạng ngày 15 tháng 7 âm lịch cho đến 12 giờ đêm 15 là ngày “mở các cửa địa-ngục”, các cô-hồn được tại ngoại, xá-tội, được về dương-thế, vảng vất khắp nhân-gian. Vì vậy, mọi người có hảo tâm tốt nhất có thể mang các lễ vật đến Chùa, hay Lâm-tự để cùng các thầy làm lễ cúng cô-hồn cho họ lĩnh thọ và cầu cho họ được giải-thoát. Vì thế, nơi chùa nào thanh-tịnh, sư Tăng, Ni giữ-giới, giầu đức từ-bi, lại chuyên lo hoằng-dương Phật-pháp độ sinh thì thường nơi đó các cô-hồn kéo về đó rất đông, chật cả sân chùa ra đến ngoài đường. Họ ngồi yên tịnh bên cạnh người sống cũng chắp tay niệm Phật nhờ Phật A-Di-Đà và các chư đại Bồ-Tát, Thanh-Văn, duyên-Giác tiếp-dẫn về Tây phương Cực-lạc hay được thoát khỏi ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sinh. Họ nhìn thấy chúng ta mà chúng ta không nhìn thấy họ mà chỉ có cảm giác có họ.

Các bạn đồng tu thân mến!

Tại sao tôi nói, nếu ai có hảo tâm muốn cúng-dường các Cô-hồn thì nên mang lễ vật đến chùa để cúng-dường họ?

Các bạn nên biết! Có nhiều người trong số Cô-hồn hay Ma, hay quỷ-đói (Ngạ-quỷ) họ đến đây có thể chỉ vì muốn nhận thọ của cúng-dường chứ không có trí-tuệ nhân-duyên và tâm muốn tu hành thoát ly-sinh tử Luân-hồi. Ở nhân-gian chúng ta cũng đã thấy có phải ai cũng mong cầu tu hành Phật đạo, gìn giữ phẩm hạnh, thâm nhập Kinh tạng để cầu sự giải thoát thành Bồ-Tát, thành Phật đâu. Họ đang tạo nghiệp trong đó có cả điều tốt và điều ác nữa mà điều ác lại nhiều. Cho nên, nếu bạn đem ra trước cửa nhà mình hay trong vuờn, sân, hay nơi bàn thờ trong nhà v.v… để cúng-dường các Cô-hồn, Ma-đói, Quỷ-đói v.v… thì họ còn có điều gì mừng hơn, họ sẽ kéo đến để thọ nhận nhưng sau đó họ không dời đi nữa thì sao?

Các bạn cần biết! Họ chính là người mà hoàn cảnh rất khổ cực, vô gia-cư, không có nhà cửa, chẳng nơi nương tựa, nhân có lời mời của bạn mà đến nhà để nhận tin thọ, họ đến đó rồi thấy nhà cửa ấm cúng, chủ nhà dễ chịu rồi cứ ỳ ra, sau ngày này không đi thì bạn tính sao? Có khi vì đói lâu ngày còn đánh chửi nhau tại nhà bạn nữa. Bạn phải cẩn thận, làm công đức cũng cần phải có trí-tuệ.

Chúng ta nên biết! Thường thì mỗi căn nhà gia đình chúng ta đều có các chư vị Thần hộ-mạng các bạn mà trong Kinh Địa-Tạng đã nói, đó là vị Chủ Mạng Quỷ-Vương và các quân tướng thân cận của vị này. Các vị Thổ-địa, Thổ-thần, Táo-Quân, Táo-Mẫu cũng là người giúp việc đắc lực của Chủ Mạng Quỷ-Vương. Các vị này giúp bảo vệ không cho Ma, Quỷ và Cô-hồn đến và ra vào tự do nơi nhà các bạn. Nếu quý vị nhà có ban thờ Phật, lại thường tụng Kinh, giữ giới, ăn chay niệm Phật thì còn được các chư vị Phật, chư vị Bồ-Tát, các vị Hộ-Pháp, Chư Thiên, Thần, Thánh và các vị Thập-Điện Tướng-Quân, Quỷ-Vương, Thổ-địa, Thổ-Thần v.v… bảo vệ giữ gìn cho.

Vì sao? Vì các vị đây đã có lời thệ nguyện sẽ bảo vệ những người như vậy. Nên các Ma, Quỷ Cô-hồn không thể tự do mà đến  ở được.

Nhưng nếu các bạn nhà không có ban thờ Phật, chẳng tụng Kinh-điển, lại hay giết gà, nấu hành tỏi, mắm, uống rượu v.v… không ăn chay, giữ giới thì những thứ ăn uống kia như là thứ dụ Ma, Quỷ đến. Các vị Hộ-Pháp cũng như Phật và chư Đại Bồ-Tát, Thần, Thánh sẽ rời nhà bạn. Vì sao? Vì các vị rất thanh-tịnh, khi gặp cảnh đó sẽ rời đi ngay. Khi ấy Ma-Quỷ thả sức mà đến, ra vào tự do, nhà cửa các bạn sẽ lộn xộn, bất ổn, luôn gặp mọi thứ phiền-não quấy phá, thậm chí tai họa. Vì các vị này cá lớn nuốt cá bé, thường hay tranh giành thậm chí ẩu đả, đánh nhau. Những thứ thịt, cá, rượu, hành tỏi v.v… đó là sở thích là khoái khẩu của họ. Nếu bạn lại mời thỉnh họ đến thì họ còn gì mừng hơn, rồi như thành cái lệ, khó thể mời họ dời đi. Các bạn phải rất cận thận việc này!

Tốt nhất, nếu không mang lễ vật ra chùa thì mang ra đầu làng, hay dưới các gốc cây v.v… bầy biện để cúng-dường. Còn không thì nên đưa đến chùa để họ tín thọ, ở đó có các vị Hộ-Pháp giữ gìn trật tự để ai cũng được nhận phần, nhưng điều quan trọng là để họ có cơ hội mà thức tỉnh, giác-ngộ biết đến đây mà nghe pháp, nghe tụng Kinh, niệm Phật cầu được sự giải thoát. Chỉ cần họ tụng danh hiệu một vị Phật, danh hiệu một vị Bồ-Tát hay Bích-Chí-Phật, hay tụng một phẩm Kinh thì lập tức được sinh lại làm người. Đó là lời Phật và Bồ-Tát Địa-Tạng đã dạy trong Kinh Địa-Tạng mà tôi đã trích dẫn ra đây để các quý vị quán xét, học và hành. Đọc nó chúng ta sẽ biết:               

Tại sao có đạo lý này?

Trong Kinh Địa-Tạng, Phẩm Thứ Chín: Xưng Danh Hiệu Chư Phật đã nói rõ:

“Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng Bồ-Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Nay con vì chúng sinh trong đời sau mà phô bày sự lợi ích, làm cho trong vòng sinh tử được nhiều lợi ích lớn. Cúi xin đức Thế-Tôn cho phép con nói đó”.

Ðức Phật bảo Ngài Ðịa-Tạng Bồ-Tát rằng: “Nay ông muốn khởi lòng từ-bi cứu vớt tất cả chúng sinh mắc phải tội khổ trong sáu đường, mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn, bây giờ chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.

Giả sử ông có thể sớm làm xong nguyện đó, Ta dầu có vào Niết-Bàn, cũng không còn phải lo ngại gì đến tất cả chúng sinh ở hiện-tại và vị-lai nữa”.

Ngài Ðịa-Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Vô-lượng vô-số kiếp về thuở quá-khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Vô-Biên-Thân Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe danh hiệu của Ðức Phật đây mà tạm thời sinh lòng cung kính, liền được siêu-việt tội nặng sinh tử trong bốn mươi kiếp, huống là vẽ đắp hình tượng cúng-dường tán thán! Người này được vô-lượng vô-biên phước lợi.

Lại hằng-hà-sa kiếp về thuở quá-khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Bảo-Thắng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, phát tâm quy-y với Phật trong khoảng khảy móng tay, người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi đạo Vô-thượng Chánh-giác.

Lại về thuở quá-khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba-Ðầu Ma-Thắng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai, người này sẽ được một nghìn lần sinh lên sáu tầng trời cõi dục, huống nữa là chí tâm xưng niệm!

Lại bất-khả-thuyết vô-số kiếp về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Sư-Tử-Hống Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, mà phát tâm quy-y chừng trong một niệm, người này sẽ được gặp vô-lượng các Ðức Phật xoa đỉnh thọ-ký cho.

Lại về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Câu-Lưu-Tôn Như-Lai.

Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, chí tâm chiêm ngưỡng lễ bái hoặc lại tán thán, người này nơi pháp hội của một nghìn Ðức Phật trong hiền-kiếp làm vị đại Phạm-Vương, được Phật thọ-ký đạo Vô-thượng cho.

Lại về thuở quá-khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ-Bà-Thi Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi không còn sa đọa vào chốn ác-đạo, thường được sinh vào chốn Trời, Người, hưởng lấy sự vui thù thắng vi-diệu.

Lại vô-lượng vô-số hằng-hà-sa kiếp về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ða-Bảo Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây liền khỏi đọa vào ác-đạo, thường ở tại cung trời, hưởng sự vui thù thắng, vi-diệu.

Lại về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu Bảo-Tướng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, sinh lòng cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đặng quả A-La-Hán.

Lại vô-lượng vô-số kiếp về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ca-Sa-Tràng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây, thời người ấy sẽ siêu thoát tội sinh-tử trong một trăm đại-kiếp.

Lại về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ðại-Thông Sơn-Vương Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, thời người này được gặp hằng-hà chư Phật nói nhiều pháp mầu cho, đều được thành đạo Bồ-Ðề.

Lại về thuở quá-khứ, có đức Tịnh-Nguyệt Phật, đức Sơn-Vương Phật, đức Trí-Thắng Phật, đức Tịnh-Danh-Vương Phật, đức Trí-Thành-Tựu Phật, đức Vô-Thượng Phật, đức Diệu-Thinh Phật, đức Mãn-Nguyệt Phật, đức Nguyệt-Diện Phật, có bất-khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn như thế.

Tất cả chúng sinh trong thời hiện-tại cùng thuở vị-lai: hoặc là Trời, hoặc là người, hoặc người nam, hoặc người nữ chỉ niệm được danh hiệu của một Ðức Phật thôi, sẽ được vô-lượng công-đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu Phật. Những chúng sinh đó lúc sinh, lúc tử được nhiều phước lợi, không còn phải đọa vào ác-đạo nữa.

Như có người nào sắp mạng-chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bệnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Ðức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô-gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.

Năm tội lớn vô-gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức-kiếp hẳn không ra khỏi được quả khổ, nhưng bởi lúc lâm-chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.

Huống là chúng sinh tự mình xưng danh hiệu của chư Phật, người này được vô-lượng phước lành, trừ diệt vô-lượng khổ”.

Các bạn đồng tu thân  mến!

Như thế, các hương-linh, các cô-hồn về chùa nghe chúng ta niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, Phật Thích Ca-Mâu-Ni, danh hiệu đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát và danh xưng các chư vị Phật đã nói trên đây thì nhất định vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, được sinh lại nhân-gian làm người tu hành tiếp, hay phúc đức lớn có thể sinh lên cõi trời hưởng sự vui thù thắng như Kinh-điển Phật đã nói.

Nếu họ đến chùa được nghe thầy và các Phật-tử tụng Kinh, được các thiện-tri-thức chỉ bầy mà biết tự mình trì-danh niệm Phật A-Di-Đà, một lòng cầu nguyện vãng-sinh Tây phương Cực-Lạc, lại đem giáo-lý này nói với các cô-hồn khác thì chắc chắn họ được vãng-sinh thoát ba đường ác, cơ-hội về cõi nhân-thiên là điều chắc chắn. Vì đó là những lời Phật và ngài Địa-Tạng đã nói, chẳng thể hư dối.

Như thế, công đức của các quý vị thật là vô-lượng, đó cũng là việc làm Phật-pháp vậy. Đây là ý nghĩa to lớn nhất của Lễ Vu-Lan và cũng là của lễ Cô-hồn. Cho nên ngày này tôi vẫn cùng các quý vị đồng tu làm lễ Vu-Lan kết hợp lễ Cô-hồn ở chùa Lũng-Tiên, Hải Phòng là vì lẽ như vậy.

Bên cạnh việc mua sắm hoa quả tươi tốt, đèn nến, hương trầm thơm v.v… dâng lên Phật, lên chư Đại Bồ-Tát, chúng ta cũng làm cơm chay tịnh dâng cúng chư Tăng, Ni, rồi làm lễ phóng-sinh, có đồ xôi, oản phẩm vật để cúng cô hồn mong khuyến thỉnh họ cùng chúng ta niệm danh hiệu Phật, quy-y Tam-Bảo để mau chóng thoát ly ba đường ác đạo, sinh-tử luân hồi, mau thành Phật quả là vì vậy.

Người nhân-gian không hiểu thấu đáo đạo lý này nhưng họ có hảo tâm thường có lễ cúng chúng-sinh bằng cháo loãng, gạo, bỏng, muối, xôi oản v.v… cho những linh-hồn không nơi nương tựa ấy, đó cũng là một tập tục rất đáng quý. Nhưng nếu họ hiểu về Phật pháp mà ứng dụng thực hành thì quý báu biết bao, công đức đó thật là vô-lượng. 

Tóm lại: Tục cúng cô-hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô-hồn là Phóng-diệm-khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm-khẩu nữa. Diệm-khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô-hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô-hồn đã trình bày trên đây.    

Lòng thương nhớ mẹ cha không bao giờ nguôi!

Vậy lễ Vu-Lan và lễ cúng cô-hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện Ngài Mục-Liên báo hiếu cha mẹ, một đằng lại liên quan đến chuyện tuổi thọ của Ngài A-Nan. Một đằng là để cầu-siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố-thí cho những vong-linh không ai thờ cúng và làm nương tựa.

Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn.

Cả hai lễ này đều làm công-đức và đều phải nhờ lòng đại từ-bi của chư Phật và chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh, Tăng, Trời đất nên đều phải giữ giới, tránh sát sinh, trái lại nên phóng sinh thú vật, sắm lễ cúng-dường đều là phải đồ chay tịnh để dâng lên các vị. Thế nhưng nhiều người không hiểu đạo lý này lại biến ngày này thành ngày tạo nghiệp ác, giết gà, giết lợn v.v… làm cơm, mua rượu, bia trước là cúng bái ông bà, sau là để mà đãi nhau. Như vậy chẳng phải nghĩa báo hiếu mà là báo oán ông bà cha mẹ của mình, gây thêm ướng lụy cho các vị. Đã vậy, chân linh ông bà, cha mẹ còn phải đau lòng chứng kiến cảnh con cháu, nhiều khi rượu vào lời ra, lại còn gây ra bất hòa, bất kính, đánh cãi chửi nhau. Đó là việc làm cần nên tránh.

Các bạn đồng tu thân mến!

Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) danh nhân thế-giới là một người giàu lòng yêu thương con người do ảnh hưởng sâu sắc của Nho-giáo, Phật-giáo mà trong “Truyện Kiều” thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc nhất trong các sáng tác của ông. Ông đã diễn tả rất chi tiết về những hoàn cảnh đáng thương của các cô-hồn ngày rằm tháng bẩy như sau:

Cảnh tiết lạnh thương:
        Tiết tháng Bảy mưa rầm sùi sụt

        Toát hơi may lạnh buốt xương khô;

        Não người thay, buổi chiều thu,

        Ngàn lau nhuốm bạc, lá khô rụng vàng.

        Đường bạch dương bóng chiều man mác,

        Ngọn đường lê lác đác sương sa,

        Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

        Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

        Trong trường dạ tối tăm trời đất,

        Có khôn thiêng phảng phất u minh,

        Thương thay thập loại chúng sinh,

        Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

 

Cảnh cô hồn là người dân bị lâm trận chết:
        Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

        Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

        Nước khe cơm ống gian nan,

        Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời.

        Buổi chiến trận mạng người như rác,

        Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

        Lập lòe ngọn lửa ma trơi

        Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương...

Cảnh những cảnh cô-hồn xưa tranh ngôi báu gây đao binh:
      “Nào những kẻ tính đường kiêu hãnh

        Chí những lăm cướp gánh non sông

        Nói chi đang thuở tranh hùng

        Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

        Bỗng phút đâu tro bay ngói giở

        Khôn đem mình làm đứa thất phu

        Cả giàu sang nặng oán thù

        Máu tươi lai láng xương khô rã rời.

        Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc

        Quỷ không đầu van khóc đêm mưa

        Cho hay thành bại là cơ

        Màu hồn biết bao giờ cho tan.”

      “Nào những kẻ bài binh bố trận

        Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung

        Gió mưa thét rống đùng đùng

        Dãi thây trăm họ làm công một người.

        Khi thất thế tên rơi đạn lạc

        Bãi sa trường thịt nát máu trôi

        Bơ vơ góc bể chân trời

        Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao!

        Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

        Khí âm huyền mờ mịt trước sau

        Bao năm xương trắng dãi dầu

        Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường.”

Cảnh cô-hồn xưa buôn hoa bán phấn:
        Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

        Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

        Ngẩn ngơ khi trở về già,

        Ai chồng con tá biết là cậy ai?

        Sống đã chịu một đời phiền não,

        Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

        Đau đớn thay phận đàn bà,

        Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?

Cảnh cô-hồn là kẻ xưa ham làm giầu mà không biết tu hành bố-thí, làm công đức để tạo ra phúc báo cho mình:
        “Cũng có kẻ tính đường trí phú

        Mình làm mình nhịn ngủ quên ăn

        Ruột rà không kẻ chí thân

        Dẫu làm nên để dành phần cho ai.

        Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

        Của phù vân dù có như không

        Sống thì tiền chảy bạc dòng

        Thác không đem được một đồng nào đi.

        Khóc ma mướn thương gì hàng xóm

        Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

        Ngẩn ngơ nội rộc đồng chiêm,

        Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?”

Cũng có cô-hồn là kẻ ham quyền chức, công danh, phú quý hay ngày đêm vùi mình vào đèn sách thi cử nay chết:
      “Cũng có kẻ rắp cầu chữ Quý

       Dấn thân vào thành thị lân la.

       Mấy thu lìa cửa lìa nhà

       Văn chương đã chắc đâu mà thí thân.

       Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng

       Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

       Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

       Anh em: thiên hạ; láng giềng: người dưng.

       Bóng phần tử xa chừng hương khúc

       Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

       Cô hồn nhờ gửi tha phương

       Gió trăng hiu hắt khói hương lạnh lùng!”

Cảnh cô-hồn xưa là những số kiếp gặp bước không may trong những công cuộc mưu sinh buôn bán đầy gian truân, bất trắc:
 

     “Cũng có kẻ vào sông ra bể

       Cánh buồm thưa chạy xế gió đông

       Gặp cơn giông tố giữa dòng

       Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

       Cũng có kẻ đi về buôn bán

       Đòn gánh tre chín dạn hai vai

       Gặp cơn mưa nắng giữa trời

       Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao”.

 

Cũng có các cô-hồn là kẻ bị oan khuất bởi cường quyền bất lương:
 

   “Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

     Gửi thân vào chiếu lác một manh

     Nắm xương chôn rấp góc thành

     Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi.”

Đáng thương nhất là những cô-hồn khi xưa là những hài nhi yểu mệnh này thì thật là đau đớn, khiến đã là con người thì không ai có thể cầm được nước mắt:
    “Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

      Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

      Lấy ai bồng bế vào ra

      U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.”

Còn đây là những cô-hồn của các loài ma, quỷ không nhà không cửa, sống vạ vật nơi bụi rậm, hang hốc v.v… hay bơ vơ nay đây mai đó chẳng được đầu thai vào cõi nào để mà tu hành thoát ly sinh-tử luân-hồi, thật là thảm thiết:
     Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

     Hoặc là nương ngọn suối chân mây

     Hoặc là bụi cỏ bóng cây

     Hoặc là quán trọ cầu này bơ vơ.

     Hoặc là nương thần-từ, Phật-tự

     Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

     Hoặc là mông quạnh đồng không

     Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre.

     Sống đã chịu một bề thảm thiết

     Ruột héo khô da rét căm căm

     Dãi dầu trong mấy mươi năm

     Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.

     Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

     Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra

     Lôi thôi ẵm trẻ dắt già

     Có khôn thiêng hỡi lại mà nghe Kinh.”

    

Cuối cùng, qua Văn Chiêu-hồn nhà thơ Nguyễn Du cũng như mọi người chúng ta đều dành tất cả tấm lòng bác ái, trân trọng, bao dung và sự thương cảm vô-bờ bến của mình, để biến thành những lời tha thiết, chân thành khi trì-tụng cho mọi vong-hồn được siêu-thoát. Đó cũng là sứ mạng của người Phật-tử chân chính với mọi chúng hữu tình khổ đau và bất hạnh để cầu họ được thoát khỏi ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sinh, được trở lại làm người mà tu hành trì danh niệm Phật A-Di-Đà, cầu nguyện vãng-sinh Tây phương Cực-Lạc, thoát ly sinh-tử luân-hồi, thành Bồ-Tát, thành Phật.
Qua đây biết rằng được làm thân người rất khó, khi đã làm người hôm nay phải biết lấy đây làm cơ hội ngàn vàng mà tu hành, trì danh niệm Phật A-Di-Đà, cầu nguyện vãng sinh Cực-Lạc quốc, sám hối, làm lành nhất là biết phát tâm Bồ-Đề, in ấn Kinh-điển hoằng-dương Phật pháp độ mình, độ người:  

    “Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh-độ

      Phóng hào quang cứu khổ độ sinh.

      Khắp trong tứ hải quần sinh

      Não phiền trút sạch oán thù rửa trong.

      Nhờ đức Phật thần-thông quảng-đại

      Chuyển Pháp-luân tam-giới thập-phương

      Kinh-điển của Phật dẫn đường 

      Đại-thừa Phật-giáo cứu toàn chúng sinh.

      Nhờ phép Phật uy-linh dũng mãnh

      Trong giấc mê lay tỉnh chiêm bao

      Mười loài là những loài nào

      Gái trai, già trẻ đều vào nghe Kinh.

      Kiếp phù sinh như hình bào ảnh

      Có câu rằng: “Vạn cảnh giai không”

      Ai ai tâm Phật ghi lòng

      Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân-hồi.

      Đàn chẩn tế vâng lời Phật dạy

      Của có chi bát cháo, nén nhang

      Bánh, quả cùng với tiền hoa

      Gọi là có chút lòng thành hiến dâng.

 

      Nam mô Phật; Nam mô Pháp; Nam mô Tăng;

      Nam mô Nhất-Thiết Siêu-thăng thượng-đài.”

                 Chân-linh xin hãy cùng tôi

       Cúi đầu xin nguyện cha lành đoái thương

                 Từ-bi tiếp-dẫn Tây phương,

        Sinh trên sen báu, ngát hương thỏa lòng.

     Nam mô A-Di-Đà Phật

     Nam mô Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

     Nam mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát.

     Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng Vương Bồ-Tát.

     Nam mô Đại-Hiếu Mục-Liên-Liên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát,

     tác đại chứng minh. 

Ngày 15 tháng 3 năm 2013.

Quảng-Tịnh Cư-sỹ

Một số ảnh của Phật-tử Nguyễn Nghĩa chụp ngày lễ Vu-Lan năm 2011 tại chùa Lũng-Tiên, Quận Kiến-An thành phố Hải Phòn

Ảnh chùa Lũng-tiên đêm Vu-lan 2011, ánh trăng hay ánh vàng của hào quang Phật chiếu xuống tiếp-dẫn chúng sinh?

Ảnh do Phật-tử Nguyễn Nghĩa chụp đăng trên mạng toàn cầu         

Ảnh 108 ngọn nến thắp lên ở giữa sân chùa Lũng Tiên.         

Ảnh Lễ hội Vu-Lan do Pháp-sư Cư-sỹ Quảng-Tịnh cùng Phật-tử tại Đạo-tràng Liên-Hoa Tịnh-Độ TP. Hải Phòng tổ chức tại chùa Lũng Tiên năm 2011 do Huệ Quang đăng trên Google                    

Ảnh thầy Quảng-Tịnh và Phật tử đang niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà cầu Phật tiếp-dẫn các chân linh                        

Làm Lễ Vu Lan trong chùa Lũng Tiên. 

NHỮNG VIỆC LÀM QUAN TRỌNG CẦN PHẢI CÓ ĐỂ ĐẠI LỄ VU-LAN THÀNH CÔNG 

Muốn thành công một đại lễ Vu-lan hay lễ Cầu-siêu hay bất kỳ một đại lễ nào thì đều phụ thuộc vào mấy yếu tố quan trọng sau đây mới có công năng gây cảm động đến Trời Phật, mới tạo ra sự cảm ứng đạo-giao bất-khả tư-nghì để Phật đến tiếp-dẫn các chân-linh được về Tây phương Cực-Lạc, hoặc nếu phúc báo của họ dù có ít ỏi thì cũng vẫn được các Ngài gia trì, cứu độ cho thoát khỏi ba đường ác là Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc sinh, trở lại làm người hay sinh lên cõi Trời nhập vào hàng Tiên Thánh, hưởng sự vui thù thắng. Những yếu tố cần có là gì?

1, Tấm lòng chí thành, hiếu thảo của các Phật-tử đối với ông bà cha mẹ của mình. Điều này phụ thuộc vào lòng thành tâm trì niệm danh hiệu của Phật A-Di-Đà, cũng như mười phương chư Phật và chư đại Bồ-Tát, một lòng cầu cho người quá cố được tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc.

Phát tâm rộng lớn, đóng tịnh-tài để mua sắm lễ quả, hương hoa, làm cơm chay, phóng sinh thú vật, in ấn Kinh-điển, xây dựng sửa sang chùa chiền, giúp kẻ nghèo khó đặc biệt là in ấn Kinh Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ, Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, Kinh Địa-Tạng, các Kinh-điển Đại-thừa và giáo lý của Phật về pháp môn Tịnh-độ, tham gia các pháp hội hoằng-pháp lợi sinh  v.v… lấy đây làm công đức mà hồi hướng cho ông bà, cha mẹ của mình và cũng là tạo phước cho chính mình.

2, Người chủ lễ, các vị Pháp-sư, các vị Tăng, Ni phải là người am hiểu Kinh-điển, giầu đức từ-bi, giữ gìn trai giới, chăm lo hoằng-dương Phật pháp. Nếu vị Pháp-sư, các chư Tăng, Ni đảm nhận làm chủ lễ mà là người như vậy ắt có cảm ứng đạo-giao với Phật và chư đại Bồ-Tát, nên được các Ngài và các vị Hộ pháp luôn luôn gia-trì ủng hộ. Mọi người cùng nhau đồng lòng hướng về Phật A-Di-Đà trì niệm danh hiệu của Ngài, cầu xin tiếp-dẫn các chân-linh thì nhất định Phật và các chư đại Bồ-Tát sẽ phóng quang mà tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc, lễ đàn sẽ chắc chắn thành tựu.

3, Ngôi chùa phải là thanh-tịnh, Sư Tăng, Ni ở đây luôn chăm lo hoằng-dương Phật-pháp, giữ gìn trai giới nên luôn được Phật và chư đại Bồ-Tát,  các vị Hồ Pháp bảo vệ gia-trì cho. 

Trong các lễ Vu-Lan từ năm 2011 đến nay chúng ta đều làm tốt các điều trên đây bởi thế các đại-lễ đã tổ chức ở chùa Lũng-Tiên đã luôn luôn thành tựu mỹ mãn. Đã có nhiều người tự chứng biết, mắt đã nhìn thấy các cảnh giới diễn ra bất-khả tư-nghì đó là Phật phóng quang xuống pháp hội, các chư Thiên-long xuất hiện lượn quanh, hoa trời rải xuống v.v… Đây là điều mà như Kinh Phật đã dạy: “ ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng”.

Nếu không hội tự những yếu tố quan trọng cần có trên đây mà tổ chức chỉ đơn thuần là cúng bái thì không thể thành tựu, chẳng thể cảm ứng đến Trời, Phật, chư đại Bồ-Tát.

Cuối cùng Đại-lễ Vu-Lan thành công đều là kết quả của cả tập thể Phật-tử thành phố Hải Phòng, các Phật-tử thuận thành khác và sự quan tâm chăm sóc của Sư cụ Trụ-trì và các thầy nơi chùa Lũng-Tiên cùng tất cả mọi người con hiếu thảo ở mọi nơi về đây quy tụ chung tay đóng góp làm nên. 

Cầu chúc mọi người, mọi nhà một mùa lễ Vu-Lan đại-hiếu đầy ý nghĩa và đạo-lý cao đẹp.

         Nam mô A-Di-Đà Phật.

       Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

       Nam mô Đại-Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

 

Ngày 15 tháng 3 năm 2013.

Quảng Tịnh Cư-sỹ             

KINH VU-LAN BÁO HIẾU

Nam Mô Đại-Mục Kiền-Liên Bồ-Tát

NGHI THỨC TỤNG

KINH VU-LAN VÀ BÁO HIẾU

________________________________________

NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI

CHÂN-NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI

                     Úm, lam xoá ha.     (Tụng 7 lần, O)

(Trì thần chú này thì thân mình và cảnh quan đều thanh-tịnh)

 

CHÂN-NGÔN TỊNH  KHẨU-NGHIỆP

 Tu dị tu dị, ma ha tu dị, tu tu dị ta bà ha.         

(Tụng 7 lần, O)

              (Trì  thần chú này thì miệng và lời nói đều thanh-tịnh)

                                                                                                                

CHÂN-NGÔN TỊNH TAM-NGHIỆP

       Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám.       (Tụng 3 lần, O)                                                                                                    

                 (Trì thần chú này thì tâm, khẩu và ý đều thanh-tịnh)      

                                                            

CHÂN-NGÔN PHỔ CÚNG-DƯỜNG

Án nga nga nẵng, tam bà phạ  phiệt nhật ra hồng.  (Tụng 3 lần, O)                                                   

      (Trì thần chú này thì hoa, hương cùng với tiếng tụng niệm, lời nguyện chân thành của người tụng sẽ tới mười phương Phật)        

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam-Bảo

Thề trọn đời giữ Ðạo

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ.

Tâm Bồ-Ðề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (1 lạy, O)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp-Vương Vô-Thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời, người,

Cha lành chung bốn loại

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

    Ức kiếp không cùng tận.   (O)

KỲ-NGUYỆN

Hôm nay, ngày rằm tháng bẩy, ngày Lễ Vu-Lan, đệ-tử chúng con là……………… Pháp danh....................theo lời Phật dạy, chúng con noi theo ngài Mục-Kiên-Liên tề tựu nơi đây tổ chức đại-lễ Vu-Lan báo đền công lao dưỡng dục, sinh thành của ông bà, cha mẹ.

Chúng con cùng chúng-sinh trong pháp- giới nguyện ngôi Tam-Bảo thường-trụ trong mười phương đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đức Tiếp-dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, đức Đương-Lai Hạ-Sanh Di-Lặc Tôn Phật, từ-bi gia-hộ cho chúng đệ-tử tâm Bồ-Đề được bền chắc, tự-giác giác-tha, hạnh giác-ngộ viên mãn, mọi tội lỗi gây ra từ vô-thỉ cho đến ngày nay liền được tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, một thời đồng chứng Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác. Mai sau khi lâm-chung được Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát cùng hàng Thánh chúng tới tiếp-dẫn chúng con về Tây phương Cực-Lạc, thế giới của Phật A-Di-Đà.

Nay chính là ngày chư Tăng kiết-hạ đem đức lành chú nguyện chúng sinh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam-Bảo, Nguyện Ðức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðức Tiếp-dẫn Ðạo-Sư A-Di-Ðà Phật, cùng các vị Bồ-Tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ-bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ-tử, cùng tất cả chúng sinh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u-đồ, siêu sinh Cực-Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp-độ. (1 lạy, O)

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sinh tính thường rỗng lặng

Đạo cảm-thông không thể nghĩ bàn

Lưới Đế-Châu ví Đạo-Tràng

Mười Phương Phật-Bảo Hào Quang sáng ngời

Trước Bảo Tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thề nguyện quy-y. (O)                                                   

Chúng con chí tâm đảnh lễ:

1- Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền, Thánh Tăng thường trụ Tam-Bảo.                                                (Lạy 1 lạy, O)

2- Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Đại-từ Đại-bi Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Đương-Lai Hạ Sinh Di-Lặc Tôn-Phật, Đại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát, Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ-Tát.                (Lạy 1 lạy, O)

3- Nam mô Tây Phương Cực-Lạc Thế-Giới Đại-Từ Đại-Bi Tiếp-Dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ-Tát.                                            (Lạy 1 lạy, O)        

TÁN LƯ HƯƠNG

      Lư hương vừa ngún chiên đàn,

      Khói hương ngào ngạt muôn ngàn cõi xa.

      Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

      Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng

      minh. 

Nam mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-ha-tát.

                                                                  (3 lần, O) 

KINH VU-LAN

Đây là những lời

Chính tôi được nghe.

Nhân một thuở kia,

Tại nước Xá-Vệ,

Phật ở Tịnh-xá

Cất trong cảnh vườn

Ông Cấp-Cô-Độc,

Giữa đám cổ thụ

Do ngài Thái-tử

Kỳ-Đà dâng cúng.

Bấy giờ trong hàng

Đệ tử cao cấp,

Có ngài Mục-Liên,

Vừa mới chứng được

Sáu phép thần-thông.

Lòng hiếu phát khởi,

Muốn độ mẹ cha,

Đền ơn nhũ bộ.

Bèn dùng mắt huệ

Xem cả thế gian,

Thấy vong thân mẫu,

Trong cảnh Ngã-quỷ,

Chẳng uống chẳng ăn

Thân thể gầy ốm,

Còn da bọc xương.

Mục-Liên thương xót,

Tức thời lấy bát

Đựng cơm đem dâng.

Mẹ Ngài vui mừng,

Tay trái che bát

Tay mặt bốc cơm,

Thảm thay! thương thay!

Cơm chưa tới miệng,

Đã thành than lửa,

Ăn không thể được.

Mục-Liên thấy vậy,

Liền khóc òa lên.

Tức tốc trở về,

Bạch lại với Phật,

Đầu đuôi thảm cảnh

Mắt mình vừa thấy.

Phật bèn nói rằng:

“Mẹ con gây tội,

Gốc đã sâu dầy

Chẳng thể lấy sức

Của một mình con

Mà mong cứu được.

Dầu con hiếu thuận,

Tiếng dậy đất trời,

Thậm chí Thiên-thần,

Tà-Ma, Ngoại-đạo,

Đạo-Sĩ, Vương-thần,

Cũng đều thúc thủ.

Vậy muốn cứu mẹ,

Con phải nhờ sức

Oai thần chúng Tăng,

Khắp cả mười phương,

Mới mong độ thoát.

Hãy nghe Ta chỉ

Phương pháp này đây,

Cứu vớt mọi người,

Ách nạn lâm cơn,

Đều được thoát khỏi

U sầu cảnh khổ”.

Nói xong Phật mới

Bảo Mục-Liên rằng:

“Ngày rằm tháng bảy,

Là ngày Tự-tứ

Mười phương chúng Tăng.

Mỗi người nên vì

Hiện thời cha mẹ,

Hoặc là tiền-kiếp

Cha mẹ bảy đời,

Mắc vòng khốn khổ,

Trong đường ách nạn.

Mà sắm cho đủ:

Trăm thức món ăn,

Năm thứ trái cây,

Hương, dầu, đèn nến,

Giường chiếu để nằm,

Bồn đựng nước tắm,

Mỗi thức, mỗi vật,

Ngon tốt tuyệt trần,

Sắp thành một lễ

Dâng cúng chư vị

Đại-Đức mười phương.

Hiển nhiên ngày ấy,

Các vị Thánh-chúng:

Hoặc bậc thiền-định

Ở chốn thâm sơn,

Hoặc bậc đã chứng

Bốn đạo quả lớn;

Hoặc bậc kinh-hành

Rừng xanh mật niệm;

Hoặc là những bậc

Đã được sáu phép

Tự-tại thần-thông,

Ra công giáo hóa

Chứng quả Thanh-Văn

Hay là Duyên-Giác;

Hoặc bậc Bồ-Tát

Thập-địa đại-nhân,

Tạm xuống cõi Trần,

Làm thầy Tỳ-Kheo,

Trong hàng đại-chúng;

Đều đồng một lòng,

Chứng giám hiếu-tâm

Thọ cơm hòa-la.

Tất cả các vị

Thánh-chúng vừa kể,

Đều đã tới chỗ

Đạo đức rộng sâu,

Giới hạnh thanh khiết.

Bởi thế cho nên,

Dâng cúng chúng Tăng,

Ngày rằm tháng bảy,

Thì nào cha mẹ

Ở nơi hiện thế,

Quyến-thuộc xa gần,

Đều được ra khỏi

Ba đường khổ não,

Là cõi địa-ngục,

Ngã-quỷ, Súc-sinh,

Ứng thời giải thoát,

An nhiên, tự-tại.

Hiện-thế cha mẹ,

Đang lúc sinh tiền

Chắc chắn sẽ được

Phước lạc trăm năm.

Lại nữa cha mẹ

Bảy kiếp về trước,

Ắt cũng sẽ được

Sinh về cõi Trời,

Hưởng phước vi-diệu”.

Lúc ấy Phật mới

Truyền dạy chúng Tăng

Khắp cả mười phương,

Những lời sau đây:

“Mỗi khi gia-chủ

Dâng lễ Vu-Lan,

Bổn phận chúng Tăng

Là phải trước hết

Tận tâm chú nguyện

Cầu cho bảy đời

Mẹ cha thí-chủ

Mau được giải thoát,

Kế đó theo phép,

Ngồi thiền, định-ý,

Sau rốt mới ăn.

Lại nữa nên nhớ:

Trước khi thọ thực,

Thì phải cúng dâng

Các món tịnh chay 

Dâng trước tượng Phật

Hoặc tại bàn Phật,

Ở tháp, ở Chùa.

Chú nguyện xong rồi,

Mới tự thọ thực”.

Khi Phật nói phép

Cứu tế xong rồi,

Thì ngài Mục-Liên

Cùng các Bồ-Tát

Đều rất vui mừng,

Bao nhiêu buồn rầu

Khóc than thảm thiết

Của ngài Mục-Liên,

Tức thời tiêu hết.

Cũng  trong ngày ấy,

Thân-mẫu Mục-Liên

Được thoát khỏi kiếp

Ngã-quỷ khổ cực.

Mục-Liên cung kính

Lại bạch Phật rằng:

“Sinh mẫu đệ-tử

Nay đã thoát khổ,

Cũng nhờ ân đức

Tam-Bảo thập phương,

Và của Thế-Tôn

Cùng bao Tăng-chúng,

 Từ rày về sau,

Nếu có những người,

Theo Phật tu-trì,

Mà lòng mong muốn

Dùng lễ Vu-Lan

Cứu độ tất cả

Hiện tại phụ-mẫu,

Cho đến bảy đời

Cha mẹ kiếp trước,

Có thể được chăng?”

Phật bèn nói rằng:

“Hay lắm! Hay lắm!

Ta vừa muốn nói

Mà con lại hỏi,

Thật là thích hợp

Với tấm lòng Ta.

Thiện-nam-tử ơi!

Bất luận nam nữ

Trong hàng Tỳ-Kheo,

Các đấng Quốc-vương,

Thái-tử, Đại-thần

Tam công tể tướng,

Trăm quan, dân thứ,

Nếu phát tâm lành,

Làm hạnh hiếu từ,

Thì trước hết phải,

Vì cha, vì mẹ

Sở sinh đời nay,

Và vì cha mẹ,

Bảy đời đã qua

Đến rằm tháng bảy,

Là ngày hoan hỷ

Của Phật thập phương,

Và thời Tự-tứ,

Chúng Tăng khắp nơi,

Dùng cơm đồ ăn,

Trăm vị thơm ngon,

Thiết tiệc Vu-Lan

Dâng cúng chư Tăng,

Chí thành cầu nguyện:

Cha mẹ đời này,

Sống lâu trăm tuổi,

Khỏi đau khỏi ốm,

Khổ não mọi điều.

Nhẫn đến cha mẹ

Bảy đời quá-khứ,

Cũng thoát khổ não,

Nơi đường Ngã-quỷ,

Và được sinh về

Nơi cõi Nhân, Thiên,

Hưởng phước vui vẻ

Vô hạn vô-biên.

Những ai là người

Đệ-tử của Phật,

Tu hạnh hiếu từ

Thì trong tâm phải,

Nhớ mãi mẹ cha,

Hoặc trong kiếp này,

Hoặc bảy kiếp trước,

Mỗi năm hễ đến,

Tháng bảy ngày rằm,

Nên lấy lòng hiếu

Thiết lễ Vu-Lan

Cúng Phật, chúng Tăng,

Để báo mẹ cha

Công ơn nuôi dưỡng.

Vì thế cho nên,

Hễ là đệ-tử

Của Phật Như-Lai

Nên vâng lời này

Làm theo phép ấy.

Mục-Liên Tỳ-Kheo

Bốn hàng đệ-tử,

Nghe lời Phật dạy,

Vui vẻ phụng hành.

Nam mô Đại-Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-Tát.

                                                                                                      (3 lần, 3 lạy, O) 

SÁM VU-LAN

Đệ-tử chúng con,

Vâng lời Phật dạy,

Ngày rằm tháng bảy,

Gặp hội Vu-Lan,

Phạm-vũ huy hoàng,

Đốt hương đảnh lễ,

Mười phương Tam-thế,

Phật, Pháp, Thánh-Hiền.

Noi gương đức Mục-Kiền-Liên,

Nguyện làm con thảo,

Lòng con ảo não,

Nhớ nghĩa thân sinh,

Con đến trưởng thành,

Mẹ càng gian khổ,

Ba năm nhũ bộ,

Chín tháng cưu mang,

Không ngớt lo toan,

Quên ăn bỏ ngủ.

Ấm no đầy đủ,

Nhờ có công cha,

Chẳng quản yếu già,

Sinh nhai lam lũ,

Quyết cùng hoàn vũ,

Phấn đấu nuôi con,

Giáo dục vuông tròn,

Đem lòng học đạo.

Đệ-tử ơn sâu chưa báo,

Hổ phận kém hèn,

Giờ này quỳ trước đài sen,

Chí thành cung thỉnh.

Đạo-tràng thanh-tịnh,

Tăng-Bảo trang-nghiêm,

Hoặc thừa tự-tứ,

Hoặc hiện tham thiền,

Đầy đủ thiện-duyên,

R ủ lòng lân mẫn.

Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con,

Đượm nhuần mưa pháp,

Nếu còn tại-thế:

Thân tâm yên ổn,

Phát nguyện tu trì,

Nếu đã qua đời:

Ác-đạo xa lìa,

Chóng thành Phật quả.

Ngửa trông các đức Như-Lai,

Khắp cả mười phương

Từ-bi gia-hộ

Giang tay cứu vớt

Thoát khỏi tam-đồ

Sinh về cõi Phật.

 Nam mô A-Di-Đà Phật.                     (3 lần, 1 lạy, O)

 Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.              

                                                    (3 lần, 1 lạy, O)

 Nam mô Đại-Nguyện Điạ-Tạng-Vương Bồ-Tát.                                                      (3 lần, 1 lạy, O)

      

Chú ý: Sau đây trì niệm danh hiệu các chư vị Phật cầu cho gia tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta thoát khỏi tam đổ khổ được vãng-sinh về Tây Phương Cực-Lạc mau chóng tu hành thành Bồ-Tát, thành Phật.

(Mỗi danh hiệu Phật niệm 3 lần và lạy 1 lạy, O).

 

Nam mô Vô-Biên-Thân Như-Lai.
Nam mô Bảo-Thắng Như-Lai.
Nam mô Ba-Ðầu Ma-Thắng Như-Lai.
Nam mô Sư-Tử-Hống Như-Lai.
Nam mô Câu-Lưu-Tôn Như-Lai.
Nam mô Tỳ-Bà-Thi Như-Lai.
Nam mô Ða-Bảo Như-Lai.
Nam mô Bảo-Tướng Như-Lai.
Nam mô Ca-Sa-Tràng Như-Lai.
Nam mô Ðại-Thông Sơn-Vương Như-Lai.
Nam mô Tịnh-Nguyệt Như-Lai,
Nam mô Sơn-Vương Như-Lai
Nam mô Trí-Thắng Như-Lai
Nam mô Tịnh-Danh-Vương Như-Lai.
Nam mô Trí-Thành-Tựu Như-Lai
Nam mô Vô-Thượng Như-Lai.
Nam mô Diệu-Thinh Như-Lai,
Nam mô Mãn-Nguyệt Như-Lai,
Nam mô Nguyệt-Diện Như-Lai,
Chúng con cúi xin các đấng Thế-Tôn gia-trì cứu vớt gia-tiên, ông bà, cha mẹ của chúng con ở đời này và bẩy đời trước và các chân-linh có tên đọc ở phần sớ đều được thoát khỏi tam-đồ khổ, được sinh về Tây Phương Cực-Lạc để tu hành mau chóng thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật, lại phát nguyện đi độ sinh cứu vớt hữu-tình.  

( Phần này Chủ lễ hoặc người Phụ lễ sẽ đọc)

 

Kính lạy Phật A-Di-Đà,
Kính lạy Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
Kính lạy các chư vị Phật, chư đại Bồ-Tát thời quá khứ, hiện-tại và vị-Lai.
Kính lạy đức Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng. (O)                                                                                                                                            
Công lao của gia-tiên, ông bà, cha mẹ với các con, cháu thật lớn lao như trời như biển. Sống nơi cõi Ta-Bà, nhiều khi vì cuộc đời phải vật lộn với cuộc sống, lo cho chúng con miếng cơm, manh áo cho đến tất cả mọi thứ lại chẳng được học Kinh-điển Phật nên các bậc phụ huynh, ông bà, cha mẹ của chúng con không khỏi phạm phải những tội lỗi như: ăn gian, nói dối, tham lam của người, sát-sinh thú vật v.v...

Chúng con ngưỡng nguyện mười phương chư Phật, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng ra tay cứu giúp những người sau đây thoát khỏi tội lỗi, được vãng sinh về Tây phương Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà. Nếu phước chưa tới cũng được sinh về Trời Đâu-Suất-Đà của đức Đương-Lai Hạ-Sanh Di-Lặc Tôn Phật nơi cõi Thiên, thoát khỏi ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc sinh.

Kính lạy Phật A-Di-Đà,
Kính lạy Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
Kính lạy các chư vị Phật, chư đại Bồ-Tát thời quá khứ, hiện-tại và vị-Lai.
Kính lạy đức Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng. (O)    
CHÚ ĐẠI-BI     

Nam mô Đại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát.

                                                                         (3 lần)

                  Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế, thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá, na ma bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê, rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà ra đế. Ma ha phạt xà ra đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.

    “Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà dạ. Ta bà ha”. (Câu cuối tụng 3 lần, O)

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÂN NGÔN

     Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chân lăng càn đế, ta bà ha. (5 lần, O)

Đệ-tử vốn tạo các vọng nghiệp, đều do vô-thỉ tham, sân, si. Từ thân miệng ý phát sinh ra. Đệ-tử thảy đều xin sám hối.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-Tát Ma-ha-tát.

(3 lạy, O)

CHÚ VÔ-LỰƠNG-THỌ CHÂN NGÔN

Na mô rát na tờ gia gia gia. Na mắc a ry gia. A mi ta pha gia. Ta tha ga ta gia. A rờ ha tê, sam giác sam bút đa gia. Ta đi gia tha: Om, a mờ rật tê. A mờ rật tô đờ pha vê. A mờ rật ta sam pha vê. A mờ rật ta ga ri phê. A mờ rật ta sít đê. A mờ rật ta tê rê. A mờ rật ta vi hờ rim tê. A mờ rật ta vi hờ rim ta. Ga mi nê a mờ rật ta ga ga na, ki ti ka rê. A mờ rật ta đun đa phi sờ va rê. Sạc va rờ tha sa đa nê. Sạc va kác ma, ka lê sa ka sa. Giam ka lê, sờ va ha.                                         (3 lần, O)  

 

VÔ-LƯỢNG-THỌ TÔNG-YẾU CHÂN-NGÔN   

Nam mô Rát Na Tra Da Da. Ôm, Nam Mô Ba Ga Va Tê. A Ba Ri Mi Ta A Du Cha Na. Su Bi Nít Chi Ta Ta Dê. Chô Ra Cha Da. Ta Tha Ga Ta Ya. A Ha Tê Sam Giắt Sam Bút Đa Da. Tát Da Tha. Ôm, Bu Na Dê Bu Na Dê.  Ma Ha Bu Na Dê. A Ba Ri Mi Ta Bu Na Dê. A Ba Ri Mi Ta Bu Na Da. Cha Na. Sam Ba Rô Ba Chi Tê. Ôm Sạt Va Sam Sờ Ka Ra. Ba Ri Sút Đa Đạt Ma Tê. Ga Ga Na Sa Mút Ga Tê. Xoa Ba Va Vi Sút Đê. Ma Ha Na Da Ba Ri Va Ra Dê. Xóa Ha.           (3 lần, O)     

CÔNG ÐỨC BẢO SƠN ÐÀ-RA-NI

Nam Mô Phật Ðà da

Nam Mô Ðạt Ma da

   Nam Mô Tăng Già da

Úm tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.           (3 lần, O)                                            

Chúng con chí tâm đảnh lễ các vị đại-diện cho Phật thời quá-khứ:

(Tất cả đều tụng 3 lần, lạy 3 lạy)       

Nam mô Tỳ Bà-Thi Phật . (O)

Nam mô Thi-Khí Phật. (O)    

Nam mô Tỳ-Xá-Phù Phật. (O)

Nam mô Câu-Na-Hàm Mâu-Ni Phật. (O)

Nam mô Ca-Diếp Phật. (O)

Nam mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (O)

Nam mô Câu-Lưu tôn-Phật. (O)

Chúng con chí tâm đảnh lễ các vị đại-diện cho Phật thời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai:

(Tất cả đều tụng 3 lần, lạy 3 lạy)

      Nam mô Quá-khứ Tỳ-Bà-Thi Phật. (O)

              Nam mô Hiện-tại Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (O)

Nam mô Vị Lai Di Lặc Tôn Phật. (O)

Chúng con chí tâm đảnh lễ:

(Tất cả đều tụng 3 lần, lạy 3 lạy)  

Nam mô Chư-Tôn Bồ-Tát Hộ-Trì Chánh-Pháp. (O) 

Nam mô Phật, Bồ-Tát hiện-tại Đạo-Tràng. (O)     

THẦN CHÚ ĐỊA-TẠNG-VƯƠNG BỒ-TÁT 

Nam mô Đại-Nguyện Điạ-Tạng-Vương Bồ-Tát.   

Úm, Ha Ha Ha Win Sam Mô Ti Xoa Ha.

                                                           (10 lần, O)   

UẾ-TÍCH CHÂN NGÔN

ĐẠI-VIÊN-MÃN ĐÀ-RA-NI

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

Nam mô Kinh-Cang Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Úm, bút quát hốt lốt, ma ha bát ra, ngân na ngái, vẫn trắp vẫn, vĩ hiệt vĩ, ma na thê, ô thâm mộ hốt lốt, hùm hùm phấn phấn tóa ha.

(5 lần, O)

CHÚ ĐẠI PHẬT ĐẢNH

Nam mô Phật Đà-Da

Nam mô Đạt-Ma-Da

   Nam mô Tăng-Già-Da

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

   Tất-Đạt-Đa Bát Ra Đa.

Bộ Lâm, Úm  (10 lần, O)

 

      VĂN-THÙ SƯ-LỢI CĂN BẢN

NHẤT TỰ ÐÀ-RA-NI

 

  Nam mô Phật Đà-Da

Nam mô Đạt-Ma-Da

   Nam mô Tăng-Già-Da

Nam mô Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Úm, Xỉ Lâm.  (10 lần, O)

 

 

NHƯ-Ý BẢO-LUÂN-VƯƠNG ĐÀ-RA-NI

Nam mô Phật Đà-Da

Nam mô Đạt-Ma-Da

   Nam mô Tăng-Già-Da

Nam mô Quán-Tự-Tại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, cụ đại bi tâm giả. Ðát diệt tha.

Án, chước yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra thước ra a yết rị, sa dạ hồng phấn ta ha.

Án, bát đạp ma chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án, bát lặc đà bát đẳng mế hồng.

(10 lần, O)

BÁT-NHÃ-BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH

     Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

     Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất

dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

     Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:

“Yết đế, yết đế, Ba-la-yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế Bồ-đề tát-bà-ha”. (Câu này tụng 3 lần)

      Ma-Ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa. (tụng 3 lần, O )

 CA NGỢI PHẬT

Phật A-Di-Đà thân sắc vàng

Tướng tốt chói sáng không gì bằng

Lông mày trắng như năm Tu-Di

Mắt xanh trong giống bốn biển lớn

Trong hào-quang hoá vô-số Phật

Vô-số Bồ-Tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng-sinh

Chín phẩm sen vàng lên giải-thoát

Quy-mạng lễ A-Di-Đà Phật

Ở Phương Tây Thế giới an-lành

Con nay xin phát nguyện vãng-sinh

Cúi xin Đức từ-bi tiếp độ. (O)

Chúng con chí tâm đảnh lễ

(Tất cả đều tụng 5 lần, lạy 3 lạy)

   

Nam mô A-Di-Đà Phật. (O)

Nam mô Đại-Từ Đại-Bi Quán-Thế-Âm

Bồ-Tát. (O)

Nam mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát. (O)

Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương

Bồ-Tát. (O)

Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng

Bồ-Tát. (O)  

PHÁT NGUYỆN

Một lòng quy kính                  

Phật A-Di-Đà                                                                                                                           

Thế-giới Cực-Lạc              

Nguyện lấy hào quang   

Trong sạch soi cho          

Lấy thệ từ-bi                               

Mà nhiếp thọ cho                    

Con nay chính-niệm                

Niệm hiệu Như-Lai              

Vì Đạo Bồ-Đề                     

Cầu xin Tịnh-Độ                 

Phật xưa có thệ:                  

“Nếu có chúng-sinh

Muốn sinh nước Ta

Hết lòng tín nguyện

Cho đến mười niệm

Nếu chẳng được sinh

Chẳng thành Chánh-Giác”

Do vì nhân-duyên

Niệm hiệu Phật này

Được vào trong bể

Đại-thệ Như-Lai

Nhờ sức từ-bi

Các tội tiêu diệt             

Căn-lành tăng trưởng                             

Khi mạng gần chung           

Biết trước giờ chết                        

Thân không bệnh khổ               

Tâm không tham luyến    

Ý không điên đảo                          

                  Như vào thiền-định                     

Phật và Thánh-chúng         

Tay nâng kim-đài                  

Cùng đến tiếp-dẫn

Trong khoảng một niệm

Sinh về Cực-Lạc 

Sen nở thấy Phật

Liền nghe Phật-thừa                       

Chóng mở Phật tuệ

Khắp độ chúng sinh

Trọn Bồ-Đề nguyện. (O)

 

Nam mô A-Di-Đà Phật.

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng- Vương Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Nam mô mười phương Đạo-sư các chư vị    Phật, các chư Đại Bồ-Tát.

 

 

Chúng con hôm hay tề tựu nơi đây, cúi đầu lễ bái, kính mong các đấng Thế-Tôn, các Chư Đại Bồ-Tát, Các bậc Thanh-Văn, Duyên-Giác, Tăng, Ni phù-hộ độ-trì cho ông bà, cha mẹ đời này và bẩy đời trước đây của chúng con, mọi tội lỗi gây ra từ vô-thỉ đến nay liền được tiêu trừ, hiện tiền được đức Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát cùng hàng thánh chúng tới tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc, sinh trên sen báu, nhanh chóng tu hành trở thành Bồ-Tát Bất-thối, thành Phật, lại phát tâm Đại-thừa, mở lòng từ-bi mà phát nguyện về mười phương quốc-độ, đem những giáo lý Kinh-điển của Phật về Pháp môn tu hành Tịnh-Độ, trì danh niệm Phật A-Di-Đà để làm lợi ích cho mọi chúng hữu-tình.

Chúng con xin đọc tên gia tiên, ông bà cha mẹ của chúng con sau đây để nương vào 48 lời thệ nguyện hàm-linh, lời thệ rộng sâu của Phật A-Di-Đà cũng như 12 lời nguyện cao vời của đức Đại-Từ Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát cùng đức Đại-Thế-Chí Bồ-Tát ngưỡng mong tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc quốc.

      (Sau đó đọc danh sách gia tiên ông bà cha mẹ của các Phật tử). Vị chủ lễ đọc tên trong danh sách, còn các Phật-tử ngồi cứ mỗi tên một người thì mọi người lại tụng:

“Nam mô A-Di-Đà Phật, xin tiếp-dẫn các chân-linh có tên vừa đọc trên đây được về Tây Phương Cực-Lạc quốc”.

 

(Sau đây tất cả Pháp hội đi ra nhiễu quanh đốt nến niệm danh hiệu Phật, rồi sau đó vào tụng tiếp nghi thức cuối của khóa lễ)

 

VÃNG-SINH QUYẾT ĐỊNH CHÂN-NGÔN

Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đá tỳ ca lan đế, A di rị đá tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.                                                                   (3 lần, O)  

BA TỰ QUY-Y

Chúng con tự quy-y Phật, cầu cho chúng-sinh hiểu rõ đạo lớn, phát lòng Vô-thượng.                                                    

(1 lạy, O)

                                                                       

Chúng con tự quy-y Pháp, cầu cho chúng sinh thấu rõ Kinh tạng, trí tuệ như biển.                                                         

(1 lạy, O)

Chúng con tự quy-y Tăng, cầu cho chúng sinh thống lý đại-chúng, tất cả không ngại.

                                                        (1 lạy, O)

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Nguyện sinh thế giới cảnh phương Tây

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật chứng vô-sinh

Bồ-Tát Bất-Thối làm bạn hữu.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ-tử và chúng-sinh

Đều trọn thành Phật-đạo.

(3 lạy, gõ 4 tiếng chuông kết thúc khóa lễ)

HẾT -
 



(Mang xôi, chè, quả xuống cúng các chân linh. Sau khoảng 15-20 phút người dự lễ mới hưởng lộc).

 

Tiếp theo vị Chủ lễ đọc Thí-thực chú để mời thân nhân, gia quyến được thọ thực phẩm vật lễ cúng.

PHẦN THÍ THỰC SAU CÙNG

Thí thực chú:

Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

Xin kính mời tất cả hương-linh gia-tiên ông bà, cha mẹ của các Phật tử có mặt hôm nay tại đây hoan-hỷ thọ thực.
Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

     

Xin hoan hỷ kính mời các chư vị Thiên-Long, Dạ-xoa, La-sát, Sơn-Vương, Hải-Vương, Hà-Vương, Đại-Thọ-Vương, tất cả chư quỷ thần v.v… thọ thực chứng minh lòng thành của chúng tôi.
Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

Duy nguyện Thánh-chúng gia trì phù-hộ cho chúng tôi mọi sự an lành, thành tựu viên-mãn… cùng các tịnh chư quyến thuộc sau khi hoan hỷ thọ thực thì mời hoàn cung.

  

Xin kính mời tất cả hương-linh những người cô-thần quả-tú, những người vô gia-cư, những người khốn khó ở khu vực quanh đây đang có mặt, hoan-hỷ thọ thực.
Chúng tôi mong các quý vị bây giờ hãy trì danh niệm Phật A-Di-Đà và các chư vị Phật cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc để được Phật tới tiếp-dẫn về đó, vĩnh viễn thoát ly sinh-tử luân-hồi, tu hành một đời thành Bồ-Tát, thành Phật, nếu chưa được duyên đó cũng vĩnh viễn thoát ba đường khổ, được sinh lại làm người hay sinh lên cõi Thiên hưởng sự vui thù thắng vi-diệu. Đây là lời Phật và ngài Địa-Tạng đã dạy trong Kinh Địa-Tạng Bổn-Nguyện, chẳng phải lời của tôi.

Xin các quý vị hãy niệm theo tôi như sau:

 

Nam mô A-Di-Đà Phật. (30 lần)

 

Sau đây niệm danh hiệu các chư vị Phật, mỗi danh hiệu niệm 3 lần.

 

Nam mô Vô-Biên-Thân Như-Lai.  

Nam mô Bảo-Thắng Như-Lai.

Nam mô Ba-Ðầu Ma-Thắng Như-Lai.

Nam mô Sư-Tử-Hống Như-Lai.

Nam mô Câu-Lưu-Tôn Như-Lai.

Nam mô Tỳ-Bà-Thi Như-Lai.

Nam mô Ða-Bảo Như-Lai.

Nam mô Bảo-Tướng Như-Lai.

Nam mô Ca-Sa-Tràng Như-Lai.

Nam mô Ðại-Thông Sơn-Vương Như-Lai.

Nam mô Tịnh-Nguyệt Như-Lai,

Nam mô Sơn-Vương Như-Lai

Nam mô Trí-Thắng Như-Lai

Nam mô Tịnh-Danh-Vương Như-Lai.

Nam mô Trí-Thành-Tựu Như-Lai

Nam mô Vô-Thượng Như-Lai.

Nam mô Diệu-Thinh Như-Lai,

Nam mô Mãn-Nguyệt Như-Lai,

Nam mô Nguyệt-Diện Như-Lai,

Tiếp theo Chủ lễ đọc Thần-chú:

   

Nẵng mồ Tát phạ Đát tha nghiệt đa Phạ rô chỉ đế. Úm, Tam bà la tam bà la hồng.

                                                            (5 lần, O)

Thân chúc các quý vị thân tâm thường lạc, công đức thêm nhiều, đạo hạnh viên-mãn.

      Đốt 108 nến ở giữa sân và xếp hàng đi vòng quanh niệm danh hiệu Phật:

 

Nam mô A-Di-Đà Phật. (108 lần hoặc nhiều hơn).

 

Nam mô Đại-Từ Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

 

Nam mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát.

 

Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát. 

 

Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng   Bồ-Tát.

      

Đốt sớ:

    

Kết thúc khóa lễ  Vu-lan

__________________        

          

Các quý vị chú ý:

Vì đây không phải chỉ có giáo lý của Phật về Lễ Vu-lan mà còn có Kinh Vu-Lan Bồn. Kinh-điển là pháp thân của Phật vì thế các bạn phải bảo vệ giữ gìn cẩn thận, thường để trên ban thờ Phật hay chỗ trang-nghiêm, thanh tịnh. Nếu các bạn mà lấy đây in ra để cúng dường cho người khác thì công-đức đó thật là vô lượng còn gấp trăm ngàn lần xây chùa tháp. Vì sao? Vì những Kinh-điển bạn in ra người nào đọc được lấy đây y-giáo phụng hành, họ đời này hay đời sau thành Phật thì hỏi công đức này lấy gì sánh bằng? Nên nói cúng dường pháp là vua trong các pháp cúng-dường.

Chúc quý vị đồng tu làm được nhiều công đức phúc báo cho mình, cho vợ, con và ông bà, cha mẹ của mình.

Ban biên tập Làng Phổ-Đà Liên Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải phòng ấn tống cúng dường 2014

LỊCH SỬ NGÀY LỄ VU-LAN BỒN

    Nam Mô Đại-Mục Kiền-Liên Bồ-Tát.

Bài nói chuyện của Cư sỹ Quảng-Tịnh

Mùa Vu-Lan 2013 tại Hải Phòng.

Làng Phổ-Đà Liên-Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải Phòng in lần thứ hai năm 2015 cúng dường.

Các bạn đồng tu thân mến!

Sắp đến ngày Lễ Vu-Lan, tôi cũng như các quý vị đều một lòng luôn hướng về ông bà, cha mẹ của mình với lòng thành kính, bùi ngùi thương nhớ, mong sao lo sắm lễ, tổ chức đại-lễ để các bậc ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất tổ đều được hưởng ơn ân sâu của các chư vị Phật, chư Đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh-Tăng mà được độ thoát nơi cảnh khổ của địa-ngục hay đọa vào Ngã-quỷ, Súc-sinh.

Hễ ai đã làm bậc cha mẹ thì hẳn biết công lao sinh thành, nuôi nấng vất vả ra sao để con cháu có ngày hôm nay. Miếng cơm ngon cha mẹ nhường nhịn cho con, năm canh chẳng bao giờ được ngủ yên, phải luôn thức giấc trông con, chăm cháu. “Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ chịu”.

Lại nữa, lúc con khỏe mạnh thì vất vả là vậy, nhưng lúc ốm đau, trái gió, trở trời thì còn khổ hơn gấp trăm lần. Con mỗi khi cảm cúm, mũi ngạt, khó thở, cha mẹ truyền tay nhau bế vác, ru, dỗ thắt cả ruột gan.

Lại nữa, cuộc đời đâu có dễ dàng, miếng cơm manh áo, cho đến cuốn vở, sách đèn, ngôi nhà, nghề nghiệp, dựng vợ gả chồng v.v... tất cả những đòi hỏi để cho con, cháu có được đó là cả một đời còng lưng vất vả, mồ hôi nước mắt lam lũ mới tạo dựng nên cho con, cháu hôm nay. Nhiều khi vì quá thương con, lại gặp cảnh đời khó khăn nên biết là làm việc không phải, tạo tội mà nhiều bậc cha mẹ vẫn phải nhắm mắt mà làm. Bởi thế có câu:

Công cha như núi Thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Vất vả gần cả cuộc đời là vậy, khi tóc đã bạc, lưng đã còng mà đâu đã được nghỉ ngơi. Khi con lớn khôn, có vợ, có chồng, thương con giờ ông bà lại phải trông nom con cháu. Người ta có câu: “ Một người già bằng ba kẻ ở !”

Đúng là như vậy, về già rồi còn vất vả hơn khi lúc thanh xuân, tất cả mọi việc trong nhà con cái đi làm ông bà phải gánh vác. Thật công đức ấy nếu có hình tướng thì chất đến trời cao. Nên Phật nói: “Ông bà, bố mẹ là Phật trong nhà”.

Ông bà, bố mẹ của chúng ta là thế, vậy bạn có bao giờ hỏi giờ ở nơi đâu? Cách biệt phương nào ta đâu có biết? Ngậm ngùi thương nhớ biết phải làm sao? Những người con cháu có hiếu luôn luôn nghĩ phải làm gì để gọi chút báo đền cho khỏi tủi hận?

Bởi vậy, khi trời đất bắt đầu chuyển mình, ngày vào se lạnh, cũng là lúc mùa Vu-lan đến, chúng ta lại nhớ về ông bà cha mẹ của mình những mong đến ngày tu tập bên nhau, sắm lễ dâng hương làm đại lễ Vu-Lan cầu Trời, Phật độ cho cha mẹ ông bà được mau giải thoát.                                                                                                                    

Ảnh những người con hiếu thảo thương nhớ về ông bà cha mẹ của mình.

Nhưng thật buồn thay! Không phải ai cũng biết ý nghĩa ngày lễ này ra sao? Có từ bao giờ? Và phải làm gì?

Vì vậy tôi hôm nay muốn chia sẻ với tất cả các người hiếu tử nói về ý nghĩa của đại lễ Vu-Lan.

Các bạn đồng tu thân mến!

Chúng ta ngày rằm tháng bẩy, ngày Lễ Vu-lan do nhiều người chưa được học về Kinh-điển giáo lý của Phật nên người miền Bắc vẫn quen gọi là ngày “Xá-Tội Vong-Nhân” cúng các chúng-sinh không nhà không cửa. Còn ở miền Nam, rằm tháng 7 thường gọi là “Vu-Lan Thắng Hội”, ngày để con cái báo hiếu cha mẹ. Nhiều nội dung đúng mà nhiều khi cũng chẳng như Kinh Phật dạy mà từ ảnh hưởng của Trung Quốc đem vào, cộng với tự nghĩ của mình mà làm nên đúng ít sai nhiều, lợi ích bị hạn chế rất nhiều. Chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ càng lại để chỉnh sửa cho đúng.

Sự tích của ngày cúng rằm tháng 7 cũng bắt nguồn từ khi Phật thấy lòng hiếu thảo hết mực của Ngài Mục-Kiền-Liên với cha mẹ của mình, với lòng từ bi rộng lớn mà Ngài đã đưa ra những sắc quyết quan trọng cho ngày lễ này ra đời.

Chúng ta đi tìm hiểu vào Kinh điển Phật thì thấy rõ ý nghĩa của ngày lễ Vu-Lan này. Tôi xin trân trọng chuyển đến quý bạn đồng tu nội dung quan trọng này. 

Thưa các bạn đồng tu! Ngài Mục-Kiền-Liên một vị A-La-Hán, đệ-tử lớn của Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Mục-Kiền-Liên không phải tên thật mà chỉ là hiệu, còn Tên Ngài là La-Bộc.

Chuyện xưa kể rằng La-Bộc là con ông Phổ-Tướng và bà Thanh-Đề là người con hết mực hiếu thảo. Ngay từ nhỏ luôn biết chăm lo phụng dưỡng cha mẹ hết lòng. Vì gia đình túng thiếu, La-Bộc phải đi buôn bán ở tỉnh Kiên-Liên. Khi đã giầu có, La-Bộc nhớ tới mẹ già liền cho người về quê biếu tiền mẹ. Bà mẹ ăn xài hết nhẵn số tiền đó rồi, lại sai người giết chó làm nhân bánh biếu sư. Đến lúc La-Bộc về thì bà mẹ lại chối và nói rằng bao nhiêu tiền con gửi về cho đã đem cúng cả vào đền chùa Miếu-vũ rồi.

Chẳng bao lâu bà mẹ chết. Chịu tang mẹ 3 năm, La-Bộc đi qua nước Ki-đô là nơi Phật ở, La-Bộc xin được quy-y và ở lại đây tu luyện.                                                                                          

Đức Phật thấy La-Bộc có chí nên đã chấp thuận lời thỉnh cầu đó và sai thầy Kha-Na cắt tóc cho ông và đặt tên là Đại-Mục Kiền-Liên (gọi tắt là Mục-Liên) và cho vào tu ở chùa Lã-Bí trong rừng Quýt-Sơn. Sau một thời gian tu hành rất tinh tấn, được Phật và các chư Đại Bồ-Tát hết lòng tận tình dìu dắt, Mục-Kiền-Liên đã vượt mọi người thường và chứng quá vị A-La-Hán, có sáu phép thần-thông, nhờ đó có thể nhìn thấy rõ chúng sinh trong ba cõi từ nơi sâu tối nhất là Địa-ngục A-tỳ, cho đến cõi trời cao nhất là Trời Hữu-đỉnh.

Hôm ấy, nhân có dịp đi qua rừng Quýt-Sơn, Ngài Kiền-Liên phải đi qua ngôi chùa Thiên-Giai, đây là nơi có những âm-hồn thường kéo về đây để được nghe thầy trụ-trì là một vị Bồ-Tát giảng Kinh, thuyết pháp.

Mục-Kiền-Liên nhìn đoàn người ấy thì nhận ra trong đó có người cha của mình là ông Phổ-Tướng nhưng tìm mãi thì không thấy bà Thanh-Đề đâu. Ngài vận hết sức Thần-thông soi khắp nhân-gian, trên trời chẳng thấy, khi nhìn xuống các tầng địa-ngục thì thấy mẹ mình bị giam cầm, ở địa-ngục A-tỳ, nơi đó đen tối, ánh sáng của mặt trăng và mặt trời không bao giờ chiếu tới. Chân tay bà bị gông cùm, thân thể rất tiều tụy do bị cực hình tra tấn ngày đêm không ngừng nghỉ.                                                                                                                                                                                                                                

Nhìn thấy cảnh đó, Mục-Kiền-Liên ôm lấy mẹ mà khóc. Bà mẹ thấy con vừa mừng, vừa tủi, nước mắt hai hàng. Bà nhờ con tìm cách cứu mình thoát khỏi địa-ngục này.

Mục-Liên thấy mẹ bị như vậy liền lấy bình bát, đem cơm của mình dâng mẹ. Mẹ Ngài được cơm nhưng chưa vào miệng cơm đã hoá ra than lửa đỏ hồng. Ngài đau đớn quay về nơi Phật, sà vào lòng Phật mà khóc nức nở, Ngài kể lại chuyện mẹ mình nơi địa-ngục ra sao và mong Phật cứu giúp mẹ mình.

             Ảnh ngài Mục-Kiền-Liên dâng cơm cho mẹ.

Đức Phật thương xót mà nói: “Mẹ con tạo nghiệp ác sâu dầy nên bị đọa vào Địa-ngục A-tỳ, nơi khổ nhất trong các địa-ngục. Do bà bị đói ăn lâu ngày nên khi được con dâng cơm, sợ các cô-hồn đến tranh cướp nên đã dùng một tay che bát cơm, mắt bốc lửa nên khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành than. Dù con có sức thần-thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ mình đâu. Giờ chỉ có một cách vào ngày rằm tháng bảy 7 tới đây là ngày tự-tứ của mười phương Tăng, tất thảy các vị đều rất từ-bi, ứng thọ nên ai cúng-dường Thánh Tăng thì tất cả đều vượt ác-đạo, ứng niệm giải thoát. Con hãy lo sắm quần áo, cơm canh ngon, trai tịnh, và những mâm ngũ quả cùng hoa tươi, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Với lòng chí thành dâng lễ vật lên cúng-dường, khẩn cầu nhờ hợp lực của chư các vị Bồ-Tát, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các vị Pháp-sư cư-sỹ những người có lòng từ-bi, lại giữ gìn giới luật, đức độ ở khắp mười phương một lòng cầu các chư vị Phật, chư đại Bồ-Tát, hồi hướng công đức ấy cho mẹ của con và cả cha mẹ bẩy đời trước đây thì mới mong được giải thoát.”

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên về làm đúng lời Phật dạy, quả nhiên mẹ Ngài được giải thoát. Mục-Kiền-Liên đã đưa mẹ bay lên trời cầu xin Đức Phật xoá tội cho bảy đời cha mẹ trước đây của mình. Tất cả các bậc cha mẹ đó nhân đây cũng được giải thoát. Mục-Kiền-Liên lại bất giác nghĩ thương đến tất cả những bậc cha mẹ của bao người khác cũng giống cha mẹ của mình một sương hai nắng, tần tảo nuôi con, nhiều khi tạo tội cũng chỉ vì miếng cơm manh áo của con. Vì thế, Ngài quỳ gối chắp tay, cúi xin Phật mở lòng hải-hà, cho các người con hiếu thảo với ông bà, cha mẹ hay người thân yêu của mình cũng được có cơ hội mỗi năm dâng cúng vật lễ chay tịnh lên các chư Tăng để mong nhờ công-đức và lòng từ-bi của các chư vị mà được giải thoát.

Đức Phật khen lành thay! Ngài đã ban bố và thí phép để hàng năm mở cửa Trời ngày Rằm tháng bẩy từ 12 giờ đêm hôm 14 đến 12 giờ đêm hôm 15, các vong-linh được về gia đình mình để dự cùng con cái làm lễ Vu-Lan. Ngài cũng xác quyết, khuyến thỉnh các vị chư Bồ-Tát, Thănh-Văn, Duyên-Giác, Tăng-Ni vào ngày tự-tứ rằm tháng bẩy, hoan hỉ nhận lễ cúng-dường của mọi người con hiếu thảo dâng tiến, rồi làm đại lễ Vu-Lan cầu chư Phật, chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh Tăng để độ cho ông bà, cha mẹ, người thân của các gia-chủ thoát khỏi ba đường khổ nơi Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc-sinh, lại được trở lại làm người, có cơ hội để mà tu hành cầu được giải thoát sinh-tử luân-hồi mau thành Bồ-Tát, thành Phật.

Từ đó trở đi, cứ sau mùa kiết-hạ là các chư Tăng, Ni, các Pháp-sư Cư-sỹ cùng các Phật-tử đều tổ chức ngày Lễ Vu-Lan để các người con hiếu thảo bốn phương về dâng lễ vật cầu cho ông bà cha mẹ mình được giải thoát.

 

Ảnh 108 ngọn nến lung linh được Pháp-sư cư-sỹ Quảng Tịnh và các Phật-tử thắp lên

đêm Lễ Vu-lan 2011 tại chùa Lũng-Tiên Quận Kiến-An thành phố Hải Phòng, Việt Nam.

Dựa vào tích ấy, vào ngày rằm tháng 7, các chùa đều làm lễ chay trai đàn, phá ngục cho các tội nhân. Nhà nhà cũng theo đó thành kính, làm lễ vì tin rằng ngày đó dưới âm phủ nhiều vong nhân sẽ đuợc xá tội.

Noi gương hiếu thuận của Mục-Kiền-Liên, ngày rằm tháng 7 trở thành ngày tết Vu-Lan, con cái báo ân cha mẹ. Ngày lễ ấy có giá trị đạo đức rất cao. Người ta có câu: “Giọt ranh trước rơi thế nào, giọt sau rơi thế đấy”.

Việc các quý vị báo hiếu cha mẹ mình hôm nay ra sao, sẽ có tác dụng giáo dục, bồi đắp lòng hiếu thảo của con cháu quý vị với ông bà, cha mẹ sau này, gieo nhân Bồ-Đề cho mãi mãi mai sau. Bởi thế, các quý vị đang làm một công việc đầy ý nghĩa cao cả nhất, thiết thực nhất cho Ông bà cha mẹ, người thân và cho cả chính mình.

(còn tiếp phần Sự khác nhau giữ lễ Vu-Lan báo hiếu và Ngày cúng cô hồn, xóa tội vong nhân?)

SỰ KHÁC NHAU GIỮA LỄ VU-LAN BÁO HIẾU VÀ NGÀY CÚNG CÔ HỒN, XÓA TỘI VONG NHÂN

Các bạn đồng tu thân mến!

Ngày Rằm tháng bẩy theo đạo Phật thì là ngày Lễ Vu-Lan Bồn, còn theo nhân gian vì ảnh hưởng của Nho giáo và Lễ giáo Trung Hoa nên gọi ngày này là “Ngày xóa tội Vong Nhân” hay “Ngày cúng Cô-Hồn”. Nhiều người không học Kinh điển Phật nghĩ là giống nhau nhưng thực ra Ngày Lễ Vu-Lan và Lễ Cô-Hồn hoàn toàn khác nhau là hai lễ nhưng trùng vào cùng một ngày.   

Sự tích Lễ cúng Cô-hồn đại khái như sau:

Theo “Phật Thuyết Cứu-Bạt Diệm-Khẩu Ngạ-Quỷ Ðà-La-Ni Kinh” mà suy thì việc cúng cô-hồn có liên quan đến câu chuyện giữa Ngài A-Nan-Ðà, thường gọi tắt là A-Nan, người em con chú của Phật và cũng như ngài Mục-Kiên-Liên, các vị đều là đệ-tử lớn của Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Câu chuyện với một con quỷ miệng lửa (Diệm-khẩu) hay cũng gọi là quỷ mặt cháy (Diệm-nhiên).

Có một buổi tối, Ngài A-Nan đang ngồi trong tịnh-thất thì thấy một con ngạ-quỷ, thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A-Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi Ngạ-quỷ miệng lửa mặt cháy như nó.

A-Nan sợ quá, bèn nhờ Quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn Ngạ-quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng-dường Tam-Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sinh về cõi trên”.

A-Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn cho Ngài bài chú gọi là “Cứu-Bạt Diệm-Khẩu Ngạ-Quỷ Ðà-La-Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước.

Từ đó, người Trung-Hoa đã làm lễ cúng cô-hồn, gọi lễ cúng này là Phóng-diệm-khẩu, tức là cúng để bố-thí và cầu nguyện cho loài quỷ-đói miệng lửa (Ngạ-quỷ), đó là những vong-hồn vật vờ không nơi nương tựa, sống vạ vật nơi gốc cây, bờ bụi rậm hay hang hốc v.v… vì không có ai là người thân trên trần-gian để nương tựa, cúng bái.

Quỷ-đói trong Kinh-điển Phật gọi đó là loài Ngạ-quỷ, loài này đầu to, mặt mày dữ tợn đầu tóc bù xù nhưng cổ bằng cái xe điếu trong khi cái bụng thì lớn, chân tay thì gầy còm.

Vì sao? Vì hễ ăn gì kiếm được vào cổ họng nuốt chẳng thể trôi xuống cái dạ dầy, vì cổ quá bé, nên lúc nào cũng thấy đói khát.

Những người khi sống ở nhân-gian tính tình keo-kiệt, hay xâm phạm tài sản của thường-trụ như lấn chiếm đất chùa, lấy các đồ vật cho đến hoa trái trong chùa mà không được sư trụ-trì cho phép.

Lại nữa nhiều người khi sống cậy có nhiều tiền ăn chơi vung phí, cờ bạc, trai gái, rượu bia, thuốc sái, các đồ ăn thức uống thường thừa thãi nhưng đem đổ đi, trong khi người nghèo cũng như muông thú đói khát thì chẳng có ăn.

Lại nữa, có những người sống không tin nhân quả, cho rằng chết là hết nên mặc tình làm ác mà không biết sợ, những người như thế khi lâm-chung đều bị đọa làm loại Ngạ-quỷ.

Như trong Kinh Vu-Lan thì mẹ của ngài Mục-Kiền-Liên là bà Thanh-Đề vốn xưa làm nghề bán thịt, phạn tội sát sinh, lại không tin nhân-quả, đem thịt chó làm nhân bánh lừa cúng-dường Tăng, Ni mà bị đọa vào Địa-ngục A-tỳ làm thân quỷ đói (như đã nói ở trên).

Ngoài đối tượng trên đã nói còn có loại hàng cô-hồn khác, đó là những khi sống không mắc tội lớn nên không bị giam cầm trong các địa-ngục nhưng cũng lại không có đủ phúc để được siêu thoát đầu thai trở lại làm người hay được sinh lên cõi Trời.

Như chúng ta đã biết muốn đầu thai trở lại làm người thì khi sống, người ta phải thực hành đủ năm giới là:

1, Không sát sinh; 2 Không ăn cắp; 3, Không tà-dâm; 4, Không uống rượu; 5, Không nói dối.

Đây là tiêu chuẩn căn bản để khi lâm-chung được đầu thai trở lại làm người. Trong Kinh gọi đó là Hiền-nhân.

Còn những ai ngoài giữ năm giới trên đây lại thực hành thêm 5 giới nữa gọi là Thập giới, đó là:

Ba giới cho khẩu (tức là lời nói): 6, Không vọng ngữ (nói lời thêu dệt); 7, Không lưỡng thiệt (không nói lời hai chiều); 8, Không ác khẩu (không nói lời độc ác). Hai giới có ý: 9, Không giận hờn; 10, Không si mê.

Nếu thực hiện được như thế thì gọi là Thánh-nhân, người này khi lâm-chung được sinh lên cõi Trời làm Tiên, Thánh.

Số người sống ở nhân-gian là Hiền-nhân và Thánh-nhân quá ít, phần nhiều khi lâm-chung thường bị đọa vào ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ và Súc sinh.

Vì sao nói vậy? Vì người giữ giới quá ít, quá ít. Người nghiên cứu học hành Kinh-điển của Phật, làm công đức lành lại càng ít hơn. Giầu khó tu mà nghèo lại càng khó tu hơn, người không có công danh địa vị khó tu mà người làm quan, có chức sắc cũng lại càng khó tu hơn nữa”.

Như thế có hai đối tượng của ngày cúng cô-hồn là:

1, Những người đọa làm loài Ngạ-quỷ từ địa-ngục nhân ngày rằm tháng bẩy nhờ cửa địa-ngục mở mà ra.

2, Những người khi sống không mắc tội lớn nên không bị giam cầm trong các địa-ngục nhưng cũng lại không có đủ phúc để được siêu thoát đầu thai trở lại làm người hay được sinh lên cõi Trời.

Tóm lại: Ý nghĩa chính của Lễ Cúng cô-hồn là ở chỗ: những người khi sống có con cái, người thân yêu có hiếu thảo nên ngày Vu-Lan săn sóc, chăm lo tụng Kinh, làm lễ Vu-lan cầu thỉnh chư Tăng, Ni lễ Phật cho mình để được giải thoát, trong khi đó, những người vốn không có thân nhân, chẳng có con cái thì sao đây? Ai sẽ là người lo cho họ?

Sau đây là một vài hình ảnh nói về cảnh giới mà những thần thức của người khi sống ở nhân gian tạo tội ác phải chịu ở địa-ngục trong tập Địa-Ngục Biến Tướng Đồ đã miêu tả.

Khi lâm-chung, trước Diêm-Vương những người và con vật mà người ta nợ sẽ là người đến đòi trả nợ trước tiên. Không ai có thể phủi nợ trốn nợ mà đi. Vay gì, nợ gì trả đó. Vay mạng, đền mạng vay tiền trả tiền. Nhân nào quả đó không thể sai.

     

Khi xưa trói người, trói thú vật hành hạ họ, hôm nay gặp quả báo không khác. Những người trói gà, lợn, chó v.v... giết chúng thì khi mạng chung phải bị hành hình như ảnh này.

    

Ở nhân-gian còn có thể ỷ chức, cậy tiền chạy án, xuống âm phủ thì luật trời là Thiên-lý, không thể đổ lỗi cho người khác, chẳng thể chạy tội.

 

Hôm xưa giết người, sát vật thì cũng bị hành xử bị chém.

 

Đức Phật lòng từ-bi, bình-đẳng thương xót tất cả không có ngằn mé, chẳng chừa một ai, kể cả đến loài cầm thú, các chúng hữu-tình. Ngài thể theo lời kể và thỉnh cầu của ngài A-Nan mà Ngài nhân ngày lễ Vu-lan, cũng cho mở cửa ngục để những cô-hồn được về ăn mày nơi cửa Phật, hay những phẩm vật của những người hảo tâm cúng-dường.

Chúng ta nên biết, thường thì đến ngày này, khi cửa ngục mở, những phạm nhân và cả những cô hồn bơ vơ vất vưởng họ hay kéo đến các Chùa chiền, Lâm-tự, cậy nhờ các tấm lòng từ-bi rộng lượng các Chư Tăng, Ni, của các Phật-tử để cầu độ thoát và nhận tín thọ của cúng-dường. Chúng ta do không có phép thần-thông, thường nhìn với mắt thịt nên không thể thấy họ, nhưng họ vẫn hiện diện trước chúng ta, đứng ngồi bên cạnh chúng ta, nhìn rõ chúng ta, chỉ có điều chúng ta lại không nhìn thấy họ mà thôi. Nhưng chúng ta vẫn cảm nhận rõ điều đó qua cảm ứng và cá biệt có người có khả năng đặc biệt nhận biết họ, cảm ứng giao tiếp được với họ, số đó không nhiều.

Trong số các Cô-hồn và cả ma, quỷ v.v… do không có phước đức nhân-duyên để đầu thai lại làm người nên nhiều khi liều mạng làm điều sai trái như nhập vào người đang sống, ép thần-thức nép vế, rồi sai khiến, điều khiển họ, làm họ bị mụ đi, tâm thần như điên như dại. Trong Kinh Phật gọi đó là loài Ma-dựa, Quỷ-dựa. Điều này nhiều bạn không biết được tình trạng này. Nhiều bạn đồng tu, đi với tôi, đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy xẩy ra và có cả người trong Đạo-tràng Liên-Hoa Tịnh-độ thành phố Hải Phòng, trong gia đình con trai họ là thanh niên khỏe mạnh cũng đã bị ma-dựa khổ sở mấy năm qua, suốt ngày trốn bố mẹ đi lang thang khắp nơi. Bố mẹ thương con đã tốn kém không biết bao nhiêu tiền mà không giải quyết được.

Chỉ khi gia đình lập ban thờ Phật, đặt tượng Địa-Tạng, tụng Kinh 21 ngày, phân tích, khuyên bảo, khuyến thỉnh vị Ma-dựa, Quỷ-dựa này, yêu cầu họ phải rời thân không nên tạo thêm nghiệp ác mà đọa vào trọng tội, vừa mềm dẻo vừa kiên quyết khuyến thỉnh ác-nhân, Ma-dựa đó quy-y Tam-bảo, rời thân người để vào chùa ăn mày cửa Phật, tu hành tụng Kinh niệm Phật để có cơ hội lớn đầu thai trở lại làm người. Thậm chí phân tích cho họ biết không có đường nào khác để chọn lựa. Một mặt tụng trì các thần-chú như Chú Đại-Bi, Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn, thành tâm sám hối, làm công-đức để hồi hướng cho pháp-giới chúng sinh, trong đó có cả những ai mà ta đã gây ra mọi khổ đau cho họ như thiệt mạng, bị đau đớn, bị tủi nhục v.v… để họ được vãng sinh về Tây phương Cực-Lạc hay vào các cảnh giới lành. Vì thế, chúng ta hóa giải được hận thù, biến thù thành bạn và họ hoan hỷ không đòi nợ ta nữa. Ta cũng cầu nguyện đến các chư vị Phật đã cho để kêu gọi Phật và chư đại Bồ-Tát, các vị Hộ-Pháp đến bảo vệ cho nạn-nhân và gia đình. Cuối cùng họ đã phải chấp nhận, tuyên thệ rời thân nạn nhân mà đi.

Nạn nhân đã bình phục, gia đình vui vẻ hoan hỷ và trở thành Phật-tử thuận thành.

Các bạn đồng tu thân mến!

Vì Phật-pháp mà tôi phải nói ra điều này với mục đích chính là để các bạn đồng tu biết được tình trạng này để phòng tránh.

Như Phật đã dạy trong Tứ-Diệu-Đế hay các Kinh-điển rằng: “Được làm thân người rất khó! Được gặp Phật-pháp lại càng khó hơn! Nên khi gặp Thiện-tri-thức thì phải biết lắng nghe tụng trì Kinh-điển giáo lý của Phật, học và thực hành để mau thoát ly sinh-tử luân-hồi, nếu bỏ qua cơ hội ngàn vàng khó mà gặp lại, làm việc công-đức cũng phải có trí-tuệ, chúng ta phải cầu thân-báo chứ đừng vì tham mà chỉ nghĩ đến tạo phước báo. Phước báo là có hạn còn thân báo là vô hạn và vĩnh cửu. Chúng ta cầu thân Phật.” 

Các bạn đồng tu thân mến!

Quay lại vấn đề ngày lễ Vu-Lan và “Ngày Xóa Tội Vong-Nhân”. Theo tín ngưỡng dân-gian, thì bắt đầu từ 12 giờ đêm ngày 14, rạng ngày 15 tháng 7 âm lịch cho đến 12 giờ đêm 15 là ngày “mở các cửa địa-ngục”, các cô-hồn được tại ngoại, xá-tội, được về dương-thế, vảng vất khắp nhân-gian. Vì vậy, mọi người có hảo tâm tốt nhất có thể mang các lễ vật đến Chùa, hay Lâm-tự để cùng các thầy làm lễ cúng cô-hồn cho họ lĩnh thọ và cầu cho họ được giải-thoát. Vì thế, nơi chùa nào thanh-tịnh, sư Tăng, Ni giữ-giới, giầu đức từ-bi, lại chuyên lo hoằng-dương Phật-pháp độ sinh thì thường nơi đó các cô-hồn kéo về đó rất đông, chật cả sân chùa ra đến ngoài đường. Họ ngồi yên tịnh bên cạnh người sống cũng chắp tay niệm Phật nhờ Phật A-Di-Đà và các chư đại Bồ-Tát, Thanh-Văn, duyên-Giác tiếp-dẫn về Tây phương Cực-lạc hay được thoát khỏi ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sinh. Họ nhìn thấy chúng ta mà chúng ta không nhìn thấy họ mà chỉ có cảm giác có họ.

Các bạn đồng tu thân mến!

Tại sao tôi nói, nếu ai có hảo tâm muốn cúng-dường các Cô-hồn thì nên mang lễ vật đến chùa để cúng-dường họ?

Các bạn nên biết! Có nhiều người trong số Cô-hồn hay Ma, hay quỷ-đói (Ngạ-quỷ) họ đến đây có thể chỉ vì muốn nhận thọ của cúng-dường chứ không có trí-tuệ nhân-duyên và tâm muốn tu hành thoát ly-sinh tử Luân-hồi. Ở nhân-gian chúng ta cũng đã thấy có phải ai cũng mong cầu tu hành Phật đạo, gìn giữ phẩm hạnh, thâm nhập Kinh tạng để cầu sự giải thoát thành Bồ-Tát, thành Phật đâu. Họ đang tạo nghiệp trong đó có cả điều tốt và điều ác nữa mà điều ác lại nhiều. Cho nên, nếu bạn đem ra trước cửa nhà mình hay trong vuờn, sân, hay nơi bàn thờ trong nhà v.v… để cúng-dường các Cô-hồn, Ma-đói, Quỷ-đói v.v… thì họ còn có điều gì mừng hơn, họ sẽ kéo đến để thọ nhận nhưng sau đó họ không dời đi nữa thì sao?

Các bạn cần biết! Họ chính là người mà hoàn cảnh rất khổ cực, vô gia-cư, không có nhà cửa, chẳng nơi nương tựa, nhân có lời mời của bạn mà đến nhà để nhận tin thọ, họ đến đó rồi thấy nhà cửa ấm cúng, chủ nhà dễ chịu rồi cứ ỳ ra, sau ngày này không đi thì bạn tính sao? Có khi vì đói lâu ngày còn đánh chửi nhau tại nhà bạn nữa. Bạn phải cẩn thận, làm công đức cũng cần phải có trí-tuệ.

Chúng ta nên biết! Thường thì mỗi căn nhà gia đình chúng ta đều có các chư vị Thần hộ-mạng các bạn mà trong Kinh Địa-Tạng đã nói, đó là vị Chủ Mạng Quỷ-Vương và các quân tướng thân cận của vị này. Các vị Thổ-địa, Thổ-thần, Táo-Quân, Táo-Mẫu cũng là người giúp việc đắc lực của Chủ Mạng Quỷ-Vương. Các vị này giúp bảo vệ không cho Ma, Quỷ và Cô-hồn đến và ra vào tự do nơi nhà các bạn. Nếu quý vị nhà có ban thờ Phật, lại thường tụng Kinh, giữ giới, ăn chay niệm Phật thì còn được các chư vị Phật, chư vị Bồ-Tát, các vị Hộ-Pháp, Chư Thiên, Thần, Thánh và các vị Thập-Điện Tướng-Quân, Quỷ-Vương, Thổ-địa, Thổ-Thần v.v… bảo vệ giữ gìn cho.

Vì sao? Vì các vị đây đã có lời thệ nguyện sẽ bảo vệ những người như vậy. Nên các Ma, Quỷ Cô-hồn không thể tự do mà đến  ở được.

Nhưng nếu các bạn nhà không có ban thờ Phật, chẳng tụng Kinh-điển, lại hay giết gà, nấu hành tỏi, mắm, uống rượu v.v… không ăn chay, giữ giới thì những thứ ăn uống kia như là thứ dụ Ma, Quỷ đến. Các vị Hộ-Pháp cũng như Phật và chư Đại Bồ-Tát, Thần, Thánh sẽ rời nhà bạn. Vì sao? Vì các vị rất thanh-tịnh, khi gặp cảnh đó sẽ rời đi ngay. Khi ấy Ma-Quỷ thả sức mà đến, ra vào tự do, nhà cửa các bạn sẽ lộn xộn, bất ổn, luôn gặp mọi thứ phiền-não quấy phá, thậm chí tai họa. Vì các vị này cá lớn nuốt cá bé, thường hay tranh giành thậm chí ẩu đả, đánh nhau. Những thứ thịt, cá, rượu, hành tỏi v.v… đó là sở thích là khoái khẩu của họ. Nếu bạn lại mời thỉnh họ đến thì họ còn gì mừng hơn, rồi như thành cái lệ, khó thể mời họ dời đi. Các bạn phải rất cận thận việc này!

Tốt nhất, nếu không mang lễ vật ra chùa thì mang ra đầu làng, hay dưới các gốc cây v.v… bầy biện để cúng-dường. Còn không thì nên đưa đến chùa để họ tín thọ, ở đó có các vị Hộ-Pháp giữ gìn trật tự để ai cũng được nhận phần, nhưng điều quan trọng là để họ có cơ hội mà thức tỉnh, giác-ngộ biết đến đây mà nghe pháp, nghe tụng Kinh, niệm Phật cầu được sự giải thoát. Chỉ cần họ tụng danh hiệu một vị Phật, danh hiệu một vị Bồ-Tát hay Bích-Chí-Phật, hay tụng một phẩm Kinh thì lập tức được sinh lại làm người. Đó là lời Phật và Bồ-Tát Địa-Tạng đã dạy trong Kinh Địa-Tạng mà tôi đã trích dẫn ra đây để các quý vị quán xét, học và hành. Đọc nó chúng ta sẽ biết:               

Tại sao có đạo lý này?

Trong Kinh Địa-Tạng, Phẩm Thứ Chín: Xưng Danh Hiệu Chư Phật đã nói rõ:

“Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng Bồ-Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Nay con vì chúng sinh trong đời sau mà phô bày sự lợi ích, làm cho trong vòng sinh tử được nhiều lợi ích lớn. Cúi xin đức Thế-Tôn cho phép con nói đó”.

Ðức Phật bảo Ngài Ðịa-Tạng Bồ-Tát rằng: “Nay ông muốn khởi lòng từ-bi cứu vớt tất cả chúng sinh mắc phải tội khổ trong sáu đường, mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn, bây giờ chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.

Giả sử ông có thể sớm làm xong nguyện đó, Ta dầu có vào Niết-Bàn, cũng không còn phải lo ngại gì đến tất cả chúng sinh ở hiện-tại và vị-lai nữa”.

Ngài Ðịa-Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Vô-lượng vô-số kiếp về thuở quá-khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Vô-Biên-Thân Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe danh hiệu của Ðức Phật đây mà tạm thời sinh lòng cung kính, liền được siêu-việt tội nặng sinh tử trong bốn mươi kiếp, huống là vẽ đắp hình tượng cúng-dường tán thán! Người này được vô-lượng vô-biên phước lợi.

Lại hằng-hà-sa kiếp về thuở quá-khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Bảo-Thắng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, phát tâm quy-y với Phật trong khoảng khảy móng tay, người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi đạo Vô-thượng Chánh-giác.

Lại về thuở quá-khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba-Ðầu Ma-Thắng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai, người này sẽ được một nghìn lần sinh lên sáu tầng trời cõi dục, huống nữa là chí tâm xưng niệm!

Lại bất-khả-thuyết vô-số kiếp về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Sư-Tử-Hống Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, mà phát tâm quy-y chừng trong một niệm, người này sẽ được gặp vô-lượng các Ðức Phật xoa đỉnh thọ-ký cho.

Lại về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Câu-Lưu-Tôn Như-Lai.

Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, chí tâm chiêm ngưỡng lễ bái hoặc lại tán thán, người này nơi pháp hội của một nghìn Ðức Phật trong hiền-kiếp làm vị đại Phạm-Vương, được Phật thọ-ký đạo Vô-thượng cho.

Lại về thuở quá-khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ-Bà-Thi Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi không còn sa đọa vào chốn ác-đạo, thường được sinh vào chốn Trời, Người, hưởng lấy sự vui thù thắng vi-diệu.

Lại vô-lượng vô-số hằng-hà-sa kiếp về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ða-Bảo Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây liền khỏi đọa vào ác-đạo, thường ở tại cung trời, hưởng sự vui thù thắng, vi-diệu.

Lại về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu Bảo-Tướng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, sinh lòng cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đặng quả A-La-Hán.

Lại vô-lượng vô-số kiếp về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ca-Sa-Tràng Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây, thời người ấy sẽ siêu thoát tội sinh-tử trong một trăm đại-kiếp.

Lại về thuở quá-khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ðại-Thông Sơn-Vương Như-Lai.

Như có người nam, người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, thời người này được gặp hằng-hà chư Phật nói nhiều pháp mầu cho, đều được thành đạo Bồ-Ðề.

Lại về thuở quá-khứ, có đức Tịnh-Nguyệt Phật, đức Sơn-Vương Phật, đức Trí-Thắng Phật, đức Tịnh-Danh-Vương Phật, đức Trí-Thành-Tựu Phật, đức Vô-Thượng Phật, đức Diệu-Thinh Phật, đức Mãn-Nguyệt Phật, đức Nguyệt-Diện Phật, có bất-khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn như thế.

Tất cả chúng sinh trong thời hiện-tại cùng thuở vị-lai: hoặc là Trời, hoặc là người, hoặc người nam, hoặc người nữ chỉ niệm được danh hiệu của một Ðức Phật thôi, sẽ được vô-lượng công-đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu Phật. Những chúng sinh đó lúc sinh, lúc tử được nhiều phước lợi, không còn phải đọa vào ác-đạo nữa.

Như có người nào sắp mạng-chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bệnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Ðức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô-gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.

Năm tội lớn vô-gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức-kiếp hẳn không ra khỏi được quả khổ, nhưng bởi lúc lâm-chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.

Huống là chúng sinh tự mình xưng danh hiệu của chư Phật, người này được vô-lượng phước lành, trừ diệt vô-lượng khổ”.

Các bạn đồng tu thân  mến!

Như thế, các hương-linh, các cô-hồn về chùa nghe chúng ta niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, Phật Thích Ca-Mâu-Ni, danh hiệu đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát và danh xưng các chư vị Phật đã nói trên đây thì nhất định vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, được sinh lại nhân-gian làm người tu hành tiếp, hay phúc đức lớn có thể sinh lên cõi trời hưởng sự vui thù thắng như Kinh-điển Phật đã nói.

Nếu họ đến chùa được nghe thầy và các Phật-tử tụng Kinh, được các thiện-tri-thức chỉ bầy mà biết tự mình trì-danh niệm Phật A-Di-Đà, một lòng cầu nguyện vãng-sinh Tây phương Cực-Lạc, lại đem giáo-lý này nói với các cô-hồn khác thì chắc chắn họ được vãng-sinh thoát ba đường ác, cơ-hội về cõi nhân-thiên là điều chắc chắn. Vì đó là những lời Phật và ngài Địa-Tạng đã nói, chẳng thể hư dối.

Như thế, công đức của các quý vị thật là vô-lượng, đó cũng là việc làm Phật-pháp vậy. Đây là ý nghĩa to lớn nhất của Lễ Vu-Lan và cũng là của lễ Cô-hồn. Cho nên ngày này tôi vẫn cùng các quý vị đồng tu làm lễ Vu-Lan kết hợp lễ Cô-hồn ở chùa Lũng-Tiên, Hải Phòng là vì lẽ như vậy.

Bên cạnh việc mua sắm hoa quả tươi tốt, đèn nến, hương trầm thơm v.v… dâng lên Phật, lên chư Đại Bồ-Tát, chúng ta cũng làm cơm chay tịnh dâng cúng chư Tăng, Ni, rồi làm lễ phóng-sinh, có đồ xôi, oản phẩm vật để cúng cô hồn mong khuyến thỉnh họ cùng chúng ta niệm danh hiệu Phật, quy-y Tam-Bảo để mau chóng thoát ly ba đường ác đạo, sinh-tử luân hồi, mau thành Phật quả là vì vậy.

Người nhân-gian không hiểu thấu đáo đạo lý này nhưng họ có hảo tâm thường có lễ cúng chúng-sinh bằng cháo loãng, gạo, bỏng, muối, xôi oản v.v… cho những linh-hồn không nơi nương tựa ấy, đó cũng là một tập tục rất đáng quý. Nhưng nếu họ hiểu về Phật pháp mà ứng dụng thực hành thì quý báu biết bao, công đức đó thật là vô-lượng. 

Tóm lại: Tục cúng cô-hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô-hồn là Phóng-diệm-khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm-khẩu nữa. Diệm-khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô-hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô-hồn đã trình bày trên đây.     

Lòng thương nhớ mẹ cha không bao giờ nguôi!

Vậy lễ Vu-Lan và lễ cúng cô-hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện Ngài Mục-Liên báo hiếu cha mẹ, một đằng lại liên quan đến chuyện tuổi thọ của Ngài A-Nan. Một đằng là để cầu-siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố-thí cho những vong-linh không ai thờ cúng và làm nương tựa.

Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn.

Cả hai lễ này đều làm công-đức và đều phải nhờ lòng đại từ-bi của chư Phật và chư đại Bồ-Tát, chư Hiền Thánh, Tăng, Trời đất nên đều phải giữ giới, tránh sát sinh, trái lại nên phóng sinh thú vật, sắm lễ cúng-dường đều là phải đồ chay tịnh để dâng lên các vị. Thế nhưng nhiều người không hiểu đạo lý này lại biến ngày này thành ngày tạo nghiệp ác, giết gà, giết lợn v.v… làm cơm, mua rượu, bia trước là cúng bái ông bà, sau là để mà đãi nhau. Như vậy chẳng phải nghĩa báo hiếu mà là báo oán ông bà cha mẹ của mình, gây thêm ướng lụy cho các vị. Đã vậy, chân linh ông bà, cha mẹ còn phải đau lòng chứng kiến cảnh con cháu, nhiều khi rượu vào lời ra, lại còn gây ra bất hòa, bất kính, đánh cãi chửi nhau. Đó là việc làm cần nên tránh.

Các bạn đồng tu thân mến!

Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) danh nhân thế-giới là một người giàu lòng yêu thương con người do ảnh hưởng sâu sắc của Nho-giáo, Phật-giáo mà trong “Truyện Kiều” thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc nhất trong các sáng tác của ông. Ông đã diễn tả rất chi tiết về những hoàn cảnh đáng thương của các cô-hồn ngày rằm tháng bẩy như sau:

Cảnh tiết lạnh thương:
        Tiết tháng Bảy mưa rầm sùi sụt

        Toát hơi may lạnh buốt xương khô;

        Não người thay, buổi chiều thu,

        Ngàn lau nhuốm bạc, lá khô rụng vàng.

        Đường bạch dương bóng chiều man mác,

        Ngọn đường lê lác đác sương sa,

        Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

        Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

        Trong trường dạ tối tăm trời đất,

        Có khôn thiêng phảng phất u minh,

        Thương thay thập loại chúng sinh,

        Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

 

Cảnh cô hồn là người dân bị lâm trận chết:
        Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

        Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

        Nước khe cơm ống gian nan,

        Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời.

        Buổi chiến trận mạng người như rác,

        Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

        Lập lòe ngọn lửa ma trơi

        Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương...

 

Cảnh những cảnh cô-hồn xưa tranh ngôi báu gây đao binh:
      “Nào những kẻ tính đường kiêu hãnh

        Chí những lăm cướp gánh non sông

        Nói chi đang thuở tranh hùng

        Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!

        Bỗng phút đâu tro bay ngói giở

        Khôn đem mình làm đứa thất phu

        Cả giàu sang nặng oán thù

        Máu tươi lai láng xương khô rã rời.

        Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc

        Quỷ không đầu van khóc đêm mưa

        Cho hay thành bại là cơ

        Màu hồn biết bao giờ cho tan.”

      “Nào những kẻ bài binh bố trận

        Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung

        Gió mưa thét rống đùng đùng

        Dãi thây trăm họ làm công một người.

        Khi thất thế tên rơi đạn lạc

        Bãi sa trường thịt nát máu trôi

        Bơ vơ góc bể chân trời

        Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao!

        Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

        Khí âm huyền mờ mịt trước sau

        Bao năm xương trắng dãi dầu

        Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường.”

Cảnh cô-hồn xưa buôn hoa bán phấn:
        Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

        Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

        Ngẩn ngơ khi trở về già,

        Ai chồng con tá biết là cậy ai?

        Sống đã chịu một đời phiền não,

        Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

        Đau đớn thay phận đàn bà,

        Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?

 

Cảnh cô-hồn là kẻ xưa ham làm giầu mà không biết tu hành bố-thí, làm công đức để tạo ra phúc báo cho mình:
 

        “Cũng có kẻ tính đường trí phú

        Mình làm mình nhịn ngủ quên ăn

        Ruột rà không kẻ chí thân

        Dẫu làm nên để dành phần cho ai.

        Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

        Của phù vân dù có như không

        Sống thì tiền chảy bạc dòng

        Thác không đem được một đồng nào đi.

        Khóc ma mướn thương gì hàng xóm

        Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

        Ngẩn ngơ nội rộc đồng chiêm,

        Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?”

Cũng có cô-hồn là kẻ ham quyền chức, công danh, phú quý hay ngày đêm vùi mình vào đèn sách thi cử nay chết:
      “Cũng có kẻ rắp cầu chữ Quý

       Dấn thân vào thành thị lân la.

       Mấy thu lìa cửa lìa nhà

       Văn chương đã chắc đâu mà thí thân.

       Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng

       Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

       Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

       Anh em: thiên hạ; láng giềng: người dưng.

       Bóng phần tử xa chừng hương khúc

       Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

       Cô hồn nhờ gửi tha phương

       Gió trăng hiu hắt khói hương lạnh lùng!”

Cảnh cô-hồn xưa là những số kiếp gặp bước không may trong những công cuộc mưu sinh buôn bán đầy gian truân, bất trắc:
 

     “Cũng có kẻ vào sông ra bể

       Cánh buồm thưa chạy xế gió đông

       Gặp cơn giông tố giữa dòng

       Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

       Cũng có kẻ đi về buôn bán

       Đòn gánh tre chín dạn hai vai

       Gặp cơn mưa nắng giữa trời

       Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao”.

 

Cũng có các cô-hồn là kẻ bị oan khuất bởi cường quyền bất lương:
 

   “Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

     Gửi thân vào chiếu lác một manh

     Nắm xương chôn rấp góc thành

     Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi.”

 

Đáng thương nhất là những cô-hồn khi xưa là những hài nhi yểu mệnh này thì thật là đau đớn, khiến đã là con người thì không ai có thể cầm được nước mắt:
    “Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé

      Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha

      Lấy ai bồng bế vào ra

      U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.”

 

Còn đây là những cô-hồn của các loài ma, quỷ không nhà không cửa, sống vạ vật nơi bụi rậm, hang hốc v.v… hay bơ vơ nay đây mai đó chẳng được đầu thai vào cõi nào để mà tu hành thoát ly sinh-tử luân-hồi, thật là thảm thiết:
   

     Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi

     Hoặc là nương ngọn suối chân mây

     Hoặc là bụi cỏ bóng cây

     Hoặc là quán trọ cầu này bơ vơ.

     Hoặc là nương thần-từ, Phật-tự

     Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông

     Hoặc là mông quạnh đồng không

     Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre.

     Sống đã chịu một bề thảm thiết

     Ruột héo khô da rét căm căm

     Dãi dầu trong mấy mươi năm

     Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.

     Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

     Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra

     Lôi thôi ẵm trẻ dắt già

     Có khôn thiêng hỡi lại mà nghe Kinh.”

    

Cuối cùng, qua Văn Chiêu-hồn nhà thơ Nguyễn Du cũng như mọi người chúng ta đều dành tất cả tấm lòng bác ái, trân trọng, bao dung và sự thương cảm vô-bờ bến của mình, để biến thành những lời tha thiết, chân thành khi trì-tụng cho mọi vong-hồn được siêu-thoát. Đó cũng là sứ mạng của người Phật-tử chân chính với mọi chúng hữu tình khổ đau và bất hạnh để cầu họ được thoát khỏi ba đường khổ là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sinh, được trở lại làm người mà tu hành trì danh niệm Phật A-Di-Đà, cầu nguyện vãng-sinh Tây phương Cực-Lạc, thoát ly sinh-tử luân-hồi, thành Bồ-Tát, thành Phật.
Qua đây biết rằng được làm thân người rất khó, khi đã làm người hôm nay phải biết lấy đây làm cơ hội ngàn vàng mà tu hành, trì danh niệm Phật A-Di-Đà, cầu nguyện vãng sinh Cực-Lạc quốc, sám hối, làm lành nhất là biết phát tâm Bồ-Đề, in ấn Kinh-điển hoằng-dương Phật pháp độ mình, độ người:  

 

    “Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh-độ

      Phóng hào quang cứu khổ độ sinh.

      Khắp trong tứ hải quần sinh

      Não phiền trút sạch oán thù rửa trong.

      Nhờ đức Phật thần-thông quảng-đại

      Chuyển Pháp-luân tam-giới thập-phương

      Kinh-điển của Phật dẫn đường 

      Đại-thừa Phật-giáo cứu toàn chúng sinh.

      Nhờ phép Phật uy-linh dũng mãnh

      Trong giấc mê lay tỉnh chiêm bao

      Mười loài là những loài nào

      Gái trai, già trẻ đều vào nghe Kinh.

      Kiếp phù sinh như hình bào ảnh

      Có câu rằng: “Vạn cảnh giai không”

      Ai ai tâm Phật ghi lòng

      Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân-hồi.

      Đàn chẩn tế vâng lời Phật dạy

      Của có chi bát cháo, nén nhang

      Bánh, quả cùng với tiền hoa

      Gọi là có chút lòng thành hiến dâng.

 

      Nam mô Phật; Nam mô Pháp; Nam mô Tăng;

      Nam mô Nhất-Thiết Siêu-thăng thượng-đài.”

 

                 Chân-linh xin hãy cùng tôi

       Cúi đầu xin nguyện cha lành đoái thương

                 Từ-bi tiếp-dẫn Tây phương,

        Sinh trên sen báu, ngát hương thỏa lòng.

 

     Nam mô A-Di-Đà Phật

     Nam mô Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

     Nam mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát.

     Nam mô Đại-Nguyện Địa-Tạng Vương Bồ-Tát.

     Nam mô Đại-Hiếu Mục-Liên-Liên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát,

     tác đại chứng minh.

         

Ngày 15 tháng 3 năm 2013.

Quảng-Tịnh Cư-sỹ

Một số ảnh của Phật-tử Nguyễn Nghĩa chụp ngày lễ Vu-Lan năm 2011 tại chùa Lũng-Tiên, Quận Kiến-An thành phố Hải Phòng.

 


Ảnh chùa Lũng-tiên đêm Vu-lan 2011, ánh trăng hay ánh vàng của hào quang Phật chiếu xuống tiếp-dẫn chúng sinh?

Ảnh do Phật-tử Nguyễn Nghĩa chụp đăng trên mạng toàn cầu.

 

            

Ảnh 108 ngọn nến thắp lên ở giữa sân chùa Lũng Tiên.

           

Ảnh Lễ hội Vu-Lan do Pháp-sư Cư-sỹ Quảng-Tịnh cùng Phật-tử tại Đạo-tràng Liên-Hoa Tịnh-Độ TP. Hải Phòng tổ chức tại chùa Lũng Tiên năm 2011 do Huệ Quang đăng trên Google

                     

Ảnh thầy Quảng-Tịnh và Phật tử đang niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà cầu Phật tiếp-dẫn các chân linh                         

Làm Lễ Vu Lan trong chùa Lũng Tien

NHỮNG VIỆC LÀM QUAN TRỌNG CẦN PHẢI CÓ ĐỂ ĐẠI LỄ VU-LAN THÀNH CÔNG

Muốn thành công một đại lễ Vu-lan hay lễ Cầu-siêu hay bất kỳ một đại lễ nào thì đều phụ thuộc vào mấy yếu tố quan trọng sau đây mới có công năng gây cảm động đến Trời Phật, mới tạo ra sự cảm ứng đạo-giao bất-khả tư-nghì để Phật đến tiếp-dẫn các chân-linh được về Tây phương Cực-Lạc, hoặc nếu phúc báo của họ dù có ít ỏi thì cũng vẫn được các Ngài gia trì, cứu độ cho thoát khỏi ba đường ác là Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc sinh, trở lại làm người hay sinh lên cõi Trời nhập vào hàng Tiên Thánh, hưởng sự vui thù thắng. Những yếu tố cần có là gì?

1, Tấm lòng chí thành, hiếu thảo của các Phật-tử đối với ông bà cha mẹ của mình. Điều này phụ thuộc vào lòng thành tâm trì niệm danh hiệu của Phật A-Di-Đà, cũng như mười phương chư Phật và chư đại Bồ-Tát, một lòng cầu cho người quá cố được tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc.

Phát tâm rộng lớn, đóng tịnh-tài để mua sắm lễ quả, hương hoa, làm cơm chay, phóng sinh thú vật, in ấn Kinh-điển, xây dựng sửa sang chùa chiền, giúp kẻ nghèo khó đặc biệt là in ấn Kinh Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ, Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, Kinh Địa-Tạng, các Kinh-điển Đại-thừa và giáo lý của Phật về pháp môn Tịnh-độ, tham gia các pháp hội hoằng-pháp lợi sinh  v.v… lấy đây làm công đức mà hồi hướng cho ông bà, cha mẹ của mình và cũng là tạo phước cho chính mình.

2, Người chủ lễ, các vị Pháp-sư, các vị Tăng, Ni phải là người am hiểu Kinh-điển, giầu đức từ-bi, giữ gìn trai giới, chăm lo hoằng-dương Phật pháp. Nếu vị Pháp-sư, các chư Tăng, Ni đảm nhận làm chủ lễ mà là người như vậy ắt có cảm ứng đạo-giao với Phật và chư đại Bồ-Tát, nên được các Ngài và các vị Hộ pháp luôn luôn gia-trì ủng hộ. Mọi người cùng nhau đồng lòng hướng về Phật A-Di-Đà trì niệm danh hiệu của Ngài, cầu xin tiếp-dẫn các chân-linh thì nhất định Phật và các chư đại Bồ-Tát sẽ phóng quang mà tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc, lễ đàn sẽ chắc chắn thành tựu.

3, Ngôi chùa phải là thanh-tịnh, Sư Tăng, Ni ở đây luôn chăm lo hoằng-dương Phật-pháp, giữ gìn trai giới nên luôn được Phật và chư đại Bồ-Tát,  các vị Hồ Pháp bảo vệ gia-trì cho. 

Trong các lễ Vu-Lan từ năm 2011 đến nay chúng ta đều làm tốt các điều trên đây bởi thế các đại-lễ đã tổ chức ở chùa Lũng-Tiên đã luôn luôn thành tựu mỹ mãn. Đã có nhiều người tự chứng biết, mắt đã nhìn thấy các cảnh giới diễn ra bất-khả tư-nghì đó là Phật phóng quang xuống pháp hội, các chư Thiên-long xuất hiện lượn quanh, hoa trời rải xuống v.v… Đây là điều mà như Kinh Phật đã dạy: “ ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng”.

Nếu không hội tự những yếu tố quan trọng cần có trên đây mà tổ chức chỉ đơn thuần là cúng bái thì không thể thành tựu, chẳng thể cảm ứng đến Trời, Phật, chư đại Bồ-Tát.

Cuối cùng Đại-lễ Vu-Lan thành công đều là kết quả của cả tập thể Phật-tử thành phố Hải Phòng, các Phật-tử thuận thành khác và sự quan tâm chăm sóc của Sư cụ Trụ-trì và các thầy nơi chùa Lũng-Tiên cùng tất cả mọi người con hiếu thảo ở mọi nơi về đây quy tụ chung tay đóng góp làm nên. 

Cầu chúc mọi người, mọi nhà một mùa lễ Vu-Lan đại-hiếu đầy ý nghĩa và đạo-lý cao đẹp.

         Nam mô A-Di-Đà Phật.

       Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

       Nam mô Đại-Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

 

Ngày 15 tháng 3 năm 2013.

Quảng Tịnh Cư-sỹ.

 



-----------------               

NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN-BÁO HIẾU
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương)
Cúng Hương
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ Ðạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Ðề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
Kỳ Nguyện
Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, Ðức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)
Tán Thán Phật
Ðấng Pháp Vương Vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.
(Xá 3 xá rồi xướng lạy)
Ðảnh Lễ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy)
(Ðứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng):
Tán Lư Hương
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương.
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)
Chú Ðại Bi
Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Khai Kinh Kệ
Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất râu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kiêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tựu hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác Thinh văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh
Ðều trì giới rất thanh rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bậc Thánh phàm
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Ðặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa thân về cõi thiên cung
Người thì tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng quốc Vương, Thái tử, Ðại thần
Tam công, Tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thê tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
Diễn Nghĩa
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng quằn
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con thì phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Ðến khi vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu di
Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Ðồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên “Báo Hiếu Mẹ Cha”
Cùng là “Ân Trọng” thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.
Tâm Kinh
Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang
Hàng Bồ tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì
Ðộ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ tưởng hành thức phân chia
Cũng lại như vậy, tổng về chân không
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vận tâm ấy không gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chư duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã
Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng mực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhơn chơn thiệt bất hư
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
“Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha” (3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú
Nam mô A Di Ða bà dạ.
Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)
Bài Tán Thán Phật A Di Ðà
Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
Sám Vu Lan
Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Sám Mục Liên
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.
Hồi Hướng
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo đạo cả,
Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng
Chú thích:
(1) Đầu, hai tay, hai chân
(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

-----------------               


Nam mô Đại Hiếu Mục-kiền-liên Bồ-tát Ma-ha-tát! 

KINH VU LAN – BÁO ÂN CHA MẸ

(Phần kinh âm Hán-Việt)

 

(Niêm hương bạch Phật, trì chú, lạy Phật)     

(Khai chuông mõ, tán hoặc xướng bài “cúng hương”)

Nguyện thử diệu hương vân

Biến mãn thập phương giới

Cúng dường nhất thiết Phật

Tôn Pháp chư Bồ tát

Vô biên Thanh Văn chúng

Cập nhất thiết Thánh Hiền

Duyên khởi quang minh đài

Quá ư vô biên giới

Vô biên Phật độ trung

Thọ dụng tác Phật sự

Phổ huân chư chúng-sanh

Giai phát Bồ-đề tâm

Viễn ly chư vọng-nghiệp

Viên thành Vô thượng đạo.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát (3 lần)

(Đại chúng cùng tụng)

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni:

Nam mô hắc ra ðát na ða ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết ðế thước bát ra da. Bồ ðề tát ðỏa bà da. Ma ha tát ðỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án! Tát bàn ra phạt duệ. Số ðát na ðát tỏa. Nam mô tất kiết lật ðỏa y mông a rị da. Bà lô kiết ðế thất Phật ra lăng ðà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn ða sa mế. Tát bà a tha ðậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát ða. Na ma bà dà. Ma phạt ðạt ðậu. Ðát ðiệt tha. Án! A bà lô hê. Lô ca ðế. Ca ra ðế. Di hê rị. Ma ha bồ ðề tát ðỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị ðà dựng. Cu lô cu lô kiết mông. Ðộ lô ðộ lô phạt xà da ðế. Ma ha phạt xà da ðế. Ðà ra ðà ra. Ðịa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục ðế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ ðề dạ bồ ðề dạ. Bồ ðà dạ bồ ðà dạ. Di ðế rị dạ. Na ra cẩn trì. Ðịa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất ðà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất ðà dạ. Ta bà ha. Tất ðà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta ba ha. Ta bà ma ha a tất ðà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất ðà dạ. Ta bà ha. Bà ðà ma kiết tất ðà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn ðà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra ðát na ða ra dạ da.

Nam mô a ri da. Bà lô kiết ðế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.

Án! Tất ðiện ðô. Mạn ða ra. Bạt ðà dạ. Ta bà ha.(3 lần)

(Xướng hoặc Tán 4 câu sau)

Phật thân sung mãn ư pháp giới

Phổ hiện nhất thiết quần sanh tiền

Tùy duyên phú cảm mỵ bất châu

Nhi hằng xử thử bồ-đề tọa.

Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo(3 lần)

(Đại chúng lạy 3 lạy rồi quỳ xuống, tiếp theo chủ sám xướng)

Khể thủ Tam giới Tôn

Quy mạng thập phương Phật

Ngã kim phát hoằng nguyện

Trì tụng Vu lan – Báo ân kinh

Thượng báo tứ trọng ân

Hạ tế tam đồ khổ

Nhược hữu kiến văn giả

Tất phát bồ-đề tâm

Tận thử nhất báo thân

Đồng sanh Cực Lạc Quốc.

(Đại chúng cùng tụng)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca mưu ni Phật(3 lần)

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa!

 

VU LAN BỒN KINH

(Đại chúng quỳ hoặc ngồi để tụng)

Nam mô Vu-lan Hội thượng Phật Bồ-tát (3 lần)

Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh:

(Tây Tần Tam-Tạng Pháp-sư Trúc-Pháp-Hộ dịch)

Văn như thị: Nhất thời Phật tại Xá-Vệ quốc, Kỳ-thọ Cấp-Cô-Độc viên. Đại Mục-Kiền-Liên, thỉ đắc lục-thông, dục độ phụ mẫu, báo nhũ bộ chi ân; tức dĩ đạo nhãn quán thị thế-gian: Kiến kỳ vong mẫu sanh ngạ quỉ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập.

Mục-Liên bi ai, tức dĩ bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ mẫu. Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ chủy thực, thực vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực. Mục-Liên đại khiếu, bi hào thế khấp, trì hoàn bạch Phật, cụ trần như thử.

Phật ngôn: “Nhữ mẫu tội căn thâm kết, phi nhữ nhất nhân lực sở nại hà! Nhữ tuy hiếu thuận, thanh động thiên địa, thiên thần, địa kỳ, tà ma, ngoại đạo, đạo sĩ, tứ thiên vương thần, diệc bất năng nại hà! Đương tu thập phương chúng Tăng oai thần chi lực, nãi đắc giải thoát. Ngô kim đương thuyết cứu tế chi pháp, linh nhất thiết nạn giai ly ưu khổ”.

Phật cáo Mục-Liên: “Thập phương chúng Tăng, thất nguyệt thập ngũ nhật, Tăng tự-tứ thời, đương vị thất thế phụ mẫu, cập hiện tại phụ mẫu, ách nạn trung giả, cụ phạn bách vị, ngũ quả, cấp quán bồn khí, hương du, đính chúc, sàng phu ngọa cụ, tận thế cam mỹ, dĩ trước bồn trung, cúng dường thập phương đại đức chúng Tăng. Đương thử chi nhật, nhất thiết Thánh chúng, hoặc tại sơn gian thiền định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặc tại thọ hạ kinh hành, hoặc lục-thông tự tại giáo hóa Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc thập địa Bồ-Tát đại nhân, quyền hiện Tỷ-kheo tại đại chúng trung, giai đồng nhất tâm thọ bát-hòa-la phạn. Cụ thanh-tịnh giới Thánh chúng chi đạo, kỳ đức uông dương.

Kỳ hữu cúng dường thử đẳng tự-tứ Tăng giả, hiện thế phụ mẫu, lục thân quyến thuộc, đắc xuất tam đồ chi khổ, ứng thời giải thoát y thực tự nhiên. Nhược phụ mẫu hiện tại giả, phước lạc bách niên, nhược thất thế phụ mẫu sanh Thiên, tự tại hóa sanh, nhập thiên hoa quang.

Thời, Phật sắc thập phương chúng Tăng, giai tiên vị thí chủ gia chú nguyện, nguyện thất thế phụ mẫu, hành thiền định ý, nhiên hậu thọ thực. Sơ thọ thực thời, tiên an tại Phật tiền, tháp tự trung Phật tiền, chúng tăng chú nguyện cánh tiện tự thọ thực”.

Thời Mục-Liên Tỳ-kheo cập đại Bồ-Tát chúng, giai đại hoan hỉ, Mục-Liên bi đề khấp thanh, thích nhiên trừ diệt.

Thời Mục-Liên mẫu, tức ư thị nhật, đắc thoát nhất kiếp ngạ quỉ chi khổ.

Mục-Liên phục bạch Phật ngôn: “Đệ tử sở sanh mẫu đắc mông Tam-Bảo công đức chi lực, chúng Tăng oai-thần chi lực cố; nhược vị lai thế, nhất thiết Phật đệ tử, diệc ưng phụng Vu-Lan bồn, cứu độ hiện tại phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu khả vị nhĩ phủ?”

Phật ngôn: “Đại thiện khoái vấn! Ngã chánh dục thuyết, nhữ kim phục vấn.

Thiện nam tử! Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Quốc vương, Thái tử, Đại thần, Tể-tướng, Tam công, Bách quan, Vạn dân, Thứ nhân hành từ hiếu giả, giai ưng tiên vị sở sanh hiện tại phụ mẫu, quá khứ thất thế phụ mẫu, ư thất nguyệt thập ngũ nhật, Phật hoan hỉ nhật, Tăng tự-tứ nhật, dĩ bách vị phạn thực, an Vu-Lan bồn trung, thí thập phương tự-tứ Tăng. Nguyện sử hiện tại phụ mẫu, thọ mạng bách niên vô bệnh, vô nhất thiết khổ não chi hoạn, nãi chí thất thế phụ mẫu ly ngạ quỉ khổ, sanh Nhân Thiên trung, phước lạc vô cực.

Thị Phật đệ tử tu hiếu thuận giả, ưng niệm niệm trung thường ức phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu, niên niên thất nguyệt thập ngũ nhật, thường dĩ hiếu từ, ức sở sanh phụ mẫu, vị tác Vu-Lan bồn, thí Phật cập Tăng, dĩ báo phụ mẫu trưởng dưỡng từ ái chi ân, nhược nhất thiết Phật đệ tử ưng đương phụng trì thị pháp”.

Thời Mục-Liên Tỳ-Kheo, tứ bối đệ tử hoan hỉ phụng hành.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát (3 lần)

(Tụng tiếp kinh Báo ân)

 

 

 

BÁO ÂN KINH

Phật thuyết phụ mẫu ân trọng nan báo kinh:

(Diêu Tần tam tạng pháp sư Cưu ma la thập dịch)

Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên, dữ đại Tỷ kheo nhị thiên ngũ bách nhân, Bồ-tát ma ha tát tam vạn bát thiên nhân câu.

Nhĩ thời, Thế Tôn dẫn lĩnh đại chúng, trực vãng nam hành, hốt kiến lộ biên tụ cốt nhất đôi. Nhĩ thời, Như Lai hướng bỉ khô cốt, ngũ thể đầu địa, cung kính lễ bái.

A-nan hiệp chưởng bạch ngôn: “Thế Tôn! Như lai thị tam giới đại sư, tứ sanh từ phụ, chúng nhân quy kính, dĩ hà nhân duyên, lễ bái khô cốt?”

Phật cáo A-nan: “nhữ đẳng tuy thị ngô thượng thủ đệ tử, xuất gia nhật cửu, tri sự vị quảng. Thử nhất đôi khô cốt, hoặc thị ngã tiền thế tổ tiên, đa sanh phụ mẫu. Dĩ thị nhân duyên, ngã kim lễ bái.”

Phật cáo A-nan: “nhữ kim tương thử nhất đôi khô cốt phân tố nhị phân, nhược thị nam cốt, sắc bạch thả trọng; nhược thị nữ cốt, sắc hắc thả khinh.”

A-nan bạch ngôn: “Thế Tôn, nam nhân tại thế, sam đới hài mạo, trang thúc nghiêm hảo, nhất vọng tri vi nam tử chi thân. Nữ nhân tại thế, đa đồ chi phấn, hoặc huân lan xạ, như thị trang sức, tức đắc tri thị nữ lưu chi thân. Nhi kim tử hậu, bạch cốt nhất ban, giáo đệ tử đẳng, như hà nhận đắc.”

Phật cáo A-nan: “nhược thị nam tử, tại thế chi thời, nhập vu già lam, thính giảng kinh luật, lễ bái Tam Bảo, niệm Phật danh hiệu; sở dĩ kì cốt, sắc bạch thả trọng. Thế gian nữ nhân, đoản vu trí lực, dị nịch vu tình, sanh nam dục nữ, nhận vi thiên chức; mỗi sanh nhất hài, lại nhũ dưỡng mệnh, nhũ do huyết biến, mỗi hài ẩm mẫu bát hộc tứ đẩu thậm đa bạch nhũ, sở dĩ tiều tụy, cốt hiện hắc sắc, kì lượng diệc khinh.”

A-nan văn ngữ, thống cát vu tâm, thùy lệ bi khấp, bạch ngôn: “Thế Tôn! Mẫu chi ân đức, vân hà báo đáp?”

Phật cáo A-nan: “nhữ kim đế thính, ngã đương vị nhữ, phân biệt giải thuyết: mẫu thai hoài tử, phàm kinh thập nguyệt, thậm vi tân khổ. Tại mẫu thai thời, đệ nhất nguyệt trung, như thảo thượng châu, triêu bất bảo mộ, thần tụ tương lai, ngọ tiêu tán khứ. Mẫu hoài thai thời, đệ nhị nguyệt trung, kháp như ngưng tô. Mẫu hoài thai thời, đệ tam nguyệt trung, do như ngưng huyết. Mẫu hoài thai thời, đệ tứ nguyệt trung, sảo tác nhân hình. Mẫu hoài thai thời, đệ ngũ nguyệt trung, nhi tại mẫu phúc, sanh hữu ngũ bào. Hà giả vi ngũ? Đầu vi nhất bào, lưỡng trửu lưỡng tất, các vi nhất bào, cộng thành ngũ bào. Mẫu hoài thai thời, đệ lục nguyệt trung, nhân tại mẫu phúc, lục tinh tề khai, hà giả vi lục? Nhãn vi nhất tinh, nhĩ vi nhị tinh, tị vi tam tinh, khẩu vi tứ tinh, thiệt vi ngũ tinh, ý vi lục tinh. Mẫu hoài thai thời, đệ thất nguyệt trung, nhân tại mẫu phúc, sanh thành cốt tiết, tam bách lục thập, cập sanh mao nhũ, bát vạn tứ thiên. Mẫu hoài thai thời, đệ bát nguyệt trung, sanh xuất ý trí, dĩ cập cửu khiếu. Mẫu hoài thai thời, đệ cửu nguyệt trung, nhân tại mẫu phúc, hấp thu thực vật, sở xuất các chất, đào lê toán quả, ngũ cốc tinh hoa. Kì mẫu thân trung, sanh tạng hướng hạ, thục tạng hướng thượng, dụ như địa diện, hữu san tủng xuất, san hữu tam danh, nhất hào tu di, nhị hào nghiệp san, tam hào huyết san. Thử thiết dụ san, nhất độ băng lai, hóa vi nhất điều, mẫu huyết ngưng thành thai nhi thực liệu. Mẫu hoài thai thời, đệ thập nguyệt trung, hài nhi toàn thể nhất nhất hoàn thành, phương nãi giáng sanh. Nhược thị quyết vi hiếu thuận chi tử, kình quyền hiệp chưởng, an tường xuất sanh, bất tổn thương mẫu, mẫu vô sở khổ. Thảng nhi quyết vi ngũ nghịch chi tử, phá tổn mẫu thai, chỉ mẫu tâm can, đạp mẫu khóa cốt, như thiên đao giảo, hựu phảng Phật tự vạn nhận toàn tâm. Như tư trọng khổ, xuất sanh thử nhi, canh phân tích ngôn, thượng hữu thập ân:

Đệ nhất, hoài thai thủ hộ ân; đệ nhị, lâm sản thụ khổ ân; đệ tam, sanh tử vong ưu ân; đệ tứ, yết khổ thổ cam ân; đệ ngũ, hồi kiền tựu thấp ân; đệ lục, bộ nhũ dưỡng dục ân; đệ thất, tẩy trạc bất tịnh ân; đệ bát, viễn hành ức niệm ân; đệ cửu, thâm gia thể tuất ân; đệ thập, cứu cánh lân mẫn ân.

Đệ nhất, hoài thai thủ hộ ân tụng viết:

Lũy kiếp nhân duyên trọng, kim lai thác mẫu thai, nguyệt du sanh ngũ tạng, thất thất lục tinh khai. Thể trọng như san nhạc, động chỉ kiếp phong tai, la y đô bất quải, trang kính nhạ trần ai.

Đệ nhị, lâm sản thụ khổ ân tụng viết:

Hoài kinh thập cá nguyệt, nan sản tương dục lâm, triêu triêu như trọng bệnh, nhật nhật tự hôn trầm. Nan tương hoàng bố thuật, sầu lệ mãn hung khâm, hàm bi cáo thân tộc, duy cụ tử lai xâm.

Đệ tam, sanh tử vong ưu ân tụng viết:

Từ mẫu sanh nhi nhật, ngũ tạng tổng trương khai, thân tâm câu muộn tuyệt, huyết lưu tự đồ dương. Sanh dĩ văn nhi kiện, hoan hỉ bội gia thường, hỉ định bi hoàn chí, thống khổ triệt tâm tràng.

Đệ tứ, yết khổ thổ cam ân tụng viết:

Phụ mẫu ân thâm trọng, cố liên một thất thời, thổ cam vô sảo tức, yết khổ bất tần mi. Ái trọng tình nan nhẫn, ân thâm phục bội bi, đãn lệnh hài nhân bão, từ mẫu bất từ ky.

Đệ ngũ, hồi kiền tựu thấp ân tụng viết:

Mẫu nguyện thân đầu thấp, tương nhân di tựu kiền, lưỡng nhũ sung cơ khát, la tụ yểm phong hàn. Ân liên hằng phế chẩm, sủng lộng tài năng hoan, đãn lệnh hài nhân ổn, từ mẫu bất cầu an.

Đệ lục, bộ nhũ dưỡng dục ân tụng viết:

Từ mẫu tượng đại địa, nghiêm phụ phối vu thiên, phú tái ân đồng đẳng, phụ nương ân diệc nhiên. Bất tăng vô nộ mục, bất hiềm thủ túc loan, đản phúc thân sanh tử, chung nhật tích kiêm liên.

Đệ thất, tẩy địch bất tịnh ân tụng viết:

Bổn thị phù dung chất, tinh thần kiện thả phong, mi phân tân liễu bích, kiểm sắc đoạt liên hồng. Ân thâm thôi ngọc mạo, tẩy trạc tổn bàn long, chỉ vi liên nam nữ, từ mẫu cải nhan dung.

Đệ bát, viễn hành ức niệm ân tụng viết:

Tử biệt thành nan nhẫn, sanh li thật diệc thương, tử xuất quan san ngoại, mẫu ức tại tha hương. Nhật dạ tâm tương tùy, lưu lệ sổ thiên hàng, như viên khấp ái tử, thốn thốn đoạn can tràng.

Đệ cửu, thâm gia thể tuất ân tụng viết:

Phụ mẫu ân tình trọng, ân thâm báo thật nan, tử khổ nguyện đại thụ, nhân lao mẫu bất an. Văn đạo viễn hành khứ, liên nhi dạ ngọa hàn, nam nữ tạm tân khổ, trường sử mẫu tâm toan.

Đệ thập, cứu cánh lân mẫn ân tụng viết:

Phụ mẫu ân thâm trọng, ân liên vô yết thời, khởi tọa tâm tương trục, cận diêu ý dữ tùy. Mẫu niên nhất bách tuế, trường ưu bát thập nhi, dục tri ân ái đoạn, mệnh tận thủy phân li.

Phật cáo A-nan: “ngã quán chúng sanh, tuy thiệu nhân phẩm, tâm hành ngu mông, bất tư đa nương, hữu đại ân đức, bất sanh cung kính, vong ân bội nghĩa, vô hữu nhân từ, bất hiếu bất thuận. A nương hoài tử, thập nguyệt chi trung, khởi tọa bất an, như kình trọng đảm, ẩm thực bất hạ, như trường bệnh nhân. Nguyệt mãn sanh thời, thụ chư thống khổ, tu du sản xuất, khủng dĩ vô thường, như sát trư dương, huyết lưu biến địa. Thụ như thị khổ, sanh đắc nhi thân, yết khổ thổ cam, bão trì dưỡng dục, tẩy trạc bất tịnh, bất đạn cù lao, nhẫn hàn nhẫn nhiệt, bất từ tân khổ, kiền xử nhi ngọa, thấp xử mẫu miên. Tam niên chi trung, ẩm mẫu bạch huyết, anh hài đồng tử, nãi chí thành niên, giáo đạo lễ nghĩa, hôn giá doanh mưu, bị cầu tư nghiệp, huề hà gian tân, cần khổ bách bội, bất ngôn ân huệ.

Nam nữ hữu bệnh, phụ mẫu kinh ưu, ưu cực sanh bệnh, thị đồng thường sự. Tử nhược bệnh trừ, mẫu bệnh phương dũ. Như tư dưỡng dục, nguyện tảo thành nhân. Cập kì trưởng thành, phản vi bất hiếu. Tôn thân dữ ngôn, bất tri thuận tòng, ứng đối vô lễ, ác nhãn tương thị.

Khi lăng bá thúc, đả mạ huynh đệ, hủy nhục thân tình, vô hữu lễ nghĩa. Tuy tằng tòng học, bất tuân phạm huấn, phụ mẫu giáo lệnh, đa bất y tòng, huynh đệ cộng ngôn, mỗi tương vi lệ. Xuất nhập lai vãng, bất khải tôn đường, ngôn hành cao ngạo, thiện ý vi sự. Phụ mẫu huấn phạt, bá thúc ngữ phi, đồng ấu lân mẫn, tôn nhân già hộ, tiệm tiệm thành trưởng, ngoan lệ bất điều, bất phục khuy vi, phản sanh sân hận. Khí chư thân hữu, bằng phụ ác nhân, tập cửu thành tính, nhận phi vi thị. Hoặc bị nhân dụ, đào vãng tha hương, vi bối đa nương, li gia biệt quyến. Hoặc nhân kinh kỉ, hoặc vi chánh hành, nhẫm nhiễm nhân tuần, tiện vi hôn thú, do tư lưu ngại, cửu bất hoàn gia. Hoặc tại tha hương, bất năng cẩn thận, bị nhân mưu hại, hoành sự câu khiên, uổng bị hình trách, lao ngục già tỏa. Hoặc tao bệnh hoạn, ách nạn oanh triền, tù khổ cơ luy, vô nhân khán đãi, bị nhân hiềm tiện, ủy khí nhai cù. Nhân thử mệnh chung, vô nhân cứu trì, bành trướng lạn hoại, nhật bạo phong xuy, bạch cốt phiêu linh. Kí tha hương thổ, tiện dữ thân tộc, hoan hội trường quai, vi bối từ ân, bất tri nhị lão, vĩnh hoài ưu niệm, hoặc nhân đề khấp, nhãn ám mục manh; hoặc nhân bi ai, khí yết thành bệnh; hoặc duyên ức tử, suy biến tử vong, tác quỷ bão hồn, bất tằng cát xả.

Hoặc phục văn tử, bất sùng học nghiệp, bằng trục dị đoan, vô lại thô ngoan, hảo tập vô ích, đấu đả thiết đạo, xúc phạm hương lư, ẩm tửu xư bồ, gian phi quá thất, đới lụy huynh đệ, não loạn đa nương, thần khứ mộ hoàn, bất vấn tôn thân, động chỉ hàn ôn, hối sóc triêu mộ, vĩnh quai phù thị, an sàng tiến chẩm, tịnh bất tri văn, tham vấn khởi cư, tòng thử gián đoạn, phụ mẫu niên mại, hình mạo suy luy, tu sỉ kiến nhân, nhẫn thụ khi ức.

Hoặc hữu phụ cô mẫu quả, độc thủ không đường, do nhược khách nhân, kí cư tha xá, hàn đống cơ khát, tằng bất tri văn. Trú dạ thường đề, tự ta tự thán, ứng phụng cam chỉ, cung dưỡng tôn thân. Nhược bối vọng nhân, liễu vô thị sự, mỗi tác tu tàm, úy nhân quái tiếu.

Hoặc trì tài thực, cung dưỡng thê nhi, vong quyết bì lao, vô tị tu sỉ; thê thiếp ước thúc, mỗi sự y tòng, tôn trưởng sân ha, toàn vô úy cụ.

Hoặc phục thị nữ, thích phối tha nhân, vị giá chi thời, hàm giai hiếu thuận; hôn giá dĩ cật, bất hiếu toại tăng. Phụ mẫu vi sân, tức sanh oán hận; phu tế đả mạ, nhẫn thụ cam tâm, dị tính tha tông, tình thâm quyến trọng, tự gia cốt nhục, tức dĩ vi sơ. Hoặc tùy phu tế, ngoại quận tha hương, li biệt đa nương, vô tâm luyến mộ, đoạn tuyệt tiêu tức, âm tín bất thông, toại sử đa nương, huyền tràng quải đỗ, khắc bất năng an, uyển nhược đảo huyền, mỗi tư kiến diện, như khát tư tương, từ niệm hậu nhân, vô hữu hưu tức.

Phụ mẫu ân đức, vô lượng vô biên, bất hiếu chi khiên, tốt nan trần báo.”

Nhĩ thời, đại chúng văn Phật sở thuyết phụ mẫu trọng ân, cử thân đầu địa, chúy hung tự phác, thân mao khổng trung, tất giai lưu huyết, muộn tuyệt tích địa, lương cửu nãi tô, cao thanh xướng ngôn: “khổ tai, khổ tai! Thống tai, thống tai! Ngã đẳng kim giả thâm thị tội nhân, tòng lai vị giác, minh nhược dạ du, kim ngộ tri phi, tâm đảm câu toái, duy nguyện Thế Tôn ai mẫn cứu viện, vân hà báo đắc phụ mẫu thâm ân?”

Nhĩ thời, Như Lai tức dĩ bát chủng thâm trọng phạm âm, cáo chư đại chúng: “nhữ đẳng đương tri, ngã kim vị nhữ phân biệt giải thuyết: giả sử hữu nhân, tả kiên đảm phụ, hữu kiên đảm mẫu, nghiên bì chí cốt, xuyên cốt chí tủy, nhiễu tu di sơn, kinh bách thiên kiếp, huyết lưu quyết khõa, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân; giả sử hữu nhân, tao cơ cận kiếp, vi vu đa nương, tận kì kỉ thân, luyến cát toái hoại, do như vi trần, kinh bách thiên kiếp, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân; giả sử hữu nhân, vi vu đa nương, thủ chấp lợi đao, oan kì nhãn tình, hiến vu Như Lai, kinh bách thiên kiếp, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân; giả sử hữu nhân, vi vu đa nương, diệc dĩ lợi đao, cát kì tâm can, huyết lưu biến địa, bất từ thống khổ, kinh bách thiên kiếp, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân; giả sử hữu nhân, vi vu đa nương, bách thiên đao kích, nhất thời thích thân, vu tự thân trung, tả hữu xuất nhập, kinh bách thiên kiếp, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân; giả sử hữu nhân, vi vu đa nương, đả cốt xuất tủy, kinh bách thiên kiếp, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân; giả sử hữu nhân, vi vu đa nương, thôn nhiệt thiết hoàn, kinh bách thiên kiếp, biến thân tiêu lạn, do bất năng báo phụ mẫu thâm ân.”

Nhĩ thời, đại chúng văn Phật sở thuyết phụ mẫu ân đức, thùy lệ bi khấp, thống cát vu tâm, đế tư vô kế, đồng phát thanh ngôn, thâm sanh tàm quý, cộng bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã đẳng kim giả thâm thị tội nhân, vân hà báo đắc phụ mẫu thâm ân? ”

Phật cáo đệ tử: “dục đắc báo ân, vi vu phụ mẫu thư tả thử kinh, vi vu phụ mẫu độc tụng thử kinh, vi vu phụ mẫu sám hối tội khiên, vi vu phụ mẫu cúng dường Tam Bảo, vi vu phụ mẫu thụ trì trai giới, vi vu phụ mẫu bố thí tu phúc, nhược năng như thị, tắc đắc danh vi hiếu thuận chi tử; bất tố thử hành, thị địa ngục nhân.”

Phật cáo A-nan: “bất hiếu chi nhân, thân hoại mệnh chung, đọa vu A-tỳ vô gián địa ngục. Thử đại địa ngục, túng quảng bát vạn do tuần, tứ diện thiết thành, chu vi la võng. Kì địa diệc thiết, thịnh hỏa đỗng nhiên, mãnh liệt hỏa thiêu, lôi bôn điện thước. Dương đồng thiết trấp, kiêu quán tội nhân, đồng cẩu thiết xà, hằng thổ yên hỏa, phần thiêu chử chích, chi cao tiêu nhiên, khổ thống ai tai, nan kham nan nhẫn, câu can thương sóc, thiết thương thiết xuyến, thiết chùy thiết kích, kiếm thụ đao luân, như vũ như vân, không trung nhi hạ, hoặc trảm hoặc thích, khổ phạt tội nhân, lịch kiếp thụ ương, vô thời tạm yết, hựu lệnh canh nhập dư chư địa ngục, đầu đới hỏa bồn, thiết xa niễn thân, tung hoành sử quá, tràng đỗ phân liệt, cốt nhục tiêu lạn, nhất nhật chi trung, thiên sanh vạn tử. Thụ như thị khổ, giai nhân tiền thân ngũ nghịch bất hiếu, cố hoạch tư tội.”

Nhĩ thời, đại chúng văn Phật sở thuyết phụ mẫu ân đức, thùy lệ bi khấp, cáo vu Như Lai: “ngã đẳng kim giả, vân hà báo đắc phụ mẫu thâm ân? ”

Phật cáo đệ tử: “dục đắc báo ân, vi vu phụ mẫu tạo thử kinh điển, thị chân báo đắc phụ mẫu ân dã. Năng tạo nhất quyển, đắc kiến nhất Phật; năng tạo thập quyển, đắc kiến thập Phật; năng tạo bách quyển, đắc kiến bách Phật; năng tạo thiên quyển, đắc kiến thiên Phật; năng tạo vạn quyển, đắc kiến vạn Phật. Thị đẳng thiện nhân, tạo kinh lực cố, thị chư Phật đẳng, thường lai từ hộ, lập sử kì nhân, sanh thân phụ mẫu, đắc sanh thiên thượng, thụ chư khoái lạc, li địa ngục khổ.”

Nhĩ thời, A-nan cập chư đại chúng, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, phi Nhân đẳng, Thiên, Long, Dạ xoa, Kiền thát bà, cập chư Tiểu vương, Chuyển luân thánh vương, thị chư đại chúng văn Phật sở ngôn, thân mao giai thụ, bi khấp ngạnh yết, bất năng tự tài, các phát nguyện ngôn: ngã đẳng tòng kim tận vị lai tế, ninh toái thử thân do như vi trần, kinh bách thiên kiếp, thệ bất vi vu Như Lai thánh giáo; ninh dĩ thiết câu bạt xuất kì thiệt, trường hữu do tuần, thiết lê canh chi, huyết lưu thành hà, kinh bách thiên kiếp, thệ bất vi vu Như Lai thánh giáo; ninh dĩ bách thiên đao luân, vu tự thân trung, tự do xuất nhập, thệ bất vi vu Như Lai thánh giáo; ninh dĩ thiết võng chu táp triền thân, kinh bách thiên kiếp, thệ bất vi vu Như Lai thánh giáo; ninh dĩ tỏa đối trảm toái kì thân, bách thiên vạn đoạn, bì nhục cân cốt tất giai linh lạc, kinh bách thiên kiếp, chung bất vi vu Như Lai thánh giáo.”

Nhĩ thời, A-nan tòng vu tọa trung an tường nhi khởi, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, thử kinh đương hà danh chi? Vân hà phụng trì? ”

Phật cáo A-nan: “thử kinh danh vi phụ mẫu ân trọng nan báo kinh, dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng trì! ”

Nhĩ thời, đại chúng, Thiên Nhân, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỉ, tín thụ phụng hành, tác lễ nhi thối.

 

 

 

 

 

 

VU LAN TÁN

(Chủ sám xướng)

Vu lan chánh giáo

Tự-tứ giai thần

Mục Liên ai khẩn cứu từ thân

Chư Phật đại oai thần

Thoát khổ u uynh

Vạn cổ hiếu danh xưng

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát.(3 lần)

 

NIỆM PHẬT

(Đại chúng quỳ hoặc ngồi để niệm Phật)

Sát trần tâm niệm khả sổ tri

Đại hải trung thủy khả ẩm tận

Hư không khả lượng phong khả kế

Vô năng tận thuyết Phật công đức

Nam mô Ta-bà thế giới, Tam giới đạo sư, tứ sanh từ phụ, nhân thiên giáo chủ, thiên bách ức hóa thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(30 lần)

Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát(3 lần)

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát(3 lần)

Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát(3 lần)

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiên Liên Bồ-tát(3 lần)

Nam mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ-tát(3 lần)

 

LẠY PHẬT

(Chủ sám xướng và đại chúng cùng lạy danh hiệu Phật)

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không, biến pháp giới quá hiện vị lai Phật Pháp Tăng thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ Ta Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát Ma-ha-tát. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát Ma-ha-tát. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ Đại Bi Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ-tát Ma-ha-tát. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ Vu Lan Thắng Hội Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát Ma-ha-tát.(1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ-tát vô lượng Thánh Hiền. (1 lạy)

(Đại chúng quỳ hoặc ngồi tụng bài sám Vu-lan)

 

SÁM VU LAN

Đệ tử chúng con

Vâng lời Phật dạy

Ngày rằm tháng bảy

Gặp hội Vu Lan,

Phạm vũ huy hoàng

Đốt hương đảnh lễ

Mười phương tam thế

Phật Pháp Thánh Hiền.

Noi gương đức Mục Kiền Liên

Nguyện làm con thảo

Lòng càng áo não

Nhớ nghĩa thân sinh

Con đến trưởng thành

Mẹ dày gian khổ,

Ba năm nhũ bộ

Chín tháng cưu mang,

Không ngớt lo toan

Quên ăn bỏ ngủ.

Ấm no đầy đủ

Cậy có công cha

Chẳng quản yếu già

Sanh nhai lam lũ

Quyết cùng hoàn vũ

Phấn đấu nuôi con

Giáo dục vuông tròn

Đem đường học đạo.

Đệ tử ơn sâu chưa báo

Hổ phận kém hèn.

Giờ này quì trước đài sen

Chí thành cung kính.

Đạo tràng thanh tịnh,

Tăng bảo trang nghiêm,

Hoặc thừa tự-tứ,

Hoặc hiện tham thiền,

Đầy đủ thiện duyên

Rủ lòng lân mẫn,

Hộ niệm cho

Bảy kiếp cha mẹ chúng con

Đượm nhuần mưa pháp

Còn tại thế

Thân tâm yên ổn

Phát nguyện tu trì

Đã qua đời

Ác đạo xa lìa

Chóng thành Phật quả.

Ngưỡng trông các đức Như Lai

Khắp cõi hư không

Từ bi gia hộ.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma ha tát.(3 lần)

 

Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh:

Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

Xá-lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, Bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)

Tiêu tai cát tường thần chú:

Nam mô tam mãn đa mầu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nản nẫm, đát điệt tha. Án khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha. ( 3 lần)

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh

Sớm được sanh về quốc độ Phật

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Đêm ngày sáu thời đều an lành

Tất cả các thời đều an lành

Xin nguyện Từ Bi thường gia hộ

(4 câu trên tụng 3 lần)

Nam mô Tiêu Tai Giáng Cát Tường Bồ-tát (3 lần)

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Tất cả tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường theo Bồ-tát đạo.

Nguyện sinh Tịnh độ cõi Tây phương

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ-tát bất thối làm bạn hữu.

       

BA QUY Y

1. Quy y Phật tại Tâm, nguyện cầu cho chúng sanh, thề nguyện tu Chánh đạo, phát khởi tâm vô thượng.

2. Quy y Pháp tại Tâm, nguyện cầu cho chúng sanh, thấu đạt nghĩa Kinh tạng, trí tuệ sâu như biển.

3. Quy y Tăng tại Tâm, nguyện cầu cho chúng sanh, đối với lý vạn pháp, tất cả đều không ngại.

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sanh

Ðều trọn thành Phật đạo.


-----------------               


Kinh Vu lan báo hiếu
Dưới đây là bản kinh Vu lan phiên âm Hán – Việt dễ đọc và dễ thuộc, mời quý vị tham khảo để có thể tự tụng niệm tại gia.

Kinh Vu lan báo ân cha mẹ
(Niêm hương bạch Phật, trì chú, lạy Phật)
(Khai chuông mõ, tán hoặc xướng bài “cúng hương”)

Nguyện thử diệu hương vân
Biến mãn thập phương giới
Cúng dường nhất thiết Phật
Tôn Pháp chư Bồ tát
Vô biên Thanh Văn chúng
Cập nhất thiết Thánh Hiền
Duyên khởi quang minh đài
Quá ư vô biên giới
Vô biên Phật độ trung
Thọ dụng tác Phật sự
Phổ huân chư chúng-sanh
Giai phát Bồ-đề tâm
Viễn ly chư vọng-nghiệp
Viên thành Vô thượng đạo.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát (3 lần)

(Đại chúng cùng tụng)
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
(Xướng hoặc Tán 4 câu sau)
Phật thân sung mãn ư pháp giới
Phổ hiện nhất thiết quần sanh tiền
Tùy duyên phú cảm mỵ bất châu
Nhi hằng xử thử bồ-đề tọa.
Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo(3 lần)

(Đại chúng lạy 3 lạy rồi quỳ xuống, tiếp theo chủ sám xướng)
Khể thủ Tam giới Tôn
Quy mạng thập phương Phật
Ngã kim phát hoằng nguyện
Trì tụng Vu lan – Báo ân kinh
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả


Tất phát bồ-đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc Quốc.

(Đại chúng cùng tụng)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca mưu ni Phật(3 lần)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa!

Vu lan bồn kinh
(Đại chúng quỳ hoặc ngồi để tụng)
Nam mô Vu-lan Hội thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh:
(Tây Tần Tam-Tạng Pháp-sư Trúc-Pháp-Hộ dịch)

Văn như thị: Nhất thời Phật tại Xá-Vệ quốc, Kỳ-thọ Cấp-Cô-Độc viên. Đại Mục-Kiền-Liên, thỉ đắc lục-thông, dục độ phụ mẫu, báo nhũ bộ chi ân; tức dĩ đạo nhãn quán thị thế-gian: Kiến kỳ vong mẫu sanh ngạ quỉ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập.

Mục-Liên bi ai, tức dĩ bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ mẫu. Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ chủy thực, thực vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực. Mục-Liên đại khiếu, bi hào thế khấp, trì hoàn bạch Phật, cụ trần như thử.

Phật ngôn: “Nhữ mẫu tội căn thâm kết, phi nhữ nhất nhân lực sở nại hà! Nhữ tuy hiếu thuận, thanh động thiên địa, thiên thần, địa kỳ, tà ma, ngoại đạo, đạo sĩ, tứ thiên vương thần, diệc bất năng nại hà! Đương tu thập phương chúng Tăng oai thần chi lực, nãi đắc giải thoát. Ngô kim đương thuyết cứu tế chi pháp, linh nhất thiết nạn giai ly ưu khổ”.

Phật cáo Mục-Liên: “Thập phương chúng Tăng, thất nguyệt thập ngũ nhật, Tăng tự-tứ thời, đương vị thất thế phụ mẫu, cập hiện tại phụ mẫu, ách nạn trung giả, cụ phạn bách vị, ngũ quả, cấp quán bồn khí, hương du, đính chúc, sàng phu ngọa cụ, tận thế cam mỹ, dĩ trước bồn trung, cúng dường thập phương đại đức chúng Tăng.

Đương thử chi nhật, nhất thiết Thánh chúng, hoặc tại sơn gian thiền định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặc tại thọ hạ kinh hành, hoặc lục-thông tự tại giáo hóa Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc thập địa Bồ-Tát đại nhân, quyền hiện Tỷ-kheo tại đại chúng trung, giai đồng nhất tâm thọ bát-hòa-la phạn. Cụ thanh-tịnh giới Thánh chúng chi đạo, kỳ đức uông dương.

Kỳ hữu cúng dường thử đẳng tự-tứ Tăng giả, hiện thế phụ mẫu, lục thân quyến thuộc, đắc xuất tam đồ chi khổ, ứng thời giải thoát y thực tự nhiên. Nhược phụ mẫu hiện tại giả, phước lạc bách niên, nhược thất thế phụ mẫu sanh Thiên, tự tại hóa sanh, nhập thiên hoa quang.

Thời, Phật sắc thập phương chúng Tăng, giai tiên vị thí chủ gia chú nguyện, nguyện thất thế phụ mẫu, hành thiền định ý, nhiên hậu thọ thực. Sơ thọ thực thời, tiên an tại Phật tiền, tháp tự trung Phật tiền, chúng tăng chú nguyện cánh tiện tự thọ thực”.

Thời Mục-Liên Tỳ-kheo cập đại Bồ-Tát chúng, giai đại hoan hỉ, Mục-Liên bi đề khấp thanh, thích nhiên trừ diệt.

Thời Mục-Liên mẫu, tức ư thị nhật, đắc thoát nhất kiếp ngạ quỉ chi khổ.

Mục-Liên phục bạch Phật ngôn: “Đệ tử sở sanh mẫu đắc mông Tam-Bảo công đức chi lực, chúng Tăng oai-thần chi lực cố; nhược vị lai thế, nhất thiết Phật đệ tử, diệc ưng phụng Vu-Lan bồn, cứu độ hiện tại phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu khả vị nhĩ phủ?”

Phật ngôn: “Đại thiện khoái vấn! Ngã chánh dục thuyết, nhữ kim phục vấn.

Thiện nam tử! Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Quốc vương, Thái tử, Đại thần, Tể-tướng, Tam công, Bách quan, Vạn dân, Thứ nhân hành từ hiếu giả, giai ưng tiên vị sở sanh hiện tại phụ mẫu, quá khứ thất thế phụ mẫu, ư thất nguyệt thập ngũ nhật, Phật hoan hỉ nhật, Tăng tự-tứ nhật, dĩ bách vị phạn thực, an Vu-Lan bồn trung, thí thập phương tự-tứ Tăng.

Nguyện sử hiện tại phụ mẫu, thọ mạng bách niên vô bệnh, vô nhất thiết khổ não chi hoạn, nãi chí thất thế phụ mẫu ly ngạ quỉ khổ, sanh Nhân Thiên trung, phước lạc vô cực.

Thị Phật đệ tử tu hiếu thuận giả, ưng niệm niệm trung thường ức phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu, niên niên thất nguyệt thập ngũ nhật, thường dĩ hiếu từ, ức sở sanh phụ mẫu, vị tác Vu-Lan bồn, thí Phật cập Tăng, dĩ báo phụ mẫu trưởng dưỡng từ ái chi ân, nhược nhất thiết Phật đệ tử ưng đương phụng trì thị pháp”.

Thời Mục-Liên Tỳ-Kheo, tứ bối đệ tử hoan hỉ phụng hành.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát (3 lần)



-----------------               














Find us at:
Share on facebook: You don't have to be worried about the FACEbook Robots Auto Blocking Servers anyway. Bạn hãy nhấn nút sau để chia sẽ liên kết trang web mới này trên FACEBOOK. Xin các bạn cứ yên tâm mà chia sẽ vì sẽ không bị các chương trình auto robot servers kiểm tra tin rác ngăn chặn được đâu. Xin cám ơn FACEBOOK, INC,. and many others. Cheers! From Yours friends!!! Hi! Please click these buttons to share these links (these new other sites) on FACEBOOK. (You don't have to be worried about any FACEBOOK firewall automatic spam checking robot servers anyway, it is our warranty now. Thanks to our FACEBOOK. INC,. and many others. Cheers! From Yours friends!!! Hi!)
You can also find us at:
Trang Web Site 1: 
You can also find us at Web Site #1: 
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
or
Trang Web Site 2: 
You can also find us at Web Site #2: 
Click this button to Share on FACEBOOK: site02232d1
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
ANOTHER ONE AT:
Trang Web Site 3: 
You can also find us at Web Site #3:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn
or:
Trang Web Site 4:
You can also find us at Web Site #4:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
or:
Trang Web Site 5:
You can also find us at Web Site #5:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
Namah Shakya Mouni Buddha. Nam mo Awalokiteshwara Bodhisattwa Mahasattwa maha karunikaya karuna Tadyatha. Aum, Mouniye, Maha Mouniye, Swaha.

Feature Post Co Thuoc

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are just exactly some cold or flu influenza) Smart Curing Therapy Treatment _ Toa Thuoc dieu tri benh Corona hieu qua nhat hien nay

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are j...

Popular post Co Thuoc: