Thursday, May 16, 2019

Kinh Thu Lang Nghiem _ Thich Duy Luc

audio.js


Kinh Thu Lang Nghiem _ Thich Duy Luc 
... ... ... Please "enable" the Adobe Flash in your device to hear! Xin bạn hãy mở chức năng Flash Player và JavaScript trên thiết bị để nghe bản kinh! Thanks!






CHÚ LĂNG NGHIÊM 
ĐỆ NHỨT HỘI: 
Nam mô tát đát tha tô già đa da, a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa. Tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam.
Nam mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà cu tri nẫm. Ta xá ra bà ca tăng già nẫm.
Nam mô lô kê a la hán đa nẫm.
Nam mô tô lô đa ba na nẫm.
Nam mô ta yết rị đà già di nẫm.
Nam mô lô kê tam miệu già đa nẫm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẫm.
Nam mô đề bà ly sắt nỏa.
Nam mô tất đà da, tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẫm.
Nam mô bạt ra ha ma ni.
Nam mô nhơn đà ra da.
Nam mô bà già bà đế, lô đà ra da, ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam mô bà già bà đế.
Na ra dã noa da. Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.
Nam mô tất yết rị đa da.
Nam mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Địa rị bát lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.
Nam mô tất yết rị đa da.
Nam mô bà già bà đế. Đa tha già đa cu ra da.
Nam mô bát đầu ma cu ra da.
Nam mô bạt xà ra cu ra da.
Nam mô ma ni cu ra da.
Nam mô già xà cu ra da.
Nam mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà da, đa tha già đa da.
Nam mô bà già bà đế.
Nam mô a di đa bà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.
Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, lặc đát na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều Nam mô tát yết rị đa. Ế đàm bà già bà đa, tát đát tha già đô sắt ni sam, tát đát đa bát đát lam.
Nam mô a bà ra thị đam, bát ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạt ra bí địa da sất đà nễ, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nãnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắt tra, đột tất phạp bát na nễ phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắt tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đát ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắt tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nễ bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đát ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra, ma ha bát ra chiến trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nễ, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá rô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bát ra chất đa, bạt xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma rô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bát ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắt tát đa giá tỳ địa da kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ rô giá na cu rị da, dạ ra thố sắt ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra, sát sa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ NHỊ HỘI: 

Ô hồng, rị sắt yết noa, bát lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắt ni sam. Hổ hồng, đô lô ung, chiên bà na. Hổ hồng, đô lô ung, tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung, ba ra sắt địa da tam bát xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắt ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca, ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, mạn trà ra, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ TAM HỘI: 

Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắt xoa bà dạ, a xá nễ bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già, ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàn trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẫm, yết bà ha rị nẫm, rô địa ra ha rị nẫm, mang ta ha rị nẫm, mê đà ha rị nẫm, ma xà ha rị nẫm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẫm, tỳ đa ha rị nẫm, bà đa ha rị nẫm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẫm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bát đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xá ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a la hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nễ, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra xoa vỏng, bà già phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ TỨ HỘI: 

Bà già phạm, tát đát đa bát đát ra, Nam mô tuý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đát rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, bà ra ba ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà càn thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất mạ lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỷ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nễ tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam mô ta yết rị đa dạ phấn. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệt đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bát rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nễ duệ phấn, diễn kiết chất, Tát đỏa bà tả, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ NGŨ HỘI: 

Đột sắt tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tả ha ra, bát ba chất đa, đột sắt tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, mộ đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nễ bát đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắt tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô rô du lam, thường già du lam, hắt tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bát ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột rô ca kiến đốt rô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bát lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liễm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắt chất ca, tát bà na cu ra. Tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đát ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bát đát ra, ma ha bạt xà lô sắt ni sam, ma ha bát lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa. Tỳ đà da bàn đàm ca lô di. đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đát điệt tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, Ta bà ha.
(câu chót, tụng 3 lần)




Thursday, May 2, 2019

Hồng Danh Bửu Sám

Hồng Danh Bửu Sám 
NGHI THỨC SÁM HỐI

(Huệ Duyên tụng)
SÁM HỐI LÀ LÀM CHO BA NGHIỆP ĐƯỢC THANH TỊNH


NIỆM HƯƠNG BÁI LỄ
( Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chấp tay để ngang ngực mật niệm )
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Án, lam toá ha. ( 3 lần )
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án, ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám.
( 3 lần )
( Tất cả điều quỳ chấp tay. Vị chủ lễ cầm ba cây hương đưa ngang trán đọc bài Cúng hương và Kỳ nguyện )
CÚNG HƯƠNG
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhứt thiết Phật,
Tôn pháp chư Bồ Tát,
Vô biên Thanh Văn chúng,
Cập nhứt thiết Thánh Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự,
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành Vô thượng đạo.
( Xá 3 xá, đọc tiếp bài Kỳ nguyện )
KỲ NGUYỆN
Tư thời đệ tử chúng đẳng, hiện thập phương Phật tử, cung tự Phật tiền dị khẩu đồng âm thiết lễ Sám hối công đức; Nguyện thập phương thường trụ Tam Bảo cập nhứt thiết Thánh Hiền chứng minh gia hộ đẻ tử chúng đẳng: phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng, túc trái oan khiên, tất giai tiêu diệt, thiện căng tăng trưởng, phước trí trang nghiêm, sở nguyện tuỳ tâm, kiết tường như ý. Ngưỡng cầu chư Phật thuỳ từ chứng minh gia hộ.
( Đứng dậy cắm hương lên lư, đọc bài tán Phật )
TÁN PHẬT
Pháp vương Vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất,
Thiên nhơn chi Đạo sư,
Tứ sanh chi Từ phụ,
Ư nhứt niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp,
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.
QUÁN TƯỞNG
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. ( 1 lạy )
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sánh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 1 lạy )
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 1 lạy )
( Vô chuông mỏ và đồng tụng )
TÁN DƯƠNG CHI
Dương chi tịnh thuỷ,
Biến sái tam thiên,
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên,
Pháp giới quảng tăng diên,
Diệt tội tiêu khiên,
Hoả diệm hoá hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. ( 3 lần )
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 3 lần )
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, Bà lô yết đế thước bát ra da, Bồ đề tát đoả bà da, Ma ha tát đoả bà da, Ma ha ca lô ni ca da. Án, Tát bàn ra phạt duệ, Số đát na đát toả.
Nam mô tất kiết lật đoả y mông a rị da, Bà lô yết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, Hê rị ma ha bán đa sa mế, Tát bà a tha đậu du bằng, A thệ dựng, Tát bà tát đa na ma bà già, Ma phạt đạt đậu, Đát điệt tha. Án a bà lô hê, Lô ca đế, Ca ra đế, Di hê rị, Ma ha bồ đề tát đoả, Tát bà tát bà, Ma ra ma ra, Ma hê ma hê rị đà dựng, Cu lô cu lô yết mông, Độ lô độ lô phạt xà da đế, Ma ha phạt xà da đế, Đà ra đà ra, Địa rị ni , Thất Phật ra da, Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, Mục đế lệ, Y hê y hê, Thất na thất na, A ra sâm Phật ra xá lợi, Phạt sa phạt sâm, Phật ra xà da, Hô lô hô lô ma ra, Hô lô hô lô hê rị, Ta ra ta ra, Tất rị tất rị, Tô rô tô rô, Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, Na ra cẩn trì, Địa rị sắc ni na, Ba dạ ma na, Ta bà ha. Tất đà dạ, Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, Ta bà ha. Tất đà du nghệ, Thất bàn ra dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì, Ta bà ha. Ma ra na ra, Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ, Ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, Bà lô kiết đế, Thước bàn ra dạ, Ta bà ha. Án tất điện đô, Mạn đà ra, Bạt đà dạ, Ta bà ha.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần )
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.
NAM MÔ HỒNG DANH HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT
( 3 lần )
HỒNG DANH BỬU SÁM NGHI THỨC
(O : Đánh chuông và lạy 1 lần )
Đại từ đại bi mẫn chúng sanh
Đại hỷ đại xả tế hàm thức,
Tướng hảo quang minh dĩ tự nghêm,
Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ. O (1)
Nam mô quy y Kim Cang Thượng Sư. O (2)
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. O (3)
Ngã kim phát tâm bất vị tự cầu Nhơn Thiên phước báu, Thanh Văn, Duyên Giác, nãi chí quyền thừa chư vị Bồ Tát, quy y Tối Thượng thừa, phát Bồ đề tâm, nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhứt thời đồng đắc A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề. O (4)
Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhứt thiết chư Phật. O (5)
Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp.O (6)
Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng. O (7)
Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. O (8)
Nam mô Phổ Quang Phật. O (9)
Nam mô Phổ Minh Phật. O (10)
Nam mô Phổ Tịnh Phật. O (11)
Nam mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật. O (12)
Nam mô Chiên Đàn Quang Phật. O (13)
Nam mô Ma Ni Tràng Phật. O (14)
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật. O (15)
Nam mô Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật. O (16)
Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật. O (17)
Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật. O (18)
Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật. O (19)
Nam mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật. O (20)
Nam mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật. O (21)
Nam mô Đại Bi Quang Phật. O (22)
Nam mô Tự Lực Vương Phật. O (23)
Nam mô Từ Tạng Phật. O (24)
Nam mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật. O (25)
Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật. O (26)
Nam mô Thiện Ý Phật. O (27)
Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật. O (28)
Nam mô Kim Hoa Quang Phật. O (29)
Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật. O (30)
Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật. O (31)
Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật. O (32)
Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật. O (33)
Nam mô Bất Động Trí Quang Phật. O (34)
Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật. O (35)
Nam mô Tài Quang Minh Phật. O (36)
Nam mô Trí Huệ Thắng Phật. O (37)
Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật. O (38)
Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật. O (39)
Nam mô Thế Tịnh Quang Phật. O (40)
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật. O (41)
Nam mô Nhựt Nguyệt Quang Phật. O (42)
Nam mô Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật. O (43)
Nam mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật. O (44)
Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật. O (45)
Nam mô Diệu Âm Thắng Phật. O (46)
Nam mô Thường Quang Tràng Phật. O (47)
Nam mô Quang Thế Đăng Phật. O (48)
Nam mô Huệ Oai Đăng Vương Phật. O (49)
Nam mô Pháp Thắng Vương Phật. O (50)
Nam mô Tu Di Quang Phật. O (51)
Nam mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật. O (52)
Nam mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật. O (53)
Nam mô Đại Huệ Lực Vương Phật. O (54)
Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật. O (55)
Nam mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật. O (56)
Nam mô Tài Quang Phật. O (57)
Nam mô Kim Hải Quang Phật. O (58)
Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật. O (59)
Nam mô Đại Thông Quang Phật. O (60)
Nam mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật. O (61)
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. O (62)
Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật. O (63)
Nam mô Bảo Quang Phật. O (64)
Nam mô Long Tôn Vương Phật. O (65)
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật. O (66)
Nam mô Tinh Tấn Hỷ Phật. O (67)
Nam mô Bảo Hoả Phật. O (68)
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật. O (69)
Nam mô Hiện Vô Ngu Phật. O (70)
Nam mô Bảo Nguyệt Phật. O (71)
Nam mô Vô Cấu Phật. O (72)
Nam mô Ly Cấu Phật. O (73)
Nam mô Dõng Thí Phật. O (74)
Nam mô Thanh Tịnh Phật. O (75)
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật. O (76)
Nam mô Ta Lưu Na Phật. O (77)
Nam mô Thuỷ Thiên Phật. O (78)
Nam mô Kiên Đức Phật. O (79)
Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật. O (80)
Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật. O (81)
Nam mô Quang Đức Phật. O (82)
Nam mô Vô Ưu Đức Phật. O (83)
Nam mô Na La Diên Phật. O (84)
Nam mô Công Đức Hoa Phật. O (85)
Nam mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật. O (86)
Nam mô Tài Công Đức Phật. O (87)
Nam mô Đức Niệm Phật. O (88)
Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật. O (89)
Nam mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật. O (90)
Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật. O (91)
Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật. O (92)
Nam mô Thiện Du Bộ Phật. O (93)
Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật. O (94)
Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật. O (95)
Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật. O (96)
Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật. O (97)

Như thị đẳng, nhứt thiết thế giới, chư Phật Thế Tôn, thường trụ tại thế, thị chư Thế Tôn, đương từ niệm ngã ! Nhược ngã thử sanh, nhược ngã tiền sanh, tùng vô thỉ sanh tử dĩ lai, sở tác chúng tội, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tuỳ hỷ. Nhược tháp, nhược Tăng, nhược tứ phương Tăng vật, nhược tự thủ, nhược giáo tha thủ, kiến thủ tuỳ hỷ.
Ngũ vô gián tội, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tuỳ hỷ.
Thập bất thiện đạo, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tuỳ hỷ.
Sở tác tội chướng, hoặc hữu phú tàng, hoặc bất phú tàng, ưng đoạ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chư dư ác thú, biên địa, hạ tiện, cập miệt lệ xa, như thị đẳng xứ, sở tác tội chướng, kim giai sám hối. O (98)
Kim chư Phật Thế Tôn, đương chứng tri ngã, đương ức niệm ngã, ngã phục ư chư Phật Thế Tôn tiền, tác như thị ngôn: Nhược ngã thử sanh, nhược ngã dư sanh, tằng hành bố thí, hoặc thủ tịnh giới, nãi chí thí dữ súc sanh, nhứt đoàn chi tự, hoặc tu tịnh hạnh, sở hữu thiện căn, thành tựu chúng sanh, sở hữu thiện căn , tu hạnh Bồ đề, sở hữu thiện căn, cập vô thượng trí, sở hữu thiện căn, nhứt thiết hiệp tập, giảo kế trù lượng, giai tất hồi hướng A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề; như quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật sở tác hồi hướng, ngã diệt như thị hồi hướng, chúng tội giai sám hối, chư phước tận tuỳ hỷ, cập thỉnh Phật công đức, nguyện thành vô thượng trí.
Khứ, lai, hiện tại Phật, ư chúng sanh tối thắng, vô lượng công đức hải, ngã kim quy mạng lễ. O (99)
Sở hữu thập phương thế giói trung,
Tam thế nhứt thiết nhơn Sư Tử,
Ngã dĩ thanh tịnh thân, ngữ, ý,
Nhứt thiết biến lễ tận vô dư.
Phổ Hiền hạnh nguyện oai thần lực,
Phổ hiện nhứt thiết Như Lai tiền,
Nhứt thân phục hiện sát trần thân,
Nhứt nhứt biến lễ sát trần Phật, O (100)
Ư nhứt trần trung trần số Phật,
Các xứ Bồ Tát chúng hội trung,
Vô tận pháp giới trần diệc nhiên,
Thâm tín chư Phật giai sung mãn.
Các dĩ nhứt thiết âm thinh hải,
Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ,
Tận ư vị lai nhứt thiết kiếp,
Tán Phật thậm thâm công đức hải. O (101)
Dĩ chư tối thắng diệu hoa man,
Kỷ nhạc đồ hương cập tán cái
Như thị tối thắng trang nghiêm cụ,
Ngã dĩ cúng dường chư Như Lai
Tối thắng y phục tối thắng hương,
Mạc hương, thiên hương dữ đăng chúc,
Nhứt nhứt giai như Diệu Cao tụ,
Ngã tất cúng dường chư Như Lai
Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm
Thâm tín nhứt thiết tam thế Phật,
Tất dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực,
Phổ biến cúng dường chư Như Lai. O (102)
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham, sân, si,
Tùng thân, ngữ, ý, chi sở sanh,
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối, O (103)
Thập phương nhứt thiết chư chúng sanh,
Nhị thừa hữu học cập vô học,
Nhứt thiết Như Lai dữ Bồ Tát,
Sở hữu công đức giai tuỳ hỷ. O (104)
Thập phương sở hữu thế gian đăng,
Tối sơ thành tựu Bồ đề giả,
Ngã kim nhứt thiết giai khuyến thỉnh,
Chuyển ư Vô thượng diệu pháp luân, O (105)
Chư Phật nhược dục thị Niết bàn,
Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh,
Duy nguyện cửu trụ sát trần kiếp,
Lợi lạc nhứt thiết chư chúng sanh. O (106)
Sở hữu lễ tán cúng dường phước,
Thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân,
Tuỳ hỷ sám hối chư thiện căn,
Hồi hướng chúng sanh cập Phật đạo. O (107)
Nguyện tương dĩ thử thắng công đức,
Hồi hướng Vô thượng chơn pháp giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng già,
Nhị đế dung thông Tam muội ấn
Như thị vô lượng công đức hải,
Ngã kim giai tất tận hồi hướng,
Sở hữu chúng sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp chướng,
Tất giai tiêu diệt tận vô dư,
Niệm niệm chí trâu ư pháp giới
Quảng độ chúng sanh giai bất thối,
Nãi chí hư không thế giới tận,
Chúng sanh cập nghiệp phiền não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô biên,
Nguyện kim hồi hướng diệc như thị. O (108)
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. ( 3 lần )
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ ẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô trí diệt vô đắc.
Dĩ vô sở đắc, cố Bồ đề tát đoả, y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa, cố đắc A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị Đại thần chú, thị Đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
( 3 lần )
VÃNG SANH QUYẾT QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha già đa dạ. Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ.
A di rii đa, tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị già dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. ( 3 lần )
TÁN THÁN PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hoá Phật vô số ức
Hoá Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật. ( niệm nhiều ít tuỳ ý )
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. ( 3 lần )
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. ( 3 lần )
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. ( 3 lần )
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 3 lần )
( Đồng quỳ, chắp tay đọc bái sám )
SÁM PHÁT NGUYỆN
Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích Ca
Phật A Di Đà, mười phương Chư Phật
Vô lượng Phật pháp, cùng Thánh Hiền Tăng
Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề
Tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc.
Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm
Thành tâm sám hối.
Thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành.
Ngưỡng mong ơn Phật, từ bi gia hộ:
Thân không tật bệnh, tâm không phiền não,
Hằng ngày an vui tu tập, pháp Phật nhiệm mầu,
Để mau ra khỏi luân hồi, minh tâm kiến tánh,
Trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại,
Đặng cứu độ các bậc Tôn trưởng
Cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Đồng trọn thành Phật đạo.


Đệ tử chúng đẳng
Tuỳ thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ Tát
Thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như Lai,
Tam giả quảng tu cúng dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tuỳ hỷ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thịnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tuỳ Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng danh
Thập giả phổ giai hồi hướng.

SÁM PHỔ HIỀN 

Xin chư Phật mười phương thế giới,
Tại thế gian thương đoái đến con.
Đời này, đời trước tội dồn,
Tử sanh vô thỉ, nghiệp tồn đến nay.
Tội con tạo hoặc bày kẻ khác,
Tội thấy người làm ác mừng vui.
Của chùa, của sãi khắp nơi,
Tự lấy, xúi lấy, tươi cười mừng theo.
Tội vô gián năm điều tự tạo,
Thấy mừng theo, hoặc bảo người làm.
Mười điều bất thiện tự can,
Xúi người can phạm, thấy làm mừng theo
Bày hoặc giấu, bao nhiêu tội ấy,
Đáng đọa vào ngạ quỷ, súc sanh,
Địa ngục, ác thú phạt hành,
Biên địa, ác kiến hoặc thành tiện nhơn.
Các tội ấy nay con sám hối,
Phật chứng tri thương đoái đến con. O
Thành tâm quỳ trước Thế Tôn,
Sự tình mọi nỗi nguồn cơn giải bày:
Hoặc đời trước, đời này, đời khác,
Con giữ gìn giới pháp tịnh thanh.
Hạnh tu bố thí thường hành,
Hoặc cơm một vắt nhịn dành muông chim.
Hoặc tịnh hạnh căn hiền sẵn có,
Sẵn căn hiền hộ độ chúng sanh.
Bồ đề tu sẵn căn lành,
Căn lành sẵn có phát sanh trí mầu.
Căn lành ấy nhóm so đếm lượng,
Thảy đều xin hồi hướng Bồ đề.
Con xin hồi hướng một bề,
Theo ba đời Phật con y một chiều.
Những tội lỗi con đều sám hối,
Các phước lành con thảy vui theo.
Xin đem thỉnh Phật công nhiều,
Nguyện thành bực trí cao siêu trên đời.
Phật quá khứ, vị lai, hiện tại,
Trong chúng sanh Tối Đại Thắng Vương.
Biển khơi công đức không lường,
Nay con quy mạng cúng dường kính cung. O
Trong tất cả mười phương thế giới,
Trong ba đời các vị Pháp vương.
Miệng, lòng, thân sạch kính dưng,
Chí tâm đảnh lễ mười phương vẹn tuyền.
Oai thần lực Phổ Hiền hạnh nguyện,
Trước Như Lai phổ hiện chơn thân.
Mỗi thân thể hiện vô ngần,
Mỗi thân đảnh lễ nhiều thân Phật Đà. O
Trong mảnh bụi Hằng sa số Phật,
Khắp nơi nơi Bồ tát hội vào.
Bụi trần Pháp giới biết bao,
Càng tin có Phật dồi dào nơi nơi.
Biển âm thanh khắp vời xưng tụng,
Lời diệu huyền hết giọng đề cao.
Trải bao thế kiếp mai sau,
Tán dương công Phật dạt dào biển khơi.
Tràng hoa đẹp xinh tươi bát ngát,
Cùng lọng tàn, kỹ nhạc, trầm hương.
Vật mầu, thức quý trang hoàng,
Con xin cúng Phật mười phương xa gần. O
Y tối thắng, hương trầm tối thắng,
Đèn đuốc cùng hương phấn, hương xông.
Của nhiều như núi chất chồng,
Con xin cúng Phật với lòng kính tin.
Lòng con mở rộng thinh thăm thẳm,
Phật ba đời khăn khắn niềm tin.
Nương theo hạnh nguyện Phổ Hiền,
Con xin cúng Phật trọn niềm kính tin. O
Các nghiệp ác tạo thành từ trước,
Tham, sân, si, đã trót gieo nhân,
Từ lời, từ ý, từ thân,
Nay con sám hối một lần trọn xong. O
Bực Nhị thừa học cùng dứt học,
Chúng sanh gồm các bực mười phang,
Như Lai, Bồ tát các hàng,
Bao nhiêu công đức con toàn mừng nương. O
Đèn chiếu thế mười phương Phật Bảo,
Lúc tối sơ thành đạo Bồ đề.
Nay con thành kính thỉnh về,
Chuyển Vô thượng diệu Bồ đề pháp luân. O
Chư Phật muốn Niết bàn nhập diệt,
Con chí thành, chí thiết cầu van:
Cúi mong Phật ở trần hoàn,
Làm cho lợi lạc các hàng chúng sanh. O
Lễ tán cúng phước dành thỉnh Phật,
Tại thế gian chuyển pháp độ sanh.
Vui theo, sám hối, căn lành,
Xin hồi hướng đến chúng sanh đạo tràng. O
Nguyện công đức vô vàn thắng lợi,
Hồi hướng về Pháp giới cao xa.
Tánh tướng Phật, Pháp, Tăng già,
Ấn Tam muội được dung hòa tục chơn.
Biển công đức mênh mông vô lượng,
Con xin đem hồi hướng tận cùng.
Cho người tội miệng, thân, lòng,
Khinh chê Chánh Pháp trong vòng lầm sai.
Các nghiệp chướng tạo gây thế ấy,
Nguyện diệt tiêu một mảy chẳng còn.
Trí minh niệm khắp đầy tròn,
Độ sanh bất thối, sắt son một lòng. O
Dầu cùng tận hư không thế giới,
Tận chúng sanh tội lỗi não phiền.
Phước con hồi hướng khắp miền,
Cũng như bốn Pháp vô biên, vô cùng. O
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần).
Hồng Danh Tán
Chúng con hoan hỷ,
Tín thọ phụng hành,
Tám mươi chín Phật,
Bửu Sám Hồng Danh,
Thích Ca Văn Phật,
Mười hiệu đành rành,
Nương nhờ lực Phật,
Sám hối tội mình. O
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT
(3 lần) O
BÁT NHÃ TÂM KINH
Khi hành Bát Nhã Ba La,
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng.
Thấy ra năm uẩn đều không,
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.
Này Xá Lợi Tử xét ra,
Không là sắc đó, sắc là không đây.
Sắc cùng không chẳng khác sai,
Không cùng sắc cũng sánh tày như nhau.
Thọ, tưởng, hành, thức, uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn một màu không không.
Này Xá Lợi Tử ghi lòng:
Pháp không tướng ấy, đều không tướng hình.
Không tăng giảm, không trược thanh,
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng.
Vậy nên trong cái chơn không,
Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân,
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh.
Từ không giới hạn mắt nhìn,
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng.
Hết vô minh cũng vẫn không,
Chết già, hết chết già không có gì.
Không khổ, tập, diệt, đạo kia,
Trí tuệ chứng đắc, cũng là không không.
Sở thành, sở đắc bởi không,
Các vị Bồ tát nương tùng tuệ năng.
Tâm không còn chút ngại ngăn,
Nên không còn chút băn khoăn sợ gì.
Đảo điên mộng tưởng xa lìa,
Niết bàn mới đến bên kia bến bờ.
Ba đời chư Phật sau xưa,
Đắc thành Chánh giác đã nhờ tuệ năng.
Trí tuệ năng lực vô ngần,
Đại minh vô thượng, đại thần cao siêu.
Trí tuệ năng lực có nhiều,
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền.
Trí tuệ năng lực vô biên,
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.
Liền theo lời chú thuyết rằng:
“Độ cho giác ngộ khắp trần chúng sanh”. O
Sám Thập Phương
Mười phương ba đời Phật,
Di Đà đệ nhứt danh.
Độ sanh lên chín phẩm,
Oai đức rộng thinh thinh.
Con nay quy y Phật, O
Diệt ba nghiệp mê tình.
Bao nhiêu phần phước đức,
Hồi hướng khắp nhân sanh.
Nguyện cùng người niệm Phật,
Cảm ứng hiện điềm lành.
Lâm chung thấy cảnh Phật.
Trước mắt hiện đành rành.
Thấy nghe đều tinh tấn.
Cực Lạc được vãng sanh.
Thấy Phật dứt sanh tử.
Như Phật độ hàm linh.
Trừ vô biên phiền não.
Tu vô lượng pháp lành.
Chúng sanh nguyền tế độ.
Phật đạo thảy viên thành.
Hư không còn có hết.
Bổn nguyện vốn không cùng.
Hữu tình vô tình khắp.
Trí tuệ chứng viên thông. O
Thập Nguyện
Một nguyền lễ kính Như Lai,
Hai nguyền xưng tán công dày Thế Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường,
Bốn nguyền sám hối nghiệp vươn tội trần.
Năm nguyền tùy hỷ công huân,
Sáu nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người.
Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời,
Tám nguyền học Phật tùy thời phát minh.
Chín nguyền hằng thuận chúng sanh,
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi. O
Phúng Kinh
Tụng kinh công đức tuyệt vời,
Xin đem hồi hướng khắp người gần xa.
Chúng sanh pháp giới Ta Bà,
Mau về cõi Phật Di Đà, Tây Thiên. O
Nguyện Tiêu
Nguyện tiêu tam chướng não phiền,
Nguyện thành trí tuệ vô biên tuyệt vời.
Nguyện bao nghiệp tội xa rời,
Nguyện hành Bồ tát đời đời độ tha. O
Nguyện Sanh
Nguyện về Tịnh Độ nước nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa khai, ngộ pháp Vô sanh,
Bất thối Bồ tát bạn lành dựa nương. O ([1])
Hồi Hướng
Nguyện đem công đức lành,
Hồi hướng cho tất cả.
Chúng con với chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả. O
Tự Quy
Tự quy y Phật,
Cầu cho chúng sanh,
Hiểu rõ đạo lành,
Phát lòng vô thượng. O
* * *
Tự quy y Pháp,
Cầu cho chúng sanh,
Kinh luật hiểu rành,
Trí tuệ như biển. O
* * *
Tự quy y Tăng,
Cầu cho chúng sanh,
Hiệp chúng đồng tình,
Chẳng hề trở ngại. O
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT O (3 lần) 

HỒI HƯỚNG
Sám hối công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẵng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.
PHỤC NGUYỆN
Nam mô A Di Đà Phật
Thượng lai, đệ tử chúng đẳng, chí thành lễ Phật hồng danh, Sám hối công đức.
Chuyên vì, thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ. Thứ nguyện hiện tiền đệ tử chúng đẳng, tội diệt phước sanh, Bồ đề tâm tăng trưởng, trí tánh thường minh, Bát nhã khai hoa, đạo tâm bất thối.
PHỔ NGUYỆN
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tính dữ vô tình, tề thành Phật đạo.
Nam mô A Di Đà Phật.
(đồng niệm lớn )
TAM TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo,phát Vô thượng tâm. ( 1 lạy )
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh tạng, tri huệ như hải. ( 1 lạy )
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý Đại chúng, nhứt thiết vô ngại. ( 1 lạy )
*/ Bản gõ này đầy đủ nội dung theo nguyên bản Kinh Nhật Tụng của NXB Tôn Giáo
*/ Đạo Hữu Kim Quí đánh máy. 



///////////////////////////

Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo. (3 lần).
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Liên Hoàn Sám Nguyện

///////////////////////////


SÁM PHẬT TỔ
(Sám tán Di Ðà II)

Cúi đầu làm lễ Tây phương,
Cha lành bốn bể dẫn đường cho con,
Một lòng gìn giữ vuông tròn,
Sân, si nghiệp chướng nay con nguyện chừa.
Rèn lòng kinh kệ sớm trưa,
Nguyện con ra khỏi nắng mưa cõi trần,
Ngưỡng cầu đức Phật thi ân,
Ðoái thương đệ tử trong trần sớm lên.
Nay con trai giới giữ bền,
Nguyện về Cực lạc làm nên độ người.
Từ đời vô thỉ mấy mươi,
Bởi chưng mê muội lánh mười việc nhơn.
Muôn trông đức Phật điểm đơn,
Thọ truyền đệ tử dứt cơn não phiền,
Bền lòng tới chốn Tây thiên,
Cầu về Cực lạc thanh liên đời đời,
Quyết lòng mỏi mệt chẳng rời,
Giữ gìn đạo đức việc đời bỏ đi.
Cúi xin Phật Tổ từ bi,
Dắt dìu con trẻ liên trì thẳng qua,
Bởi vì mê muội sai ngoa,
Quên trong chơn tánh vào ra luân hồi.
Quyết lòng học tập trau dồi,
Nguyện làm nên đạo đền bồi bốn ơn,
Dốc lòng niệm Phật chẳng sờn,
Về nơi Tịnh độ chỉ đờn làm nên.
Con nay tình nguyện xông lên,
Cúi gieo năm vóc dạ bền thiết tha,
Ngưỡng cầu đức Phật Di Ðà,
Dắt dìu đệ tử vượt qua cõi trần.
Từ rày khuya sớm ân cần,
Chướng dày thệ dứt lánh lần đường xưa.
Cho dầu nghiệp cũ dây dưa,
Nguyện con ra khỏi nắng mưa cõi đời.
Thệ con nên Phật mới thôi,
Cứu vòng đọa lạc mới hồi tịnh bang,
Nguyện lên chín phẩm sen vàng,
Ðộ loài mọt mạy muôn ngàn thảnh thơi.
Như con gần có qua đời,
Nguyện cầu Phật Tổ tới nơi tiếp về,
Ở trong ba cõi đắm mê,
Lộn vào nhiều kiếp chớ hề thở than.
Ngưỡng trông đức Phật mở mang,
Ðoái thương đệ tử muôn ngàn xuống lên,
Nguyện về Cực lạc vững bền,
Liên hoa phụ mẫu cõi trên thanh nhàn.

///////////////////////////

SÁM CHÂU-HOẰNG

Châu-Hoằng thầy hiệu Liên-trì
Làm văn phát-nguyện chỉ qui một đường
Cúi đầu làm lễ Tây-phương
Tịnh bang giáo-chủ pháp-vương Di-Đà
Độ người vượt khỏi ái hà
Dắt ra hầm lửa nhảy ra nghi thành
Tôi nay phát nguyện vãng sanh
Nguyện về cực-lạc nêu danh sen vàng
Ngưỡng trông vọi vọi đạo tràng
Dũ lòng thương xót mà mang tôi về
Tôi thường ba cõi đắm mê
Bốn ơn càng trọng lo bề cứu nhau
Tưởng gì đời lắm thảm sầu
Quyết lòng nên đạo, độ sau luân-hồi
Không trên một bực mà thôi
Sáng trưng đường lối không nơi nào bì
Nên tôi lòng gắn dạ ghi
Chuyên cần niệm Phật không khi nào rời
Phật là bực cả khắp trời
Cứu người thoát tử độ đời vô-sanh
Còn lo nghiệp trọng phước khinh
Phước dày huệ mỏng phàm tình tối tăm
Còn lo lòng nhiễm dễ lầm
Duyên trên chưa sạch tánh thần khó nên
Tôi nay tình nguyện khởi lên
Cúi gieo năm vóc thiệt bền lòng ngay
Mở gan trải dạ tỏ bày
Chí-thành sám-hối trông ngày Phật thương
Chúng tôi nhiều kiếp oan ương
Từ đời thuở trước không lường đến nay
Bơỉ vì mê tối dại ngây
Sân si quen nết cải thầy dạy khuyên
Ví như ba nghiệp đảo điên
Dầu cho nước biển rửa liền sạch đâu
Than ôi tội nghiệp lấp đầu
Nguồn ân biển ái thẩm sâu vô cùng
Ngữa trông đức Phật bao dung
Tội mòn nghiệp hết sạch không buổi nầy
Quyết lòng niệm Phật ăn chay
Chí tâm thề nguyện từ rày đến sau
Ví dầu tôi có ở đâu
Lánh xa bạn dữ chẳng hầu tựa nương
Gắng tu đạo Phật giữ thường
Thề không thối chuyển mắc đường thai sanh
Nguyện sao tu luyện mau thành
Đặng mà cứu độ phàm tình thoát ra
Cha lành là Phật Di-Đà
Đem lòng quãng đại để mà độ tôi
Đoái thương mấy đoạn khúc nôi
Chứng tri đệ-tử luân-hồi oan khiên
Cầu cho giấc ngủ rõ-ràng
Thấy Di-Đà Phật hào quang rạng mình
Cầu cho sắc tướng quang-minh
Thấy Di-Đà Phật tâm tình đặng an
Nguyện cầu lên cảnh lạc bang
Thấy Di-Đà Phật trên đàn giảng kinh
Cam-lồ Phật rưới đầy mình
Hào-quang Phật chiếu thanh-minh tâm thần
Cầu cho y Phật đắp thân
Tay vàng Phật đở thoa lần đầu tôi
Cầu cho chướng trước dứt chồi
Gốc lành thêm lớn vun bồi tốt tươi
Cho tôi sạch hết việc đời
Trong lòng thanh-tịnh như người tây phương
Tánh-linh mầu nhiệm tỏ tường
Mau nghe chánh pháp như gương trên đài
Mầu thuyền thanh-tịnh khoan-thai
Tịnh quang cõi Phật thấy hoài không ngơi
Như tôi gần có qua đời
Khiến cho linh-tánh đặng tôi biết liền
Đừng cho bệnh khổ vào thân
Tử an sanh thuận như thần bao xưa
Đừng cho tríu mến dây dưa
Đừng cho Thánh Phật long-thơ Tống-trào
Sáu căn đừng có lao-xao
Rõ ràng chánh-niệm như sao bắc-thần
Hết rồi một đoạn báo thân
Vào trong thiền-định xuất thần tây qui
Ngó gần thấy Phật A-Di
Quan-Âm Thế-Chí trụ-trì trước ta
Các ông thánh chúng hằng sa
Tuôn hào-quang xuống chói lòa rước tôi
Duỗi tay xuống tiếp một hồi
Lâu đài cờ phướng đông thôi quá chừng
Nhạc trời tấu trổi vang lừng
Mùi nhang thơm ngát vui ưng tấm lòng
Tây-Phương cõi Phật thung dung
Rõ ràng trước mắt hiện ra cõi nầy
Kẻ nghe người thấy vui thay
Khiến cho ai nấy liền ngày phát tâm
Tưởng người chánh-tín tưởng thầm
Bước vô đạo Phật khỏi hầm lửa thiêu
Vui thay cõi Phật tiêu diêu
Ai theo Phật rước cao siêu liên đài
Vung tay về chốn kim giai
Toà sen rực-rỡ trong ao
Đỏ, xanh, vàng, trắng tuôn hào quang ra
Tôi ngồi chểm-chệ trong hoa
Phật cùng Bồ-tát hằng-hà nhóm đông
Tôi nghe pháp nhiệm tỏ lòng
Chứng vô-sanh-nhẫn chơn tông thượng thiền
Chỉ trong giây phút thành duyên
Vẳng nghe chư Phật dạy truyền pháp âm
Đặng nhờ thọ ký ấn tâm
Dạy rồi linh tánh bao năm nhớ hoài
Ba thân bốn-trí lâu dài
Sáu-thông năm-mắt chuyện ai cũng tường
Đà-la thần-chú nhiều phương
Pháp nào cũng biết như gương soi lành
Bao-nhiêu công-đức chứng-minh
Nhớ ghi gồm đủ như kinh Phật truyền
Mình đã cõi Phật ỡ yên
Nhớ lời thệ trước độ duyên ta-bà
Thần thông biến-hóa thân ta
Khắp mười phương thảy hiện ra phép mầu
Từ-bi phước-đức thâm sâu
Có duyên hoá-độ đâu đâu vâng lời
Khắp trong cả thảy nhiều nơi
Cũng đều độ hết người đời trầm-luân
Khiến cho lòng tịnh quen lâu
Dứt tình ái dục lưu thần thiện lương
Dắt người về đến Tây-phương
Vào hàng bất thối náu nương bạn lành
Lòng tôi thệ độ chúng-sanh
Rộng như biển cả cũng dường hư-không
Hằng hà thế-giới đều thông
Chúng-sanh phiền-não độ đồng sạch trơn
Nếu mà còn để nhơn nhơn
Nguyện tôi không hết như đờn đứt giây
Phật thường chứng lễ nguyện nầy
Tu-trì công-đức độ ngay hữu-tình
Bốn ơn đền đáp phân minh
Ba đường cứu vớt siêu-sanh cõi mầu
Nguyện chung thế-giới ba ngàn
Vẹn tròn một trí vào ban Phật đài
Nguyện về cực-lạc một nhà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở rồi biết tánh linh
Các ông Bồ-tát bạn lành với ta
Huệ-Lưu diễn nghĩa chép ra
Ai tu tịnh-độ học mà sám chung.

///////////////////////////


SÁM CẦU SIÊU CÚNG MẸ
(Sám báo hiếu I)

Mẹ ôi con rất đau lòng,
Nhớ thương từ mẫu bế bồng nuôi con,
Công lao khó nhọc mỏi mòn,
Tanh hôi giặt rửa vì con ốm gầy,
Con đau mẹ chạy thuốc thầy,
Vái van chùa miếu đủ đầy cầu xin,
Than ôi cốt nhục thâm tình,
Biết sao trả đặng mẹ mình dày công.
Bây giờ nhìn cảnh đau lòng,
Mẹ đã về chốn non bồng xa chơi,
Bỏ con lặn hụp biển khơi,
Sống trong khổ não lụy rơi chan hòa,
Biết đâu tìm kiếm mẹ già,
Nhìn lên hương án trong nhà quạnh hiu,
Cháu con thơ dại chít chiu,
Như gà mất mẹ chạy kêu lạc đàn,
Lòng con thương nhớ thở than,
Cơm dưng ba bát vái van mẹ về,
Cổ bàn dọn cúng ê chề,
Nhìn sao chẳng thấy mẹ về uống ăn,
Mẹ về vãng cảnh chị Hằng,
Chúng con cúng giỗ làm văn tế ruồi.
Nhắc thôi đau khổ ngậm ngùi,
Nhớ thương từ mẫu sụt sùi lệ sa,
Thành tâm thiết lễ trai gia,
Một lòng cầu Phật Di Ðà độ vong,
Nguyện cầu Ðịa Tạng thương lòng,
Cứu độ hồn mẹ thoát vòng oan khiên,
Cầu Ngài Tôn giả Mục Liên,
Ban cho Diệu pháp, Phật truyền lục thông,
Xin Ngài thương xót gắng công,
Cứu độ phụ mẫu tổ tông thoát nàn,
Khỏi nơi địa ngục khóc than,
Về nơi Cực lạc sen vàng điểm tên.
Nguyện cầu phụ mẫu sớm lên,
Liên hoa cửu phẩm nêu tên đời đời,
Ở nơi Cực Lạc vui chơi,
Hộ trì tang quyến thảnh thơi an nhàn,
Nam mô Tịnh độ Lạc bang,
Ðộ vong hồn đặng Tây phương mau về.
Nam mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát Ma Ha Tát.

///////////////////////////

SÁM BÁO HIẾU MẪU THÂN
Báo ân nghĩa trọng vô biên,
Huyên đường nay đã huỳnh tuyền xa chơi,
Dương trần con chịu mồ côi,
Hai mươi bốn thảo chưa bồi dưỡng sinh,
Nhớ câu đất rộng trời dài,
Sông sâu bể thẳm non đoài cách xa,
Mẹ hiền khuất dạng trong nhà,
Bỏ con thơ dại vào ra một mình,
Đau lòng vì nỗi tử sinh,
Nhớ thương Từ Mẫu dứt tình biệt ly,
Cháu con sầu thảm ai bi,
Ra vào chẳng thấy dung nghi hàng ngày,
Trời cao đất thẳm có hay,
Mẹ con xa cách càng cay càng phiền,
Con còn vui sống triền miên,
Mất Mẹ gan ruột đảo điên muôn phần,
Than ôi, Từ Mẫu thâm ân,
Biết đâu tìm kiếm phân vân đêm ngày.
Nhớ ơn cúc dục cao dày,
Bây giờ chỉ thấy linh đài lạnh tanh,
Sớm khuya lặng lẽ một mình,
Vắng sau quạnh trước bóng hình Mẫu Thân,
Dưỡng sanh non biển sánh bằng,
Cưu mang mười tháng dạ hằng lo âu,
Nhiều khi Am Tự khấn cầu,
Cho con mạnh khỏe ngày sau nối dòng,
Khi con vừa mới lọt lòng,
Ba năm bú mớm ẵm bồng trên tay,
Mẹ Cha vất vả đêm ngày,
Trông con mau lớn chẳng nài công lao,
Nhứt là những lúc ốm đau,
Mẹ Cha khổ cực không sao nghĩ bàn,
Thuốc thang luống chịu cơ hàn,
Thấy con mạnh khỏe hân hoan vui mừng,
Khuyên con ăn ở có chừng,
Nào là trai gái giữ thuần nết na,
Dạy con khắp hết việc nhà,
Mẫu từ, Tử hiếu thuận hòa nên danh,
Bây giờ nhìn nấm mồ xanh,
Mộ đầy cỏ mọc chung quanh bịt bùng,
Về nhà thấy dạng chân dung,
Đèn hương khói tỏa nhớ cùng Mẫu Thân,
Nhớ Mẹ đau khổ muôn phần,
Tìm đâu gặp đặng Mẫu Thân dễ dàng,
Lòng con thương nhớ khóc than,
Cơm dưng ba bát vái van Mẹ dùng,
Làm sao trả thảo báo ân,
Đôi hàng châu lụy tuôn dòng thở than,
Đêm thâu giấc mộng mơ màng,
Giựt mình thức giấc bàng hoàng năm canh,
Mẹ đà về chốn Diêm thành,
Bỏ con dương thế cam đành xót xa,
Ruột đau từ đoạn thiết tha,
Nhớ thương Từ Mẫu lệ sa khôn cầm,
Năm canh con trẻ đang nằm,
Áo khô nước mắt ướt dầm như mưa,
Hồn về chín suối xa đưa,
Diêm la quỷ sứ ngưu lừa gớm ghê,
Suối vàng cũng gọi là quê,
Ai ai không khỏi đọa về khổ thân,
Làm con báo hiếu chuyên cần,
Nguyện cầu Phật Tổ oai thần cứu ra.
Ngày nay thiết lễ Trai gia (ma chay),
Lòng thành cầu Phật Di Đà chứng minh,
Quan Âm, Thế Chí đồng thinh,
Đức Ngài Địa Tạng độ hình Mẫu Thân,
Hà sa Chư Phật Long Thần,
Phóng quang tiếp dẫn Mẫu Thân thượng  trình,
Hương hồn về chốn Phật đình,
Sen vàng chín phẩm hóa hình ngồi trong,
Ngồi trên phẩm báu hư không,
Nương theo chơn Phật thong dong Lạc thành,
Mẹ đã về cõi vô sanh,
Tội tiêu nghiệp dứt quả lành muôn năm.
Lạy cầu Chư Phật từ tâm,
Di Đà thọ ký hồn âm trọn lành,
Nguyện hồn về chốn Lạc thành,
Chứng ngôi bất thối vô sanh đời đời,
Cầu cho hồn đặng thảnh thơi,
Hộ trì tang quyến đến nơi đạo tràng,
Tụng kinh lễ Phật cầu an,
Phát tâm tu niệm Lạc bang mau về.

///////////////////////////

SÁM BÁO HIẾU PHỤ THÂN
Thành tâm báo hiếu con quỳ,
Phụ thân nay đã biệt ly dương trần,
Con chưa đáp được mười ân,
Mà nay Cha đã qua phần còn đâu!
Nhắc thôi thêm thảm thêm sầu,
Làm con chưa trọn được câu sanh thành.
Từ nay Cha đã khuất hình,
Trước sau vắng vẻ gia đình quanh hiu,
Bỏ con thơ dại chít chiu,
Đâu còn như sống mà kêu con về.
Công lao khó nhọc nhiều bề,
Đêm ngày lo lắng nặng nề vì con,
Ba năm nuôi dưỡng hao mòn,
Chăm nom nuôi trẻ đâu còn rảnh rang.
Lắm lần cầu nguyện vái van,
Cho con khôn lớn nên đàng công danh,
Rồi nay con được trưởng thành,
Chưa hề báo đáp công sanh phần nào,
Sanh thành dưỡng dục cù lao,
Gia đình gánh nặng làm sao an nhàn,
Sợ con lêu lõng sa đàng,
Sợ vì bịnh hoạn lại càng lo âu,
Cha không lên gác xuống lầu,
Bỏ con vất vả đồng sâu nắng hè,
Cha không xuống ngựa lên xe,
Bỏ con đói rách chịu bề lang thang,
Cha không dư dả bạc vàng,
Bỏ con khốn khổ cơ hàn lều tranh,
Nuôi con dạy dỗ học hành,
Miễn cho con đặng trưởng thành nên danh.
Thương con Cha bỏ sao đành,
Nay vì số phận Cha đành biệt ly,
Nhỏ còn thơ dại biết chi,
Lớn khôn mới rõ Cha thì dày công.
Từ nay hết đợi hết trông,
Thi hài Cha gởi ra đồng cỏ xanh.
Về thăm đâu thấy dạng hình,
Bàn hương vắng vẻ đèn xanh nhang tàn.
Lòng con thương nhớ thở than,
Cơm dâng ba bát vái van Cha về.
Chứng cho con cháu đồng quỳ,
Nguyện Cha về chốn Liên trì Lạc bang.
Thành tâm con lập trai đàn,
Nhờ ơn Phật Tổ chứng đàn khai kinh.
Con cầu Chư Phật chứng minh,
Địa Tạng Bồ tát thương tình độ vong.
Con nay cầu nguyện hết lòng,
Cầu cho Từ Phụ thoát vòng khổ luân.
Mới là đáp được thâm ân,
Ơn cao như núi nghĩa gần biển sâu,
Thành tâm khấn nguyện cúi đầu,
Từ bi tiếp dẫn xin cầu vãng sanh,
Nguyện cho hồn đặng an lành,
Đồng về Cực Lạc đồng sanh sen vàng.
Nam mô Tịnh độ Lạc bang,
Độ vong hồn đặng Tây phang mau về.


///////////////////////////

SÁM CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG

KỆ VÔ THƯỜNG
(Cảnh tỉnh vô thường I)

Nhớ lời Phật Tổ dạy rằng:
Ðời người chớp nhoáng như lằn điển quang,
Thân người giả hợp rồi tan,
Lao xao bọt nước mơ màng chiêm bao,
Nặng mang những nghiệp trần lao,
Loanh quanh ba cõi lao xao sáu đường.
Ðã sanh trong cõi vô thường,
Thì ai thoát khỏi con đường tử sanh,
Bầu trời lồng lộng cao xanh,
Xoay mưa trở nắng tan tành gió mây,
Mênh mông đất nước trời dài,
Còn đâu bể thẳm luân đầy chiều mai.
Kể từ vô thỉ vị lai,
Ðến đời mạt pháp là ngày nay đây,
Biết bao tan xác rã thây,
Biết bao những nấm mả loài mồ hoang.
Phật xưa trượng sáu mình vàng,
Mãn viên còn phải Niết bàn báo thân.
Tiên gia như Lý đại quân,
Ðến ngày vô hóa hình thần cũng tan,
Tam hoàng Ngũ đế Thánh nhân,
Nào ai giữ được sắc thân đời đời.
Phật, Tiên, Hiền, Thánh, vật, người,
Non sông biến đổi đất trời tiêu tan.
Than ôi, cuộc thế ngỡ ngàng,
Não nùng chết khổ, lỡ làng sống vui,
Nếu ba hơi thở tắt rồi,
Mưa tuôn, cỏ lợp đất vùi nắng phơi.
Than ôi giấc mộng muôn đời !
Biết bao nhiêu khách đọa đày say vui.
Hỡi vong ơi ! Hỡi hồn ơi !
Bao nhiêu nợ thế trả rồi thời thôi,
Rửa lòng cho sạch trần ai,
Rời câu dục lạc miếng mồi lợi danh,
Tránh xa cái cửa tử sanh,
Thoát nơi tham ái khỏi thành sân si,
Bước vào trong cửa từ bi,
Nương theo chơn Phật trở về liên bang.
Khỏi đường sống chết xoay lăn,
Khỏi đường khổ thống khỏi thân tội tình,
Liên bang là nước hóa sanh,
Có ao tám đức có sen năm màu,
Có giường ngọc có mành châu,
Có thành thất bảo có lầu thất trân,
Sáu thời thiên nhạc rền vang,
Màu sen chói lọi mùi hương nực nồng,
Tốt thay thế giới vàng ròng,
Bảy hàng bảo thọ chín trùng liên hoa.
Ðạo sư là Phật Di Ðà,
Mình vàng rực rỡ chói lòa hào quang,
Hằng ngày thuyết pháp rền vang,
Tiếp người niệm Phật dẫn đường thiện duyên.
Hỡi ôi ! Hồn có linh thiêng,
Phát tâm niệm Phật mà nguyền vãng sanh,
Thành lòng Phật một nguyện lành,
Hoa sen rày đã nên danh tánh rồi.
Căn lành lợi phúc vun bồi,
Nương thuyền lục độ mà hồi hương qua,
Mãn duyên sen nở một tòa,
Rước hồn có Phật Di Ðà phóng quang,
Rước về đến cảnh Lạc bang,
Sống lâu vô lượng dứt đàng tử sanh.

///////////////////////////

SÁM THẢO LƯ
(Sám hồi tâm I)

Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh,
Dốc một lòng nhập thánh siêu phàm,
Sắc tài danh lợi chẳng ham,
Thị phi phủi sạch, luận đàm mặc ai,
Tuyết ban mai lâu dài chi đó,
Thân người đời nào có bao lâu,
Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu,
Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây.
Ba vạn sáu ngàn ngày công khó,
Chia phần đem cho đó một hòm,
Của tiền để lại nhi tôn,
Bao nhiêu tội lỗi phần hồn lãnh riêng.
Chốn cửu tuyền khác miền dương thế,
Quỉ ngưu đầu chẳng nể chẳng kiêng,
Tội hành nghiệp cảm liền liền,
Muôn phần thảm độc ghê phen đoạn trường.
Rất thảm thương là đường sanh tử,
Dám khuyên người ngó thử lại coi,
Thân như pháo đã châm ngòi,
Nổ vang một tiếng rồi coi thế nào.
Tiếc công lao biết bao xiết kể,
Sự đáo đầu cũng thế mà thôi.
Trăm năm sự nghiệp phủi rồi,
Minh minh biển khổ luân hồi cực thân.
Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,
Người say mê thấy vậy phải kêu,
Tỉnh tâm xét lại mấy điều,
Kíp tu đạo đức sau siêu linh hồn.
Sự dại khôn chẳng cần khôn dại,
Trước lỗi lầm sau phải ăn năn,
Biển sâu nước khỏa cũng bằng,
Mây tan gió tịnh, bóng trăng sáng lòa.
Cõi Ta bà có tòa Cực lạc,
Giòng sông mê, biển giác chẳng xa,
Y theo giáo pháp Thích Ca,
Tự nhiên bổn tánh Di Ðà phóng quang.
Ðã gặp đàng chưa toan dời bước,
Còn tiếc chi chơn bước lờ đờ,
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ,
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây.
Rút gươm huệ dứt dây tham ái,
Kíp tìm thầy cầu phái qui y.
Kiên trì ngũ giới tam quy,
Mở lòng từ nhẫn sân si phải chừa.

- Trích "Kinh Tam Bảo diễn nghĩa" Tổ đình Thiên Thai - Bà Rịa ấn hành 1967.
- Bài do Tổ Huệ Ðăng, trước tác vào khoảng năm 1930 tại núi Thiên Thai - Bà Rịa.
- Bài nầy còn có các tên gọi khác như :
* Sám Hồi tâm - (Tam Bảo Tôn Kinh - Thích Ca Tự).
* Sám Hồi tâm Hướng thiện (Kinh Nhựt Tụng - Chùa Ðại Giác).






Wednesday, May 1, 2019

Nghi thức Cầu An - Tụng Kinh Phổ Môn


Nghi thức Cầu An - Tụng Kinh Phổ Môn




I. NIỆM HƯƠNG
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)
II. TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN
Án lam xóa ha. (3 lần)
III. TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương)
IV. CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhứt-thế Phật,
Tôn pháp chư Bồ-tát,
Vô biên Thanh-Văn chúng,
Cập nhứt-thế Thánh-Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật-sự,
Phổ huân chư chúng-sanh,
Giai phát Bồ-đề tâm,
Viễn-ly chư vọng-nghiệp,
Viên-thành vô-thượng đạo.
(Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)
V. KỲ NGUYỆN
Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðại-bi hội thượng Phật Bồ-tát, từ-bi gia-hộ Phật-tử..... pháp-danh..... phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện: âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp-giới chúng-sanh, tề thành Phật đạo.
VI. TÁN PHẬT
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
(Ðứng dậy cấm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn)
VII. QUÁN TƯỞNG
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di-Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
(Ðứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng):
VIII. CỬ TÁN
Chiên đàn hải ngạn,
Lư nhiệt danh hương,
Da du tử mẫu lưỡng vô ương,
Hỏa nội đắc thanh lương,
Chí tâm kim tương,
Nhứt chú biến thập phương.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần)
IX. CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà rô yết đế thước bát ra da, Bồ Đề tát đỏa bà da, Ma ha tát đỏa bà da, Ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị Ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế ca ra đế, di hê rị, Ma ha Bồ Đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, Ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra Tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

X. KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa.
Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)

XI. PHẨM PHỔ-MÔN
Nam mô Pháp Hoa hội thượng Phật Bố tát (3 lần)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm
Nhĩ thời, Vô-tận-ý Bồ-tát tức tùng tọa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn:
Thế-Tôn, Quán-thế-âm Bồ-tát dĩ hà nhơn duyên danh Quán-thế-âm?
Phật cáo Vô-tận-ý Bồ-tát: Thiện-nam tử, nhược hữu vô- lượng bá thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư khổ não, văn thị Quán-thế-âm Bồ-tát nhứt tâm xưng danh, Quán-thế-âm Bồ-tát, tức thời quán kỳ âm thinh giai đắc giải-thoát.
Nhược hữu trì thị Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu; do thị Bồ-tát, oai thần lực cố. Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu tức đắc thiển xứ.
Nhược hữu bá thiên vạn ức chúng-sanh, vị cầu: kim ngân, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân-châu, đẳng bảo, nhập ư đại hải; giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng, phiêu đọa La-sát quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu nãi chí nhất nhơn, xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc giải-thoát La-sát chi nạn. Dĩ thị nhân duyên, danh Quán-thế-âm.
Nhược phục hữu nhơn, lâm đương bị hại, xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải-thoát.
Nhược tam-thiên đại-thiên quốc độ, mãn trung Da-xoa, La-sát, dục lai não nhơn, văn kỳ xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi, huống phục gia hại.
Thiết phục hữu nhơn, nhược hữu tội, nhược vô tội, nữu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ thân, xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, giai tất đoạn hoại tức đắc giải thoát.
Nhược tam-thiên đại-thiên quốc độ, mãn trung oán tặc, hữu nhứt thương chủ, tương chư thương nhơn, tê trì trọng bảo kinh quá hiểm lộ, kỳ trung nhứt nhơn, tác thị xướng ngôn: "Chư thiện-nam tử, vật đắc khủng bố, nhữ đẳng ưng đương nhứt tâm xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu; thị Bồ-tát năng dĩ vô-úy thí ư chúng-sanh; nhữ đẳng nhược xưng danh giả, ư thử oán tặc, đương đắc giải-thoát". Chúng thương nhơn văn, câu phát thinh ngôn: "Nam-mô Quán-thế-âm Bồ-tát" xưng kỳ danh cố, tức đắc giải-thoát.
Vô-tận-ý! Quán-thế-âm Bồ-tát ma-ha-tát, oai thần chi lực, nguy nguy như thị.
Nhược hữu chúng-sanh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán-thế-âm Bồ-tát tiện đắc ly dục; nhược đa sân nhuế, thường niệm cung kính Quán-thế-âm Bồ-tát, tiện đắc ly sân; nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán-thế-âm Bồ-tát tiện đắc ly si.
Vô-tận-ý! Quán-thế-âm Bồ-tát, hữu như thị đẳng đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích. Thị cố chúng-sanh, thường ưng, tâm niệm.
Nhược hữu nữ nhơn, thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán-thế-âm Bồ-tát, tiện sanh phước đức trí-huệ chi nam; thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn, chúng nhơn ái kính.
Vô-tận-ý! Quán-thế-âm Bồ-tát hữu như thị lực, nhược hữu chúng-sanh, cung kính lễ bái Quán-thế-âm Bồ-tát, phước bất đường quyên, thị cố chúng-sanh, giai ưng thọ trì Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu.
Vô-tận-ý! Nhược hữu nhơn thọ trì lục thập nhị ức hằng-hà sa Bồ-tát danh tự, phục tận hình cúng-dường ẩm thực, y-phục, ngọa-cụ, y-dược, ư nhữ ý vân hà? Thị thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn công-đức đa phủ?
Vô-tận-ý ngôn: "Thậm đa, Thế-Tôn". Phật ngôn: "Nhược phục hữu nhơn, thọ trì Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu, nãi chí nhất thời lễ bái, cúng-dường, thị nhị nhơn phước, chánh đẳng vô dị! ư bá thiên vạn ức kiếp, bất khả cùng tận. Vô-tận-ý, thọ trì Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu, đắc như thị vô lượng vô biên phước đức chi lợi".
Vô-tận-ý Bồ-tát bạch Phật ngôn: Thế-Tôn, Quán-thế-âm Bồ-tát, vân hà du thử Ta-bà thế giới? Vân-hà nhi vị chúng-sanh thuyết-pháp ? Phương-tiện chi lực, kỳ sự vân hà?
Phật cáo Vô-tận-ý Bồ-tát: "Thiện-nam tử, nhược hữu quốc độ chúng-sanh, ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, Quán-thế-âm Bồ-tát tức hiện Phật thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Bích-Chi-Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích-Chi-Phật thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Thinh-văn thân đắc độ giả, tức hiện Thinh-văn thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Phạm Vương thân đắc độ giả, tức hiện Phạm-Vương thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Ðế-Thích thân đắc độ giả, tức hiện Ðế-Thích thân, nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Tự-tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Tự-tại Thiên thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Ðại Tự-tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Ðại Tự-tại Thiên thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Thiên đại-tướng-quân thân đắc độ giả, tức hiện Thiên đại-tướng-quân thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ-Sa-Môn thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-Sa-Môn thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Tiểu-Vương thân đắc độ giả, tức hiện Tiểu-Vương thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Trưởng-giả thân đắc độ giả, tức hiện Trưởng-giả thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Cư-sĩ thân đắc độ giả, tức hiện Cư-sĩ thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Tể-quan thân đắc độ giả, tức hiện Tể-quan thân, nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Bà-la-môn thân đắc độ giả, tức hiện Bà-la-môn thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Trưởng-giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn, Phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện Phụ-nữ thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Ðồng-nam, Ðồng-nữ thân đắc độ giả, tức hiện Ðồng-nam, Ðồng-nữ thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn, Phi nhơn đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Chấp-kim-cang thần đắc độ giả, tức hiện Chấp-kim-cang thần nhi vị thuyết-pháp.
Vô-tận-ý! Thị Quán-thế-âm Bồ-tát thành tựu như thị công-đức dĩ chủng chủng hình, du chư quốc độ, độ thoát chúng-sanh, thị cố nhữ đẳng, ưng đương nhứt tâm cúng-dường Quán-thế-âm Bồ-tát. Thị Quán-thế-âm Bồ-tát ma-ha-tát, ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô-úy; thị cố thử Ta-bà thế-giới, giai hiệu chi vi thí vô-úy giả.
Vô-tận-ý Bồ-tát bạch Phật ngôn:
"Thế-Tôn! Ngã kim đương cúng-dường Quán-thế-âm Bồ-tát ". Tức giải cảnh chúng bảo châu anh-lạc, giá trị bá thiên lượng kim, nhi dĩ dữ chi, tác thị ngôn: "Nhơn giả thọ thử pháp thí, trân bảo anh-lạc". Thời Quán-thế-âm Bồ-tát bất khẳng thọ chi. Vô-tận-ý phục bạch Quán-thế-âm Bồ-tát ngôn: "Nhơn giả mẫn ngã đẳng cố, thọ thử anh-lạc". Nhĩ thời Phật cáo Quán-thế-âm Bồ-tát: "Ðương mẫn thử Vô-tận-ý Bồ-tát cập tứ-chúng: Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn, Phi-nhơn đẳng cố, thọ thử anh-lạc". Tức thời Quán-thế-âm Bồ-tát, mẫn chư tứ chúng, cập ư Thiên, Long, Nhơn, Phi-Nhơn đẳng, thọ kỳ anh-lạc, phân tác nhị phần: Nhất phần phụng Thích-Ca Mâu-Ni Phật, nhất phần phụng Ða-bảo Phật tháp.
Vô-tận-ý, Quán-thế-âm Bồ-tát hữu như thị tự-tại thần lực du ư Ta-bà thế-giới.
Nhĩ thời Vô-tận-ý Bồ-tát dĩ kệ vấn viết:
Thế-Tôn diệu tướng cụ
Ngã kim trùng vấn bỉ
Phật-tử hà nhân duyên
Danh vi Quán-thế-âm?
Cụ túc diệu tướng tôn
Kệ đáp Vô-tận-ý:
Nhữ thính Quán-âm hạnh
Thiện ứng chư phương sở
Hoằng thệ thâm như hải
Lịch kiếp bất tư nghị
Thị đa thiên ức Phật
Phát đại thanh-tịnh nguyện
Ngã vị nhữ lược thuyết
Văn danh cập kiến thân
Tâm niệm bất không quá
Năng diệt chư hữu khổ,
Giả sử hưng hại ý
Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm bỉ Quán-âm lực
Hỏa khanh biến thành trì.
Hoặc phiêu lưu cự hải
Long ngư chư quỷ nạn
Niệm bỉ Quán-âm lực
Ba lãng bất năng một.
Hoặc tại Tu-di phong
Vi nhơn sở thôi đọa
Niệm bỉ Quán-âm lực
Như nhật hư không trụ
Hoặc bị ác nhơn trục
Ðọa lạc Kim-cang sơn
Niệm bỉ Quán-âm lực
Bất năng tổn nhứt mao.
Hoặc trị oán tặc nhiễu
Các chấp đao gia hại
Niệm bỉ Quán-âm lực
Hàm tức khởi từ tâm
Hoặc tao vương nạn khổ
Lâm hình dục thọ chung
Niệm bỉ Quán-âm lực
Ðao tầm đoạn đoạn hoại
Hoặc tù cấm già tỏa
Thủ túc bị nữu giới
Niệm bỉ Quán-âm lực
Thích nhiên đắc giải-thoát,
Chú trớ chư độc dược
Sở dục hại thân giả
Niệm bỉ Quán-âm lực
Hoàn trước ư bổn nhơn.
Hoặc ngộ ác La-sát
Ðộc long chư quỷ đẳng
Niệm bỉ Quán-âm lực
Thời tất bất cảm hại.
Nhược ác thú vi nhiễu
Lợi nha trảo khả bố
Niệm bỉ Quán-âm lực
Tật tẩu vô biên phương.
Ngoan xà cập phúc yết
Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm bỉ Quán-âm lực
Tầm thinh tự hồi khứ.
Vân lôi cổ xiết điện
Giáng bạc chú đại võ
Niệm bỉ Quán-âm lực
Ứng thời đắc tiêu tán.
Chúng-sanh bỉ khổn ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán-âm diệu trí lực
Năng cứu thế-gian khổ.
Cụ túc thần-thông lực
Quảng tu trí phương-tiện
Thập phương chư quốc-độ
Vô sát bất hiện thân.
Chủng chủng chư ác-thú
Ðịa-ngục quỷ, súc-sanh
Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Dĩ tiệm tất linh diệt.
Chơn quán thanh tịnh quán.
Quảng đại Trí-huệ quán
Bi quán cập Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
Vô cấu thanh-tịnh quang
Huệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế-gian.
Bi thể giới lôi chấn
Từ ý diệu đại vân
Chú cam-lồ pháp võ
Diệt trừ phiền-não diệm
Tránh tụng kinh quan xứ
Bố úy quân trận trung
Niệm bỉ Quán-âm lực
Chúng oán tất thối tán.
Diệu âm Quán-thế-âm
Phạm-âm hải-triều âm
Thắng bỉ thế-gian âm
Thị cố tu thường niệm
Niệm niệm vật sanh nghi.
Quán-thế-âm tịnh thánh
Ư khổ não tử ách
Năng vị tác y hỗ.
Cụ nhứt thế công-đức
Từ nhãn thị chúng-sanh
Phước tụ hải vô lượng
Thị cố ưng đảnh lễ
Nhĩ thời Trì-Ðịa Bồ-tát, tức tùng tòa khởi, tiền bạch Phật ngôn: "Thế-Tôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị Quán-thế-âm Bồ-tát phẩm, tự-tại chi nghiệp, phổ môn thị hiện, thần thông lực giả; đương tri thị nhơn công-đức bất thiểu".
Phật thuyết thị Phổ-môn phẩm thời, chúng trung bát vạn tứ thiên chúng-sanh, giai phát vô đẳng đẳng A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm.
XII. DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA KINH QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN PHẨM CHƠN-NGÔN VIẾT
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)
XIII. LỤC TỰ ÐẠI MINH CHƠN-NGÔN
Án, ma ni bát di hồng. (108 lần)
XIV. PHỔ MÔN TÁN
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ tầm thinh
Từ bi thuyết-pháp độ mê tân
Phó cảm ứng tùy hình
Tứ hải thanh ninh
Bát nạn vĩnh vô xâm
XV. THẬP NHỊ NGUYỆN
1. Nam-mô hiệu Viên-thông danh Tự-tại, Quán-Âm Như-Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy)
2. Nam-mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán-Âm Như-Lai thường cư Nam-hải nguyện. (1 lạy)
3. Nam-mô trụ Ta-bà, U-minh giới, Quán-Âm Như-Lai tầm thinh cứu khổ nguyện. (1 lạy)
4. Nam-mô hàng tà-ma trừ yêu-quái, Quán-Âm Như-Lai, năng trừ nguy-hiểm nguyện. (1 lạy)
5. Nam-mô thanh-tịnh bình thùy dương-liễu, Quán-Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện. (1 lạy)
6. Nam-mô đại từ-bi, năng hỷ-xả, Quán-Âm Như-Lai, thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)
7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán-Âm Như-Lai thệ diệt tam-đồ nguyện. (1 lạy)
8. Nam-mô vọng nam-nham, cần lễ bái, Quán-Âm Như-Lai, già tỏa giải-thoát nguyện. (1 lạy)
9. Nam-mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán-Âm Như-Lai độ tận chúng-sanh nguyện. (1 lạy)
10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo-cái, Quán-Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây-Phương nguyện. (1 lạy)
11. Nam-mô Vô-lượng-thọ Phật cảnh giới, Quán-Âm Như-Lai, Di-Ðà thọ ký nguyện. (1 lạy)
12. Nam-mô đoan nghiêm thân vô tỉ tái, Quán-Âm Như-Lai, quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)

CỬ TÁN:
Quán Âm Đại Sĩ,
Phổ hiệu Viên Thông,
Thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm,
Khổ hải phiếm từ phong,
Phổ tế tâm dung,
Sát sát hiện vô cùng.
Nam mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. 


XVI. MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)
XVII. VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô A Di Đa Bà Dạ, Đa Tha Dà Đa Dạ. Đa Điệt Dạ Tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa tỳ ca lan đế. A di rị đa tỳ ca lan đa. Dà di nị dà dà na. Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)

XVIII. TÁN PHẬT
A-Di-Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Phật.
Nam-mô A-Di-Ðà Phật. (Niệm nhiều ít tùy ý)
Nam-mô Ðại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Ðại-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

Sám Quán Âm: 

Quán Thế Âm oai thần lồng lộng
Khắp thế gian đều trọng danh Ngài
Chúng sanh hết thảy ai ai
Khi nào gặp nạn niệm Ngài liền qua.
Bởi người thế gần xa ngưỡng mộ
Quán Thế Âm cứu khổ độ sanh
Nếu ai có một niệm lành
Hễ Ngài nghe tiếng ứng danh tới liền.
Dù trọng bệnh liên miên khổ cực
Niệm danh Ngài lập tức khỏi ngay
Bao nhiêu tai nạn hàng ngày
Chí tâm niệm tới danh Ngài liền qua.
Vô lượng kiếp Ta Bà thế giới
Ngài giáng sanh xuống cõi dương gian
Hóa thân công chúa Đoan Trang
Diệu Trang Vương ngự ngai vàng vua cha.
Diệu Thanh ấy chính là chị cả
Sau cũng tu chứng quả Văn Thù
Diệu Âm chị thứ cũng tu
Phổ Hiền chứng thánh đền bù công lao.
Trọn một nhà đều vào cảnh Phật
Lòng từ bi chơn chất đáng ghi
Tuổi trẻ chí cả ai bì
Dốc lòng mộ đạo quyết thì đi tu.
Trọn chín năm chẳng từ lao khổ
Mong công thành cứu độ chúng sanh
Trì chay giữ giới tu hành
Tại động Hương Tích, Bắc thành Việt Nam.
Một cảnh tiên mây lam che phủ
Có cam tuyền, thạch nhũ bao quanh
Cảnh tốt dành cho người lành
Kim đồng, Ngọc nữ ứng danh theo hầu.
Dưới bệ ngọc chia nhau sớm tối
Chầu hai bên không lỗi đạo thầy
Luôn  luôn chơn chất thảo ngay
Hành theo ý chí của thầy ban ra.
Quán Thế Âm danh là Tự Tại
Khắp tam thiên qua lại dạo chơi
Từ bi Ngài muốn độ đời
Mười hai nguyện lớn thiệt thời cao xa.
Nguyện nào cũng đều là rốt ráo
Chuyên tâm về chánh đạo độ tha
Biển Nam Hải, núi Phổ Đà
Trụ nơi cảnh ấy cũng là Hương Sơn.
Trong một phẩm Phổ môn thị hiện
Đức Thích Ca thuật chuyện khen Ngài
Oai thần linh hiển không hai
Tầm thanh cứu khổ chẳng nài công phu.
Nếu có kẻ muốn tu cư sĩ
Hay cũng là tùy hỷ muốn chi
Ngài liền ứng hiện tức thì
Tới nơi dìu dắt cấp kỳ độ qua.
Hay có kẻ qua đò mắc nạn
Cùng bao nhiêu tai nạn dọc đường
Chí thành đốt nén tâm hương
Vừa niệm danh hiệu tai ương qua liền.
Những chuyện ấy hiển nhiên đều thấy
Đức Như Lai truyền dạy chẳng sai
Chúng ta chớ có quản nài
Một lòng ngưỡng mộ cầu Ngài độ cho.
Trong khổ hải đò từ vẫn đợi
Vớt chúng sanh đưa tới Niết bàn
Chín tầng sen báu đài vàng
Di Đà thọ ký rõ ràng thảnh thơi.
Từ bi cứu khổ độ đời,
Tầm thinh giải nạn đến nơi an lành.
Nam mô Tầm thinh Cứu khổ Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUẢNG ĐẠI LINH CẢM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT.
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.

XIX. HỒI HƯỚNG
Cầu-An công-đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.

XX. PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo tác đại chứng minh.
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh.
Phục nguyện:
Thượng lai hiện tiền đệ tử chúng đẳng chí thành trì tụng Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phổ Môn Phẩm, nguyện hồi hướng công đức kỳ an hiện tiền Phật tử... Chư tai tiêu diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch cát tường, viễn ly khổ ách.
Phổ nguyện:
Âm siêu dương thới, Pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật Ðạo.
Ðồng niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật.
XXI. TAM QUY-Y
Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)



Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Kinh Dược Sư Phật. Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Âm Tiếng Việt)

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Âm Tiếng Việt) Tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mặt tiếng Việt.

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Âm Hán Việt)

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Âm Hán Việt) 
Do Thầy Huệ Duyên tụng chữ Hán

CỬ TÁN
Hương vân nhi bố, thánh đức chiêu chương, bồ đề tâm quảng mạc năng lường, xúc xứ phóng hào quang vi thoại vi tường, ngưỡng khởi pháp trung vương
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần) Ma ha tát

PHỤNG THỈNH
Chí tâm đảnh lễ
Nam Mô phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Bích Độc Kim Cang.
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang.
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Bạch Tịnh Thủy Kim Cang
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Xích Tinh Hỏa Kim Cang
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Định Trì Tai Kim Cang
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Tử Hiền Kim Cang
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Đại Thần Kim Cang.
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Kim Cang Quyến Bồ tát.
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Kim Cang Sách Bồ tát.
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Kim Cang Ái Bồ tát.
Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Kim Cang Ngữ Bồ tát.

PHÁT NGUYỆN VĂN
Khể thủ tam-giới Tôn,
Quy mạng thập-phương Phật.
Ngã kim phát hoằng nguyện:
Trì tụng Kim-Cang kinh.
Thượng báo tứ trọng ân,
Hạ tế tam đồ khổ.
Nhược hữu kiến văn giả,
Tất phát bồ-đề tâm.
Tận thử nhứt báo thân,
Đồng sanh Cực-Lạc quốc.

VÂN HÀ PHẠM
Vân hà đắc thọ trường,
Kim-Cang bất hoại thân?
Phục dĩ hà nhân-duyên
Đắc đại kiên-cố-lực?
Vân hà ư thử kinh
Cứu cánh đáo bỉ ngạn?
Nguyện Phật khai vi-mật
Quảng vị chúng-sanh thuyết.
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)

KỆ KHAI KINH
Phật Pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-Mô Kim Cang Bát-Nhã Hội-Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)

Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh

1. PHÁP HỘI NHÂN DO.
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên, dữ đại Tỳ Kheo chúng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá Vệ đại thành khất thực. Ưng kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.
2. THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH.
Thời trưởng lão Tu-bồ-đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn: "Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát. Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?" Phật ngôn: "Thiện tai, thiện tai! Tu-bồ-đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm". "Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn".
3. ÐẠI THỪA CHÁNH TÔNG.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát.

4. DIỆU HẠNH VÔ TRỤ.
Phục thứ Tu-bồ-đề, Bồ-tát ư pháp ưng vô sở trụ hành ư bố thí, sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí. Tu-bồ-đề, Bồ-tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ-tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Ðông phương hư không khả tư lương phủ? Phất dã Thế Tôn! Tu-bồ-đề, Nam Tây Bắc phương tứ duy thượng hạ hư không, khả tư lương phủ? Phất dã Thế Tôn! Tu-bồ-đề, Bồ-tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị bất khả tư lương. Tu-bồ-đề, Bồ-tát đản ưng như sở giáo trụ.

5. NHƯ LÝ THẬT KIẾN.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ? Phất dã Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng. Phật cáo Tu-bồ-đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai. 

6. CHÁNH TÍN HY HỮU.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh, đắc văn như thị ngôn thuyết, chương cú, sanh thật tín phủ? Phật cáo Tu-bồ-đề: Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thật, đương tri thị nhân bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn. Văn thị chương cú, nãi chí nhất niệm sanh tịnh tín giả, Tu-bồ-đề, Như Lai tất tri, tất kiến thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh, nhược tâm thủ tướng tắc vi trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng tức trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã nhân chúng sanh thọ giả. Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp. Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.

7. VÔ ÐẮC VÔ THUYẾT.
Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề da? Như Lai hữu sở thuyết pháp da? Tu-bồ-đề ngôn: Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp, danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết Hiền Thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt.

8. Y PHÁP XUẤTSANH.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Nhược nhân mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí, thị nhân sở đắc phước đức, ninh vi đa phủ?
Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thị phước đức tức phi phước đức tánh, thị cố Như Lai thuyết phước đức đa.
- Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thắng bỉ. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhất thiết chư Phật cập chư Phật A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề pháp, giai tùng thử kinh xuất. Tu-bồ-đề, sở vị Phật pháp giả tức phi Phật pháp.

9. NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tu-đà-hoàn năng tác thị niệm ngã đắc Tu-đà-hoàn quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tu-đà-hoàn danh vi Nhập lưu nhi vô sở nhập, bất nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu-đà-hoàn.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tư-đà-hàm năng tác thị niệm: Ngã đắc Tư-đà-hàm quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tư-đà-hàm danh Nhất vãng lai nhi thật vô vãng lai, thị danh Tư-đà-hàm.
-Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? A-na-hàm năng tác thị niệm: Ngã đắc A-na-hàm quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? A-na-hàm danh vi Bất lai, nhi thậtvô bất lai, thị cố danh A-na-hàm.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? A-la-hán năng tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thật vô hữu pháp danh A-la-hán. Thế Tôn! Nhược A-la-hán tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo, tức vi trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Thế Tôn! Phật thuyết ngã đắc Vô tránh tam-muội, nhân trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A-la-hán. Thế Tôn! Ngã bất tác thị niệm: Ngã thị ly dục A-la-hán. Thế Tôn! Ngã nhược tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo, Thế Tôn tắc bất thuyết Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh giả. Dĩ Tu-bồ-đề thật vô sở hành, nhi danh Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh.

10. TRANG NGHIÊM TỊNH ÐỘ.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Ðăng Phật sở ư pháp hữu sở đắc phủ? 
- Phất dã Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Ðăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ-tát trang nghiêm Phật độ phủ? 
- Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
- Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Tu-bồ-đề, thí như hữu nhân, thân như Tu-di sơn vương, ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đại, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân.

11. VÔ VI PHƯỚC THẮNG.
Tu-bồ-đề, như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa, ninh vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Ðản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa.
- Tu-bồ-đề, ngã kim thật ngôn cáo nhữ, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ thất bảo mãn nhĩ sở Hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng bố thí, đắc phước đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức.

12. TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO.
Phục thứ Tu-bồ-đề! Tùy thuyết thị kinh nãi chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế gian thiên nhân A-tu-la giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu, hà huống hữu nhân tận năng thọ trì, độc tụng. Tu-bồ-đề! Ðương tri thị nhân thành tựu tối thượng đệ nhất hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử.

13. NHƯ PHÁP THỌ TRÌ.
Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ðương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì? Phật cáo Tu-bồ-đề: Thị kinh danh vi Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật, dĩ thị danh tự nhữ đương phụng trì. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Phật thuyết Bát-nhã ba-la-mật tức phi Bát-nhã ba-la-mật, thị danh Bát-nhã ba-la-mật. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu sở thuyết pháp phủ? Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu vi trần, thị vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn!
- Tu-bồ-đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần thị danh vi trần. Như Lai thuyết thế giới phi thế giới thị danh thế giới. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ?
- Phất dã Thế Tôn! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng.
- Tu-bồ-đề, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩHằng hà sa đẳng thân mạng bố thí, nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thậm đa.

14. LY TƯỚNG TỊCH DIỆT.
Nhĩ thời Tu-bồ-đề văn thuyết thị kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: Hy hữu Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển, ngã tùng tích lai sở đắc tuệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh. Thế Tôn! Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh, tín tâm thanh tịnh tắc sanh thật tướng, đương tri thị nhân thành tựu đệ nhất hy hữu công đức. Thế Tôn! Thị thật tướng giả tức thị phi tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng. Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như thị kinh điển, tín giải thọ trì, bất túc vi nan. Nhược đương lai thế, hậu ngũ bách tuế, kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhân tắc vi đệ nhất hy hữu. Hà dĩ cố? Thử nhân vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng,vô thọ giả tướng. Sở dĩ giả hà? Ngã tướng tức thị phi tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng. Hà dĩ cố? Ly nhất thiết chư tướng tức danh chư Phật.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Như thị, như thị! Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh bất kinh, bất bố, bất úy, đương tri thị nhân, thậm vi hy hữu! Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết đệ nhất ba-la-mật, tức phi đệ nhất ba-la-mật, thị danh đệ nhất ba-la-mật. Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba-la-mật thị danh nhẫn nhục ba-la-mật. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Như ngã tích vi Ca-lợi vương cát tiệt thân thể, ngã ư nhĩ thời vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Hà dĩ cố? Ngã ư vãng tích tiết tiết chi giải thời, nhược hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, ưng sanh sân hận. Tu-bồ-đề! Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bách thế tác nhẫn nhục tiên nhân, ư nhĩsở thế vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Thị cố, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ưng ly nhất thiết tướng phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vịxúc pháp sanh tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm. Nhược tâm hữu trụ , tắc vi phi trụ. Thị cố Phật thuyết Bồ-tát tâm bất ưng trụ sắc bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát vị lợi ích nhất thiết chúng sanh, ưng như thị bố thí. Như Laithuyết nhất thiết chư tướng tức thị phi tướng hựu thuyết nhất thiết chúng sanh tức phi chúng sanh. Tu-bồ-đề! Như Lai thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả. Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư. Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát tâm trụ ư pháp nhi hành bố thí như nhân nhập ám tắc vô sở kiến. Nhược Bồ-tát tâm bất trụ pháp nhi hành bố thí như nhân hữu mục, nhật quang minh chiếu, kiến chủng chủng sắc. Tu-bồ-đề! Ðương lai chi thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân năng ư thử kinh thọ trì độc tụng tức vi Như Lai dĩ Phật trí tuệ, tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức.

15. TRÌ KINH CÔNG ÐỨC. 
Tu-bồ-đề! Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, sơ nhật phần, dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, trung nhật phần phục dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu nhật phần diệc dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí. Như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì độc tụng vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, vô biên công đức, Như Lai vị phát Ðại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết. Nhược hữu nhân năng thọ trì độc tụng, quảng vị nhân thuyết, Như Lai tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xứng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng tắc vi hà đảm Như Lai A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ độc tụng, vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhất thiết thế gian thiên, nhân, a-tu-la sở ưng cúng dường. Ðương tri thử xứ tắc vi thị tháp, giai ưng cung kính tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ.

16. NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG.
Phục thứ Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, độc tụng thử kinh, nhược vi nhân khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp, ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhân khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tắc vi tiêu diệt, đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ-kiếp, ư Nhiên Ðăng Phật tiền đắc trị bát bách tứ thiên vạn ức na-do-tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự vô không quá giả. Nhược phục hữu nhân ư hậu mạt thế năng thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật công đức, bách phần bất cập nhất, thiên vạn ức phần, nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập. Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư hậu mạt thế, hữu thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhân văn tâm tắc cuồng loạn hồ nghi bất tín. Tu-bồ-đề! Ðương tri thị kinh nghĩa bất khả tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị.

17. CỨU KÍNH VÔ NGÃ.
Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm? Phật cáo Tu-bồ-đề: Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, đương sanh như thị tâm, ngã ưng diệt độ
nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ nhi vô hữu nhất chúng sanh thật diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ-tát. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả. Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai ư Nhiên Ðăng Phật sở, hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề phủ?
- Phất dã Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Ðăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Phật ngôn: Như thị, như thị! Tu-bồ-đề, thật vô hữu pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Nhược hữu pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề giả, Nhiên Ðăng Phật tắc bất dữ ngã thọ ký: Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni. Dĩ thật vô hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, thị cố Nhiên Ðăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn: Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni. Hà dĩ cố? Như Lai giả, tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhân ngôn: Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư thị trung, vô thật vô hư, thị cố Như Lai thuyết: Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Tu-bồ-đề! Sở ngôn nhất thiết phápgiả tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp. Tu-bồ-đề! Thí như nhân thân trường đại.
Tu-bồ-đề ngôn: Thế Tôn! Như Lai thuyết nhân thân trường đại tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân.
Tu-bồ-đề! Bồ-tát diệc như thị. Nhược tác thị ngôn: Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh, tức bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp danh vi Bồ-tát, thị cố Phật thuyết nhất thiết pháp vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả. Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát tác thị ngôn: Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát thông đạt vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh chân thị Bồ-tát.

18. NHẤT THỂ ÐỒNG QUÁN.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu nhục nhãn phủ?
- Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu nhục nhãn.
- Tu-bồ-đề , ư ý vân hà? Như Lai hữu thiên nhãn phủ?
- Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu thiên nhãn.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu tuệ nhãn phủ?
- Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu tuệ nhãn.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu pháp nhãn phủ? 
- Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu pháp nhãn.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu Phật nhãn phủ?
- Như thị Thế Tôn! Như Lai hữu Phật nhãn.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Hằng hà trung sở hữu sa, Phật thuyết thị sa phủ?
- Như thị Thế Tôn! Như Lai thuyết thị sa.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như nhất Hằng hà trung sở hữu sa, hữu như thị sa đẳng Hằng hà, thị chư Hằng hà sở hữu sa số Phật thế giới, như thị ninh vi đa phủ?
- Thậm đa Thế Tôn!
Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhĩ sở quốc độ trung, sở hữu chúng sanh, nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tâm giai vi phi tâm, thị danh vi tâm. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.

19. PHÁP GIỚI THÔNG HÓA.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Nhược hữu nhân mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí, thị nhân dĩ thị nhân duyên đắc phước đa phủ?
- Như thị Thế Tôn! Thử nhân dĩ thị nhân duyên đắc phước thậm đa.
- Tu-bồ-đề! Nhược phước đức hữu thật, Như Lai bất thuyết đắc phước đức đa, dĩ phước đức vô cố, Như Lai thuyết đắc phước đức đa.

20. LY SẮC LY TƯỚNG.
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Phật khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ? 
- Phất dã Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết cụ túc sắc thân tức phi cụ túc sắc thân, thị danh cụ túc sắc thân. 
- Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ? 
-Phất dã Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tướng cụ túc tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc.

21. PHI THUYẾT SỞ THUYẾT.
-Tu-bồ-đề! Nhữ vật vị Như lai tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố. Tu-bồ-đề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp. Nhĩ thời Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: 
Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh ư vị lai thế, văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ? 
-Phật ngôn: Tu-bồ-đề! Bỉ phi chúng sanh, phi bất chúng sanh. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Chúng sanh, chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh.

22. VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vi vô sở đắc da? 
Phật ngôn: Như thị, như thị! Tu-bồ-đề! Ngã ư A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

23. TỊNH TÂM HÀNH THIỆN
Phục thứ Tu-bồ-đề! Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả tu nhất thiết thiện pháp tắc đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.

24. PHƯỚCTRÍ VÔ TỈ.
Tu-bồ-đề! Nhược tam thiên đại thiên thế giới trung sở hữu chư Tu-di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhân trì dụng bố thí. Nhược nhân dĩ thử Bát-nhã ba-la-mật kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trìđộc tụng, vị tha nhân thuyết, ư tiền phước đức bách phần bất cập nhất, bách thiên vạn ức phần nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập.

25. HÓA VÔ SỞ HÓA.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Nhữ đẳng vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương độ chúng sanh. Tu-bồ-đề! Mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Thật vô hữu chúng sanh Như Lai độ giả. Nhược hữu chúng sanh Như Lai độ giả, Như Lai tắc hữu ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Tu-bồ-đề! Như Lai thuyết hữu ngã giả tắc phi hữu ngã, nhi phàm phu chi nhân dĩ vi hữu ngã. Tu-bồ-đề! Phàm phu giả, Như Lai thuyết tắc phi phàm phu, thị danh phàm phu.

26. PHÁP THÂN PHI TƯỚNG.
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Như thị, như thị! Dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai. Phật ngôn: Tu-bồ-đề! Nhược dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai giả, Chuyển Luân Thánh Vương tắc thị Như Lai. Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai. Nhĩthời Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược dĩ sắc kiến ngã, 
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo, 
Bất năng kiến Như Lai.

27. VÔ ÐOẠN, VÔ DIỆT.
Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, thuyết chư pháp đoạn diệt, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng.

28. BẤT THỌ, BẤT THAM.
Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát dĩ mãn Hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo trì dụng bố thí, nhược phục hữu nhân tri nhất thiết pháp vô ngã, đắc thành ư nhẫn. Thử Bồ-tát thắng tiền Bồ-tát sở đắc công đức. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Dĩ chư Bồ-tát bất thọ phước đức cố. Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Vân hà Bồ-tát bất thọ phước đức?
- Tu-bồ-đề! Bồ-tát sở tác phước đức bất ưng tham trước, thị cố thuyết bất thọ phước đức.

29. UY NGHI TỊCH TĨNH.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhân ngôn: Như Lai nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhân bất giải ngã sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? Như Lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai.

30. NHẤT HIỆP TƯỚNG LÝ.
- Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân dĩ tam thiên đại thiên thế giới toái vi vi trần, ư ý vân hà? Thị vi trần chúng ninh vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn:Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Nhược thị vi trần chúng thật hữu giả, Phật tắc bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? Phật thuyết vi trần chúng tắc phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới tắc phi thế giới, thị danh thế giới. Hà dĩ cố? Nhược thế giới thật hữu giả, tắc thị nhất hiệp tướng. Như Lai thuyết nhất hiệp tướng tắc phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất hiệp tướng. 
- Tu-bồ-đề! Nhất hiệp tướng giả tắc thị bất khả thuyết, đản phàm phu chi nhân tham trước kỳ sự.

31. TRI KIẾN BẤT SANH.
-Tu-bồ-đề! Nhược nhân ngôn: Phật thuyết ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Thị nhân giải ngã sở thuyết nghĩa phủ? 
-Phất dã Thế Tôn! Thị nhân bất giải Như Lai sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố, Thế Tôn thuyết ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức phi ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến thị danh ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. 
-Tu-bồ-đề! Phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, ư nhất thiết pháp ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng. Tu-bồ-đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng.

32. ỨNG HÓA PHI CHÂN.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhân dĩ mãn vô lượng a-tăng-kỳ thế giới thất bảo, trì dụng bố thí; nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát bồ-đề tâm giả, trì ư thử kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì độc tụng, vị nhân diễn thuyết, kỳ phước thắng bỉ. Vân hà vị nhân diễn thuyết? Bất thủ ư tướng, như như bất động. Hà dĩ cố?
Nhất thiết hữu vi pháp, 
Như mộng, huyễn, bào, ảnh, 
Như lộ diệc như điện, 
Ưng tác như thị quán.
Phật thuyết thị kinh dĩ, trưởng lão Tu-bồ-đề cập chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nhất thiết thế gian thiên, nhân, a-tu-la văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh
Nam-Mô Kim Cang Bát-Nhã Hội-Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)

BÁT NHÃ VÔ TẬN CHƠN NGÔN:
Nẳng mồ bạt dà phạt đế, bát rị nhã, Ba la mật đa duệ đát điệt tha. Án, hộc rĩ địa rị thất rị, thú rô thú rô tri, tam mật lật tri, Phật xả duệ tá ha.

KIM CANG TÂM CHƠN NGÔN:
Án, ô luân ni, ta bà ha.

BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN:
Nam mô hát ra đát na đa ra dạ da, khê ra khê ra, cu trụ cu trụ ma ra ma ra, hổ ra hồng, hạ hạ tô đát noa hồng. Bát mạt noa, ta bà ha.

PHỔ HỒI HƯỚNG CHƠN NGÔN:
Án, ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng, tát cót ra, ma ha chước ca ra hồng.

KIM CANG BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN:
Án, hô lô hô lô, xả duệ mục khế, tá ha.

Nhứt hồi hướng: chơn như thiệt tế, tâm tâm khế hiệp.
Nhị hồi hướng: Vô thượng Phật quả Bồ đề, niệm niệm viên mãn.
Tam hồi hướng: pháp giới nhứt thiết chúng sanh, đồng sanh Tịnh độ.

TÁN:
Kim cang công đức,
Diệu lý nan lường,
Như Lai vị chúng quảng tuyên dương,
Thọ thí ngộ chơn thường,
Dĩ chư hoa hương,
Phổ tán Pháp trung vương.
Nam mô Kỳ viên Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần) Ma ha tát

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thinh hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô đẳng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thế khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha. (3 lần) 

SÁM NGÃ NIỆM
Ngã niệm tự tùng vô lượng kiếp,
Thất viên-minh tánh tác trần lao
Xuất sanh nhập tử thọ luân hồi,
Di trạng thù hình tao khổ sở.
Túc tư thiểu thiện sanh nhơn đạo,
Hoạch ngộ di phong đắc xuất gia,
Phi truy, tước phát loại Sa-môn,
Hủy giới phá trai đa quá hoạn,
Hoại sanh vật hại vô từ niệm,
Ðạm nhục san huân dưỡng uế xu,
Chúng nhơn tài thực tứ xâm mãn,
Tam-bảo tư duyên đa hổ dụng,
Tà mạng ác cầu vô yếm-túc
Ðam dâm thị tửu dũ hoang mê,
Mạn Phật, khinh Tăng, báng Ðại-thừa,
Bội nghĩa vô thân hủy sư-trưởng,
Văn quá sức phi dương kỷ đức,
Hạnh tai lạc họa yểm tha năng,
Hư cuống khi vưu cạnh lợi danh
Ðấu cấu thị phi tranh nhơn ngã,
Ác niệm tà tư vô tạm tức,
Kinh phù trạo tán vị thường đình,
Truy phàm nhơn sự dũ tinh chuyên,
Trì tụng Phật kinh duy khốn-khổ,
Ngoại hiện oai-nghi tăng siểm trá,
Nội hoài ngã mạn cánh sơ-cuồng,
Lại đọa huân tu tứ thùy manh,
Xan tật, tham lam vô úy sỉ,
Dã điền uế bổn tương hà dụng,
Ðại hải phù thi bất cửu đình.
Kí vô nhứt niệm khả tư thân,
Tất đọa tam đồ anh chúng khổ,
Ngưỡng nguyện Bổn-Sư Vô-Lượng-Thọ
Quán-Âm, Thế-Chí, thánh hiền tăng
Ðồng triển oai quan phổ chiếu lâm,
Cộng tứ minh gia hàm cứu bạt,
Vô thỉ kim sanh chư tội chướng,
Lục-căn tam-nghiệp chúng khiên vưu,
Nhứt niệm viên quang tội tánh không,
Ðẳng đồng pháp-giới hàm thanh-tịnh.

SÁM ÐẠO TRÀNG
Nguyện Tam Bảo từ bi chứng giám
Chốn Ðạo tràng lễ sám thành tâm
Chúng con mê muội lỗi lầm
Nghiệp dày phước mỏng vô tâm hững hờ
Nay tỉnh ngộ thờ ơ đâu lẽ
Nguyện Bồ đề con sẽ nêu cao
Ba thừa cửa pháp thẳng mau
Nhứt tâm viên tịch lẽ nào chẳng thông
Chúng con nguyện gia công cố gắng
Ðường phước duyên sốt sắng tuần hành
Bao nhiêu diệu pháp thơm thanh
Vô vị tịnh lạc đấu tranh vắn dài
Chí thành khẩn, hôm mai giồi luyện
Chơn tinh thần, tỏ hiện càng xinh
Làu làu bổn nguyện công trình
Chúng sanh nên Phật oai linh rạng ngời
Ngôi Tam Bảo khắp nơi truyền bá
Giòng Thích Ca một dạ kiên tâm
Ðưa nhau thoát khỏi mê tân
Mười phương chư Phật ơn thâm diệu huyền
Bồ đề, Tịch diệt, Phổ-Hiền
Chứng ngôi bất thối cần chuyên tu hành
Nguyện đồng về cõi lạc thành
Tây Phương cửu phẩm vãng sanh sen vàng
Về nơi Tịnh độ đạo tràng
Di Đà thọ ký Lạc bang mau về

SÁM TÒNG LÂM
Trước Tam Bảo cúi đầu khẩn nguyện,
Mộng Tòng lâm nung luyện mơ màng,
Chúng con trì giới tịnh an,
Nương nhờ công đức đạo tràng chỉnh tu.
Khắp một vòng ngao du cõi Thánh,
Nét đơn thành như sách như in,
Tòng lâm cảnh giới đẹp xinh,
Hợp nhau một cõi lung linh nhiệm mầu.
Giọng thanh âm mấy câu vận chuyển,
Tiếng chuông vàng như nguyện như thâu,
Ðưa người vượt cảnh ruộng sâu,
Thẳng lên bờ giác qua cầu tịnh thanh.
Mong ơn Phật lòng lành tiếp độ,
Khiến lòng con giác ngộ uyên thâm,
Rừng thiền danh mộc muôn năm,
Cội to, rừng rũ, bóng thâm đượm nhuần.
Hoa trái nọ tượng trưng nhơn quả,
Nghiệp duyên kia vay trả không lường,
Tòng Lâm một cảnh chủ trương,
Nhân tài lão luyện cùng đường thanh tu.
Theo thứ bậc, cần cù luân chuyển,
Thẳng qua đò tiến triển nhiều năm,
Lần lên cảnh giới thậm thâm,
Chúng con một dạ một tâm chí thành.
Dầu bao độ biến sanh nhơn vọng,
Mầm Bồ đề hạt giống còn tươi,
Vẹn tròn đạo quả mấy mươi,
Chúng con hết nghiệp, vẻ người thảnh thơi.
Lành thay chí cả độ đời,
Nguyện mười phương Phật chứng lời con thơ.

SÁM BỒ ÐỀ
Lòng thành khẩn phát nguyền chơn thật
Trước hồng danh chư Phật mười phương
Chúng con trai giới chủ trương
Bồ đề đạo cả chí thường rộng tu
Lời đại thệ chẳng lu chơn tánh
Noi theo đường chơn chánh Như Lai
Sáu năm khổ hạnh đâu nài
Công lao chưa mở bốn loài chưa an
Thoạt đứng dậy hiên ngang tuyên thệ
Cội Bồ đề nương thể kim cang
Nếu không chứng ngộ rõ ràng
Ðời ta vững quyết gan vàng luyện trau
Chờ đến lúc làu làu tỏ rạng
Noi lòng ta vô hạn vô biên
Bao nhiêu phước huệ hiện tiền
Bấy giờ tâm thể mới yên một đường
Ngôi không vương, chơn thường vắng lặng
Ấy pháp mầu không thặng truyền ban
Chúng con chướng nghiệp mênh mang
Mong nhờ Phật lực, Pháp tràng độ con
Nguyện Bồ đề lòng son tươi thắm
Noi theo đường xa thẳm vượt lên
Quyết tâm chí nguyện vững bền
Lập nên đạo cả vang rền thế gian
Tiếng giác ngộ muôn vàn ca ngợi
Cùng phát tâm thẳng tới Bồ đề
Chúng con một dạ đâu nề
Bao nhiêu công đức góp về lợi sanh
Nguyện chư Phật lòng thành chứng giám
Phóng hào quang ứng cảm tâm điền
Mở nguồn công đức vô biên
Ðộ cho chúng đẳng tới liền bước sang.
Nam Mô Ðẳng Giác Ðịa Bồ Tát (3 lần) Ma Ha Tát.

SÁM QUI MẠNG
Cúi đầu qui mạng mười phương Phật.
Diễn dương thanh tịnh pháp nhiệm mầu.
Ba cõi bốn ân nhờ đức ấy,
Mong đức Từ bi tiếp độ mau.
Xét chơn tánh nhiều điều sai trái,
Gây lỗi lầm chìm nổi sông mê,
Theo đàng sanh tử trôi đi,
Sắc thinh tham luyến mê si nhiễm liền.
Ðắm đuối cõi thập triền thập sử,
Tích chứa nên hữu lậu gieo nhân,
Sáu căn thúc đẩy sáu trần,
Vô cùng tội lỗi vô cùng oan khiên.
Biển khổ não ngửa nghiêng lội mãi,
Ðường gai chông bừa bãi bước đi,
Tạo nhân trước ngã tham si,
Ðã thành kẻ chẳng ra gì cong queo!
Từng sa đọa lăn theo biển nghiệp,
Hoặc thác sanh muôn kiếp oán hờn,
Nguyện cầu Tam Bảo ban ơn,
Cầu xin sám hối sạch trơn tội đời.
Lòng sở nguyện Phật trời cứu vớt,
Ý hằng mong thiện hữu đỡ nâng,
Biển sầu phiền não thoát lần,
Bến vui giác ngộ ân cần theo lên.
Khiến đời nay tu nên quả phước,
Ðể đời sau hưởng được nguyện duyên,
Nguyền xưa trí nọ vững bền,
Cùng nhau phát nguyện tới miền Tăng sinh.
Gặp thiện hữu thật tình dắt dẫn,
Ðược minh sư cẩn thận bảo ban,
Tâm thành nhứt niệm cầu xin,
Dâng lên Tam Bảo lòng tin chí thành.
Sáu căn nọ quang minh thông lợi,
Ba nghiệp kia tiến tới thuận hòa,
Thế duyên chẳng nhiễm lối tà,
Tu theo chánh pháp thoát qua não phiền.
Ðiều giới hạnh giữ gìn chẳng bỏ,
Trần hoặc kia không có lấn chen,
Oai nghi vâng giữ trang nghiêm,
Oán hờn dứt bỏ, tội khiên sạch lần.
Tám nạn nọ mau mau phủi hết,
Bốn duyên kia chẳng khuyết duyên nào,
Trí tu Bát Nhã càng cao,
Tâm Bồ Ðề chẳng khi nào thoái lui.
Theo chánh pháp miệt mài sang sửa,
Ðạo Ðại thừa biểu lộ thiện chơn,
Hạnh môn lục độ chuyên cần,
Vượt dòng kiếp hải lánh thân tam kỳ.
Dựng pháp tràng chỗ kia nơi nọ,
Phá lưới mê thoát khỏi đường mê,
Ma vương hàng phục tức thì,
Thiệu long Tam Bảo nguyền kia vẹn toàn.
Lại thừa sự muôn ngàn đức Phật,
Chẳng khi nào khó nhọc kêu rên,
Pháp môn học hết chí bền,
Thông kinh đạt kệ cố lên đến cùng.
Ðiều phước huệ những mong rộng mở,
Chốn trần sa nâng đỡ cộng đồng,
Ðược liền sáu thứ thần thông,
Tròn đầy quả Phật cùng trong kiếp này.
Rồi sanh trưởng ở nơi cõi Phật,
Dù nhọc nhằn sau trước gần xa,
Quan Âm hạnh nguyện đại từ,
Phổ Hiền nguyện hải, bây giờ làm ngay.
Dẫu nơi khác, chỗ này cũng thế,
Bóng theo hình không thể xa rời,
Sắc thân ứng hiện khắp nơi,
Hiển dương diệu pháp an vui không bì.
Nay trong cảnh Nê Lê đau khổ,
Hay trong loài ngạ quỷ khát khao,
Hào quang chiếu sáng rọi vào,
Hiện thân biến hóa trần lao diệt trừ.
Thấy tướng diện đại từ đại lực,
Nghe đến tên lập tức quy y,
Phát tâm xu hướng Bồ đề,
Luân hồi các ngả tội kia san bằng.
Cảnh lửa vạc, sông băng hãi sợ,
Kíp biến ngay thành chỗ hương lâm,
Uống đồng nuốt sắt giam cầm,
Hóa thành Tịnh độ rất gần chẳng xa.
Loài lông lá hay là sừng giốc.
Cảnh trái oan cười khóc khổ thay.
Dẹp tan hết thảy chua cay,
Mọi điều lợi lạc từ đây thấm nhuần.
Mùa tật dịch thuốc thang chạy chữa,
Bệnh trầm kha cứu độ mau lành,
Ðói thời lúa thóc xây quanh,
Bát cơm đạo lý cũng thành no lâu.
Có lợi ích, bất câu kia, khác,
Quyết hưng sùng đạo Giác Thế Tôn,
Khiến cho lụy thế oán hờn,
Coi như quyến thuộc chẳng hơn kém gì.
Cùng tứ sanh, xa lìa hoạch nghiệp,
Bỏ ái triền, vạn kiếp như không,
Hàm sanh chúng chúng một lòng,
Quy y Phật đạo dung thông mọi bề.
Cõi hư không tứ vi như một,
Ðạo như cùng nguyện được như lời,
Chúng sanh khắp thảy bốn loài,
Tu tròn phước quả, cùng vui đạo mầu.
Nguyện các nơi đồng về Tịnh độ,
Nương từ bi cứu khổ nhân sinh,
Khắp cùng pháp giới hữu tình,
Ðồng thành Phật đạo vãng sanh sen vàng.
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Chứng minh đệ tử Tây Phương muốn về

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC:
Phúng Kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu Tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc Trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ Tát Đạo
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ Cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai công thành Phật Đạo.

TAM TỰ QUY Y:
Tự Quy Y Phật
Đương nguyện chúng sanh,
thể giải Đại đạo,
Phát Vô thượng Tâm.
Tự Quy Y Pháp
Đương nguyện chúng sanh,
thâm nhập Kinh Tạng,
trí huệ như hải.
Tự Quy Y Tăng
Đương nguyện chúng sanh,
thống lý đại chúng,
nhứt thiết vô ngại.

------

Feature Post Co Thuoc

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are just exactly some cold or flu influenza) Smart Curing Therapy Treatment _ Toa Thuoc dieu tri benh Corona hieu qua nhat hien nay

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are j...

Popular post Co Thuoc: