“Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm”
Một thường lễ kính chư Phật.
Hai thường xưng tán Như lai.
Ba thường rộng tu cúng dường.
Bốn thường sám hối nghiệp chướng.
Năm thường tùy hỷ công đức.
Sáu thường thỉnh chuyển pháp luân.
Bảy thường thỉnh Phật trụ thế.
Tám thường theo Phật tu học.
Chín thường hằng thuận chúng sanh.
Mười thường đều cùng hồi hướng.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát thùy từ chứng minh gia hộ
Phổ Hiền thập nguyện gồm:
1. Nhất Ngã Lễ kính chư Phật;
2. Nhị Ngã Xưng tán Như Lai;
3. Tam Ngã Quảng tu cúng dường;
4. Tứ Ngã Sám hối nghiệp chướng;
5. Ngũ Ngã Tùy hỷ công đức;
6. Lục Ngã Thỉnh chuyển pháp luân;
7. Thất Ngã Thỉnh Phật trụ thế;
8. Bát Ngã Thường tùy Phật học;
9. Cửu Ngã Hằng thuận chúng sinh;
10.Thập Ngã Phổ giai hồi hướng.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
~~~~~~~~~~~~~~~~
Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh (Dịch)
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại quán sâu Bát Nhã,Ngài thấy rằng tất cả là không.
Năm uẩn cũng thể một giòng,
Là Không nên vượt khỏi vòng khổ đau.
Xá Lợi Tử! Pháp sâu tin chắc,
Sắc là Không, Không Sắc chẳng hai.
Này Xá Lợi Tử! nghe đây :
Bổn nguyên các pháp xưa rầy tướng không
Vì không tướng nên không sanh diệt,
Cũng chẳng tăng, chẳng thiệt mảy nào!
Chẳng nhơ, chẳng sạch tơ hào!
Ở trong Không đó, pháp nào cũng không
Đã Không Sắc lại không cả Thọ,
Tưởng, Thức, Hành lại có hay sao ?
Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi thật đâu !
Không Thân, không Ý, Dễ dầu Thức sanh
Cũng chẳng có Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp kia cũng chỉ giả thôi !
Nhãn giới đã chẳng có rồi,
Đến Ý thức giới, than ôi có gì !
Vô minh đó là chi chẳng thấy,
Lẽ Nào đâu tận thảy Vô Minh ?
Đến như Lão, Tử chẳng sanh.
Mong Lão, Tử tận, thật tình luống công
Khổ, Tập, Diệt, Đạo đồng không có,
Trí tuệ mong Được, có được chăng ?
Các hàng Bồ Tát vẫn hằng
Y theo Bát Nhã không ngăn ngại gì.
Không sợ hãi, viễn ly điên đảo,
Xa lìa mộng tưởng, đáo Niết Bàn.
Ba đời chư Phật thường làm,
Y theo Bát Nhã nhập hàng Thánh Nhân
Ba la mật thường chân Đẳng Giác,
Ngồi toà sen Diệu Giác Bồ Đề
Thế nên chú Bát Nhã kia,
Là đại thần chú đưa về nguồn chân,
Là đại minh oai thần vô thượng
Là chú thần diệt chướng vô song.
Hay trừ hết thảy Khổ, Không
Phải nên tin chắc, xoá lòng hoài nghi.
Nên như vậy tức thì nói chú :
Yết đế ! yết đế ! ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề, ta bà ha! (3 lần)
~~~~~~~~~~~~~~~~
TÂM KINH BÁT NHÃ
DỊCH NGHĨABồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Bát Nhã Tâm Kinh
Phan Khắc Nhượng dịch thơQuán âm Bồ tát hải hà,
Thực hành Bát nhã Ba la mật thời:
Ngài dùng trí tuệ quán soi,
Thấy rằng năm uẩn ba đời đều không.
Vượt qua khổ não mịt mùng,
Nghe đây Xá Lợi Phất, ông nhớ là:
Sắc kia chẳng khác không mà,
Không nào khác sắc, sắc là không đây.
Thọ tưởng hành thức cũng vầy,
Tướng không muôn pháp xưa nay chớ lầm.
Chẳng sanh chẳng diệt thường năng,
Chẳng nhơ chẳng sạch chẳng tăng giảm gì.
Trong không mảy sắc không hề,
Thọ hành tưởng thức mọi bề đều không.
Mắt tai mũi lưỡi ý thân,
Sắc hương vị xúc pháp thanh không thì:
Sáu căn thấy biết thật chi,
Không vô minh dứt, không gì vô minh.
Tử sinh với dứt tử sinh,
Cùng là bốn đế thực tình đều không.
Trí tuệ chứng đắc chẳng hòng,
Còn gì chỗ đắc bận lòng nữa đâu.
Nương vào Bát nhã bấy lâu,
Biết bao Bồ tát đi sâu thực hành.
Dẹp tan chướng ngại quanh mình,
Mọi điều chẳng khiến hoảng kinh, não phiền.
Xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Niết bàn rốt ráo an nhiên tỏ tường.
Ba la mật, trí diệu thường,
Ba đời chư Phật mượn đường nương qua.
Bồ đề tột đỉnh chứng ra,
Nên coi Bát nhã Ba la mật là:
Là lời thần chú sâu xa,
Là lời thần chú thật là quang minh.
Là lời thần chú anh linh,
Là lời thần chú thực tình cao siêu.
Diệt trừ khổ não trăm chiều,
Muôn đời chân thật chẳng điều chi sai.
Ngài liền tuyên đọc chú này,
Để người trì niệm sáng bày chân tâm.
Ga tê ga tê pa ra ga tê
Pa ra sam ga tê bu đi sva ha
(Đi đi đừng có băn khoăn,
Bờ kia bến giác đã gần đến nơi.
Các ngài Bồ tát chớ rời,
Bờ kia bến giác sắp rồi, đi đi!)
~~~~~~~~~~~~~~~~
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA:
Khi ngài Quán Tự Tại Bồ Tát,Thực hành sâu về Bát nhã xong;
Thấy rằng năm uẩn đều không,
Vượt qua ách nạn, ngoài vòng khổ đau.
Xá Lợi Tử! Không nào khác Sắc,
Tự Sắc này, nào khác với Không;
Không là Sắc, Sắc là Không,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đồng đều Không.
Xá Lợi Tử! Tướng Không các pháp,
Không giảm, tăng, dơ, sạch, diệt, sanh;
Nên trong Không đó, Trọn lành,
Không Sắc, Thọ, Tưởng, Thức, Hành, mảy may.
Không Mũi, Lưỡi, Mắt, Tai, Thân, Ý,
Sắc, Thinh, Hương, Xúc, Vị, Pháp không;
Hoàn toàn Nhãn giới là Không,
Đến Ý thức giới cũng không tướng hình.
Vốn không có Vô minh, Già chết,
Cũng không hết Già chết, Vô minh,
Khổ, Tập, Diệt, Đạo Vô sinh,
Đó là sự thật, tướng hình đều không.
Không có Trí, cũng không có Đắc,
Vì vốn Không sở đắc điều chi;
Khi vì Bồ Tát hành y,
Đối cùng Bát nhã toàn tri thế này!
Tự Tâm chẳng trong, ngoài, chướng, ngại,
Vì vốn không chướng, ngại nơi Tâm;
Nên không sợ hãi, mê lầm,
Xa lìa mộng tưởng, Niết bàn an vui.
Các vị Phật ba đời thế cả,
Đã hành y Bát nhã Ma ha;
Viên thành tựu quả Phật đà,
Tức Vô thượng giác Ngộ qua, hoàn toàn.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã,
Thật khó mà diễn tả, nghĩ bàn;
Vốn là loại Chú Đại Thần,
Là Đại Minh Chú, toàn chân, nhiệm mầu.
Là Vô thượng Chú, cao tột bậc,
Khổ toàn trừ, chân thật không ngoa;
Nói về Bát nhã Ma ha,
Tức là phải nói rõ ra Chú này:
Ngộ qua, ngộ qua, Ngộ qua bờ kia;
Ngộ qua hoàn toàn, Trọn lành giác ngộ.
<Vọng Tâm chuyển ngữ.>
-ooOoo-
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA:
Bản dịch nghĩa:Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
(Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)
-ooOoo-
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA:
Bản phổ thơ:(Thích Nhất Hạnh)
Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức Diệu Pháp Trí Ðộ)
Bổng soi thấy năm uẩn
Ðều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương Diệu Pháp Trí Ðộ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lià mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Ðạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Bụt trong ba đời
Y Diệu Pháp Trí Ðộ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Ðộ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, Yết đế
Ba la Yết đế
Ba la Tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha
~~~~~~~~~~~~~~~~
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Kinh Trí tuệ cứu Kính rộng lớn
Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.Này Xá Lợi Phất, Sắc chẳng khác không, không chẳng khác Sắc, Sắc tức là không, không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như thế.
Này Xá Lợi Phất, tướng Không của các pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Cho nên trong tướng Không
Không có sắc; không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức;
Không có Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý;
Không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp;
Không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới;
Không có vô minh, cũng không có hết vô minh;
Cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết.
Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo;
Không có Trí tuệ, cũng không có Chứng Đắc,
Vì có chỗ không được nên Bồ Tát y Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, tâm không ngăn ngại.
Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.
Chư Phật ba đời đều y theo Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa được đạo quả Vô thượng, Chính Đẳng, Chính Giác.
Nên biết Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối.
Vì vậy nói Chú Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, liền nói Chú rằng:
"Yết Đế, Yết Đế, Ba la Yết Đế, Ba la tăng Yết Đế, Bồ Đề tát Bà Ha" (3 lần)
Bản dịch Việt ngữ của Thi Vũ
-ooOoo-
KINH CHÂN TUỆ GIÁC SIÊU VIỆT
Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Siêu việt, Kẻ Tỉnh thức Quán khổ Trừ nguy nhận chân ra năm hợp thể và thấy suốt tự tánh Không của chúng, liền độ thoát mọi khổ ách."Này người con dòng Sari, hình thể là chân không, chân không là hình thể. Chân không chẳng khác hình thể, hình thể chẳng khác chân không. Mọi hình thể đều chân không, mọi chân không đều hình thể. Cảm xúc, nhận thức, tạo ứng hay ý thức đều như thế cả.
Này người con dòng Sari, mọi hiển tướng đều mang tự tánh Không. Mọi hiển tướng đều không sinh không diệt, không dơ không sạch, không hề thêm cũng chẳng hề bớt.
Bởi lẽ đó, này người con dòng Sari, trong chân không không có hình thể, không có cảm xúc, không có nhận thức, không có tạo ứng, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình, tiếng, mùi, vị, sờ chạm, hiển tướng; không có đối tượng của mắt, suốt đến đối tượng của ý thức cũng không; không có vô minh, không có chấm dứt vô minh, cho đến không có già, chết, cũng không có hết già, chết; không có khổ, không có nguyên nhân của khổ, không có giải thoát, không có con đường giải thoát; không có trí giác, không có tựu thành, vì chẳng có quả vị gì để thành tựu.
Bởi thế, này người con dòng Sari, nhờ an nhiên bất động với mọi thành quả cá nhân, Kẻ Tỉnh thức nương vào Tuệ giác Siêu việt thoát ly các niệm tưởng. Nhờ ly niệm nên không còn sợ hãi, thắng lướt mọi ảo vọng, và hóa hiện tính an như. Các đấng giác ngộ trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều nương theo Tuệ giác Siêu việt mà phát hiện Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Cho nên, phải biết rằng Tuệ giác Siêu việt là linh ngữ kỳ vĩ, linh ngữ của huệ trí, linh ngữ tối hậu vô song, mang khả năng lay đổ mọi nghịch cảnh khổ đau. Linh ngữ thoắt sinh từ Tuệ giác Siêu việt này là sự thật, không mảy may dối trá. Câu linh ngữ có khả năng giải phóng đó là: "Độ, độ, siêu suốt mình và độ thoát mọi sinh dân. Giải thoát! Tất thảy cùng về an nhiên nơi chốn."
//////////////////////////////////////////
Bản phổ thơ Anh ngữ:
(cung cấp bởi: Laurence Cox - lcox@alf2.tcd.ie , Trinity College, Dublin, Ireland)
THE HEART SUTRA
The Bodhisattva of Compassion,
when he meditated deeply,
saw the emptiness of all five skandhas
and sundered the bonds that caused him suffering.
Here then,
form is no other than emptiness,
emptiness no other than form.
Form is only emptiness,
emptiness only form.
Feeling, thought and choice,
consciousness itself,
are the same as this.
All things are the primal void,
which is not born or destroyed,
nor is it stained or pure,
nor does it wax or wane.
So, in emptiness, no form,
no feeling, thought or choice,
nor is there consciousness.
No eye, ear, nose, tongue, body, mind.
No colour, sound, smell,
taste, touch or what the mind takes hold of,
nor even act of sensing.
No ignorance nor all that comes of it,
no withering, no death,
no end of them.
Nor is there pain, or cause of pain,
or cease in pain,
or noble path to lead from pain,
nor even wisdom to attain.
Attainment too is emptiness!
So know that the Bodhisattva,
holding to nothing whatever
but dwelling in prajna wisdom,
is freed from delusive hindrance,
rid of the fears bred by it,
and reaches clearest Nirvana.
All Buddhas of past and present,
Buddhas of future time,
Using this prajna wisdom
Attain full and perfect enlightenment.
Hear then the great dharani,
the radiant peerless mantra,
the prajnaparamita
whose words allay all pain,
hear and believe its truth!
Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha
-ooOoo-
Bản dịch Anh ngữ:
(cung cấp bởi: Raja Hornstein, devaraja@well.com )
GREAT WISDOM BEYOND WISDOM HEART SUTRA
Avalokiteshvara Bodhisattva, when practicing deeply the Prajna Paramita, perceived that all five skandhas in their own being are empty and was saved from all suffering.
O Shariputra, form does not differ from emptiness; emptiness does not differ from form. That which is form is emptiness; that which is emptiness form. The same is true of feelings, perceptions, formations, consciousness.
O Shariputra, all dharmas are marked with emptiness. they do not appear nor disappear, are not tainted nor pure, do not increase nor decrease. Therefore in emptiness: no form, no feelings, no perceptions, no formations, no consciousness; no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind; no color, no sound, no smell, no taste, no touch, no object of mind; no realm of eyes...until no realm of mind-consciousness; no ignorance and also no extinction of it...until no old-age and death and also no extinction of it; no suffering, no origination, no stopping, no path, no cognition, also no attainment with nothing to attain.
A bodhisattva depends on Prajna Paramita and the mind is no hindrance. Without any hindrance no fears exist. Far apart from every perverted view one dwells in nirvana. In the three worlds all buddhas depend on Prajna Paramita and attain unsurpassed complete perfect enlightenment. Therefore, know the Prajna Paramita is the great transcendent mantra, is the great bright mantra, is the utmost mantra, is the supreme mantra which is able to relieve all suffering and is true not false; so proclaim the Prajna Paramita mantra, proclaim the mantra that says:
Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha
-ooOoo-
Bản dịch Anh ngữ:
(Trúc Huy, truc_huy@yahoo.com, tháng 10-1999)
Heart of Perfect Wisdom
The Bodhisattva Avalokitesvara, from the deep course of Prajna wisdom, saw clearly that all five skandhas were empty and sundered all bonds of suffering.
Sariputra, know then: form does not differ from emptiness, nor does emptiness differ from form. Form is no other than emptiness, emptiness no other than form. The same is true of feelings, perceptions, impulses and consciousness.
Sariputra, all dharmas are marked with emptiness. None are born or die, nor are they defiled or immaculate, nor do they wax or wane. Therefore, where there is emptiness, there is no form, no feeling, no perception, no impulse, nor is there consciousness. No eye, ear, nose, tongue, body, or mind. No color, sound, smell, taste, touch, or object of mind. There is no domain of sight nor even domain of mind consciousness. There is no ignorance nor is there ceasing of ignorance. There is no withering, no death, nor is there ceasing of withering and death. There is no suffering, or cause of suffering, or cease in suffering, or path to lead from suffering. There is no cognition, nor even attainment.
So know that the Bodhisattva, indifferent to any kind of attainment whatsoever but dwelling in Prajna wisdom, is freed of any thought covering, get rid of the fear bred by it, has overcome what can upset and in the end reaches utmost Nirvana. All Buddhas of past and present, and Buddhas of future time, through faith in Prajna wisdom, come to full and perfect Enlightenment.
Therefore, one should know the Prajna paramita as the mantra of great knowledge, the miraculous, the utmost, the unequalled mantra, whose words relieve all suffering. This is highest wisdom, true beyond all doubt.
Know then and proclaim the Prajna paramita mantra. It spells like this:
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
(Gone, gone, gone beyond, gone altogether beyond, Bodhi, rejoice!)
(English translation: Trúc Huy)
-ooOoo-
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA:
Bản dịch Pháp ngữ:(Trúc Huy, truc_huy@yahoo.com, tháng 10-1999)
Le Sutra de l'Esprit de la Grande Vertu de Sagesse
Lorsque le Bodhisattva Avalokitesvara accomplit profondément la grande Vertu de Sagesse, il considéra les cinq agrégats comme vides et traversa ainsi toutes les souffrances et afflictions.
Sariputra, les formes ne sont pas différentes du vide. Le vide n'est pas différent des formes. Les formes ne sont rien d'autre que le vide. Le vide n'est rien d'autre que les formes. Il en est de même des sensations, des perceptions, des formations mentales et de la conscience.
Sariputra, tous ces dharma ont l'aspect du vide. Ils ne naissent ni ne disparaissent. Ils ne sont ni souillés ni purs. Ils ne croissent ni ne décroissent. C'est pourquoi, dans le vide, il n'y a pas de forme, de sensation, de perception, de formation mentale ni de conscience. Il n'y a pas d'oeil, d'oreille, de nez, de langue, de corps ni de mental. Il n'y a pas de couleur, de son, d'odeur, de saveur, de toucher ni d'objet de pensée. Il n'y a pas de domaine du visuel et pour finir pas de domaine de la connaissance mentale. Il n'y a pas d'ignorance et pas plus de cessation de l'ignorance. Pour finir, il n'y a pas de vieillesse ni de mort, et pas plus de cessation de la vieillesse ni de la mort. Il n'y a pas de souffrance, d'origine, de cessation ni de chemin. Il n'y a pas de connaissance ni même d'obtention.
Comme il n'y a rien à obtenir, c'est pourquoi les Bodhisattva s'appuient sur la vertu de sagesse. Leur esprit ne conna? pas d'entrave, ainsi ils n'ont pas de peur. En se libérant des erreurs et des égarements, ils atteignent enfin l'ultime Nirvana. Tous les Bouddhas du passé, du présent et du futur, en s'appuyant sur la vertu de sagesse, ont obtenu le suprême et parfait Éveil.
Aussi professe-t-on la vertu de sagesse. Par un grand mantra miraculeux, par un mantra de grande connaissance, par un mantra insurpassable, par un mantra sans égal. Il supprime toute souffrance, en vérité et sans fausseté.
Voilà donc le mantra qui proclame la grande Vertu de Sagesse. Ce mantra dit:
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
(Allez, allez, allez au-delà, allez complètement au-delà, sur la rive du Satori!)
(Traduction francaise: Trúc Huy)
~~~~~~~~~~~~~~~~
KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ Tát Quán Tự TạiKhi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức diệu pháp Trí Độ)
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
“Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
“Xá Lợi Tử, nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt.
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương
Vị, súc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
(Từ nhãn đến ý thức)
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
“Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt niết bàn tuyệt đối.
Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác.
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú tối thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
GATE GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE, BODHISVAHA.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Ma ha Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh:
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề Tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu Đa la tam miệu tam Bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.”
~~~~~~~~~~~~~~~~
Phật, khắp đất trời chẳng ai bằng
Mười phương thế giới cũng như thế
Tất cả thế gian con đều thấy
Hết thảy không ai bằng được Phật.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Phật A-di-đà thân sắc vàng
Tướng tốt sáng ngời chẳng gì bằng
Năm Tu-di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Ngũ Thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi nước Phật
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát tâm bồ-đề
Hết một báo thân này
Đồng sinh nước Cực Lạc.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
~~~~~~~~~~~~~~~~~~