Sunday, March 22, 2020

Mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong “Luận Ngữ” của Khổng Tử




Hello everyone!

Welcome to our webpage

Translate this page in your preferred language:

You can translate the content of this page by selecting a language in the select box (The translation is not very exaclty because of the automatic machine limitation).


Mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong “Luận Ngữ” của Khổng Tử

Mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong “Luận Ngữ” của Khổng Tử


Mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong “Luận Ngữ” của Khổng Tử.


Bốn tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Nho giáo mà bất kỳ người nào nghiên cứu học thuyết này cũng đều biết đến là Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử, được nhà triết học nổi tiếng đời Tống là Chu Hy (1130 - 1200) sắp xếp, kế thừa cách chú giải của các nhà tư tưởng Tống Nho đi trước, cũng như chú giải của chính ông thành bộ sách có tên chung là Tứ thư tập chú, trong đó Luận ngữ được xem là một trong những tác phẩm khởi đầu quan trọng cho một nền Nho học Trung Hoa do Khổng Tử sáng lập. Đây là cuốn sách đề cập đến các vấn đề của triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức... Có thể nói, những tinh tuý được rút ra từ những vấn đề đó nhằm mục đích xây dựng con người toàn thiện, toàn mỹ cho một xã hội phong kiến lý tưởng theo học thuyết của Không Tử. Trong bài viết này, từ bình diện triết học, chúng tôi muốn làm rõ mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong Luận ngữ của Khổng Tử.

Để làm rõ mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong học thuyết Khổng Tử, chúng ta cần phải lý giải tại sao ông lại chọn đối tượng quan tâm trong học thuyết của mình là con người và các quan hệ của con người. Song, trong khuôn khổ của một bài viết, chúng tôi không thể thực hiện được điều đó mà chỉ muốn nói rằng, bất kỳ ai khi nghiên cứu học thuyết của Khổng Tử cũng đều thống nhất ở điểm cho rằng, đứng trước một xã hội đang phải hứng chịu sự suy thoái về đạo đức của con người (cái mà Trời phú cho con người khi con người xuất hiện và được đặt nó vào vị trí trung tâm của Vũ trụ), xác định đối tượng quan tâm của mình ở trần thế, Khổng Tử muốn làm cho con người thấy được chính bản thân mình, thấy được sự băng hoại về bản tính đạo đức (tính bản thiện) vốn giống nhau khi nó mới được sinh ra nhưng cũng ngay lập tức bị phân hoá, đồng thời dạy cho con người biết cái căn bản nhất của nó là Nhân tính. Chính vì vậy mà ông không đề cập, hay nói đúng hơn là cố ý tránh đề cập đến những vẫn đề sống - chết, mà chỉ chú ý đến bậc trí giả, đó là người biết "chuyên vào việc nghĩa để giúp dân, kính trọng quỷ thần nhưng tránh xa" (Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi - Luận ngữ, VI, 20).

Khổng Tử cũng không thích nói về những điều kỳ diệu, về sự hiện diện của thần thánh. Điều này chúng ta có thể biết được qua cuộc đối thoại giữa Quý Lộ và Khổng Tử. Quý Lộ hỏi về việc thờ quỷ thần, Khổng Tử nói rằng: "Thờ người còn chưa nổi, làm sao thờ được ma?". Thưa: Dám hỏi về sự chết. Khổng Tử nói: "Sống còn chưa biết rõ, làm sao biết được sự chết?" (Quý Lộ vấn sự quỷ thần. Tử viết: "Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ”? Viết: "Cảm vẫn tử”. Viết: "Vị tri sinh, yên tri tử?” Luận ngữ, XI, 11). Tuy nhiên, để giữ gìn trật tự xã hội nói riêng, Vũ trụ nói chung, Khổng Tử không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần. Ông kêu gọi phải kính tổ tiên và biết trọng quỷ thần: "Tế tổ tiên coi như tổ tiên đang có mặt, tế thần coi như thần đang có mặt" (Tế như tại, tế thần như thần tại - Luận ngữ, III, 12).

Qua đó, chúng ta thấy, Khổng Tử hạn chế nhiệm vụ của mình ở việc phục vụ mọi người, quan tâm đến công việc quốc gia, nhưng ông vẫn cho rằng, cuộc sống của mọi người, của dân tộc lại phụ thuộc vào đường lối lãnh đạo đúng đắn hay sai lầm của thiên tử và hệ thống quan lại. Đường lối đó là Đạo Khác với quan niệm của Lão Tử - "Đạo khả đạo, phi thường đạo", đạo mà Khổng Tử đưa ra là đạo của thế giới hiện tượng, là cái cần được nắm bắt để áp dụng vào việc trị nước. Đạo đó có nhiệm vụ uốn nắn những người có nhận thức sai lầm, "cong vậy" thành ngay thẳng. Khi con người trở nên chân thành, ngay thẳng thì mọi quan hệ đều trở nên tất đẹp, bởi vì bản thân con người là linh hồn, là trung tâm của vạn vật trong trời đất.

Vậy ai là người có thể thực hiện sứ mệnh nói trên trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa? Trước hết, chúng ta đọc được trong Đạo đức kinh của Lão Tử: "Đạo lớn... nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là "không", vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi (vô hình), muôn vật quy về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó" . Người nắm được đạo cao và có đức cả là Thánh nhân (Đạo nhân). Đó là người "biết hoà thì gọi là bất biến (thường), biết bất biến thì gọi là sáng". Còn Khổng Tử thì lại thấy mẫu người (Đức cả) đó là người nắm được đạo Trung, họ thật hiếm trong dân chúng thời bấy giờ: "Trung dung quả là một đức tính, rất mực tất đẹp? Đã lâu dân chúng không theo nổi" (Trung dung chi đức dã, kỳ chí dĩ hồ! Dân tiễn cữu hĩ - Luận ngữ, VI, 27).

Trong Kinh Dịch đã có khái niệm con người toàn thiện hay thiện nhân. Đó là người biết theo đạo trung chính, biết giá trị của hạng cao sĩ. Thế nhưng, Dịch không bỏ qua mẫu người đối lập với con người hoàn thiện như hai thế lực tự nhiên âm và dương. Đó là sự đối lập giữa quân tử và tiểu nhân. Nguyễn Hiến Lê đã nhận định một cách đúng đắn rằng, "Dịch muốn đào tạo hạng người quân tử, khuyến khích tiểu nhân cải tà quy chính (quẻ Bác): "Dịch vị quân tử mưu” là nghĩa vậy, cho nên tôi cho đạo Dịch là: đạo của người quân tử". Nếu ngay từ đầu, tiểu nhân và quân tử là hai hạng người đối lập nhau và sự đối lập đó là hoàn toàn mang tính tự nhiên thì làm thế nào để tiểu nhân cải tà quy chính được? Khổng Tử là người đã khắc phục vấn đề đó bằng cách vượt khỏi lập luận của Dịch về sự hình thành hai thế lực đối lập. Nhìn thẳng vào cuộc sống xã hội hiện thực, ông đã khẳng định rằng, "Bản tính người ta gần giống nhau, thói quen khiến xa nhau" (Tính tương cận dã, tập tương viễn dã - Luận ngữ, XII, 2). Nghĩa là, nếu "giáo dục" con người, có thể uốn nắn đạo đức của họ, tẩy đi những tham dục nảy sinh trong cuộc sống của họ, đưa họ về với bản tính (thiện) ban đầu và nâng cao phẩm hạnh của họ bằng "ngũ thường”. Tuy nhiên, với kẻ tiểu nhân thì sự "giáo dục" đó chỉ có hiệu quả khi phát hiện kịp thời sự suy thoái đạo đức "bởi thói quen" của nó và khi sự suy thoái đó chưa đến mức tột cùng của sự hèn hạ. Khổng Tử nói rằng: "Chỉ có hạng thượng trí và hạng trí ngu là không thay đổi (tính tình)" (Duy thượng trí dữ hạ trí ngu bất di Luận ngữ, XVII, 3). Hạng thượng trí ở đây chi thánh nhân, đó là những người nắm được quy luật của trời đất (Cửu trù) để làm ra các phép tắc dạy người. Bậc thấp hơn là quân tử, tức là người giữ đúng phép tắc trong hành xử của mình. Bậc cuối cùng trong sự phân hạng người là tiểu nhân, tức là những kẻ mà trong cuộc sống, bất chấp mọi giá trị đạo đức, sẵn sàng làm bất cử điều gì, miễn là có lợi cho họ.

Mọi điều hay lẽ phải trong phép ứng xử đạo đức đã được các thánh nhân đời xưa vạch ra. Khổng Tử chỉ là người thuật lại và mong muốn học thuyết của mình có người thực hiện. Người đó chính là bậc quân tử, hay còn gọi là con người toàn thiện. Chữ "quân" trong cụm từ “quân tử” thường dùng để chỉ người đàn ông đạo đức, người toàn thiện hoặc "siêu nhân". Ngoài ra, chữ "quân" đó còn đùng để chỉ các bậc quân vương. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Quân tử động khẩu, tiểu nhân động thủ”, tức là: "Quân tử dùng lời, tiểu nhân dùng tay".

Mâu thuẫn giữa hai mặt trái ngược nhau của con người đã có từ lâu. Song, đối với Khổng Tử, nó trở nên cực kỳ quan trọng và cấp bách. Lúc nào ông cũng dành sự quan tâm của mình xung quanh vấn đề con người, xem sự xa rời bản tính (Trời sinh) ban đầu như là nguyên nhân dẫn đến sự đảo lộn trật tự thế giới và đó chính là sự xa rời Đạo. Giữ mình theo Đạo, người quân tử bao giờ cũng tỏ ra thư thái như đạt được sự giải thoát khỏi những ràng buộc, cám dỗ của đời thường - cái vốn làm mọi người xa nhau. Khổng Tử nói: "Người quân tử thư thái mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái" (Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái - Luận ngữ, XIII, 26). Tuy nhiên, sự thư thái đó chỉ là tương đối, bởi người quân tử bao giờ cũng thấy rõ trách nhiệm của mình trước xã hội, giống như Bồ Tát trong đạo Phật. Khi “làm sạch" mình, làm trong sạch từ bên trong, người quân tử đồng thời làm sạch cái không gian quanh mình, làm cho môi trường sống khỏi bị ô nhiễm bởi những thói đời hèn hạ, giải thoát cho mình đồng thời với giải thoát cho những người khác. Chính vì vậy, Khổng Tử khẳng định, kẻ tiểu nhân không tự giải phóng cho mình (hạ trí ngu bất di). Ông nói: “Đức của người quân tử như gió, đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ rạp xuống" (Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển - Luận ngữ, XII, 18).

Người quân tử có sức mạnh biến cải nhân dân đến chỗ tất hơn. Sức mạnh đó không chỉ là lời nói, mà còn là sức mạnh bên trong, là đạo đức. Người quân tử lấy đạo đức làm động cơ thúc đẩy nhân dân hành thiện. Khổng Tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giải trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tất lành" (Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ, đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách - Luận ngữ, II, 3).

Ngôn ngữ là biểu hiện của tư duy khi sự biểu hiện đó không phù hợp thì tư duy của người phát ngôn có thể không lành mạnh cũng có khi việc phát ngôn quá chất phác, không đủ sức thuyết phục người nghe cũng bất lợi. Vì vậy, khi nêu ra đặc trưng của người quân tử, Khổng Tử đã xem xét mối tương quan giữa tính chất phác (Trời cho) với học vấn: "Chất phác thắng văn vẻ thì quê mùa, văn vẻ thắng chất phác thì cứng nhắc. Văn vẻ và chất phác đều nhau, mới nên quân tử" (Chất thắng văn tắc đã, văn thắng chất tắc sử, văn chất bân bân nhiên hậu quân tử - Luận ngữ, VI, 16).

Một trong những đặc điểm nổi bật của con người toàn thiện là mối quan hệ của nó với cộng đồng xã hội. Khổng Tử nói: "Quân tử thân với khắp mọi người mà không tư vị, kẻ tiểu nhân tư vị mà không thân với khắp mọi người"(Quân tử chu nhi bất tị, tiểu nhân tị nhi bất chu - Luận ngữ, II, 14). Câu này được địch theo nhiều cách khác nhau. Nếu xét trên bình diện triết học thì câu này mang ý nghĩa sâu sắc về cấu trúc. Chữ chu ở đây chỉ sự chu tất, chu toàn, có thể hiểu là tính cách của con người toàn thiện và chỉ có con người toàn thiện mới có khả năng thể hiện được chủ ý của Vũ trụ. Vì vậy, theo chúng tôi, dịch chữ chu là thân khắp với mọi người không thể hiện đủ nghĩa của từ.

Con người chu toàn có thể được xem như là tấm gương, là chủ thể của mọi thiện chân, cho nên ai cũng kính nể. Khi được tất cả kính nể thì trong quan hệ không thể thiên lệch với bất kỳ người nào, nhóm nào, bè đảng nào. Tiểu nhân thì hoàn toàn ngược lại. Vì không có tính chu toàn, nên kẻ tiểu nhân chỉ có thể cấu kết với những người đồng tâm, đồng ý với mình, chính vì thế mà xã hội để bị phân chia thành phe nhóm khác nhau, đấu tranh cho quyền lợi của phe nhóm mình và chèn ép các nhóm khác, thậm chí đấy tới mức thù hằn nhau. Như vậy, xét về mặt cấu trúc hệ thống, tiểu nhân có thể được coi là những bộ phận trong một chỉnh thể, luôn nằm trong sự thống nhất biện chứng và bản thân nó không thể đại diện cho một chỉnh thể xác định, tức là luôn bị ràng buộc bởi các mối quan hệ bắt buộc, không tự do, nó được xem như là công cụ để phục vụ cho những mục đích nào đó. Ngược lại, "quân tử không thể là công cự" (quân tử bất khí - Luận ngữ, II, 12).

Bảo tồn được tính thiện cao cả ban đầu là điều kiện để người quân tử trở nên phổ biến. Đã là phổ biến thì người quân tử có thể chi phối cuộc sống một cách toàn vẹn. Mặt khác, chính vì giữ được tính thiện cao cả đó mà người quân tử thể hiện mình như là người hoàn thiện với đầy đủ phẩm cách tất đẹp trong việc thi hành đạo nhân: "Nết hiếu và nết để có phải là gốc của việc thi hành đạo nhân đó chăng?" (Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư - Luận ngữ, 1,2).

Từ việc đề cao đức hiếu, đễ, Khổng Tử đi đến thuyết chính danh. Đối với câu hỏi cái gì cần cho đường lối trị quốc đúng đắn, Khổng Tử trả lời: "Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Luận ngữ, XII, 11). Câu trả lời thật là đơn giản, song lại hàm chứa một nội đung khá đầy đủ về chính danh. Khổng Tử nhận thấy, trong một xã hội thịnh trị, có những đẳng cấp xã hội, thì bổn phận của mỗi con người phải được phân định một cách rạch ròi, trình độ tri thức của họ cũng phải tương ứng với công việc mà họ đảm nhận: "Hiểu biết là hiểu biết, không hiểu nhận là không hiểu. Thế cũng là đã hiểu rồi vậy" ( Tri chi vi tri chi,bất tri vi bất tri. Thị tri dã - Luận ngữ, II,17). Đặc biệt, đối với bậc quân tử lại càng phải thận trọng trong cuộc sống. Điều gì chưa nắm chắc, chưa rõ thì không nên cả quyết một cách vội vàng: "Người quân tử đã nêu được tên gọi (danh chính) ắt nói được ra lời, đã nói được ra lời ắt làm được. Đối với lời nói ra, người quân tử không bao giờ cẩu thả vậy" (Quân tử danh chi tất khả ngôn dã, ngôn chi tất khả hành dã. Quân tử ư kỳ ngôn vô sở cầu nhi dĩ hĩ - Luận ngữ, XIII, 3).

Theo Không Tử, con người toàn thiện là người có phẩm chất đạo đức phù hợp với ngũ thường, trong đó nhân tính được đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, người quân tử "Có khi còn quyên sinh để giữ trọng đạo nhân" (Hữu sát thân dĩ thành nhân - Luận ngữ, XV, 8), hoặc "Người quân tử lấy đạo nghĩa thành làm căn bản, dùng lễ để thi hành, biểu lộ bằng đức khiên tốn, hoàn thành nhờ chữ tín" (Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi - Luận ngữ, XV, 17).

Vậy Lễ là gì mà có thể làm cho thế giới này trở nên trật tự hài hoà? Lễ trước hết là cái làm cho vạn vật trong thế giới này có được vị thế phù hợp. Do vậy, con người là một trong vạn vật đó cũng phải tuân theo lễ, phải biết "Khắc kỷ phục lễ", bởi "Người mà không có lòng nhân, dùng lễ sao được? Người mà không có lòng nhân dùng nhạc sao được?" (Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà? Luận ngữ, III, 3), hoặc "Cung kính mà thiếu lễ thì khó nhọc, cẩn thận mà thiếu lễ thì nhút nhát, cương dũng mà thiếu lễ thì loạn, thẳng thắn mà thiếu lễ thì nóng gắt" (Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ. Dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giáo - Luận ngữ, VIII, 2). Như vậy, lễ là cái đóng vai trò điều chỉnh hành vi con người, làm cho con người ứng xử với nhau tất hơn trên cơ sở lấy "Thứ" làm trọng. Nhờ có "thứ" mà con người biết "Điều gì mình không muốn [người khác làm cho mình], chớ áp dụng cho người" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Luận ngữ, XV, 23).

Như vậy, quân tử chưa phải là người lý tưởng (mặc dù các nhà tư tưởng Tống Nho đã đặt nó ngang hàng với thánh nhân). Bản thân người quân tử cũng tự nhận thấy mình chưa phải là người hoàn thiện, nên họ luôn tự xác định phải thường xuyên hoàn thiện hoá bản thân để trở nên tất hơn. Trong cuộc sống hàng ngày không ai có thể tránh được sai lầm, song người quân tử là người biết sai để sửa và đó cũng là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người toàn thiện. Khổng Tử nói: "Có lỗi mà không sửa mới thật là lỗi", "Quá nhi bất cải, thị ví quá dã" - Luận ngữ, XV, 29). Khác với quân tử, tiểu nhân không nhận thấy lỗi của mình và nếu nhận ra cũng không chịu sửa, thậm chí còn dấu diếm. Người quân tử luôn nghiêm khắc với mình, luôn tự truy tìm nguyên nhân ở mình, ngược lại, tiểu nhân thường đổ lỗi cho người khác: "Người quân tử trông ở mình, kẻ tiểu nhân trông ở người" (Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân - Luận ngữ, XV, 20). Đó là quan hệ giữa nghĩa và lợi. Quân tử trọng nghĩa mà luôn sửa mình, còn tiểu nhân vì lợi mà trốn tránh trách nhiệm: "Quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu nhân rành về điều lợi" (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi - Luận ngữ, IV,16).

Quân tử là mắt khâu liên kết giữa thánh nhân và người thường, là sợi chỉ nối quá khứ với hiện tại. Quân tử "Sợ ba điều: Sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, [mà còn] khinh nhờn bậc đại nhân, diễu cợt lời của thánh nhân" (Quân tử hữu tam uý: Uý thiên mệnh, uý đại nhân, uý thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất uý dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn - Luận ngữ, XVI, 8). Quả thật, nếu không biết sợ, không cảm nhận được sự hiện diện của trời, sỉ vả quá khứ và coi thường những điều thánh thiện thì tất thảy những cái đó sẽ dẫn tới tai hoạ nghiêm trọng. "Chẳng biết được mệnh trời, không lấy gì để làm người quân tử. Chẳng biết lễ, không lấy gì để lập thân. Chẳng biết phân biệt nổi lời phải trái, không lấy gì để biết người" (Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử đã, bất tri lễ vô dĩ lập dã. Bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã - Luận ngữ, XX, 3). Quân tử khác với tiểu nhân là ở chỗ biết lễ do đi theo đường chính, nắm được đạo Trung dung, biết được mệnh trời mà "vươn lên" để đạt đến cao thượng, đến trạng thái hoàn thiện và làm cho người khác cùng hoàn thiện thêm. Khổng Tử nói: "Người quân tử đạt tới chỗ cao thượng, kẻ tiểu nhân đạt tới chỗ thấp hèn" (Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt - Luận ngữ, XIV, 24).

Sự "vươn lên" đến trạng hoàn thiện là một quá trình tự cải tạo của người quân tử Con đường khó khăn của sự nghiệp cải tạo đó xuất phát từ nghiên cứu vạn vật, không ngừng nâng cao hiểu biết về mọi mặt và làm cho ý mình thành thật, tiến tới chính tâm để tu thân, tề gia, trị quốc và cuối cùng là bình thiên hạ. Từ bậc thiên tử cho tới thường dân ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc. Vì vậy, khi Tử Lộ hỏi Quân tử phải làm gì, Khổng Tử đáp: "Sửa mình để nên người kính cẩn". Lại hỏi: Có vậy thôi ư? Đáp: "Sửa mình kính cẩn để yên mọi người". Lại hỏi: "Có vậy thôi ư? Đáp: Sửa mình kính cẩn để yên trăm họ. Sửa mình để yên trăm họ, việc đó dẫu vua Nghiêu, vua Thuấn cũng chưa làm cho trọn" (Tử Lộ vấn quân tử, Tử viết: "Tu kỷ dĩ kính". Vấn: "Như tư nhi dĩ hồ?" Viết: "Tu kỷ dĩ an bách tính.Tu kỷ an bách tính, Nghiêu Thuấn kỳ do bệnh chu”- Luận ngữ, XIV, 45). Qua đoạn đối thoại trên đây, chúng ta thấy, quan điểm của Khổng Tử về con đường hoàn thiện hoá là vô tận, đến các bậc thánh nhân, như vua Nghiêu, vua Thuấn, vẫn chưa thực hiện được trọn vẹn. Sự vận động để đến với bản thân với tư cách con người toàn thiện đều thông qua sự hoàn thiện hoá bản thân.

Con đường hoàn thiện hoá là con đường giải thoát. Ở các tôn giáo khác nhau, quan niệm về giải thoát cũng khác nhau song mục đích chỉ là một - đó là khắc phục quan niệm coi tự kỷ là trung tâm. Trong tư tưởng của Khổng Tử, đó là sự chiến thắng của con người đối với chính bản thân mình, vượt lên trên mình, là sự phục hồi lễ, khôi phục thiện nhân khởi thuỷ. Con đường giải thoát đó phải do chính người quân tử thực hiện thông qua sự tự hoàn thiện mà phương pháp và mục tiêu của sự tự hoàn thiện đó đã được thánh nhân vạch ra. Khi Nhan Uyên hỏi về Nhân, Khổng Tử giải thích: "Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân. Một ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ, cả thiên hạ [chịu cảm hoá] quay về về với điều nhân vậy" (Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên. Nhân do kỷ nhi do nhân hồ tai? - Luận ngữ, XII, 1).

Giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc của những dục vọng, từng bước nâng cao tri thức của mình về vạn vật (cách vật), về thế giới con người (biết người, yêu thương con người) là con đường hoàn thiện chân chính của Quân tử. Chiến thắng bản thân có nghĩa là chiến thắng những gì trong con người đang cản trở nó quay về với toàn bộ phẩm chất tất đẹp ban đầu mà Trời ban cho. Việc làm đó là phù hợp với Quân tử - con người toàn thiện, vốn chỉ cầu ở mình chứ không bao giờ cầu ở người.

* Nguyễn Thị Kim Chung

(Theo Tạp chí Triết học)

.... Chiến thắng bản thân có nghĩa là chiến thắng những gì trong con người đang cản trở nó quay về với toàn bộ phẩm chất tốt đẹp ban đầu mà Trời ban cho. Việc làm đó là phù hợp với Quân tử - con người toàn thiện, vốn chỉ cầu ở mình chứ không bao giờ cầu ở người....

-----------------







MINH TÂM BẢO GIÁM TUYỂN DỊCH 明心寶鑑 選譯


MINH TÂM BẢO GIÁM TUYỂN DỊCH

MINH TÂM BẢO GIÁM TUYỂN DỊCH -- 明心寶鑑 選譯

MINH TÂM BẢO GIÁM TUYỂN DỊCH

 明心寶鑑 選譯

LGT:- Sách "Minh Tâm Bảo Giám" 《明心寶鑑》 là quyển sách rất có giá trị suốt ngàn năm ở Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc. Là tinh hoa đạo đức của Tam giáo, ứng dụng để "làm người" rất tốt. Người xưa hết sức trân quí bộ sách nầy.

Nguyên tác quá dài nên chúng tôi chọn giới thiệu Phần tuyển dịch của GS Ngô Văn Lại, để nhận thức được một số tinh hoa của sách mà thôi. Trong bản của GS. Lại, không có phần Âm Hán Việt, nên tôi đưa thêm vào, để quí vị tiện việc theo dõi.

Phần nguyên tác quí vị có thể tải ở:-

http://book.qq.com/s/book/0/5/5976/index.shtml

Trân trọng.


--------------------

MINH TÂM BẢO GIÁM TUYỂN DỊCH


 明心寶鑑選譯

*秋适 著

*吳文賴老師 選譯

*Tác giả: - Thu Quát.

*Tuyển dịch:- Giáo sư Ngô Văn Lại.


I - Ý nghĩa tác phẩm.

Tên gọi Minh Tâm Bảo Giám 明心寶鑑 có nghĩa là "gương báu" (soi) sáng lòng - gương báu chỉ những lời răn dạy của thánh hiền (những nhân vật trong xã hội và lịch sử có trí tuệ, nhân cách vượt trội mọi người). Lời răn dạy của các nhân vật ấy vốn chịu nhiều ảnh hưởng của ba luồng tư tưởng chính thống trong xã hội Á Ðông: Nho, Phật, Lão.

Những tư tưởng ấy tồn tại hăm lăm thế kỷ nay và đã góp phần tích cực cho đạo lý làm người. Ngày nay chúng không còn giữ nguyên vẹn giá trị giáo điều như buổi đầu mà phần lớn chỉ còn giá trị tham khảo. Tuy nhiên, chân lý của chúng vốn đã được loài người vận dụng vào cuộc sống suốt một thời gian dài, vì vậy những ai cảm thấy dị ứng với chúng cũng có nghĩa là dị ứng với nhân loại trong quá khứ, tức dị ứng với tiền nhân.

II - Nguồn gốc tác phẩm.

Sách Minh Tâm Bảo Giám xuất hiện ở Triều Tiên (Hàn Quốc) vào cuối thế kỷ XIII do một văn thần triều vua Trung Liệt vương biên soạn. Văn thần ấy là Thu Quát (秋适 1245 - 1317) người Triều Tiên gốc Trung Quốc.

Tổ xa đời của Thu Quát là Thu Khải (秋磕) giữ chức Môn hạ Thị trung (chức quan làm việc cạnh vua) ở Trung Quốc dưới triều Tống Cao Tông (1127 - 1162). Bấy giờ hầu hết lãnh thổ Trung Quốc đã về tay quân Kim (thuộc bộ tộc Nữ Chân, cư dân ở khoảng giữa sông Tùng Hoa và sông Áp Lục, tổ tiên của nhà Thanh sau nầy) lãnh thổ nước Liêu và nhà Tống đang bị thôn tính dần dần theo kiểu tằm ăn dâu (Kim Thái Tổ đã lên ngôi từ năm 1115) Cuối cùng vua tôi nhà Tống di tản về Phúc Kiến, trở thành nhà Nam Tống (1127 - 1179), thần phục nước Kim trong bước đường cùng, chấp nhận nhiều điều kiện cực kỳ nhục nhã.

Trong tình hình ấy, Thu Khái bỏ quan lưu vong sang Triều Tiên, định cư ở Hàm Hưng được khoảng năm đời, đến đời Thu Quát làm đến chức Dân bộ Thượng thư Nghệ văn quán Ðại đề học (hàm nghĩa như Bộ Trưởng Văn Hóa ngày nay).

Trong thời kỳ còn giữ chức Giáo dục Quốc Học, vào năm Trung Liệt 31, Thu Quát tiến hành chọn lọc tinh hoa chư tử biên soạn nên sách Minh Tâm Bảo Giám gồm 260 câu, chia làm 19 thiên. Sách liền được hoan nghênh rộng rãi và được chọn làm tài liệu giảng dạy. Hiện nay tại thư viện Nhân Hưng trong khuôn viên từ đường họ Thu ở thành phố Ðại Khâu, Hàn Quốc còn bảo quản hơn 160 mảnh khắc gỗ sách Minh Tâm Bảo Giám của Thu Quát (tên người, tên đất trên đây được phiên âm theo Trung Quốc).

Ðến năm Cung Du Vương 12, cháu nội Thu Quát là Thu Suyền (秋湍) quay về tổ quốc tham gia nghĩa quân Chu Nguyên Chương (1328 - 1398). Khi nhà Minh thành lập (1368) Thu Suyền trở thành công thần mở nước. Nhân cơ hội ấy, Thu Suyền bèn đưa sách Minh Tâm Bảo Giám của ông nội mình phổ biến vào Trung Quốc. Phạm Lập Bản (范立本) liền dựa theo sách ấy mở rộng thành tác phẩm có 20 thiên, chứa hơn 600 câu. Từ đó sách được biên tập, chỉnh lý, bổ sung nhiều lần (nhu cầu bắt buộc của một đất nước mênh mông nhưng giao thông hạn chế!) đặc biệt là vào thời Vạn Lịch (Minh Thần Tông 1573 - 1619).

Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm. Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát.

III - Tình hình sách Minh Tâm Bảo Giám ở Việt Nam.

Hán học du nhập Việt Nam từ thời nội thuộc nhà Hán (179 trước Công Nguyên). Các triều đại kế tiếp của Trung Quốc đều duy trì ý thức vun đắp cho nền văn hóa và chính trị khu vực bằng tinh thần "đồng văn". Do đó, sách vở Trung Quốc lưu hành ở Việt Nam không thua kém gì ở Trung Quốc nhờ sự qua lại khá thường xuyên của giới ngoại giao và giới doanh nhân hai nước. Tuy nhiên, sách Minh Tâm Bảo Giám có mặt nhan nhản trong dân gian hầu hết lại là sách chép tay gia truyền của những gia thục chứ các nhà xuất bản địa phương không hề tham gia phát hành, khắc in như đối với các sách khác - Phần lớn các ông Ðồ lại thường dạy theo trí nhớ thành thử thử ít đảm bảo tính chính xác, thống nhất của văn bản. Tựu trung các sách ấy thuộc hai dòng chính:

- Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc".

- Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ"

Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn.

IV - Tình hình dịch ra Việt ngữ sách Minh Tâm Bảo Giám.

Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản).

Nay chúng tôi tuyển dịch và diễn ca dựa vào nguyên bản có vẻ nhiều chữ hơn (và có lẽ xưa hơn) từng được Trương Vĩnh Ký chọn dịch cách đây hơn trăm năm để giới thiệu lại bằng văn phong hiện đại.

Trong công việc nầy chúng tôi đã nhận được qua điện thoại và thư tín nhiều khích lệ tinh thần và nhiều giúp đỡ cụ thể của các bạn Hàn Quốc Trung, Châu Quân Vũ, Từ Nguyệt Hoan, Phan Công Tuấn, Quản Bích Liên, cùng một số bạn khác. Nếu vắng họ, có lẽ sức ỳ của tuổi tác đã chận chúng tôi lại giữa quãng đường khá hiểm trở của ngôn ngữ tác phẩm.

Giáo Sư Ngô Văn Lại 吳文賴老師

Trung tuần tháng 4, 2007.

*********

目錄

《明心寶鑑》序

第1篇 繼善篇
第2篇 :天理篇
第3篇 :順命篇
第4篇 :孝行篇
第5篇 :正己篇
第6篇 :安分篇
第7篇 :存心篇
第8篇 :戒性篇
第9篇 :勸學篇
第10篇 :訓子篇
第11篇 :省心篇
第12篇 :立教篇
第13篇 :治政篇
第14篇 :治家篇
第15篇 :安義篇
第16篇 :遵禮篇
第17篇 :存性篇
第18篇 :言語篇
第19篇 : 交友篇
第20篇 :婦行篇

Mục Lục


• GIỚI THIỆU

• Tuyển dịch thiên thứ 01: KẾ THIỆN

• Tuyển dịch thiên thứ 02: THIÊN LÝ

• Tuyển dịch thiên thứ 03: THUẬN MỆNH

• Tuyển dịch thiên thứ 04: HIẾU HẠNH

• Tuyển dịch thiên thứ 05: CHÍNH KỶ

• Tuyển dịch thiên thứ 06: AN PHẬN

• Tuyển dịch thiên thứ 07: TỒN TÂM

• Tuyển dịch thiên thứ 08: GIỚI TÍNH

• Tuyển dịch thiên thứ 09: KHUYẾN HỌC

• Tuyển dịch thiên thứ 10: HUẤN TỬ

• Tuyển dịch thiên thứ 11: TỈNH TÂM

• Tuyển dịch thiên thứ 12: LẬP GIÁO

• Tuyển dịch thiên thứ 13: TRỊ CHÍNH

• Tuyển dịch thiên thứ 14: TRỊ GIA

• Tuyển dịch thiên thứ 15: AN NGHĨA

• Tuyển dịch thiên thứ 16: TUÂN LỄ

• Tuyển dịch thiên thứ 17: TỒN TÍN

• Tuyển dịch thiên thứ 18: NGÔN NGỮ

• Tuyển dịch thiên thứ 19: GIAO HỮU

• Tuyển dịch thiên thứ 20: PHỤ HẠNH





I - Tuyển dịch thiên thứ 1:

 KẾ THIỆN

1A.

Nguyên văn:

善有善報,惡有惡報。

若還不報,時辰未到。


*Âm:-

Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo

Nhược hoàn bất báo, Thời thần vị đáo.

Dịch nghĩa:

Làm điều thiện sẽ có điều thiện đáp lại. Làm điều ác sẽ gặp điều ác đáp lại. Nếu còn thấy không đáp lại (là vì) giờ giấc chưa đến.

Diễn ca:

Làm thiện gặp thiện,
Làm ác gặp ác.
Không gặp lúc nầy,
Thì gặp lúc khác.


2A.

Nguyên văn:


平生行善天加福,若是愚頑受禍殃。
善惡到頭終有報,高飛遠走也難藏。



*Âm:-

Bình sinh hành thiện thiên gia phước, nhược thị ngu ngoan thụ hoạ ương.

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu dã nan tàng .


Dịch nghĩa:

Bình sinh làm điều thiện thì trời thêm phước cho - Nếu đúng là ngu bướng thì chịu tai ương. Làm thiện làm ác cuối cùng đều nhận báo ứng (dù) cao bay xa chạy cũng khó nấp.

Diễn ca:

Cả đời làm thiện, trời ban phước,
Nếu quen ngu bướng, gánh điều xui.
Thiện ác cuối cùng đều báo ứng,
Cao bay xa chạy lối nào chui?


3A.

Nguyên văn:

行藏虛實自家知,禍福因由更問誰?
善惡到頭終有報,只爭來早與來遲。

閒中檢點平生事,靜裡思量日所為。
常把一心行正道,自然天地不相虧。



*Âm:-

Hành tàng hư thực tự gia tri ,
 Hoạ phúc nhân do cánh vấn thuỳ.
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo ,
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì.

Nhàn trung kiểm điểm bình sinh sự,
Tĩnh lý tư lương nhật sở vi.
Thường bả nhất tâm hành chính đạo,
Tự nhiên thiên địa bất tương khuy .


Giải nghĩa:

Làm quan hay ở ẩn, cách nào chắc hay không chắc, là tự mình biết. Họa phước sẽ từ đấy ra, lại còn phải hỏi ai? Thiện ác cuối cùng rồi có báo ứng, chỉ tranh nhau đến sớm với đến muộn thôi. Trong lúc rảnh rang hãy kiểm điểm việc đã làm trong đời. Lúc vắng lặng hãy nghĩ ngợi việc đã làm hằng ngày. Thường đem tinh thần "nhất tâm" (*) đi theo đường chân chính. Tự nhiên trời đất không làm sứt mẻ nhau đâu.

Diễn ca:

Chọn đường chắc lép tự mình hay,
Họa phúc đấy ra chứ hỏi ai?
Thiện ác cuối cùng rồi báo ứng,
Chỉ là xảy đến sớm hay chầy.
Rảnh rang kiểm điểm việc làm cũ,
Yên tĩnh nhớ ra chuyện mọi ngày.
Thường giữ vẹn lòng theo nẻo chính,
Tự nhiên trời đất xử không sai.


*Chú thích:

Nhất tâm: Ðưa cái Tâm theo một hướng duy nhất. (Ðạo gia dạy phải giữ cái Tâm theo ba trạng thái:

1 - Hư.
2 - Nhất.
3 - Tĩnh, để đưa nó về với Ðạo.


4A.

Nguyên văn:

晉國語云:“從善如登,從惡如崩。”

*Âm: -

Tấn quốc ngữ vân :“Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng"

Giải nghĩa:

Ngạn ngữ nước Tấn nói: (Làm) theo điều thiện (khó) như lên (chỗ cao). (Làm) theo điều ác (dễ sa ngã) như ở chỗ sụp lở.

Diễn ca:

Làm theo điều thiện nhọc nhằn,
Như ở chỗ bằng, leo ngược lên cao.
Làm theo điều ác dễ sao!
Như đứng chỗ lở, ngã nhào như chơi!

-------------------
5A .

Nguyên văn:

太公曰:“善事須貪,惡事莫樂。見善如渴,聞惡如聾。為善最樂,道理最大。”

*Âm: -

Thái công viết :“Thiện sự tu tham, ác sự mạc lạc. Kiến thiện như khát, văn ác như lung. Vi thiện tối lạc, đạo lý tối đại ".

Dịch nghĩa:

Thái Công (*) nói: Phải tham làm việc thiện. Ðừng vui khi làm việc ác. Thấy việc thiện như khát (thấy nước) Nghe điều ác như bị điếc. Làm điều thiện rất vui (đó là) đạo lý lớn nhất.

Diễn ca:

Tham làm điều thiện là hay,
Thấy điều ác, chớ vui tay làm bừa.
Thấy thiện như khát thấy mưa,
Nghe ác giả điếc như chưa nghe gì.
Làm việc thiện, thích lạ kỳ !
Ðó là đạo lý khó bì nổi đâu !


Chú thích:

Thái Công: Cách gọi tôn kính tuyệt đối dành cho Khương Tử Nha. Người ta cũng gọi Khương Thái Công (cụ họ Khương) Thái Công Vọng, Lã Vọng hay Lữ Vọng.

Tương truyền ông đợi thời bằng việc ngồi câu ở sông Vị Thủy mãi đến tuổi 72 mới được Vũ Vương mời làm quân sư, đánh vua Trụ tiêu diệt nhà Thương lập ra nhà Chu rồi cùng Chu Công tổ chức nền thịnh trị ,kết quả kéo dài 866 năm.


6A.
Nguyên văn:

司馬溫公曰:“積金以遺子孫,子孫未必能守;積書以遺子孫,子孫未必能讀;不如積陰德于冥冥之中,以為子孫長久之計。”

*Âm:-

Tư Mã Ôn Công viết :“Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ ;Tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc ;Bất như tích âm đức vu minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn trường cữu chi kế."

*Dịch nghĩa: -

Tư Mã Ôn Công (*) nói: Tích lũy vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc giữ nổi, tích lũy sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đọc được, không bằng tích lũy âm đức trong mờ mờ để làm kế lâu dài cho con cháu.

*Diễn ca: -

Dành vàng để lại đời sau,
Chắc gì con cháu cùng nhau giữ vàng.
Dành sách hay, dạy khôn ngoan,
Chắc gì con cháu giỏi giang? đọc nhiều?
Âm đức (**) quý biết bao nhiêu!
Ðể lại cho nhiều, con cháu hưởng lâu...

**Chú thích:-

Tư Mã Ôn Công: Tư Mã Quang, được phong Ôn Quốc Công, nhà chính trị và giáo dục lỗi lạc, đỗ tiến sĩ, làm đến Tể tướng, sách Tư trị thống giám của ông rất nổi tiếng.

Âm đức: Thứ ơn đức không nổi bật (xóa nợ, cứu nạn, vv...)


A7.

Nguyên văn:

心好命又好,發躂榮華早。
心好命不好,一生也溫飽。
命好心不好,前程恐難保。
心命都不好,窮楛直到老。

*Âm: -

Tâm hảo mệnh hựu hảo, phát đạt vinh hoa tảo.
Tâm hảo mệnh bất hảo, nhất sinh dã ôn bão.
Mệnh hảo tâm bất hảo, tiền trình khủng nan bảo.
Tâm mệnh đô bất hảo, cùng hộ trực đáo lão.


*Dịch nghĩa: -

Tâm tốt mệnh lại tốt. Phát đạt vinh hoa sớm. Tâm tốt mệnh không tốt. Một đời cũng ấm no. Mệnh tốt tâm không tốt. Ðường phía trước e khó giữ. Tâm, mệnh đều không tốt. Cùng khổ thẳng tới già.

*Diễn ca: -

Tâm tốt, số mệnh tốt,
Sớm phát đạt vinh hoa.
Tâm tốt, số mệnh xấu,
Cũng sống được qua loa.
Số mệnh tốt, tâm xấu,
Ðường đời khó tiến xa.
Tâm xấu, số mệnh xấu,
Nghèo khổ bé đến già.



8A.

Nguyên văn:

景行錄云:“以忠孝遺子孫者昌,以智朮遺子孫者亡。以謙接物者強,以善自衛者良。”

*Âm: -


Cảnh Hạnh Lục vân :“Dĩ trung hiếu di tử tôn giả xương, dĩ trí truật di tử tôn giả vong. Dĩ khiêm tiếp vật giả cường, dĩ thiện tự vệ giả lương. ”

*Dịch nghĩa: -

Sách Cảnh Hạnh chép: Kẻ để lòng trung hiếu lại cho con cháu là để lại cho chúng sự phát đạt. Kẻ để ngón trí xảo lại cho con cháu là để lại cho chúng mầm suy vong. Kẻ đem lòng khiêm nhường giao tiếp mọi việc thì mạnh. Kẻ dùng điều thiện để tự vệ thì tốt lành.

*Diễn ca: -

Dạy con trung hiếu, con vẻ vang,
Dạy con trí xảo, con dở dang.
Cư xử khiêm nhường là sức mạnh,
Giữ lòng lương thiện, đỡ nguy nan.

9A.

Nguyên văn:

恩義广施,人生何處不相逢;仇冤莫結,路逢險處難回避。


*Âm: -

Ân nghĩa nghiễm thi, nhân sinh hà xứ bất tương phùng. Cừu oan mạc kết, lộ phùng hiểm xứ nan hồi tỵ .

*Dịch nghĩa: -

Rộng ban ơn nghĩa, đến đâu lại chẳng gặp người (tử tế). Chớ kết oan gia, gặp họ chỗ đường hẻm khó lùi tránh.

*Diễn ca: -
Rộng gieo ơn nghĩa khắp nơi,
Ði đâu cũng gặp được người mến ta.
Oán thù nếu đã gây ra,
Vô vàn nguy hiểm rình ta đường đời.


10A.

Nguyên văn:

庄子云:“于我善者,我亦善之。于我惡者,我亦善之。我既于人無惡,人能于我有惡哉!”

*Âm: -

Trang Tử vân :“Vu ngã thiện giả, ngã diệc thiện chi. vu ngã ác giả, ngã diệc thiện chi. Ngã kí vu nhân vô ác, nhân năng vu ngã hữu ác tai !”

*Dịch nghĩa: -


Trang Tử nói: Kẻ làm điều thiện cho ta, ta cũng làm điều thiện cho họ. Ta đã không ác, người có thể làm điều ác cho ta sao?

*Diễn ca: -

Kẻ làm điều thiện cho ta,
Ta đáp bằng thiện, thế là đối lưu.
Kẻ gây điều ác hại ta,
Ta đáp bằng thiện, ấy là ta khôn.
Ta không gây ác trả đòn,
Lẽ nào kẻ ác vẫn còn hại thêm?


11A.

Nguyên văn:

東 嶽圣帝垂訓:“天地無私,神明暗察。不為享祭而降福,不為失禮而降禍。凡人有勢不可倚儘,有福不可享儘,貧困不可欺儘。此三者乃天地循環,周而复始。故一 日行善,福雖未絰,禍自遠矣。一日行惡,禍雖未絰,福自遠矣。行善之人,如春園之草,不見其長日有所增。行惡之人,如磨刀之石,不見其損日有所虧。損人益己,切宜戒之!一毫之善,与人方便。一毫之惡,勸人莫作。衣食隨緣,自然快樂。算甚么命問甚么卜欺人是禍,饒人是福。天網恢恢,報應甚速。僅听吾言,神欽鬼伏。”

*Âm: -

Đông Nhạc Thánh Đế thuỳ huấn :“Thiên địa vô tư, thần minh ám sát. Bất vị hưởng tế nhi giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng hoạ. Phàm nhân hữu thế bất khả ỷ tận, hữu phước bất khả hưởng tận, bần khốn bất khả khi tận. Thử tam giả nãi thiên địa tuần hoàn, chu nhi phúc thuỷ. Cố nhất nhật hành thiện, phước tuy vị chí, hoạ tự viễn hĩ. Nhất nhật hành ác, hoạ tuy vị chí, phước tự viễn hĩ. Hành thiện chi nhân, như xuân viên chi thảo, bất kiến kỳ trưởng nhật hữu sở tăng. Hành ác chi nhân, như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ tổn nhật hữu sở khuy. Tổn nhân ích kỷ, thiết nghi giới chi !Nhất hào chi thiện, dữ nhân phương tiện. Nhất hào chi ác, khuyến nhân mạc tác. Y thực tuỳ duyên, tự nhiên khoái lạc. Toán thậm ma mệnh, vấn thậm ma bốc, khi nhân thị hoạ, nhiêu nhân thị phước. Thiên võng khôi khôi, báo ứng thậm tốc. Cận thính ngô ngôn, thần khâm quỷ phục .

*Dịch nghĩa: -

Thánh đế của Ðông Nhạc (*) rũ ban lời dạy rằng: Trời đất không vì tình riêng, thần minh luôn xét, không vì tế lễ thịnh soạn mà gieo phước, không vì thất lễ mà gieo họa.

Người ta ở đời có thế không nên ỷ hết, có phước không nên hưởng hết, thấy kẻ bần cùng không nên khinh khi hết. Ba thứ ấy tuần hoàn trong trời đất giáp vòng rồi trở lại lúc đầu. Thế cho nên một ngày làm điều thiện, phước tuy chưa đến mà họa tự lánh xa, một ngày làm điều ác, họa tuy chưa đến mà phước tự lánh xa.

Người làm điều thiện như cỏ vườn xuân, không thấy sự lớn của nó nhưng mỗi ngày có lớn thêm. Người làm điều ác như viên đá mài dao, không thấy sự hao mòn của nó nhưng mỗi ngày có khuyết bớt.

Làm tổn hại người để thêm ích lợi cho mình nhất định phải nên e dè. Một mảy thiện cũng phải dành thuận lợi cho người, một mảy ác cũng phải khuyên người đừng làm. Ăn mặc tùy cơ may thì tự nhiên được vui sướng, tính toán số mạng làm chi? Coi bói làm chi? Khinh khi người ta là chuốc họa, tha thứ người ta là tạo phước. Lưới trời lồng lộng, báo ứng rất nhanh. Cẩn thận nghe lời ta thì thần kính quỷ phục.


*Diễn ca: -

Trời đất nào có vị tình?
Luôn luôn xét nét, thần linh nào lười?
Lễ to đừng tưởng thần cười,
Lễ nhỏ thần chẳng giận người bỏ bê.
Ở đời, đắc thế phải dè,
Gặp phước thì cũng chớ hề hưởng tham.
Chớ rẻ rúng kẻ nghèo nàn,
Bởi ba điều ấy thế gian xoay vần.
Tự nhiên ai cũng có lần,
Sau cuộc xoay vần, vòng lại đầu tiên.
Một ngày ý thiện dấy lên,
Phước tuy chưa đến, họa liền lánh xa.
Một ngày điều ác gây ra,
Họa tuy chưa đến, phước đà lui chân.
Làm thiện như cỏ vườn xuân,
Phước lớn dần dần, chẳng thể nhận ngay.
Làm ác như khối đá mài,
Phước hao mòn mãi lâu ngày khuyết to.
Phải nên cân nhắc, đắn đo,
Chớ hại người để lợi cho phần mình.
Hãy nên suy xét cho tinh,
Nhận ai chút thiện, tận tình đền ơn.
Thấy ai hành động mất khôn,
Nhúng tay gây ác, ta dồn sức ngăn.
Ở đời, cái mặc cái ăn,
Ðược chăng hay chớ, lăng xăng nhọc người.
Xem số, coi bói khắp nơi,
Ham chuyện đổi đời, nghĩ thật tham lam.
Khinh khi người, họa đến thân,
Tha thứ người, mới hưởng phần phước may.
Lưới trời lồng lộng bủa vây,
Mọi đều báo ứng thấy ngay tức thì.
Khuyên ai cẩn thận nhớ ghi,
Quỷ thần cũng phục, nói chi loài người!


*Chú thích:-

*Thánh đế núi Ðông Nhạc: Vị thần chí tôn cai quản núi Thái Sơn.

******

II - Tuyển dịch thiên thứ hai: THIÊN LÝ


1A.

Nguyên văn:

康節邵先生曰:天听絕無音,蒼蒼何處尋,非鄗亦非遠,都只在人心。人心生一唸,天地悉皆知。善惡若無報,乾坤必有私。

*Âm:-

Khang Tiết Thiệu tiên sinh viết :"Thiên thính tuyệt vô âm, thương thương hà xứ tầm, phi cao diệc phi viễn, đô chỉ tại nhân tâm. Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa tất giai tri. Thiện ác nhược vô báo, càn khôn tất hữu tư."

*Dịch nghĩa: -

Thầy Thiệu Khang Tiết nói: Trời nghe được cả lúc tuyệt nhiên không có tiếng. Xanh xanh biết tìm nơi đâu. Không cao cũng không xa. Ðều chỉ ở nơi lòng người. Lòng người sinh một ý nghĩ. Trời đất đều biết tất cả. Thiện ác nếu không thấy báo ứng. Tất là trời đất có tư vị.

*Diễn ca: -

Trời nghe thầm, chẳng cần lời,
Nhìn lên xanh ngắt, tìm trời ở đâu?
Chẳng xa mà cũng chẳng cao,
Bất cứ lòng nào, trời cũng đều nghe.
Lòng người chỉ mới lăm le,
Ðất trời biết tất, răn đe chẳng từ.
Ðất trời phải thật riêng tư,
Thì mới mặc xác nhân từ, ác ôn!

2A.
Nguyên văn:


昔賢曰:若人作不善得顯名者,人不害,天必誅之。种瓜得瓜,种荳得荳。天網恢恢,疏而不漏。深耕淺种,尚有天災;利己損人,豈無果報.

*Âm: -

Tích hiền viết :" Nhược nhân tác bất thiện đắc hiển danh giả, nhân bất hại, thiên tất tru chi. Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. Thâm canh thiển chủng, thượng hữu thiên tai ;lợi kỷ tổn nhân, khởi vô quả báo."
*Dịch nghĩa: -

Người hiền xưa nói: Nếu người làm điều không thiện mà được nổi tiếng, người không hại thì trời tất giết hắn. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt. Cày sâu trồng cạn còn có thiên tai, lợi mình hại người, há không bị quả báo?

*Diễn ca: -

Làm ác mà được rạng danh,
Người tha, trời cũng phải đành giết thôi.
Gieo gì gặt nấy lâu rồi,
Xưa nay ai thoát lưới trời được đâu?
Ngay như trồng cạn, cày sâu,
Thiên tai trừng phạt, trời đâu tha nào?
Hại người kiếm lợi cho cao,
Trời không quả báo làm sao cho đành!

II - Tuyển dịch thiên thứ ba: THUẬN MỆNH


1A.

Nguyên văn:

孟子曰:行或使之,止或尼之,行止非人所能也。

*Âm:-

Mạnh Tử viết :"Hành hoặc sử chi, chỉ hoặc ni chi, hành chỉ phi nhân sở năng dã."

*Dịch nghĩa: -

Mạnh Tử nói: Làm hoặc sai người khác làm, thôi hoặc bảo người khác thôi. Làm hay thôi không phải là khả năng của con người vậy.

*Diễn ca: -

Mình làm hoặc bảo người làm,
Mình ngừng, bảo kẻ đang ham cũng ngừng.
Dù hăm hở, dù dửng dưng,
Ðừng tưởng là bởi mình ưng thế mà!
Chính trời điều khiển từ xa,
Xui mình hăm hở hay là dửng dưng.

2A.

Nguyên văn:

昔賢曰:知命之人見利不動,臨死不怨,得一日過一日,得一時過一時。緊行慢行,前程只有許多路。時來風送滕王閣,運去雷轟荐福碑。

*Âm: -

Tích hiền viết :"Tri mệnh chi nhân kiến lợi bất động, lâm tử bất oán, đắc nhất nhật quá nhất nhật, đắc nhất thời quá nhất thời. Khẩn hành mạn hành, tiền trình chỉ hữu hứa đa lộ. Thời lai phong tống Đằng Vương các, vận khứ lôi oanh Tiến Phước bi."

*Dịch nghĩa: -

Người hiền xưa nói: Người hiểu biết vận mệnh thấy lợi không động lòng. Gặp cái chết không oán, được một ngày qua một ngày, được một giờ qua một giờ. Ði gấp đi chậm thì đường phía trước cũng chỉ nhiều bấy nhiêu. Thời đến gió đưa tới gác Ðằng Vương (*). Vận bỏ đi sét đánh bia Tiến Phước (**).


*Diễn ca: -

Vận mệnh khi đã rõ rồi,
Thấy lợi cũng chẳng đứng ngồi băn khoăn.
Coi thần chết như khách quen,
Nhưng với cuộc sống vẫn hằng nâng niu.
Một ngày, quả thật đáng yêu,
Một giờ thì cũng trời chiều chuộng ta.
Ðường đời chẳng quản gần xa,
Ði gấp, đi chậm, vẫn là bấy nhiêu.
Gặp thời thì gió thuận chiều,
Vận hết gắng sức càng nhiều càng hư.


*Chú thích:-

*Gác Ðằng Vương: tên một thắng cảnh ở huyện Nam Xương tỉnh Giang Tây. Ðời Đường, nhân dịp trùng tu, người ta tổ chức cuộc thi văn, qui tụ nhiều văn tài nổi tiếng đương thời. Vương Bột (650 - 675) bấy giờ mới 14 tuổi nên không được mời dự chính thức và được tin quá trễ nhưng nhờ gió thuận nên đến nơi vừa kịp giờ và giật Dịch nhất, trở thành tứ kiệt đời Ðường (về sau, cũng chính "gió đưa" làm ông đắm thuyền trên đường sang thăm bố làm quan đô hộ Giao Châu, tức Việt Nam ngày nay).

*Bia Tiến Phước: tên một bia cổ có giá trị nghệ thuật rất cao, người sành điệu đua nhau thuê rập mẫu. Có anh hàn sĩ lỡ vận nọ nhận được mối đặt hàng lớn, hăm hở gánh giấy đến chân núi, gặp mưa to quá phải ngủ trọ. Khuya hôm ấy sét đánh vỡ bia.


3A.
Nguyên văn:

列子曰:

痴聾瘖痖傢蠔富,
智慧聰明卻受貧。
年月日時皆載定,
算來由命不由人。
命浬有時終須有,
命浬無時莫強求。

*Âm:-

Liệt Tử viết :

"Si lung ám á gia hào phú,
Trí tuệ thông minh khước thụ bần.
Niên nguyệt nhật thời giai tải định ,
 Toán lai do mệnh bất do nhân .
 Mệnh lý hữu thời chung tu hữu,
Mệnh lý vô thời mạc cưỡng cầu."

*Dịch nghĩa: -


Liệt Tử (*) nói: Kẻ ngây, điếc, ngọng, câm nhà giàu to. Kẻ trí tuệ, thông minh lại chịu nghèo. Năm, tháng, ngày, giờ đều đăng tải ổn định rồi. Tính ra do mệnh (chứ) không do người. Trong mệnh có thời thì rốt cuộc phải có - trong mệnh không có thời thì đừng gượng tìm.

*Diễn ca: -

Ngây, điếc, câm, ngọng, nhà giàu,
Thông minh trí tuệ rớt vào... mồng tơi!
Thì ra số phận xấu chơi,
Kẻ không thời vận, cố bơi cũng chìm!


*Chú thích:-

Liệt Tử: tên thật là Liệt Ngự Khấu, người đời Chu, triết gia chịu ảnh hưởng Ðạo Giáo. Ðệ tử ông chép lời thầy làm nên sách Liệt Tử.

4A.

Nguyên văn:

景行錄云:凡事不可着力處便是命也。會不如命,智不如福。禍不可以倖免,福不可苟求。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :"Phàm sự bất khả trước lực, xứ tiện thị mệnh dã. Hội bất như mệnh, trí bất như phước. Hoạ bất khả dĩ hãnh miễn, phước bất khả cẩu cầu."

*Dịch nghĩa: -

Sách Cảnh Hạnh chép: Hễ gặp việc gì không thể xử lý bằng sức, tức là do mệnh vậy. Cơ hội không bằng mệnh, trí không bằng phướ Họa không thể nhờ may mà khỏi, phước không thể cầu mong dễ dãi.

*Diễn ca: -

Dốc sức việc chả êm xuôi,
Tức là tại mệnh đấy thôi, đừng buồn!
Cơ hội còn phải chịu nhường,
Trí tuệ chẳng dám coi thường phước may.
Mệnh xui họa gió tai bay,
Dù bậc anh tài, cũng khó vượt qua.
Mệnh không dành phước cho ta,
Dù cố nài nỉ, chỉ là uổng công.


IV - Tuyển dịch thiên thứ tư: HIẾU HẠNH

1A.

Nguyên văn:

子曰:身体發膚,受之父母,不敢毀傷,孝之始也。立身行道,揚名于后世,以顯父母,孝之終也。
孝之事親,居則緻其敬,養則緻其樂,病則緻其憂,喪則緻其偯,祭則緻其嚴。故人不爱其亲而爱他人者,谓之悖德;不敬其亲而敬他人者,谓之悖礼。

君子之事亲孝,故忠可移于君;事兄弟,故顺可移于长;居家理,故治可移于官, 是以行成于内而名立于後世矣。


* Âm: -

Tử viết :"Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm huỷ thương, hiếu chi thuỷ dã. Lập thân hành đạo, dương danh vu hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã.

Hiếu chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ y, tế tắc trí kỳ nghiêm. Cố nhân bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, vị chi bội đức ;bất kính kỳ thân nhi kính tha nhân giả, vị chi bội lễ.

Quân tử chi sự thân hiếu, cố trung khả di vu quân ;sự huynh đệ, cố thuận khả di vu trưởng ;Cư gia lý, cố trị khả di vu quan, thị dĩ hành thành vu nội nhi danh lập vu hậu thế hĩ ."

Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Thân thể tóc da là thứ nhận của cha mẹ, không dám làm tổn thương, đó là bắt đầu lòng hiếu thảo vậy. Lập thân, làm đều đúng đạo, nêu tiếng tăm cho đời sau để làm vẻ vang cha mẹ là phần cuối của nết hiếu thảo vậy.

Con hiếu thờ cha me, cư xử phải hết mực cung kính, nuôi nấng phải hết mực vui vẻ, bệnh hoạn, phải hết mực lo lắng, lễ tang phải hết mực nghiêm tú

Thế cho nên, kẻ không yêu mến người thân mà yêu mến người khác gọi là phản bội đạo đức, kẻ không tôn kính người thân mà tôn kính người khác gọi là phản bội lễ giáo.

Bậc quân tử phụng sự người thân hiếu thảo nên dời thành lòng trung với vua, phụng sự anh kính nhường nên dời thành lòng hòa thuận với người lớn hơn, ở nhà biết xử lý đúng nên cách quản lý dời đến việc quan, như vậy là lấy cái nết hình thành ở trong nhà mà tiếng tăm lập nên ở đời sau vậy.

*Diễn ca: -

Thân thể tóc da,
Cha mẹ cho ta.
Giữ sao lành lặn,
Hiếu thảo đấy mà!
Lớn lên giữa đời,
Danh tiếng vang xa.
Vẻ vang cha mẹ,
Cư xử nết na.
Phụng dưỡng vui vẻ,
Ốm đau xót xa.
Cúng tế nghiêm túc,
Bi ai tang ma...
Nếu yêu thiên hạ,
Hơn yêu mẹ cha.
Ấy là lỗi đạo,
Bất hiếu tối đa.
Nếu kính thiên hạ,
Hơn kính mẹ cha.
Ấy là trái lễ,
Rất đáng rầy la.
Làm con có hiếu,
Thờ vua mới trung.
Làm em nhường kính,
Mới trọng bề trên.
Việc nhà đúng đạo,
Việc quan mới nên.
Cư xử trọn vẹn,
Danh tiếng vang rền...

2A.

Nguyên văn:

父母在,不遠游,游必有方。
父母之年不可不知也。一則以喜,一則以懼。
父在觀其志,父沒觀其行。三年無改于父之道,可謂孝矣。


*Âm: -

Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương.
Phụ mẫu chi niên bất khả bất tri dã. Nhất tắc dĩ hỉ, nhất tắc dĩ cụ.
Phụ tại quán kỳ chí, phụ một quán kỳ hành. Tam niên vô cải vu phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ .


*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Cha mẹ còn sống, con không nên đi chơi xa, nếu đi chơi phải có hướng cụ thể.

Tuổi của cha mẹ, con không thể không biết, một là để mừng, một là để sợ.

Cha còn sống, xem chí cha, cha mất, xem đức hạnh cha, ba năm không đổi đường lối của cha, có thể gọi là hiếu vậy.

*Diễn ca: -

Cha mẹ còn sống trên đời,
Phận con chớ có đi chơi mọi miền.
Nếu đi chơi có việc riêng,
Phải lưu địa chỉ, đỡ phiền mẹ cha.
Biết tuổi tác cha mẹ già,
Một là mừng rỡ, một là lo âu.
Cha còn, xem chí cao sâu,
Cha mất, xem nết bấy lâu cho tường.
Cư tang vẫn nhớ luôn luôn,
Thế là hiếu thảo, vẹn đường làm con.

------------------
3A.

Nguyên văn:

太公曰:孝于親,子亦孝之。身既不孝,子何孝焉? 孝順還生孝順子,忤逆還生忤逆儿。不信但看檐頭水,點點滴滴不差移。

*Âm:-

Thái Công viết :Hiếu vu thân, tử diệc hiếu chi. Thân kí bất hiếu, tử hà hiếu yên?

Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử,
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi.
Bất tín đản khan thiềm đầu thuỷ,
Điểm điểm trích trích bất sai di.


Dịch nghĩa:

Thái Công nói: Hiếu thảo với song thân, con cũng hiếu thảo với mình. Bản thân mình đã không hiếu thảo, con làm sao hiếu thảo cho được? Hiếu thuận lại sinh con hiếu thuận, ngỗ nghịch lại sinh đứa ngỗ nghịch. Không tin hãy xem nước đầu thềm, nhỏ giọt, nhỏ giọt chẳng sai chệch.


*Diễn ca: -

Cha mẹ hiếu với ông bà,
Ắt con hiếu với mẹ cha sau nầy.
Cha mẹ bất hiếu thì gay,
Mong gì con cháu sau này hiếu cho?
Ðời này ăn ở so đo,
Ðời sau y hệt, chẳng lo sai lề.
Nước đầu thềm nhỏ một bề,
Giọt sau giọt trước chẳng hề chệch nhau.

4A.

Nguyên văn:

孟子曰:世俗所謂不孝者五:惰其四支,不顧父母之養,一不孝也;博弈好飲酒,不顧父母之養,二不孝也;好貨財,私妻子,不顧父母之養,三不孝也;從耳目之慾,以為父母戮,四不孝也;好勇斗狠,以危父母,五不孝也。


*Âm:-

Mạnh Tử viết :Thế tục sở vị bất hiếu giả ngũ :đoạ kỳ tứ chi, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhất bất hiếu dã ;Bác dịch hảo ẩm tửu, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhị bất hiếu dã ;Hảo hoá tài, tư thê tử, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, tam bất hiếu dã ;Tùng nhĩ mục chi dục, dĩ vi phụ mẫu lục, tứ bất hiếu dã ;Hảo dũng đẩu ngận, dĩ nguy phụ mẫu, ngũ bất hiếu dã.


*Dịch nghĩa: -

Mạnh Tử nói: Cái mà thế tục gọi là bất hiếu có năm điều:
 Biếng lười tứ chi, không chiếu cố nuôi dưỡng cha mẹ là tội bất hiếu thứ nhất.
Ham cờ bạc, thích uống rượu không chiếu cố nuôi dưỡng cha mẹ là tội bất hiếu thứ hai.
 Ham của cải, chỉ nghĩ đến vợ con, không chiếu cố nuôi dưỡng cha mẹ là tội bất hiếu thứ ba.
Buông thả cho sự ham muốn của tai mắt làm cho cha mẹ bị giết (*) đó là tội bất hiếu thứ tư.
Thích to khỏe, đấu đấm đá làm nguy lây cha mẹ, đó là tội bất hiếu thứ năm.

*Diễn ca: -

Năm điều bất hiếu trên đời,
Một là lười nhác, không nuôi sinh thành.
Hai là hưởng thụ một mình,
Bỏ bê cha mẹ mặc tình đói no.
Ba là nhiều vợ lắm kho,
Mặc cho cha mẹ ốm o, nghèo nàn.
Bốn là mặc ý ngang tàng,
Ðể cho cha mẹ liên can, tội đời.
Năm là cậy khỏe đánh người,
Ðể cha mẹ phải thăm nuôi, bồi thường.

*Chú thích:-

Cha mẹ bị giết: Ám chỉ hình phạt tru di tam tộc dành cho tội làm giặc.

******

V - Tuyển dịch thiên thứ năm: CHÍNH KỶ


1A.

Nguyên văn:

性理書云:見人之善而尋己之善,見人之惡而尋己之惡,如此方是有益。


*Âm:-

Tính Lý Thư vân :Kiến nhân chi thiện nhi tầm kỷ chi thiện, kiến nhân chi ác nhi tầm kỷ chi ác, như thử phương thị hữu ích .

*Dịch nghĩa: -


Sách Tính Lý nói: Thấy điều thiện của người mà tìm điều thiện của mình. Thấy điều ác của người mà tìm cái ác của mình, như thế mới đúng là có ích.

*Diễn ca: -


Thấy người làm điều thiện,
Xem lại mình làm chưa?
Thấy người làm điều ác,
Xem mình có biết chừa?
Tự xét kỹ như thế,
Chả cầu cạnh đền chùa!

--------------

2A.

Nguyên văn:


景行錄云:不自重者取辱,不自畏者招禍。不自滿者受益,不自是者博聞。

*Âm: -

Cảnh Hạnh Lục vân :Bất tự trọng giả thủ nhục, bất tự uý giả chiêu hoạ. Bất tự mãn giả thụ ích, bất tự thị giả bác văn .

*Dịch nghĩa:

Sách Cảnh Hạnh chép: Kẻ không tự trọng hứng lấy nhục nhã, kẻ không thấy sợ rước lấy tai họa, kẻ không tự mãn được có thêm, kẻ không tự cho mình đúng sẽ hiếu biết rộng.

*Diễn ca: -

Không tự trọng ắt là chuốc nhục,
Không e dè, có lúc họa bay.
Kẻ không tự mãn mới đầy,
Không cho mình đúng mới hay biết nhiều.

3A.

* Nguyên văn:-

子曰:匿人之善,欺謂蔽賢;揚人之惡,欺謂小人。言人之善,若己有之;言人之惡,若己受之。


*Âm:-

Tử viết :Nặc nhân chi thiện, khi vị tế hiền ;Dương nhân chi ác, khi vị tiểu nhân. Ngôn nhân chi thiện, nhược kỷ hữu chi ;Ngôn nhân chi ác, nhược kỷ thụ chi.

*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Giấu cái thiện của người, đấy gọi là che người hiền. Nêu các ác của người, ấy là tiểu nhân. Nhắc điều thiện của người, cảm thấy mình có phần trong đó. Nhắc điều ác của người, cảm thấy mình chịu đựng nó.

*Diễn ca: -

Không nêu điều thiện của người,
Là gìm kẻ tốt, đáng cười đáng chê.
Người làm ác, mình hả hê,
Rêu rao, dè bĩu là bè tiểu nhân.
Hãy nên tu dưỡng bản thân,
Người làm thiện, tưởng có phần của ta.
Người làm ác, ta xót xa,
Cảm thấy như là mình chịu lỗi chung.

-----------

4A.

* Nguyên văn:-

道吾惡者是吾師,道吾好者是吾賊。

*Âm:-

Đạo ngô ác giả thị ngô sư, đạo ngô hảo giả thị ngô tặc.

*Dịch nghĩa: -

Kẻ nói ra điều xấu của ta đáng thầy ta. Kẻ nói ra điều tốt của ta, đúng là kẻ hại ta.

*Diễn ca: -

Bảo ta xấu, đáng là thầy,
Kẻ khen ta tốt, có ngày hại ta.


5A.

* Nguyên văn:-

子曰:三人同 行,必有我師焉。擇其善者而從之,其不善者而改之。


*Âm: -

Tử viết :Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên. Trạch kỳ thiện giả nhi tùng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi.

*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Ba người cùng đi ,tất có người thầy ta, chọn cái của người thiện mà theo, cái của người bất thiện mà đổi.

*Diễn ca: -

Ba người cùng một chuyến đi,
Tất chẳng thiếu gì thầy dạy cho ta.
Cái hay ta học thêm ra,
Cái dở, ta rọi xấu xa của mình.

-------------
6A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:寡言則省謗,寡慾則保身。保生者寡慾,保身者避名。無慾易,無名難。務名者殺其身。多財者殺其后。


*Âm: -

Cảnh Hạnh Lục vân :Quả ngôn tắc tỉnh báng, quả dục tắc bảo thân. Bảo sinh giả quả dục, bảo thân giả tỵ danh. Vô dục dị, vô danh nan. Vụ danh giả sát kỳ thân. Đa tài giả sát kỳ hậu

*Dịch nghĩa: -

Sách Cảnh Hạnh chép: Ít nói thì bớt bị chê bai, ít tình dục thì giữ được thân mình. Kẻ giữ sự sống thì ít tình dục, kẻ giữ thân thì tránh danh. Không tình dục thì dễ, không danh thì khó. Kẻ ham danh giết thân họ. Kẻ nhiều của giết đời sau của họ.

*Diễn ca: -

Nói ít, giảm tiếng gièm pha,
Bớt ham tình dục, thân ta mới bền.
Giữ mạng, bớt dục mới nên,
Giữ thân, hãm bớt lòng thèm tiếng tăm.
Muốn yên danh giá đừng ham,
Muốn nên dòng dõi, đừng tham của nhiều.


7A.

* Nguyên văn:-

子曰:眾好之,必察焉。眾惡之,必察焉。


*Âm:-

Tử viết :Chúng hảo chi, tất sát yên. Chúng ác chi, tất sát yên.

*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Ðám đông thích, tất phải xét đã. Ðám đông ghét, tất phải xét đã.

*Diễn ca: -

Nhiều người nhất trí hoan hô,
Kẻ khôn phải xét: Vì sao nhiều người?
Nhiều người la ó, chê cười,
Kẻ khôn phải xét ai người giật dây.

-------------

8A.

* Nguyên văn:-

酒中不語真君子。財上分明大丈伕。


*Âm: -

Tửu trung bất ngữ chân quân tử. Tài thượng phân minh đại trượng phu.

*Dịch nghĩa: -

Trong cuộc rượu mà không nói mới thật là người quân tử. Trên chuyện tiền nong mà tách bạch rõ ràng mới đúng là bậc trượng phu.

*Diễn ca: -

Rượu vào thường phải lời ra,
Chỉ người quân tử mới là làm thinh.
Hùn hạp với kẻ phân minh,
Phần người, phần mình sòng phẳng mới hay.
Mới hợp tác được lâu ngày,
Bản lĩnh thế ấy, sánh tày trượng phu.

9A.

* Nguyên văn:-

老子曰:大辯若訥,大巧若拙。澂心清淨可以安神。讒口多言自亡其身。


*Âm:-

Lão Tử viết :Đại biện nhược nột, đại xảo nhược chuyết. Trừng tâm thanh tịnh khả dĩ an thần. Sàm khẩu đa ngôn tự vong kỳ thân.

*Dịch nghĩa: -

Lão Tử nói: Kẻ hùng biện như ấp úng, kẻ quá khéo như vụng về. Lắng lòng thanh tĩnh cơ thể an thần. Miệng gièm nhiều lời, tự đánh mất thân.

*Diễn ca: -

Kẻ hùng biện thường hay ấp úng,
Cố chọn lời thật đúng tình hình.
Kẻ khéo thực hiện công trình,
Thoạt trông dơ dáng dại hình khó ưa.
Bởi kiểu xưa vốn không giống thế,
Chưa quen nhìn, khó thể vừa lòng,
Kẻ giữ tâm thật lắng trong,
Tinh thần mới hòng tĩnh tại, bình an.
Kẻ lắm lời, dễ dàng sơ hở,
Siêng gièm pha lại tự hại mình.
Khiến không ai dám thật tình,
Khiến cho thiên hạ muốn khinh muốn nhờn.

----------------
10A.

* Nguyên văn:-

孟子曰:飲食之人則人賤之矣,為其養小而失大也。


*Âm:-

Mạnh Tử viết :Ẩm thực chi nhân tắc nhân tiện chi hĩ, vi kỳ dưỡng tiểu nhi thất đại dã.

*Dịch nghĩa: -

Mạnh Tử nói: Người chỉ lo ăn uống thì bị người ta coi là hèn hạ vì cho là nuôi chí nhỏ, bỏ chí lớn.


*Diễn ca: -

Kẻ gầy độ nhậu thường xuyên,
Tự hào mình thật sẵn tiền, dám tiêu.
Thế nhưng quên mất một điều,
Thiên hạ đánh giá, kèm nhiều băn khoăn.
Gã nầy chỉ biết ham ăn,
Còn bao việc khác, chẳng bằng ai đâu!


11A.

* Nguyên văn:-

太公曰 : 瓜田不納履,李下不整冠。

*Âm:-

Thái Công viết :Qua điền bất nạp lí, Lý hạ bất chỉnh quan .

*Dịch nghĩa: -

Thái Công nói: Không nên xỏ giày giữa ruộng dưa, không nên chỉnh lại mũ dưới cành mận.


*Diễn ca: -

Xỏ lại giày giữa ruộng dưa,
Lẽ nào chủ ruộng lại chưa nghi ngờ?
Ði dưới cành mận tình cờ,
Giơ tay chỉnh mũ, có vờ hái không?
Ðấy là lời của Thái Công,
Dạy đừng làm những việc không khỏi ngờ.

---------------

12A.

* Nguyên văn:-

孟子曰:愛人不親反其仁,治人不治反其智,禮人不答反其敬。

*Âm:-

Mạnh Tử viết :Ái nhân bất thân phản kỳ nhân, trị nhân bất trị phản kỳ trí, lễ nhân bất đáp phản kỳ kính.

*Dịch nghĩa: -

Mạnh Tử nói: Yêu người nhưng người không thân thiết lại là trái đạo Nhân. Trị người mà người ta không để cho trị là trái chữ Trí. Lễ độ với người mà người không đáp lại là trái chữ Kính.

*Diễn ca: -

Yêu người, người chẳng đáp tình,
Là chưa hết mình thể hiện chữ Nhân.
Trị người, chẳng lập trị an,
Ấy thật rõ ràng chữ Trí chưa tinh.
Chào người, người vẫn làm thinh,
Ấy là chữ Kính hy sinh mất rồi!


13A.

* Nguyên văn:-

曲禮曰:傲不可長,慾不可縱,志不可滿,樂不可极。


*Âm:-

Khúc Lễ viết :Ngạo bất khả trường, dục bất khả túng, chí bất khả mãn, lạc bất khả cực.

*Dịch nghĩa: -

Thiên Khúc Lễ nói: Tính ngạo không thể để cho lớn, không nên buông thả lòng ham muốn, không nên thỏa mãn về chí hướng, không nên vui vẻ đến tột độ.


*Diễn ca: -

Thói ngạo chớ để phình to,
Lòng ham muốn, chớ mặc cho buông tuồng.
Ðừng rằng chí hướng đã xong,
Ðừng vui đầy ứ cả trong lẫn ngoài.

----------------
14A.

* Nguyên văn:-

心無諂曲可与霹靂同居。耳不聞人之非,目不視人之短,口不言人之過,庶几君子。門內有君子,門外君子至。門內有小人,門外小人至。

*Âm: -

Tâm vô siểm khúc khả dữ tích lịch đồng cư. Nhĩ bất văn nhân chi phi, mục bất thị nhân chi đoản, khẩu bất ngôn nhân chi quá, thứ kỷ quân tử. Môn nội hữu quân tử, môn ngoại quân tử chí. Môn nội hữu tiểu nhân, môn ngoại tiểu nhân chí .

** Dịch nghĩa:-

Tâm không gièm pha cong vẹo có thể ở chung với sấm sét. Tai không nghe lỗi của người, mắt không nhìn chỗ kém của người, miệng không nói điều lỗi của người, ngõ hầu thành người quân tử đấy! Trong nhà có sẵn quân tử thì ngoài cửa mới có quân tử đến. Trong nhà có sẵn tiểu nhân thì ngoài cửa mới có tiểu nhân đến.


*Diễn ca: -

Tâm không gièm siểm quanh co,
Thảnh thơi thân thể, chẳng lo oai trời.
Không nghe điều quấy của người,
Không nhìn chỗ dở, không cười điều sai.
Xứng cùng quân tử sánh vai,
Tiểu nhân đứng ngoài, chả dám mon men.

15A.

* Nguyên văn:-

素書云:短莫短于苟得,孤莫孤于自恃。


*Âm:-

Tố Thư vân :Đoản mạc đoản vu cẩu đắc, cô mạc cô vu tự thị.

*Dịch nghĩa: -

Sách Tố thư nói: Không gì ngắn ngủi bằng cái kiếm được hú họa. Không nỗi cô đơn nào hơn nỗi cô đơn tự cậy mình.

*Diễn ca: -

Chợt được đã vội tự hào,
Kiểu thành tích ấy giữ sao lâu dài?
Tự cho mình chẳng cần ai,
Dù bậc kỳ tài vẫn mãi cô đơn...


---------------
16A.

* Nguyên văn:-

子曰:君子泰而不驕,小人驕而不泰。

*Âm:-

Tử viết :Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái.

*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Người quân tử thư thái nhưng không kiêu. Kẻ tiểu nhân kiêu nhưng không cảm thấy thư thái.

*Diễn ca: -

Quân tử thư thái hồn nhiên,
Không hề vênh váo rằng mình thảnh thơi.
Tiểu nhân ra vẻ hơn đời,
Nhưng lòng thấp thỏm sợ người khinh chê.


17A.

* Nguyên văn:-

荀子曰:聰明圣智,不以窮人;濟給速通,不爭先人;剛毅勇敢,不以傷人。不知則問,不能則學。雖能必讓,然后為德。

*Âm:-

Tuân Tử viết :Thông minh thánh trí, bất dĩ cùng nhân ;Tế cấp tốc thông, bất tranh tiên nhân ;Cương nghị dũng cảm, bất dĩ thương nhân. Bất tri tắc vấn, bất năng tắc học. Tuy năng tất nhượng, nhiên hậu vi đức.


*Dịch nghĩa: -

Tuân Tử (*) nói: Thông minh tài trí không lấy nó bắt chẹt người ta. Cứu giúp chu cấp mở lối thoát nhanh không nên lấy đấy lấn lướt người ta. Cương nghị dũng cảm, không nên lấy nó gây tổn thương người ta. Không biết thì hỏi, không có khả năng thì họ Tuy có khả năng nhưng phải khiêm nhường thì mới là có đức.

*Diễn ca: -

Thông minh tài trí hơn đời,
Ðừng đem đè bẹp những người vận đen.
Cứu người bế tắc, khó khăn,
Ðừng nên vin đó, tỏ rằng đàn anh.
Cương nghị, dũng cảm đã đành,
Ðừng nên đem nó gây thành tổn thương.
Không biết phải hỏi là thường,
Khả năng kém sút, tìm đường nâng cao.
Tài giỏi đạt đến bậc nào,
Khiêm nhường nếu kém, đức hao hụt liền.

*Chú thích:-

Tuân Tử: tên người đồng thời là tên tác phẩm Ðạo Ðức học 33 thiên. Ông tên Tuân Huống sống đồng thời với Mạnh Tử và đề xướng thuyết Tính Ác, đối lập thuyết Tính Thiện của Mạnh Tử. Ông quan niệm con người là kẻ ác bẩm sinh, không có giáo dục thì chỉ là dã thú.


VI - Tuyển dịch thiên thứ sáu: AN PHẬN

1A.

** Nguyên văn:-

景行錄云:知足常樂,多貪則憂。知足者貧賤亦樂,不知足者富貴亦憂。知足常足,終身不辱。知止常止,終身不恥。比上不足,比下有余。若比向下,心無有不足者。

*Âm: -

Cảnh Hạnh Lục vân :Tri túc thường lạc, đa tham tắc ưu. Tri túc giả bần tiện diệc lạc, bất tri túc giả phú quí diệc ưu. Tri túc thường túc, chung thân bất nhục .Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ. Tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư. Nhược tỷ hướng hạ, tâm vô hữu bất túc giả .

** Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Biết đủ thường vui, tham nhiều thì lo. Kẻ biết đủ, nghèo hèn cũng vui, kẻ không biết đủ, giàu sang vẫn lo. Biết đủ thường đủ, trọn đời không nhụ Biết dừng luôn dừng được, trọn đời không xấu hổ. So lên không đủ, so xuống có dư. Nếu cứ hướng xuống, tâm không có cảm giác không đủ.

* Diễn ca: -

Biết đủ lòng thấy vui,
Quá tham mới lo sợ.
Biết đủ, nghèo vẫn vui,
Sợ thiếu, giàu vẫn khổ.
Biết đủ luôn thấy đủ,
Trọn đời chẳng nhuốc nhơ.
Biết dừng thường dừng được,
Trọn đời mặt đỡ trơ.
So lên, mình hơi thiếu,
So xuống, mình hơi thừa.
Cứ so xuống như thế,
Lòng ai thấy thiếu chưa?

---------------
2A.

** Nguyên văn:-

子曰:富与貴是人之所慾也,不以其道得之,不處也。貧与賤是人之所惡也,不以其道得之,不去也。不義而富且貴,于我如浮云。


 *Âm:-

Tử viết :Phú dữ quí thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất xử dã. Bần dữ tiện thị nhân chi sở ác dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khứ dã. Bất nghĩa nhi phú thả quí, vu ngã như phù vân.

*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Giàu với sang chính là cái người ta ham muốn (nhưng) không lấy đạo lý để có được nó thì chẳng nên ở vào cảnh ngộ ấy. Nghèo với hèn là cái ai cũng ghét (nhưng) không lấy đạo lý để ghét thì không bỏ cảnh ấy. Bất nghĩa mà vừa giàu vừa sang, đối với ta (chỉ) như mây trôi.

*Diễn ca: -

Ai mà chẳng thích giàu sang,
Thế nhưng lỗi đạo, chẳng màng mới nên.
Ai mà chẳng ghét nghèo hèn,
Ðạo trời bắt vậy, cố quen chẳng rời.
Giàu sang bất nghĩa trên đời,
Ta coi như đám mây trời nổi trôi.


3A.

* Nguyên văn:-

荀子曰:自知者不怨人,知命者不怨天。怨人者窮,怨天者無志。先義而后利者榮,先利而后義者辱。榮者常通,辱者常窮。通者常制人。窮者常制于人是榮辱之大分也。

*Âm:-

Tuân Tử viết :Tự tri giả bất oán nhân, tri mệnh giả bất oán thiên. Oán nhân giả cùng, oán thiên giả vô chí. Tiên nghĩa nhi hậu lợi giả vinh, tiên lợi nhi hậu nghĩa giả nhục. Vinh giả thường thông, nhục giả thường cùng. Thông giả thường chế nhân. Cùng giả thường chế vu nhân thị vinh nhục chi đại phận dã.

*Dịch nghĩa: -

Tuân Tử nói: Kẻ tự biết mình thì không oán người, kẻ hiểu mệnh thì không oán trời. Kẻ oán người thì khốn cùng. Kẻ oán trời thì không có chí. Kẻ nghĩ đến điều nghĩa trước, nghĩ đến điều lợi sau thì vinh. Kẻ nghĩ đến điều lợi trước, nghĩ đến điều nghĩa sau thì nhục. Kẻ vinh thường gặp thông thoáng, kẻ nhục thường gặp khốn cùng. Kẻ thông thoáng thường chế ngự được người ta, kẻ khốn cùng thường bị người ta chế ngự. Ðấy là sự phân biệt lớn giữa vinh với nhục vậy.

*Diễn ca: -

Biết mình thì chẳng oán người,
Biết vận mệnh chẳng oán trời làm chi.
Oán người thì khó gặp thì,
Oán trời, chí hướng khó bì nổi ai.
Lo nghĩa trước lợi mới oai,
Vinh quang tồn tại lâu dài thế gian.
Lo lợi trước nghĩa là tàn,
Nhục nhã cản trở bảo toàn thân danh.
Vinh quang mọi việc đều thành,
Nhục nhã cam đành bế tắc mà thôi.
Có thành mới khống chế người,
Bế tắc cả đời bị khống chế luôn.
Nhục vinh phân biệt đôi đường,
Là điều lớn nhất, phải thường lưu tâm.

-------------
4A.

* Nguyên văn:-

子曰:君子固窮,小人窮廝濫矣。


*Âm:-

Tử viết :Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hĩ.

*Dịch nghĩa: -

Khổng Tử nói: Người quân tử bền lòng chịu bế tắc Kẻ tiểu nhân lạm dụng sự bế tắc.

*Diễn ca: -

Khốn cùng, quân tử bền lòng,
Tiểu nhân gặp khốn, chỉ mong làm xằng.
Khốn cùng nghị lực mới tăng,
Thói hư mới lộ, chê khen mới nhằm.


VII - Tuyển dịch thiên thứ bảy: TỒN TÂM

1A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:坐密室如通衢,馭吋心如六馬。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Toạ mật thất như thông cù, ngự thốn tâm như lục mã.

* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Ngồi nhà kín như ngồi đường thông thoáng, điều khiển tấc lòng như đánh xe sáu ngựa.


*Diễn ca: -

Muốn giữ Tâm mãi còn trong sáng,
Ngồi phòng riêng, tưởng đứng Ngã năm.
Khách xuôi ngược, mắt đăm đăm,
Ðừng nghĩ âm thầm che mắt thế gian.
Kìm giữ Tâm lại càng thêm khó,
Như ngựa đàn tung vó kéo xe,
Ghìm cương buộc ngựa phải nghe,
Ghìm Tâm đừng sổng có bề khó hơn!

-----------------

2A.

* Nguyên văn:-

擊壤詩云:

富貴如將智力求,
仲尼年少合封侯。
世人不解青天意,
空使身心半夜愁。

*Âm:-

Kích Nhưỡng Thi vân :

Phú quí như tương trí lực cầu,
Trọng Ni niên thiếu hợp phong hầu.
Thế nhân bất giải thanh thiên ý,
Không sử thân tâm bán dạ sầu .


* Dịch nghĩa:-

Thơ Kích Nhưỡng (*) nói: Nếu đem sức của trí tuệ mà tìm được giàu sang thì Trọng Ni (Khổng Tử) phù hợp việc phong hầu từ thời tuổi trẻ. Người đời không hiểu ý trời xanh nên để tâm mình buồn suông lúc nửa đêm.


*Diễn ca: -

Thông minh xoay nổi sang giàu,
Trọng Ni ắt đã phong hầu thời trai.
Hiểu ý trời, dễ mấy ai!
Thế nên lắm kẻ đêm dài xót xa.


*Chú thích:-

Thơ Kích Nhưỡng: Nhưỡng là nhạc cụ gõ thời cổ, làm bằng gốm. Người xưa gõ vào nhưỡng để đọc thơ, vè trong các cuộc vui dân gian. Lối diễn xuất ấy gọi là Kích Nhưỡng. Những bài hát ấy tập hợp thành Kích Nhưỡng thi.


3A.

* Nguyên văn:-

范忠宣公誡子弟曰:人雖至愚責人則明。雖有聰明恕己則昏。爾曹但當以責人之心責己,恕己之心恕人,不患不到聖賢地位也。


*Âm:-

Phạm Trung Tuyên Công giới tử đệ viết :Nhân tuy chí ngu trách nhân tắc minh. Tuy hữu thông minh thứ kỷ tắc hôn. Nhĩ tào đản đương dĩ trách nhân chi tâm trách kỷ, thứ kỷ chi tâm thứ nhân, bất hoạn bất đáo thánh hiền địa vị dã.

* Dịch nghĩa:-

Phạm Trung Tuyên công dạy con em rằng: Người tuy rất ngu nhưng biết trách người thì sáng. Tuy có thông minh nhưng tha mình thì mê tối. Bọn ngươi chỉ nên đem cái lòng trách người để trách mình, cái lòng tha mình để tha người, không lo không đạt đến địa vị thánh hiền.


*Diễn ca: -

Dù ai ngu dốt đến đâu,
Trách người sai quấy, mình mau khôn dần.
Kẻ thông minh cũng hóa đần,
Nếu luôn tha thứ những lần mình sai.
Chỉ nên tha thứ lỗi ai,
Lỗi mình mình nhận, đáng vai thánh hiền.

-------------

4A.

* Nguyên văn:-

子曰:聰明睿智,守之以愚;功被天下,守之以讓。勇力振世,守之以怯;富有四海,守之以謙。

*Âm:-

Tử viết :Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu ;Công bị thiên hạ, thủ chi dĩ nhượng. Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp ;Phú hữu tứ hải, thủ chi dĩ khiêm.


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Phải lấy vẻ ngu đần để giữ an toàn cho sự thông minh sắc sảo. Phải lấy sự nhún nhường để giữ an toàn cho cái công lao trùm thiên hạ. Phải giả bộ khiếp sợ để giữ an toàn cho sự dũng cảm rung đời. Hãy giữ vẻ khiêm tốn để giữ sự giàu có bốn biển.


*Diễn ca: -

Kẻ thông minh thật tuyệt vời,
Giả ngu thì mới sống đời bình yên.
Kẻ có công, muốn đỡ phiền,
Chớ nên khoe mẽ công mình lớn lao.
Sức thật khỏe, tài thật cao,
Làm bộ khiếp hãi, xiết bao an toàn!
Dẫu giàu ăn đứt thế gian,
Chịu lép giữ mạng, làm tàng dễ nguy.


5A.

* Nguyên văn:-

子貢曰:貧而無諂,富而無驕。

子曰:「貧而無怨難,富而無驕易。

*Âm:-

Tử Cống viết :[Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu .]

Tử viết :「Bần nhi vô oán nan, phú nhi vô kiêu dị.」


* Dịch nghĩa:-

Tử Cống (*) nói: Nghèo mà không siểm nịnh, giàu mà không kiêu.

Khổng Tử nói: Nghèo mà không oán thì khó. Giàu mà không kiêu thì dễ.


*Diễn ca: -

Sống trên đời kẻ nghèo không nịnh,
Giàu không kiêu, mới chính kẻ hay.
Nghèo mà không oán mới hay,
Giàu không kiêu, tập được ngay, khó gì!


*Chú thích:-

Tử Cống: tên thật là Ðoan Mộc Tứ (520 trước Công Nguyên - ?) học trò xuất sắc của Khổng Tử, có tài kinh doanh.

----------------

6A.

* Nguyên văn:-

古人形似獸,心有大聖德。今人表似人,獸心安可測。有心無相,相自心生,有相無心,相從心滅。


*Âm:-

Cổ nhân hình tự thú, tâm hữu đại thánh đức. Kim nhân biểu tự nhân, thú tâm an khả trắc. Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt .


* Dịch nghĩa:-

Người xưa hình dáng tựa thú nhưng tâm có đức độ của bậc đại thánh. Người nay bề ngoài tựa người nhưng tâm địa của loài thú đâu lường xiết? Có tâm không có tướng, tướng sẽ được tâm sinh cho. Có tướng mà không có tâm, tướng sẽ mất theo tâm.


*Diễn ca: -

Người xưa trông tựa thú hoang,
Cái tâm thánh thiện sáng trong giữa đời.
Người nay đúng thật dáng người,
Lòng lang dạ sói có thừa đấy thôi!
Tâm tốt, hình dáng khó coi,
Rõ tâm, ai xét bề ngoài làm chi?
Mẽ ngoài dầu có uy nghi,
Nhưng tâm đen tối, còn gì mà mong?


7A.

* Nguyên văn:-

人皆道我拙,我亦自道拙。有耳常如聾,有口不會說,你自逞豪強,橫豎有一跌。吃跌教君思,反不如我拙,百巧百成不如一拙。未來休指望,過去莫思量。

*Âm:-

Nhân giai đạo ngã chuyết, ngã diệc tự đạo chuyết. Hữu nhĩ thường như lung, hữu khẩu bất hội thuyết, nễ tự sính hào cường, hoành thụ hữu nhất điệt. Ngật điệt giáo quân tư, phản bất như ngã chuyết, bách xảo bách thành bất như nhất chuyết. Vị lai hưu chỉ vọng, quá khứ mạc tư lương.


* Dịch nghĩa:-

Người đều nói ta vụng, ta cũng nói ta vụng. Có tai thường như điếc, có miệng không biết nói. Mày tự cho giỏi mạnh, bề nào cũng có một lần vấp ngã. Vấp ngã để ngươi nghĩ ra rằng không bằng ta vụng. Trăm khéo trăm nên không bằng một vụng. Cái chưa đến, đừng trông chờ, cái đã qua không lo tính.


*Diễn ca: -

Người chê ta vụng - Xin vâng!
Nghe thì vô ích, nói năng được gì?
Người tự hào chẳng ai bì,
Bề gì lại chẳng có khi lỡ lầm?
Người vấp ngã mới định tâm,
Nhận ra ta vụng có phần tốt thay.
Một vụng ăn đứt trăm hay,
Cả quá khứ, cả tương lai, mặc đời.

Chú ý: Ðoạn này chỉ minh họa chủ thuyết Vô Vi của Ðạo Giáo, mâu thuẫn với chủ thuyết trung hiếu của sách.

-------------------
8A.

* Nguyên văn:-

常將有日思無日,
莫待無時思有時。
有錢常記無錢日,
安樂常思病患時。

*Âm:-

Thường tương hữu nhật tư vô nhật,
Mạc đãi vô thời tư hữu thời.
Hữu tiền thường ký vô tiền nhật,
An lạc thường tư bệnh hoạn thời .


* Dịch nghĩa:-

Thường đem ngày có nhớ ngày không có, đừng đợi lúc không có nhớ lúc có. Có tiền thường nhớ ngày không tiền, yên vui nên phòng lúc hoạn bệnh.


*Diễn ca: -

Ngày có nghĩ đến ngày không,
Ðừng đợi lúc hết, nhớ nhung lúc còn.
Túi đầy nhớ túi rỗng không,
Yên vui cần phải đề phòng ốm đau.


9A.

* Nguyên văn:-

素書云:薄施厚望者不報,貴而忘賤者不久。求人需求大丈夫,濟人須濟急時無。施恩勿求報,與人勿追悔。寸心不昧,萬法皆明。


*Âm:-

Tố Thư vân :Bạc thi hậu vọng giả bất báo, quí nhi vong tiện giả bất cửu. Cầu nhân nhu cầu đại trượng phu, tế nhân tu tế cấp thời vô. Thi ân vật cầu báo, dữ nhân vật truy hối. Thốn tâm bất muội, vạn pháp giai minh .


* Dịch nghĩa:-

Sách Tố Thư nói: Kẻ làm ơn ít ỏi mà mong đền ơn hậu hĩ là không đáng đền đáp. Kẻ sang mà quên lúc hèn là bất nghĩa. Cầu cứu người khác thì nên tìm bậc đại trượng phu, giúp người nên giúp khi người túng ngặt nhất thời. Làm ơn không cầu báo đáp, cho người thì đừng tiếc nuối. Lòng không ám muội thì mọi cách trên đều trong sáng.


*Diễn ca: -

Cho khế chớ mong trả vàng,
Bất nghĩa là kẻ khi sang quên hèn.
Cậy nhờ, tránh kẻ nhỏ nhen,
Cứu giúp, chọn kẻ khó khăn nhất thời.
Ðã cho, đừng tiếc ai ơi,
Ðã làm ơn, chớ mong người trả ơn.
Cái Tâm đừng tính thiệt hơn,
Mọi điều trong sáng như gương cả mà!

-------------------

10A.

* Nguyên văn:-

孫思邈曰:膽欲大而心欲小,智欲圓而行欲方。唸唸有如臨敵日,心心常似過橋時。

*Âm:-

Tôn Tư Mạo viết :Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, trí dục viên nhi hành dục phương. Niệm niệm hữu như lâm địch nhật, tâm tâm thường tự quá kiều thời .


* Dịch nghĩa:-

Tôn Tư Mạo (*) nói: Mật phải muốn lớn mà Tâm phải muốn nhỏ, Trí phải muốn tròn mà Hạnh phải muốn vuông. Ý luôn luôn nghĩ như ngày gặp địch, Tâm thường thấp thỏm như lúc qua cầu.


*Diễn ca: -

Mật phải lớn mà Tâm phải nhỏ,
Trí phải tròn mà Hạnh phải vuông.
Lo như thấy giặc vào vườn,
Sợ như cầu khỉ ngày thường phải qua.


*Chú thích:-

Tôn Tư Mạo: danh y thông thái đời Ðường đồng thời là Ðạo gia tên tuổi, được suy tôn là Tôn chân nhân.

Hàm ý ở đây là: Con người cần phải "lớn" mật để dám nghĩ, dám làm đại sự cho đời, cho mình, mới nuôi được chí lớn. Cái Tâm phải "nhỏ" mới phát huy được lòng tử tế thực thụ (nghĩa gốc của Tử là bé bỏng, nhỏ nhắn, Tế là tinh tường, nhỏ nhoi).

Trí phải "tròn" thì mới lăn được khắp nơi, mới chu toàn, chu đáo mọi việc (nghĩa gốc: chu là vòng quanh, toàn là đầy đủ, đáo là đến).

Hạnh phải "vuông" thì mới ổn định, không lập lờ, xử sự mới dứt khoát bằng tinh thần "bánh chưng ra góc".


11A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:誠無悔,恕無怨,和無仇,忍無辱。懼法朝朝樂,欺公日日憂。小心天下去得,氣剛寸步難移。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Thành vô hối, thứ vô oán, hoà vô cừu, nhẫn vô nhục. Cụ pháp triêu triêu lạc, khi công nhật nhật ưu. Tiểu tâm thiên hạ khứ đắc, khí cương thốn bộ nan di .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Thành thực thì không gặp lúc đen tối, dung thứ thì không gây căm oán, hòa hảo thì không tạo thù hận, nén nhịn thì sẽ không gặp nhục nhã. Sợ phép nước sáng nào cũng vui. Khinh nhờn cửa công thì ngày nào cũng lo âu. Lòng thận trọng thì đi khắp thiên hạ cũng được, khí khái cứng cỏi thì đi một bước nhỏ cũng khó khăn.


*Diễn ca: -

Chân thành đỡ gặp âm mưu,
Rộng lượng tha thứ, oán cừu ít sinh.
Ai thù chi kẻ hiền lành?
Người khéo nín nhịn đỡ thành nhuốc nhơ.
Sợ phép nước, sống phởn phơ,
Nhờn cửa quan, chẳng bao giờ được yên.
Thận trọng dễ dạo khắp miền,
Cứng đầu, một bước gặp phiền phức ngay.

--------------------

12A.

* Nguyên văn:-

朱子曰:守口如瓶,防意如城。是非只為多開口,煩惱皆因強出頭。

*Âm:-

Chu Tử viết :thủ khẩu như bình, phòng ý như thành. Thị phi chỉ vi đa khai khẩu, phiền não giai nhân cưỡng xuất đầu .


* Dịch nghĩa:-

Chu Tử (*) nói: Giữ miệng như miệng bình, phòng ý như có thành che. Phải quấy chỉ vì mở miệng nhiều. Phiền não đều tại gắng ép ra mặt.

*Diễn ca: -

Biết điều, bưng kín miệng bình,
Giữ ý như đặt trong thành chở che.
Cãi nhau vì nói khó nghe,
Bực vì ương bướng chẳng hề nhịn nhau.

*Chú thích:-

Chu Tử: Tên thực là Chu Hi (1130 - 1200) đỗ tiến sĩ, làm quan trải 4 đời vua Tống. Ông là nhân vật tiêu biểu cho nho học đời Tống, qui tụ nhiều danh nho uyên bá Vua Khang Hi (Thanh Thánh Tổ (1662 - 1722) đã thờ chung ông vào nhóm Thập triết 10 đại đệ tử của Khổng Tử) Ông cũng được gọi là Chu Văn Công, tự Nguyên Hối, Trọng Hối, Hối Ông.


13A.

* Nguyên văn:-

素書云:有過不知者自蔽之也,以言取怨者之禍也。


*Âm:-

Tố Thư vân :Hữu quá bất tri giả tự tế chi dã, dĩ ngôn thủ oán giả chi hoạ dã .


* Dịch nghĩa:-

Sách Tố Thư nói: Kẻ có lỗi mà không biết là tự che vậy. Kẻ dùng lời nói chuốc oán là tự gây họa vậy.


*Diễn ca: -

Lỗi mình đã rõ sờ sờ,
Nếu không nhận biết là nhờ ém đi.
Nói lời gây oán làm chi!
Tự mình chuốc họa, khôn gì mà khôn?

----------------

14A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:貪是逐物於外,欲是情動於中。君子愛財,取之有道。君子憂道不憂貧,君子謀道不謀食。君子坦蕩蕩,小人長慼慼。量大福亦大。機深禍亦深。莫為福首,莫作禍先。各人自掃門前雪,莫管他人屋上霜。心不負人,面無慚色。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Tham thị trục vật ư ngoại, dục thị tình động ư trung. Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo. Quân tử ưu đạo bất ưu bần, quân tử mưu đạo bất mưu thực. Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trường thích thích. Lượng đại phước diệc đại. Cơ thâm hoạ diệc thâm. Mạc vi phước thủ, mạc tác hoạ tiên. Các nhân tự tảo môn tiền tuyết, mạc quản tha nhân ốc thượng sương. Tâm bất phụ nhân, diện vô tàm sắc .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Tham là đuổi bắt vật ở ngoài. Muốn là tình động ở trong. Quân tử yêu của nhưng lấy nó có đạo lý. Quân tử lo đạo chứ không lo nghèo. Quân tử mưu tính đạo lý chứ không mưu tính cái ăn. Quân tử bình thản thênh thang, tiểu nhân buồn lây lất. Lượng lớn phước cũng lớn, mưu sâu họa cũng sâu. Ðừng làm kẻ hưởng phước đầu tiên, đừng làm kẻ gây họa trước hết. Mỗi người tự quét tuyết trước cửa, đừng bận tâm sương phủ mái nhà người khác. Lòng không phụ người thì mặt không có sắc thẹn.


*Diễn ca: -

Tham là vơ vét của đời,
Muốn là rạo rực chính nơi lòng mình.
Của tiền, quân tử chẳng khinh,
Chỉ là tham muốn hợp tình mà thôi.
Quân tử vui với đạo trời,
Nghèo nàn cam chịu, chẳng lời thở than.
Lo đạo, chẳng lo cái ăn,
Lòng luôn bình thản, khó khăn mặc đời.
Tiểu nhân buồn bực không ngơi,
Ðộ lượng càng lớn, phước đời càng to.
Tâm cơ sâu, họa đáng lo,
Dù họa dù phước chớ so hơn người.
Việc mình lo tốt mười mươi,
Ðừng mãi chê cười thiên hạ xấu xa.
Lòng mình chẳng phụ người ta,
Khỏi lo ngượng với kẻ xa người gần...


15A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:休恨眼前田地窄,退後一步自然寬。世無百歲人,枉作千年計。兒孫自有兒孫福,莫把兒孫作馬牛。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Hưu hận nhãn tiền điền địa trách, thoái hậu nhất bộ tự nhiên khoan. Thế vô bách tuế nhân, uổng tác thiên niên kế. Nhi tôn tự hữu nhi tôn phước, mạc bả nhi tôn tác mã ngưu.


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Ðừng hận ruộng trước mắt hẹp, bước lùi một bước tự nhiên thấy rộng ra. Ðời không có người trăm tuổi (Thế mà có kẻ) uổng công làm kế hoạch nghìn năm. Con cháu tự có phước của con cháu. (Cha ông) đừng vì con cháu mà làm trâu ngựa.


*Diễn ca: -

Nhìn trước mắt, ruộng đồng quá hẹp,
Lùi bước chân, rộng đẹp ngay ra.
Mấy ai trăm tuổi đâu mà!
Hòng chi nghìn tuổi, thật là viển vông!
Cháu con có phước cháu con,
Bắt làm trâu ngựa, đời còn gì vui?

---------------------

16A.

* Nguyên văn:-

世上無難事,都來心不專。寧結千人意,莫結一人冤。忍難忍之事,恕不明之人。規小節者不能成榮名。惡小恥者不能成大功。無求勝佈施,謹守勝持齋。言輕莫勸鬧,無錢莫請人。


*Âm:-

Thế thượng vô nan sự, đô lai tâm bất chuyên. Ninh kết thiên nhân ý, mạc kết nhất nhân oan. Nhẫn nan nhẫn chi sự, thứ bất minh chi nhân. Quy tiểu tiết giả bất năng thành vinh danh. Ác tiểu sỉ giả bất năng thành đại công. Vô cầu thắng bố thí, cẩn thủ thắng trì trai. Ngôn khinh mạc khuyến náo, vô tiền mạc thỉnh nhân .


* Dịch nghĩa:-

Trên đời không việc khó, chỉ khó do không chuyên tâm. Thà kết ý nghìn người chứ không kết oán với một người. Nhịn thứ việc khó nhịn, tha cho người không sáng suốt. Kẻ khép mình vào những qui định nhỏ nhặt không làm được chuyện vang danh. Kẻ ghét sự xấu hổ vặt vãnh không làm nên công lớn. Không cầu xin hay hơn bố thí. Giữ cẩn thận hay hơn ăn chay. Nói năng hời hợt thì đừng huênh hoang tranh biện, không tiền bạc chớ nên mời khách.


*Diễn ca: -

Ở đời việc khó có là bao!
Chỉ tại người không để ý vào.
Chiều ý nghìn người là việc đúng,
Chớ nên trái ý một ai nào.
Nhịn giỏi, nhìn điều gay khó nhất,
Tha hay, tha kẻ hiểu lơ mơ.
Trách vặt, khó nên vinh dự lớn,
E dè thẹn nhỏ, chẳng công to.
Không thèm cầu cạnh hơn ban phát,
Khéo giữ, chay đàn đỡ phải lo.
Lời mọn đừng nên ầm ỹ lắm,
Không tiền, mời khách chẳng hay ho.


17A.

* Nguyên văn:-

寇萊公六悔銘:官行私曲失時悔。富不儉用貧時悔。勢不少惜,過時悔。見事不學,用時悔。酒後狂言,醒時悔。安不得息,病時悔。


*Âm:-

Khấu Lai Công "Lục Hối Minh" :

Quan hành tư khúc thất thời hối .
Phú bất kiệm dụng bần thời hối.
Thế bất thiếu tích, quá thời hối.
Kiến sự bất học, dụng thời hối.
Tửu hậu cuồng ngôn, tỉnh thời hối.
An bất đắc tức, bệnh thời hối .


* Dịch nghĩa:-

Bài minh "Sáu điều hối hận" của Khấu Lai Công (*) viết:

- Ở chức quan làm điều quanh co tư túi, lúc mất quan thì hối hận.

- Giàu có không tiêu dùng tiện tặn, lúc nghèo thì hối hận.

- Có thế lực không tiếc một chút, lúc phạm lỗi thì hối hận.

- Thấy việc không học, đến lúc cần dùng thì hối hận.

- Sau khi uống rượu buông lời cuồng ngông, lúc tỉnh lại hối hận.

- Lúc yên ổn không nghỉ ngơi, khi đau ốm lại hối hận.


*Diễn ca: -

Làm quan vun vén riêng tư,
Mất quan mới hối, ngồi thừ thở ra.
Lúc giàu, thỏa sức tiêu pha,
Ðến khi nghèo túng, xót xa làm gì!
Ðắc thế chẳng chút nể vì,
Phạm lỗi mới hối, "thế" đi mất rồi!
Việc đáng học, cứ buông xuôi,
Ðến khi gặp việc, làm hư lại buồn.
Khi say, lảm nhảm ngông cuồng,
Tỉnh ra lại hối hận suông, lộn giờ!
Lúc yên chẳng chịu nghĩ ngơi,
Bê tha bệnh hoạn, hối thời vô phương.


*Chú thích:-

Khấu Lai Công: tức Khấu Chuẩn (961 - 1023). Tể tướng đời Tống, theo vua Chân Tông đi đánh Khiết Ðan (nước Liêu) được phong tước Lai Quốc Công nên gọi tắt là Khấu Lai Công.

-------------------

18A.

* Nguyên văn:-

孫景初安樂法:粗茶淡飯,飽即休。補破遮寒暖即休。三平二滿,過即休。不貪不妬,老即休。


*Âm:-

Tôn Cảnh Sơ an lạc pháp :

Thô trà đạm phạn, bão tức hưu.
Bổ phá già hàn noãn tức hưu.
Tam bình nhị mãn, quá tức hưu.
Bất tham bất đố, lão tức hưu .


* Dịch nghĩa:-

Phép yên vui của Tôn Cảnh Sơ là: Trà thô cơm nhạt, no thì thôi. Vá chỗ rách, che chỗ rét, ấm thì thôi. Nếu ba phần mới vừa nhưng chỉ thỏa mãn được hai, qua rồi thì thôi. Không tham lam, không ghen ghét, già rồi thì thôi.


*Diễn ca: -

Chẳng đòi đặc sản, danh trà,
Cứ no cái bụng là ta vừa lòng.
Áo rách vá lại là xong,
Gió lùa che kỹ, chẳng mong lắm tầng.
Việc đời đòi hỏi ba phần,
Hai phần thỏa mãn, chẳng cần hỏi thêm.
Tham lam, ganh tị đừng thèm,
Chỉ mong nhẹ nhõm ngày đêm đến già.


19A.

* Nguyên văn:-

益智書云:寧無事而家貧,莫有事而家富。寧無事而住茅屋,莫有事而住金玉。寧無病而食粗飯,莫有病而食良藥。


*Âm:-

 Ích Trí Thư vân :

Ninh vô sự nhi gia bần, mạc hữu sự nhi gia phú.
Ninh vô sự nhi trú mao ốc, mạc hữu sự nhi trú kim ngọc.
Ninh vô bệnh nhi thực thô phạn, mạc hữu bệnh nhi thực lương dược .


* Dịch nghĩa:-

Sách Ích Trí nói: Thà vô sự mà nhà nghèo, không hữu sự mà nhà giàu. Thà vô sự mà ở lều tranh, không hữu sự mà ở nơi vàng ngọ Thà không bệnh mà ăn cơm hẩm hơn có bệnh mà dùng thuốc hay.


*Diễn ca: -

Thà là vô sự sống nghèo,
Không thèm hữu sự sống theo cảnh giàu.
Tranh tre trống trước hở sau,
Không thèm hữu sự chuốt trau ngọc vàng.
Cơm hẩm xơi lúc bình an,
Còn hơn bệnh tật thuốc thang đắt tiền.

---------------

20A.

* Nguyên văn:-

心安茅屋穩,性定菜根香。世事靜方見,人情淡始長.


*Âm:-

Tâm an mao ốc ổn, tính định thái căn hương. Thế sự tĩnh phương kiến, nhân tình đạm thuỷ trường .


* Dịch nghĩa:-

Tâm yên thì ở nhà tranh cũng ổn. Tính ổn định thì ăn rễ rau cũng thấy thơm. Việc đời phải yên tĩnh mới thấy rõ. Tình người nhạt nhẽo mới lâu dài.


*Diễn ca: -

Tâm mà yên, lều tranh cũng ổn,
Tính vững vàng, rễ cải cũng thơm.
Lúc thanh tĩnh, rõ đời hơn,
Tình người thoang thoảng mới thơm lâu dài.


(còn tiếp)

nhuocthuy:
(tiếp theo)

21A.

* Nguyên văn:-

風波境界立身難,
處世規模要放寬。
萬事盡從忙裡錯,
此心須向靜中安。
路當平處更行穩,
人有常情耐久看,
直到始終無悔吝,
才生枝節便多端。

*Âm:-

Phong ba cảnh giới lập thân nan,
Xử thế qui mô yếu phóng khoan.
Vạn sự tận tùng mang lý thác,
Thử tâm tu hướng tĩnh trung an.
Lộ đương bình xứ cánh hành ổn,
Nhân hữu thường tình nại cửu khan.
Trực đáo thủy chung vô hối lận,
Tài sinh chi tiết tiện đa đoan .


* Dịch nghĩa:-

Trong cảnh sóng gió lập thân khó. Cung cách ở đời cần phải buông thoáng. Muôn việc nhầm lẫn đều do vội vàng. Cái Tâm cần hướng đến sự nhàn nhã trong yên tĩnh. Ðường gặp chỗ bằng phẳng người đi mới ổn. Người có giữ tính bình thường thì mới chịu đựng được nhìn nhau lâu. Thẳng thắn từ trước đến sau mới không hối tiếc, mới không sinh cành nhánh lắm mối rối ren.

*Diễn ca: -

Trong sóng gió lập thân mới khó,
Nên ở đời chớ có bôn chôn.
Vội vàng thường hỏng việc luôn,
Nên chi cần giữ cho lòng lặng an.
Ði an toàn nhờ đường bằng phẳng,
Hiểu tình nhau mới đặng bền lâu.
Muốn đừng hối hận trước sau,
Chớ sinh lắm chuyện không đâu gây phiền.

-----------------

22A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:責人者不全交,自恕者不改過。有勢不要使人承,落得孩兒叫小名。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Trách nhân giả bất toàn giao, tự thứ giả bất cải quá. Hữu thế bất yếu sử nhân thừa, lạc đắc hài nhi khiếu tiểu danh .

* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Kẻ trách người là không biết kết giao hết lòng. Kẻ tự tha mình thì không sửa lỗi. Có thế lực không được buộc người ta kẻo khi rơi khỏi đấy bị trẻ con réo tên thời bé.

*Diễn ca: -

Trách nhau bất cứ dịp nào,
Những người như thế, kết giao khó toàn.
Lỗi mình đã quá rõ ràng,
Xuê xoa thì muốn đàng hoàng còn lâu!
Ðang khi thế lớn quyền cao,
Ðừng bắt thiên hạ bảo sao phải chiều.
Kẻo khi quyền thế tiêu điều,
Trẻ con nhờn mặt bao nhiêu thì nhờn!


23A.

* Nguyên văn:-

君子成人之美,不成人之惡。小人反是。


*Âm:-

 Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị .


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Người quân tử làm thành cái tốt cho người, không làm thành cái xấu cho người. Kẻ tiểu nhân thì trái lại.

*Diễn ca: -

Quân tử nghĩ tốt cho người,
Không tìm sơ hở chê cười nhỏ nhen.
Tiểu nhân kể xấu thành quen,
Tưởng chê thiên hạ, cái khen về mình.

-------------------

24A.

* Nguyên văn:-

孟子曰:君子不怨天,不尤人。

*Âm:-

Mạnh Tử viết :Quân tử bất oán thiên, bất vưu nhân .

* Dịch nghĩa:-

Mạnh Tử nói: Người quân tử không oán trời, không trách người.

*Diễn ca: -

Nên, hư, quân tử trách mình,
Với trời không oán, chẳng sinh trách người.


25A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:夙興夜寐所思忠孝者,人不知天必知之。飽食暖衣怡然自衛者,身雖安其如子孫何?以愛妻子之心事親則盡孝,以保富貴之心事君則盡忠。以責人之心責己則寡過,以恕己之心恕人則全交。爾謀不及告之何及?爾見不長告之何益?利心專則背道,私意確則滅公。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Túc hưng dạ mị sở tư trung hiếu giả, nhân bất tri thiên tất tri chi .Bão thực noãn y di nhiên tự vệ giả, thân tuy an kỳ như tử tôn hà ?Dĩ ái thê tử chi tâm sự thân tắc tận hiếu, dĩ bảo phú quí chi tâm sự quân tắc tận trung. Dĩ trách nhân chi tâm trách kỷ tắc quả quá, dĩ thứ kỷ chi tâm thứ nhân tắc toàn giao. Nhĩ mưu bất cập cáo chi hà cập ?Nhĩ kiến bất trường cáo chi hà ích ?Lợi tâm chuyên tắc bối đạo, tư ý xác tắc diệt công .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Kẻ suốt ngày chỉ nghĩ đến điều trung hiếu người không biết nhưng trời tất biết. Kẻ chỉ biết hớn hở bám lấy ăn no mặc ấm, thân tuy yên nhưng con cháu họ mới sao? Ðem cái lòng yêu vợ con mà thờ cha mẹ tất trọn hiếu, đem cái lòng giữ gìn giàu sang ra thờ vua thì sẽ tận trung, đem cái lòng trách người ra trách mình thì ít lỗi, đem cái lòng tha mình ra tha người thì trọn nghĩa giao du.

Ngươi tính chưa đến thế, ta báo cho ngươi chắc gì ngươi hiểu đến thế? Ngươi tính chưa lâu dài, báo cho ngươi (tính lại) chắc gì có ích? Chăm chăm đeo đuổi lòng ham lợi thì phản bội đạo lý. Ý riêng đã bền chắc thì tiêu diệt lẽ công.

*Diễn ca: -

Chăm chăm trung hiếu đêm ngày,
Người dù chưa rõ, trời hay biết liền.
Chăm chăm no ấm cho mình,
Mai sau ai biết sự tình cháu con?
Thứ tình yêu vợ thương con,
Ðem thờ cha mẹ hiếu tròn vẹn ngay.
Bo bo phú quí khôn lay,
Thờ vua được vậy, tôi ngay nhất đời!
Trách người một, trách mình mười,
Sẽ ít sai quấy, người đời ngợi khen.
Với mình tha thứ vốn quen,
Với người cũng vậy, giao tình bền lâu.
Nếu ngươi chưa chịu nghĩ sâu,
Giảng cho ngươi biết, ngươi đâu... học bài?
Ngươi vụng tính kế lâu dài,
Giảng ra ngươi hẳn chê bai lắm điều.
Ham lợi lắm, lỗi đạo nhiều,
Ý riêng bám chặt, tiêu điều lẽ chung...

----------------

26A.

* Nguyên văn:-

會做快活人,凡事莫生事。
會做快活人,省事莫惹事。
會做快活人,大事化小事。
會做快活人,小事化沒事。


*Âm:-

Hội tố khoái hoạt nhân, phàm sự mạc sinh sự.
Hội tố khoái hoạt nhân, tỉnh sự mạc nặc sự.
Hội tố khoái hoạt nhân, đại sự hoá tiểu sự.
Hội tố khoái hoạt nhân, tiểu sự hoá một sự .


* Dịch nghĩa:-

Người hiểu lẽ vui sống, việc đừng đẻ thêm việc. Người hiểu lẽ vui sống, bớt việc không bày việc. Người hiểu lẽ sống vui, việc lớn hóa việc nhỏ. Người hiểu lẽ sống vui việc nhỏ hóa không việc.

*Diễn ca: -

Ai hiểu cách sống cho vui vẻ,
Ðừng nên làm việc đẻ thêm cho.
Ai hiểu cách sống cho vui vẻ,
Ðừng quen trò việc bé xé to.
Ai hiểu cách sống cho vui vẻ,
Gặp việc to, thu bé cho xong.
Ai hiểu cách sống cho vui vẻ,
Việc nhỏ nhoi, coi nhẹ bằng không.


******


VII - Tuyển dịch thiên thứ tám: GIỚI TÍNH


1A.

* Nguyên văn:-

景 行錄云:人性如水,水一傾則不可復,性一縱則不可反。制水者必以堤防,制性者必以禮法。忍一時之氣,免百日之憂。得忍且忍,得戒且戒。不忍不戒,小事成 大。一切諸煩惱,皆從不忍生。臨機與對境,妙在先見明,佛語在無諍,儒書貴無爭。好條快活路,世上少人行。忍是心之寶,不忍身之殃。舌柔常在口,齒折只為 剛。思量這忍字,好個快活方,愚濁生嗔怒,皆因理不通,休添心上焰,只作耳邊風。長短家家有,炎涼處處同。是非無實相,究竟終成空。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Nhân tính như thuỷ, thuỷ nhất khuynh tắc bất khả phục, tính nhất túng tắc bất khả phản. Chế thuỷ giả tất dĩ đê phòng, chế tính giả tất dĩ lễ pháp. Nhẫn nhất thời chi khí, miễn bách nhật chi ưu. Đắc nhẫn thả nhẫn, đắc giới thả giới. Bất nhẫn bất giới, tiểu sự thành đại. Nhất thiết chư phiền não, giai tùng bất nhẫn sinh. Lâm cơ dữ đối cảnh, diệu tại tiên kiến minh, Phật ngữ tại vô tranh, Nho thư quí vô tranh. Hảo điều khoái hoạt lộ, thế thượng thiếu nhân hành. Nhẫn thị tâm chi bảo, bất nhẫn thân chi ương. Thiệt nhu thường tại khẩu, xỉ chiết chỉ vi cương. Tư lương giá nhẫn tự, hảo cá khoái hoạt phương, ngu trọc sinh sân nộ, giai nhân lý bất thông, hưu thiêm tâm thượng diễm, chỉ tác nhĩ biên phong. Trường đoản gia gia hữu, viêm lương xứ xứ đồng. Thị phi vô thực tướng, cứu cánh chung thành không .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Tính người như nước, nước một khi nghiêng trút thì không thể trở lại được, tính một khi buông thả thì không thể trở về đượ Ngăn nước phải dùng đê ngừa, giữ tính phải dùng lễ phép. Nhịn cơn giận một lúc, đỡ bị mối lo trăm ngày. Nhịn được thì nhịn, ngừa được thì ngừa. Không nhịn không ngừa, việc nhỏ thành lớn. Tất cả mọi phiền não đều xảy ra từ chỗ không nhịn. Gặp cơ hội cùng đối đầu cảnh ngộ điều kỳ diệu là ở chỗ sáng suốt nhận thấy trước. Lời Phật quý ở không cãi, sách nho quý ở không tranh. Lối dài đường vui sống, trên đời ít người đi. Nhịn là của báu của thân, không nhịn là tai ương của thân. Lưỡi mềm thường ở miệng, răng gãy chỉ vì cứng. Nghĩ ra chữ Nhịn ấy là phương thuốc hay cho việc vui sống. Ngu đục sinh giận dữ đều do lẽ chẳng thông suốt. Ðừng thêm lửa lên Tâm, chỉ nên làm gió bên tai. Hay dở thì nhà nào cũng có, nóng lạnh nơi nào cũng như nhau. Phải quấy không có bộ mặt thật, cuối cùng tất cả đều trống rỗng.


*Diễn ca: -

Nước đã trút khó bề hốt lại,
Tính đã buông, lỡ dại khó khôn.
Ðắp đê chận nước là hơn,
Ðem lễ phép chận những cơn ngông cuồng.

Nén cơn giận cắt nguồn lo lắng,
Biết dè chừng, việc chẳng xé to.
Ðối đầu cảnh ngộ phải lo,
Sáng suốt nhận rõ gay go từ đầu.

Lời Phật dạy biết câu nhượng bộ,
Ðạo nho khuyên hãy cố đừng tranh.
Ðường đời vui, vắng bộ hành,
Nhịn là của báu trời dành cho ta.

Không nhịn nổi ấy là tai họa,
Lưỡi nhờ mềm nên đã còn nguyên.
Cứng như răng, bị gãy liền,
Gẫm ra giỏi nhịn là niềm sống vui.

Nghĩ những kẻ vừa ngu vừa đục,
Dễ giận hờn, đầu óc khó thông.
Chớ nên thêm lửa vào lòng,
Thị phi như gió, thổi xong là rồi.

Tình ấm lạnh mọi nơi đều có,
Chuyện dở hay nhà đó như đây.
Chẳng gì chắc chắn xưa nay,
Cuối cùng mọi chuyện có ngày rỗng không.


2A.

* Nguyên văn:-

子張欲行,辭於夫子願賜一言為修身之要。夫子曰:百行之本,忍之為上。子張曰:何為忍之?夫子曰:天子忍之,國無害,諸侯忍之,成其大,官吏忍之,進其位,兄弟忍之,家富貴。夫婦忍之,終其世,朋友忍之,名不廢。自身忍之,無禍患。
子張曰:不忍何如?

夫子曰:天子不忍,國空虛。,諸侯不忍,喪其軀,官吏不忍,刑罰誅,兄弟不忍,各分居,夫妻不忍,情意疏,自身不忍,患不除。


*Âm:-

Tử Trương dục hành, từ ư Phu Tử nguyện tứ nhất ngôn vi tu thân chi yếu.
Phu Tử viết :Bách hạnh chi bản, nhẫn chi vi thượng.
Tử Trương viết :Hà vi nhẫn chi ?
Phu Tử viết :Thiên tử nhẫn chi, quốc vô hại, chư hầu nhẫn chi, thành kỳ đại, quan lại nhẫn chi, tiến kỳ vị, huynh đệ nhẫn chi, gia phú quí, phu phụ nhẫn chi, chung kỳ thế, bằng hữu nhẫn chi, danh bất phế. Tự thân nhẫn chi, vô hoạ hoạn.

Tử Trương viết :Bất nhẫn hà như ?

Phu Tử viết :Thiên tử bất nhẫn, quốc không hư. Chư hầu bất nhẫn, táng kỳ khu, quan lại bất nhẫn, hình phạt tru, huynh đệ bất nhẫn, các phân cư, phu thê bất nhẫn, tình ý sơ, tự thân bất nhẫn, hoạn bất trừ.


* Dịch nghĩa:-

Tử Trương (*) sắp lên đường, đến từ biệt Phu Tử xin ban cho một lời làm điều cốt yếu để sửa mình.
 Phu Tử nói: Gốc của trăm nết, Nhịn là đứng đầu.
Tử Trương nói: Nhịn thì thế nào ạ?
Phu Tử nói: Bậc thiên tử nhịn được, nước không thiệt hại, vua chư hầu nhịn được, làm nên việc lớn, quan lại nhịn được, địa vị tiến xa. Anh em nhịn được, nhà giàu có. Vợ chồng nhịn được, ăn ở trọn đời. Bạn bè nhịn được, danh nghĩa không bị vứt bỏ. Bản thân nhịn được, không gặp tai họa.

Tử Trương nói: Không nhịn thì thế nào ạ?
Khổng Tử đáp: Thiên tử không nhịn, nước trống rỗng, chư hầu không nhịn, tự mất xác, quan lại không nhịn, hình phạt giết, anh em không nhịn được, tách ra riêng, vợ chồng không nhịn được, tình nghĩa rời, bản thân không nhịn được, hoạn nạn không dứt.


*Diễn ca: -

Tử Trương cung kính hỏi Thầy:
Sửa mình cần giữ điều gì mới an?
Khổng Tử nói: Khắp thế gian,
Chỉ cần biết "nhẫn" là an tình hình.
Thiên tử "nhẫn", nước thanh bình,
Chư hầu "nhẫn", địa phương mình mở mang.
Quan "nhẫn" địa vị thêm sang,
Anh em "nhẫn" cảnh nhà càng giàu ra.
Vợ chồng "nhẫn" tình thiết tha,
Bạn bè "nhẫn" mới vang xa tiếng lành.
Ai đem chữ "nhẫn" giữ mình,
Thì bao tai họa thôi rình rập ngay.
Tử Trương tiếp tục hỏi Thầy:
Lỡ không "nhẫn" nổi, chuyện này ra sao?
Khổng Tử đáp: Hại rất to,
Thiên tử không "nhẫn" của kho chẳng đầy.
Chư hầu không "nhẫn" tan thây,
Quan lại không "nhẫn" dắt tay vào tù.
Anh em không "nhẫn" là ngu,
Sống chung khá giả, phân cư hóa nghèo.
Vợ chồng không "nhẫn" càng eo,
Tình nghĩa lạnh nhạt, cám treo heo thèm.
Bản thân không "nhẫn" khó êm,
Nạn to, nạn nhỏ, ngày đêm khó trừ.


*Chú thích:-

Tử Trương: tên thật là Chuyên Tôn Sư, một trong số mười học trò xuất sắc của Khổng Tử, kém Khổng Tử 48 tuổi.


3A.

* Nguyên văn:-

張敬夫曰:小勇者血氣之怒,大勇者禮義之怒也。血氣之怒不可有,禮義之怒不可無.


*Âm:-

Trương Kính Phu viết :Tiểu dũng giả huyết khí chi nộ, đại dũng giả lễ nghĩa chi nộ dã. Huyết khí chi nộ bất khả hữu, lễ nghĩa chi nộ bất khả vô.


* Dịch nghĩa:-

Trương Kính Phu nói: Kẻ dũng cảm nhỏ là do sự giận dữ của huyết khí. Kẻ dũng cảm lớn là do sự giận dữ vì lễ nghĩa. Giận dữ huyết khí không nên có, giận dữ lễ nghĩa không nên không có.


*Diễn ca: -

Dũng cảm có cỡ hẳn hoi,
Cỡ nhỏ không ngoài tức khí nổi xung.
Cỡ lớn để tạo anh hùng,
Thấy trái lễ nghĩa, đùng đùng ra tay.
Cỡ nhỏ phải nén nhịn ngay,
Cỡ lớn mỗi ngày đều phải phát huy.

--------------

4A.

* Nguyên văn:-

惡人罵善人,善人總不對。善人若還對,彼此無智慧。不對心清涼,罵者口熱沸。正如人唾天,還從己身墜。我若被人罵,佯聾不分說。譬如火當空,不救自然滅。嗔火亦如是,有物遭他熱,我心等空虛,聽爾翻唇舌。


*Âm:-

Ác nhân mạ thiện nhân, thiện nhân tổng bất đối. Thiện nhân nhược hoàn đối, bỉ thử vô trí tuệ. Bất đối tâm thanh lương, mạ giả khẩu nhiệt phí. Chính như nhân thoá thiên, hoàn tùng kỷ thân truỵ. Ngã nhược bị nhân mạ, dương lung bất phân thuyết. Thí như hoả đương không, bất cứu tự nhiên diệt. Sân hoả diệc như thị, hữu vật tao tha nhiệt, ngã tâm đẳng không hư, thính nhĩ phiên thần thiệt .


* Dịch nghĩa:-

Người ác mắng người thiện, người thiện không nói lại, người thiện mà nói lại, đây đấy không trí tuệ. Không đáp tâm trong mát, kẻ mắng miệng nóng sôi, đúng như người nhổ lên trời, quay lại trúng nhằm mình. Nếu ta bị người mắng, giả điếc nghe không rõ, ví như lửa chỗ trống, không chữa tự nhiên tắt. Lửa giận cũng như vậy, có vật gặp lửa ấy. Tâm ta đều trống không, mặc sức cho nó khua môi múa lưỡi.


*Diễn ca: -

Kẻ ác mắng người thiện,
Người thiện chẳng trả lời.
Nếu người thiện đáp trả,
Hóa ra ngu cả đôi.
Làm thinh, tâm mát mẻ,
Chửi mắng, miệng nóng sôi.
Khác chi khạc nước bọt,
Cứ tưởng bôi bẩn trời.
Té ra bọt rơi xuống,
Mặt mũi hứng đầy thôi.
Nếu ta bị người mắng,
Giả điếc, nghe không trôi.
Khác chi lửa chỗ trống,
Không chữa cũng tắt rồi.
Lửa giận xem cũng vậy,
Chỉ cháy vật làm mồi.
Tâm ta nếu bỏ trống,
Kẻ ác mỏi lưỡi, môi...


******

IX - Tuyển dịch thiên thứ chín: KHUYẾN HỌC

1A.

* Nguyên văn:-

性理書云:為學之序:博學之,審問之,慎思之,明辨之,篤行之。


*Âm:-

Tính Lý Thư vân :[Vi học chi tự :Bác Học Chi, Thẩm Vấn Chi, Thận Tư Chi, Minh Biện Chi, Đốc Hành Chi .]


* Dịch nghĩa:-

Sách Tính Lý nói: Thứ tự của việc học là: học cho rộng, hỏi cho đúng, nghĩ cho kỹ, biện cho rõ, làm cho hăng.


*Diễn ca: -

Ðã theo cái nghiệp học hành,
Muốn học cho thành, thứ tự phân minh.
Học cho rộng khắp sử kinh,
Hỏi cho cặn kẽ, đinh ninh mọi điều.
Nghĩ suy thận trọng đúng chiều,
Biện cho sáng tỏ, cao siêu, vững bền.
Trải qua bốn bước kể trên,
Cuối cùng vận dụng, đẹp thêm cho đời.

--------------------

2A.

* Nguyên văn:-

徽宗皇帝勸學文:學也好,不學也好?學者如禾如稻,不學者如蒿如草。如禾如稻兮,國之精糧,世之大寶。如蒿如草兮,耕者憎嫌,鋤者煩惱。他日面牆,悔之已老。


*Âm:-
Huy Tông Hoàng đế "Khuyến Học Văn" :

Học dã hảo, bất học dã hảo ?
Học giả như hoà như đạo, bất học giả như cảo như thảo.
Như hoà như đạo hề, quốc chi tinh lương, thế chi đại bảo.
Như cảo như thảo hề, canh giả tăng hiềm, sừ giả phiền não.
Tha nhật diện tường, hối chi dĩ lão .


* Dịch nghĩa:-

Bài văn khuyến khích việc học của vua Huy Tông (*) viết: Học là tốt hay không học là tốt? Kẻ học như lúa như nếp, kẻ không học như lau như cỏ. Như lúa như nếp là gạo ngon của nước nhà, là vật báu lớn của cõi đời, như lau như cỏ thì kẻ cày căm ghét, kẻ bừa phiền bự Ngày sau quay mặt vào tường hối hận về chuyện đó thì đã già rồi.


*Diễn ca: -

Học là tốt, hay không là tốt?
Kẻ học như nếp lúa trên đời.
Kẻ dốt như cỏ dại thôi,
Nếp, lúa cung cấp cho người ấm no.
Còn cỏ dại, phải lo dọn kỹ,
Phải cày bừa không nghỉ suốt mùa.
Mai sau kém cạnh ganh đua,
Ăn năn thì đã già nua mất rồi!


*Chú thích:-

Huy Tông: tên thật là Triệu Cát, vua thứ 8 của nhà Bắc Tống, trị vì giai đoạn 1121 - 1125. Ông là hôn quân bất tài của một triều đại sa sút. Quân Kim bắt ông và con là vua Khâm Tông năm 1127 làm tù binh, sau chết ở nước Kim (Tuy nhiên, mối tình giữa ông với kỹ nữ Lý Sư Sư lại xứng đáng là thiên sử diễm tình giàu tính nhân văn: Sư Sư tử tiết để thoát tay Trương Hoằng Phạm là một tướng giỏi của nhà Tống 「bán mình」 cho quân Nguyên).


3A.

* Nguyên văn:-

禮記曰:獨學無友,則孤陋寡聞。書是隨身本才是國家之珍。


*Âm:-

 Lễ Ký viết :Độc học vô hữu, tắc cô lậu quả văn. Thư thị tuỳ thân bản tài thị quốc gia chi trân .


* Dịch nghĩa:-

Sách Lễ Ký nói: Học một mình không có bạn thì quê mùa nông cạn. Sách là vốn liếng mang theo mình, tài năng là vật quý của nước nhà.


*Diễn ca: -

Học mà thui thủi một thân,
Thiếu bạn thảo luận, quê dần người đi.
Có sách đời bớt ngu si,
Tài là vốn quý duy trì quốc gia.

---------------

4A.

* Nguyên văn:-

好仁不好學,其蔽也愚。好智不好學,其蔽也蕩。好信不好學,其蔽也賊。好直不好學,其蔽也絞。好勇不好學,其蔽也亂。好剛不好學,其蔽也狂。


*Âm:-

Hảo nhân bất hảo học, kỳ tế dã ngu.
Hảo trí bất hảo học, kỳ tế dã đãng.
Hảo tín bất hảo học, kỳ tế dã tặc.
Hảo trực bất hảo học, kỳ tế dã giảo.
Hảo dũng bất hảo học, kỳ tế dã loạn.
Hảo cương bất hảo học, kỳ tế dã cuồng .


* Dịch nghĩa:-

Muốn Nhân mà không muốn học thì cái ngu che lấp cái Nhân. Muốn Trí mà không muốn học thì sự phóng đãng che lấp cái Trí. Muốn Tín mà không muốn học thì cái hại che lấp cái Tín. Muốn ngay thẳng mà không muốn học thì sự thắt buộc che lấp cái ngay thẳng. Muốn dũng cảm mà không muốn học thì sự quậy phá che lấp cái dũng cảm. Muốn cứng rắn mà không muốn học thì sự ngông cuồng che lấp cái cứng rắn.


*Diễn ca: -

Muốn Nhân, không học thì ngu,
Bị người lạm dụng, mịt mù đúng sai.
Muốn Trí, không học nguy tai!
Nghĩ gì làm nấy, biết ai giữ kèm?
Muốn Tín, không học chẳng nghiêm.
Cho mình sẵn đúng, đâu tìm cái hay?
Muốn Thẳng, không học cũng gay,
Khăng khăng tự tiện, cấm ai góp lời.
Muốn Dũng, không học hỏng đời,
Mặc tình gây rối, chẳng nơi nào từ.
Muốn Cứng, không học càng hư,
Không quen nín nhịn, gần như điên cuồng.
Muốn đức hạnh tốt luôn luôn,
Phải thêm cái học mới vuông, mới tròn.


5A.

* Nguyên văn:-

諸葛武侯誡子弟曰:君子之行,靜以修身,儉以養德。非淡泊無以明志,非寧靜無以致遠。夫學也,才須學也。非學無以廣才,非靜無以成學。慆慢則不能研精,險躁則不能理性。年與時馳,意與歲去遂成枯落悲嘆窮廬將復何及。



*Âm:-

Gia Cát Vũ Hầu giới tử đệ viết :Quân tử chi hành, tĩnh dĩ tu thân, kiệm dĩ dưỡng đức. Phi đạm bạc vô dĩ minh chí, phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn. Phù học dã, tài tu học dã. Phi học vô dĩ quảng tài, phi tĩnh vô dĩ thành học. Thao mạn tắc bất năng nghiên tinh, hiểm táo tắc bất năng lý tính. Niên dữ thời khu, ý dữ tuế khứ toại thành khô lạc bi thán cùng lư tương phục hà cập .


* Dịch nghĩa:-

Gia Cát Vũ Hầu (*) nói: Nết người quân tử là tĩnh để sửa mình, tiết kiệm để nuôi đức, không sống đạm bạc thì không lấy gì để làm sáng tỏ cái chí, không yên tĩnh thì không lấy gì đạt đến cao xa. Ðã học thì phải tĩnh, có tài thì phải học, không học thì không lấy gì để mở rộng cái tài, không tĩnh thì không lấy gì để hoàn thành việc học. Ưa dễ dãi thì nghiên cứu không tinh, hấp tấp thì không xử lý được cái tính. Năm tháng cùng thời cơ qua nhanh, ý với tuổi bỏ đi bèn trở nên khô rụng, dẫu buồn than trong ngôi nhà nghèo liệu sẽ quay lại từ đầu sao kịp?


*Diễn ca: -

Không thanh tĩnh, khó sửa mình,
Không quen tiết kiệm, đức thành khó nuôi.
Thanh bần giúp chí sáng ngời,
Suy nghiệm xa vời, lòng cốt phải yên.
Học cần thanh tĩnh mới nên,
Có tài phải học mới bền khả năng.
Không học tài khó mở mang,
Chẳng được thanh tĩnh, học càng rối thêm.
Cái khó là cái đáng thèm,
Cái dễ làm mềm bản lĩnh tiến xa.
Muốn dùng cái Tính tối đa,
Cái thói hấp tấp, tránh xa mới thành.
Thì giờ vun vút qua nhanh,
Thời cơ lỗi hẹn, tuổi xanh qua rồi!
Cành khô lá rụng, ôi thôi!
Hàn vi đâu dễ quay đầu lập thân?


*Chú thích:-

Gia Cát Vũ Hầu: tức Gia Cát Lượng (181 - 234) tự Khổng Minh, làm thừa tướng nước Thục thời Tam Quốc Ông tiêu biểu một quân sư mưu kế hơn đời và là trung thần tận tụy tột độ. Ông được phong tước Vũ hầu.


X - Tuyển dịch thiên thứ mười: HUẤN TỬ

1A.

* Nguyên văn:-

司 馬溫公曰:養子不教父之過,訓導不嚴師之惰。父教師嚴兩無礙,學問無成子之罪。暖衣飽食居人倫,親我笑談如土塊。攀高不及下品流,稍遇賢才無與語。勉後生 力求誨,投明師莫自昧。一朝雲路果然登,姓名亞等呼先輩。室中若未結姻親,自有佳人求配匹。勉之汝等各早修,莫待老來空自悔。


*Âm:-

Tư Mã Ôn Công viết :Dưỡng tử bất giáo phụ chi quá, huấn đạo bất nghiêm sư chi noạ. Phụ giáo sư nghiêm lưỡng vô ngại, học vấn vô thành tử chi tội. Noãn y bão thực cư nhân luân, thân ngã tiếu đàm như thổ khối. Phan cao bất cập hạ phẩm lưu, sảo ngộ hiền tài vô dữ ngữ. Miễn hậu sinh lực cầu hối, đầu minh sư mạc tự muội. Nhất triêu vân lộ quả nhiên đăng, tính danh á đẳng hô tiên bối. Thất trung nhược vị kết nhân thân, tự hữu giai nhân cầu phối thất. Miễn chi nhữ đẳng các tảo tu, mạc đãi lão lai không tự hối .


* Dịch nghĩa:-

Tư Mã Ôn Công nói: Nuôi con không dạy là lỗi của cha. Dạy dỗ không nghiêm là thầy bê trễ. Cha dạy thầy nghiêm, cả hai không trục trặc gì mà học vấn không thành là tội của con. Ấm áo no cơm giữa cõi người mà chuyện trò với bà con cứ trơ như cục đất. Vói cao không tới phải nhập vào lớp hạ lưu, có gặp bậc hiền tài cũng chẳng biết nói năng gì với họ. Khuyên đám hậu sinh ra sức tìm thầy dạy, gửi thân nơi thầy sáng suốt, đừng tự làm cho mình ngu muội. Một mai tiến lên đường công danh, tên họ mình được đám thấp hơn gọi là đàn anh. Trong nhà nếu chưa kết hôn cũng có người đẹp tự đến xin làm vợ. Khuyên các ngươi ai nấy sớm sửa chữa, đừng đợi đến già hối hận suông.


*Diễn ca: -

Nuôi con không dạy,
Là lỗi của cha.
Con học lơ là,
Thầy chưa nỗ lự
Cha, thầy đúng mực,
Học vấn vẫn chưa thành,
Tội con rành rành,
Vô phương chối bỏ.
Áo cơm sẵn có,
Thân thích quanh mình.
Trò chuyện huyên thiên,
Mình trơ cục đất!
Liệt vào hạng thấp,
Hạng cao khó chen.
Gặp bậc tài năng,
Ðâu dám trò chuyện.
Mấy lời tâm nguyện,
Gởi lớp hậu sinh,
Ðem hết sức mình,
Tìm thầy cho tốt.
Ðừng làm mình dốt,
May ra gặp thời,
Tên đề bảng rồi,
Người người kính nể.
Dù nhà vắng vẻ,
Còn sống độc thân,
Thiếu chi giai nhân,
Nguyền câu cầm sắt.
Khuyên đừng để mất,
Cơ hội tu thân,
Về già ăn năn,
Thẹn lây con cháu...

----------------

2A.

* Nguyên văn:-

柳屯田勸學文:父母養其子而不教,是不愛其子也。雖教而不嚴,是亦不愛其子也。父母教而不學,是子不愛其身也。雖學而不勤,是亦不愛其身也。是故養子必教,教則必嚴,嚴則必勤,勤則必成。學則庶人之子為公卿,不學則公卿之子為庶人。


*Âm:-

Liễu Truân Điền Khuyến Học Văn :Phụ mẫu dưỡng kỳ tử nhi bất giáo, thị bất ái kỳ tử dã. Tuy giáo nhi bất nghiêm, thị diệc bất ái kỳ tử dã. Phụ mẫu giáo nhi bất học, thị tử bất ái kỳ thân dã. Tuy học nhi bất cần, thị diệc bất ái kỳ thân dã. Thị cố dưỡng tử tất giáo, giáo tắc tất nghiêm, nghiêm tắc tất cần, cần tắc tất thành. Học tắc thứ nhân chi tử vi công khanh, bất học tắc công khanh chi tử vi thứ nhân .


* Dịch nghĩa:-

Bài văn khuyến khích việc học của quan Ðồn điền họ Liễu (*) viết: Cha mẹ nuôi con mình mà không dạy là không yêu con mình. Tuy dạy mà không nghiêm cũng là không yêu con mình. Cha mẹ dạy mà không học là không yêu thân mình. Tuy học nhưng không siêng năng cũng là không yêu thân mình vậy. Thế cho nên nuôi con tất phải dạy, dạy thì tất phải nghiêm, nghiêm thì tất siêng, siêng thì tất nên. Học thì con dân quèn làm công khanh, không học thì con công khanh làm dân quèn.


*Diễn ca: -

Nuôi con chỉ bởi bản năng,
Như thế cầm bằng nuôi vật cảnh thôi.
Dạy con qua quít lấy rồi,
Kiểm tra lỏng lẻo ấy thời ghét con.
Còn như dạy bảo ôn tồn,
Con không học, tức không còn quý thân.
Có học nhưng thiếu chuyên cần,
Cũng là chẳng quý cái thân của mình.
Nuôi con phải dạy, phải nghiêm,
Con mới thành niềm an ủi mẹ cha.
Có học, nghèo cũng tiến xa,
Không học, giàu cũng hóa ra bần cùng.


*Chú thích:-

Quan Ðồn điền họ Liễu: tức Liễu Kỳ Khanh (987 - 1055) người Phúc Kiến. Ông đỗ tiến sĩ, làm đến chức Ðồn điền viên ngoại lang nhưng giới ăn chơi quen gọi ông là Bảy Liễu (Liễu Thất). Ông là một từ gia lãng mạn, sống khá phóng túng.


3A.

* Nguyên văn:-

白侍郎勉學文:有田不耕倉廩虛,有書不教子孫愚。倉廩虛兮歲月乏,子孫愚兮禮義疏。若為不耕與不教,乃是父兄之過歟!。


*Âm:-

Bạch Thị Lang Miễn Học Văn :Hữu điền bất canh thương lẫm hư, hữu thư bất giáo tử tôn ngu. Thương lẫm hư hề tuế nguyệt phạp, tử tôn ngu hề lễ nghĩa sơ. Nhược vi bất canh dữ bất giáo, nãi thị phụ huynh chi quá dư !.


* Dịch nghĩa:-

Bài văn khuyên gắng học của quan Thị lang họ Bạch nói: Có ruộng không cày kho đụn rỗng. Có sách không dạy con cháu ngu. Kho đụn rỗng thì năm tháng thiếu hụt. Con cháu ngu thì lễ nghĩa lỏng lẻo. Nếu là không cày cùng không dạy mới là lỗi của cha anh vậy.


*Diễn ca: -

Ruộng bỏ hoang, chẳng cấy cày,
Kho tàng trống rỗng, chẳng hay ho gì!
Có sách chẳng dạy chữ chi,
Mặc cho con cháu ngu si hư đời.
Chẳng cày, thiếu đói ngay thôi!
Chẳng dạy, lễ nghĩa hỏng rồi nguy to!
Không cày, không dạy, đáng lo,
Phụ huynh xin hãy nhận cho lỗi mình!

----------------

4A.

* Nguyên văn:-

漢書云:黃金滿盈(盈,通「籝」,箱籠一類的容器。),不如教子一經;賜子千金不如教子一藝。至樂莫如讀書,至要莫如教子。


*Âm:-

Hán Thư vân :Hoàng kim mãn doanh, Bất như giáo tử nhất kinh ;Tứ tử thiên kim bất như giáo tử nhất nghệ. Chí lạc mạc như độc thư, chí yếu mạc như giáo tử .

CT:- (doanh, thông, thông」, sương lung nhất loại đích dung khí. )


* Dịch nghĩa:-

Sách Hán thư nói: Chất vàng đầy rương không bằng dạy con một cuốn sách hay. Ban cho con nghìn vàng không bằng truyền cho con một nghề. Vui nhất không gì bằng dạy con.

*Diễn ca: -

Vàng ròng tích cóp đầy kho,
Không bằng kinh sử dạy cho con mình.
Ngàn vàng cho chúng mưu sinh,
Không bằng dạy chúng cho tinh một nghề.
Ðọc sách, vui thú trăm bề,
Dạy con quan trọng, chớ hề thờ ơ!


5A.

* Nguyên văn:-

孟子曰:古者易子而教之。父子之間不責善,責善則離,離則不祥莫大焉。


*Âm:-

Mạnh Tử viết :Cổ giả dị tử nhi giáo chi. Phụ tử chi gian bất trách thiện, trách thiện tắc ly, ly tắc bất tường mạc đại yên .


* Dịch nghĩa:-

Mạnh Tử nói: Người xưa đổi con mà dạy. Giữa cha con không nên trách điều chưa phải. Hễ trách là chia lìa, chia lìa là điều chẳng lành lớn nhất vậy.


*Diễn ca: -

Ðổi con mà dạy mới hay,
Mới dễ trách cứ, mới dày khôn ngoan.
Cha cưng, con dễ làm càn,
Cha nghiêm, con oán, tình càng tệ thêm.
Xui nên chia rẽ đôi bên,
Là điều bất hạnh khó quên nhất đời.

------------------

6A.

* Nguyên văn:-

呂榮公曰:人生內無賢父兄,外無賢師友而能有成者鮮矣。


*Âm:-

Lã Vinh Công viết :Nhân sinh nội vô hiền phụ huynh, ngoại vô hiền sư hữu nhi năng hữu thành giả tiên hĩ.


* Dịch nghĩa:-

Lã Vinh Công nói: Người đời mà trong nhà không có cha anh giỏi, ngoài đời không có thầy bạn giỏi mà làm nên được là hiếm lắm.


*Diễn ca: -

Gẫm ra kẻ sống trên đời,
Cha, anh, thầy, bạn, không người giỏi giang.
Tự thân vượt được khó khăn,
Bản lĩnh, nghị lực, ai bằng nổi đâu!


7A.

* Nguyên văn:-

太公曰:男子失教長大愚頑,女子失教,長大粗疏。養男之法,莫聽誑語;育女之法,莫教離母。男年長大,莫習樂酒;女年長大,莫教遊走。嚴父出孝子,嚴母出巧女。憐兒多與棒,憎兒多與食。憐兒無功,憎兒有力。桑條從小鬱,長大鬱不屈。人皆愛珠玉,我愛子孫賢。


*Âm:-

Thái Công viết :Nam tử thất giáo trường đại ngu ngoan, nữ tử thất giáo, trường đại thô sơ. Dưỡng nam chi pháp, mạc thính cuống ngữ ;dục nữ chi pháp, mạc giáo ly mẫu. Nam niên trường đại, mạc tập lạc tửu ;nữ niên trường đại, mạc giáo du tẩu. Nghiêm phụ xuất hiếu tử, nghiêm mẫu xuất xảo nữ. Lân nhi đa dữ bổng, tăng nhi đa dữ thực. Lân nhi vô công, tăng nhi hữu lực. Tang điều tùng tiểu uất, trường đại uất bất khuất. Nhân giai ái châu ngọc, ngã ái tử tôn hiền .


* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Con trai mà mất sự rèn dạy thì lớn lên ngu bướng. Con gái mà mất sự rèn dạy thì lớn lên vụng về sơ suất. Phương pháp dạy con trai là đừng nghe nói dối. Phương pháp dạy con gái là đừng để lìa xa mẹ. Con trai tuổi lớn chớ tập thói ham vui nhạc rượu. Con gái tuổi lớn đừng để chơi bời lêu lổng. Cha nghiêm sinh con trai hiếu thảo. Mẹ nghiêm sinh con gái khéo léo. Thương con nên cho nhiều roi vọt, ghét con mới cho ăn uống nhiều. Thương con chẳng làm nó thành công, ghét con làm nó có năng lự Cành dâu uốn khi nhỏ, lớn to uốn không cong. Người ta đều yêu châu ngọc, ta yêu con cháu tài năng.


*Diễn ca: -

Con trai không dạy lớn đần,
Con gái không dạy, lớn thân vụng về.
Tránh đần, lời dối chớ nghe,
Tránh vụng, mẹ phải kè kè thường xuyên.
Con trai nhạc rượu chớ ghiền,
Con gái chớ để mặc tình rong chơi.
Cha nghiêm, trai mới nên người,
Mẹ nghiêm, gái mới khôn lời, khéo tay.
Thương con, roi vọt mới hay,
Quà nọ, bánh này, là kiểu ghét con.
Có thương, chưa chắc thành công,
Có ghét con mới dốc lòng chữa sai.
Muốn con nên đức, nên tài,
Phải chăm uốn nắn từ ngày lên ba.
Người đời yêu quý ngọc ngà,
Còn ta yêu quý con ta hiền tài.


---------------
8A.

* Nguyên văn:-

內則曰:凡生子,擇於諸母與可者,必求其寬裕慈惠溫良恭敬,慎而寡言者使為子師。能食教以右手,能言男唯女俞,男盤革,女盤絲。六年教之數與方名,七年男女不同席,不共食,八年出入門戶及即席飲食必後長者。始教之讓。九年教之數目。十年出就外傅居宿於外。


*Âm:-

Nội Tắc viết :Phàm sinh tử, trạch ư chư mẫu dữ khả giả, tất cầu kỳ khoan dụ từ huệ ôn lương cung kính, thận nhi quả ngôn giả sử vi tử sư. Năng thực giáo dĩ hữu thủ, năng ngôn nam duy nữ du, nam bàn cách, nữ bàn ty. Lục niên giáo chi số dữ phương danh, thất niên nam nữ bất đồng tịch, bất cộng thực, bát niên xuất nhập môn hộ cập tức tịch ẩm thực tất hậu trường giả. Thủy giáo chi nhượng. Cửu niên giáo chi số mục. Thập niên xuất tựu ngoại phó cư túc ư ngoại .


* Dịch nghĩa:-

Thiên Nội Tắc nói: Hễ sinh con nên chọn ở bà mẹ có khả năng, tất tìm người khoan dung, hiền lành, ôn hòa cung kính, thận trọng mà ít lời, nhờ họ làm thầy cho con. Con biết ăn cơm dạy cầm (đũa) tay phải. Con biết nói, con trai phải dạ, con gái phải vâng, trai thắt lưng da, gái thắt lưng tơ. Lên sáu tuổi dạy đếm số và gọi tên phương hướng. Lên bảy tuổi, con trai con gái không ngồi chung chiếu, không ăn uống chung. Lên tám tuổi ra vào cửa ngõ cho đến ngồi chiếu, ăn uống, tất phải làm sau người lớn, bắt đầu dạy tính kính trên nhường dưới. Ðến chín tuổi, dạy chúng đếm ngày. Ðến mười tuổi ra học thầy ngoài, ăn ngủ ở ngoài.


*Diễn ca: -

Phàm sinh con, phải nên chọn mẹ,
Mẹ khoan dung, nhỏ nhẹ, ôn hòa.
Kính nhường, cẩn thận mới là,
Nói năng chừng mực, con ta nhận thầy.
Biết ăn uống, thầy bày tay phải,
Biết nói năng, trai dạ, gái vâng.
Dây da trai tập thắt lưng,
Dây tơ gái buộc, xem chừng hay hơn.
Lên sáu dạy biết phương, đếm số,
Biết gọi tên đúng, rõ bốn phương.
Lên bảy, phái tính đã tường,
Ngồi khác chiếu giường, ăn uống tách riêng.
Lên tám tuổi học kiêng, học nể,
Lúc ăn ngồi, giữ lễ kính nhường.
Ra vào cửa ngõ, đi đường,
Có người lớn, nhớ phải thường đi sau.
Chín tuổi học đếm làu ngày tháng.
Tuổi lên mười, bạo dạn ra ngoài.
Tự tin, tự tại như ai,
Ðến nhà thầy ngụ, trổ tài khiêm cung.
Chữ bản lĩnh chưa từng đòi hỏi,
Nhưng tập quen, gắng gỏi từ đây.
Dù con là gái hay trai,
Giũ rèn thế ấy, hiền tài chẳng xa.


9A.

* Nguyên văn:-

龐德公誡子詩云:

凡人百藝好隨身,
賭博門中莫去親。
能使英雄為下賤,
解教富貴作飢貧。
衣衫襤褸親朋笑,
田地消磨骨肉嗔。
不信但看鄉黨內,
眼前衰敗幾多人。

*Âm:-

Bàng Đức Công Giới Tử Thi vân :

Phàm nhân bách nghệ hảo tuỳ thân,
Đổ bác môn trung mạc khứ thân.
Năng sử anh hùng vi hạ tiện,
Giải giao phú quí tác cơ bần.
Y sam lam lũ thân bằng tiếu,
Điền địa tiêu ma cốt nhục sân.
Bất tín đản khan hương đảng nội,
Nhãn tiền suy bại kỷ đa nhân .


* Dịch nghĩa:-

Bài thơ cảnh báo con của Bàng Ðức Công viết: Người đời có cả trăm nghề để theo. Chớ nên đến gần cửa cờ bạc. Nó có khả năng khiến anh hùng làm kẻ thấp hèn. Nó cởi bỏ giàu sang làm thành kẻ nghèo đói. Áo xống lam lũ, bạn thân cũng chê cười. Ruộng đất tiêu ma, cốt nhục gây gổ. Không tin thì chỉ cần xem trong làng xóm. Ðã có nhiều người suy bại ngay trước mắt.


*Diễn ca: -

Trăm nghề trong cõi người đời,
Riêng nghề cờ bạc, con thời lánh xa.
Anh hùng nó biến hèn ra,
Giàu sang nó biến thành ma đói nghèo.
Áo quần xơ xác não nề,
Bạn bè cười giễu chẳng hề nể đâu!
Ruộng vườn bán sạch từ lâu,
Anh em gây gổ, quên câu ruột rà.
Chẳng tin ngó kỹ làng ta,
Tan cơ nát nghiệp phải là ít đâu!

-----------------

10A.

* Nguyên văn:-

一樣人身幾樣心,
一般茶飯一般人,
同時天光同時夜,
幾人富貴幾人貧。
君子貧時有禮義,
小人乍富便欺貧。
東海龍王常在世,
得時休笑失時人。
大家忍耐隨時過,
知他誰是百年人。

*Âm:-

Nhất dạng nhân thân kỷ dạng tâm,
Nhất ban trà phạn nhất ban nhân,
Đồng thời thiên quang đồng thời dạ,
Kỷ nhân phú quí kỷ nhân bần.
Quân tử bần thời hữu lễ nghĩa,
Tiểu nhân sạ phú tiện khi bần.
Đông hải long vương thường tại thế,
Đắc thời hưu tiếu thất thời nhân.
Đại gia nhẫn nại tuỳ thời quá,
Tri tha thuỳ thị bách niên nhân .


* Dịch nghĩa:-

Cùng một dáng người, mấy dáng tâm,
Một loại trà cơm, một loại người.
Cùng lúc sáng trời, cùng lúc đêm về,
Mấy người giàu sang, mấy người nghèo?
Quân tử lúc nghèo có lễ nghĩa.
Tiểu nhân chợt giàu liền khinh nghèo.
Ðông Hải Long Vương (*) thường ở đời,
Ðược thời chớ cười người mất thời.
Mọi người hãy nhẫn nại sống theo thời,
Biết người khác ai sống được trăm năm?


*Diễn ca: -

Bề ngoài ai cũng giống ai,
Bề trong, Tâm mới làm sai hạng người.
Tuy cùng nước hớp, cơm xơi,
Ði sáng về tối ta thời như nhau.
Thế nhưng đây khó, đó giàu,
Dù nghèo, quân tử giữ màu lễ nghi.
Tiểu nhân giàu có gặp thì,
Tỏ ngay cái vẻ khinh khi người nghèo.
Muôn đời sóng biển vẫn reo,
Vẫn nhìn nhân loại giàu nghèo luân phiên.
Vẫn chứng kiến cảnh đảo điên,
Kẻ đắc thế liền cười kẻ sa cơ.
Theo thời, nấn ná ai ơi!
Thử xem thiên hạ ai người trăm năm?


*Chú thích:-

Ðông Hải Long Vương: vua Rồng cai quản biển Ðông, được coi là kẻ có mặt thường xuyên liên tục trên đời, chứng kiến đầy đủ các sự kiện.


11A.

* Nguyên văn:-

瘦地開花晚,
貧窮發福遲。
莫道蛇無角,
成龍也未知。
但看天上月,
團圓有缺時。


*Âm:-

Sấu địa khai hoa vãn,
Bần cùng phát phước trì.
Mạc đạo xà vô giác,
Thành long dã vị tri.
Đản khan thiên thượng nguyệt,
Đoàn viên hữu khuyết thời .


* Dịch nghĩa:-

Ðất xấu trổ hoa muộn,
Nghèo nàn phát phước chậm.
Ðừng bảo rắn không sừng,
Thành rồng chưa biết lúc nào.
Chỉ cần xem trăng trên trời,
Tròn trặn có lúc khuyết.


*Diễn ca: -

Ðất cằn hoa nở muộn,
Nghèo túng phước lâu về.
Rắn không sừng chớ chê,
Hóa rồng chẳng mấy chố
Trăng tuy tròn có lúc,
Cũng khuyết ngay đấy thôi!

-----------------

12A.

* Nguyên văn:-

萬事由天莫強求,
何需苦苦用心謀。
三餐飯內休糊想,
得一帆風便可收。
生事事生何日了,
害人人害幾時休。
冤家宜解不宜結,
各自回頭看後頭。


*Âm:-

Vạn sự do thiên mạc cưỡng cầu,
Hà nhu khổ khổ dụng tâm mưu.
Tam xan phạn nội hưu hồ tưởng,
Đắc nhất phàm phong tiện khả thu.
Sinh sự sự sinh hà nhật liễu,
Hại nhân nhân hại kỷ thời hưu.
Oan gia nghi giải bất nghi kết,
Các tự hồi đầu khán hậu đầu .


* Dịch nghĩa:-

Muôn việc do trời chớ có gượng tìm. Sao phải khổ khổ dùng lòng tính mọi cách. Chớ nên mơ tưởng hão huyền ngoài ba bữa cơm. Gió no buồm rồi thì cuộn buồm lại. Bày ra việc rồi việc đẻ việc ngày nào mới xong? Lo hại người, lo người hại lại, lúc nào mới thôi? Mối oan nên cởi không nên thắt. Mỗi người hay quay đầu nhìn phía sau.


*Diễn ca: -

Gượng đòi chi nổi với trời?
Nhọc công xoay xở, việc đời vẫn trơ.
Ðược ăn ba bữa thôi mơ,
Gió no buồm nghỉ, đừng chờ gió thêm.
Việc đẻ việc, lúc nào êm?
Hại người, người hại, ai thèm dừng đâu?
Cởi oan, chớ thắt thêm sâu,
Hãy quay nhìn lại phía sau mỗi người.


13A.

* Nguyên văn:-

雀喙四顧食,
燕寢無疑心。
量大福亦大,
機深禍亦深。


*Âm:-

Tước uế tứ cố thực,
Yên tẩm vô nghi tâm.
Lương đại phước diệc đại,
Cơ thâm hoạ diệc thâm .


* Dịch nghĩa:-

Chim sẻ mổ ăn quay nhìn bốn phía.
 Chim én ngủ thoải mái không nghi ngại gì.
Ðộ lượng lớn, phước cũng lớn.
 Mưu cơ sâu họa cũng sâu.


*Diễn ca: -

Chim sẻ lăng xăng ngảnh bốn bên,
Tiểu nhân bận rộn thuở nào yên?
Én kia nằm nghỉ lòng thanh thản,
Quân tử bất tranh nhẹ nhõm mình.
Ðộ lượng khoan hồng phước càng lớn,
Tâm cơ thâm hiểm họa càng kinh.


XI - Tuyển dịch thiên thứ mười một: TỈNH TÂM

1A.

* Nguyên văn:-

資世通訓雲:陰法遲而不漏,陽憲近而有逃。陽網密而易漏,陰網疏而難逃。


*Âm:-

Tư Thế Thông Huấn vân :Âm pháp trì nhi bất lậu, dương hiến cận nhi hữu đào. Dương võng mật nhi dị lậu, âm võng sơ nhi nan đào .

* Dịch nghĩa:-

Bài Tư Thế Thông Huấn viết: Phép trừng trị của cõi âm chậm mà không lọt. Thể chế của cõi dương gần mà có cách trốn thoát. Lưới cõi dương dày mà dễ lọt, lưới cõi âm thưa mà khó trốn thoát.


*Diễn ca: -

Phép trừng trị cõi âm khó thấy,
Chậm nhận ra nhưng lại chắc sần.
Thể chế nhà nước thật gần,
Thiên hạ chỉ cần móc ngoặc thật hay.
Tha hồ xa chạy cao bay,
Lưới luật để sổng... cả bầy nhà lươn!
Lưới cõi âm, vô phương móc ngoặc,
Mắt lưới thưa, bởi thật lâu đời.
Bao nhiêu tội dưới bầu trời,
Lưới không để lọt dù người bé, to...


-------------------

2A.

* Nguyên văn:-

景 行錄云:無瑕之玉,可以為國稅。孝弟之子可以為家寶。寶貝用之有盡,忠孝享之無窮。家和貧也好,不義富如何?但存一子孝,何用子孫多?父不憂心因子孝,夫 無煩惱是妻賢。言多語失皆因酒,義斷親疏只為錢。既取非常樂,須防不測憂。樂極悲生。得寵思辱,居安慮危。榮盛辱大,利重害深。盛名必有重責,大功必有奇窮。甚愛必甚費,甚譽必甚毀。甚喜必甚憂,甚恥必甚亡。恩愛生煩惱,追隨大丈夫。庭前生瑞草,好事不如無。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Vô hà chi ngọc, khả dĩ vi quốc thuế. Hiếu đệ chi tử khả dĩ vi gia bảo. Bảo bối dụng chi hữu tận, trung hiếu hưởng chi vô cùng. Gia hoà bần dã hảo, bất nghĩa phú như hà ?Đản tồn nhất tử hiếu, hà dụng tử tôn đa ?Phụ bất ưu tâm nhân tử hiếu, phu vô phiền não thị thê hiền. Ngôn đa ngữ thất giai nhân tửu, nghĩa đoạn thân sơ chỉ vị tiền. Ký thủ phi thường lạc, tu phòng bất trắc ưu. Lạc cực bi sinh. Đắc sủng tư nhục, cư an lự nguy. Vinh thịnh nhục đại, lợi trọng hại thâm. Thịnh danh tất hữu trọng trách, đại công tất hữu cơ cùng. Thậm ái tất thậm phí, thậm dự tất thậm huỷ. Thậm hỷ tất thậm ưu, thậm sỉ tất thậm vong. Ân ái sinh phiền não, truy tuỳ đại trượng phu. Đình tiền sinh thuỵ thảo, hảo sự bất như vô .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Viên ngọc không vết có thể làm thuế nước, con hiếu đễ có thế làm của gia bảo. Của gia bảo dùng rồi cũng có khi hết, trung hiếu đem hưởng không hết. Nhà hòa thuận thì nghèo cũng tốt, bất nghĩa thì giàu có ra gì? Chỉ còn một đứa con hiếu, cần gì con cháu nhiều? Cha không lo trong lòng vì con có hiếu, chồng không phiền não vì có vợ hiền. Nói nhiều nói bậy đều do rượu, tình nghĩa chấm dứt, người thân chia lìa chỉ vì tiền. Ðã nhận cái vui bất thường thì nên phòng mối lo bất trắ Vui tột độ thì buồn sinh ra, được yêu chiều phải nghĩ đến lúc chịu nhụ Ở cảnh yên vui phải lo lúc nguy cấp. Vinh nhiều thì nhục lớn. Lợi nặng thì hại sâu, danh vọng càng lớn thì khiển trách càng nặng, công to tất có khi cùng khốn kỳ lạ. Yêu lắm tất sử dụng lắm, khen lắm tất xỉ vả lắm, vui lắm tất lo lắm, xấu hổ lắm tất mất lắm. Ái ân sinh phiền não, đeo đuổi đại trượng phu. Trước sân mọc lên cỏ báo điềm tốt. Dù có gặp việc tốt cũng không bằng không có.


*Diễn ca: -

Ngọc quý có thể thay quốc thuế (*),
Gia bảo là con hiếu trong nhà.
Ngọc dùng sẽ hết thôi mà!
Chỉ điều trung hiếu mới là bền lâu.

Nhà bất nghĩa, càng giàu càng bậy.
Nhà thuận hòa, nghèo mấy vẫn hay.
Chỉ cần một đứa thảo ngay,
Ðâu cần chi phải đông đầy cháu con?

Con hiếu thảo, cha không lo lắng,
Vợ hiền hòa, chồng chẳng đau đầu.
Lắm lời lải nhải đâu đâu,
Chẳng qua lỡ uống phải bầu Ðỗ Khang (*).

Chỗ anh em, họ hàng xào xáo,
Chỉ vì không chu đáo tiền nong.
Khi niềm vui rộn rã lòng,
Phải nên đề phòng sẽ gặp lo âu.

Vui vẻ lắm, âu sầu càng lắm,
Nhục đến ngay say đắm yêu vì.
Sống yên phải tính sẽ nguy,
Vẻ vang phải liệu gặp kỳ nhuốc nhơ.

Lợi càng nặng, hại chờ càng nặng,
Danh to thì khó tránh trách phiền.
Ðược yêu, cuộc sống khó yên,
Ðược khen tất phải hứng liền chê bai.

Vui mừng cứ đan cài lo lắng,
Xấu hổ luôn, ắt hẳn trơ lì.
Chừng như xấu hổ mất đi,
Nhưng nào có ích được gì cho cam!

Chuyện ân ái dễ làm mệt óc,
Chẳng buông tha những bậc trượng phu.
Cho dù may mắn có dư,
Việc hay thì cũng chẳng như đừng làm.


*Chú thích:-

Quốc thuế: thuế của một nước, tức cống phẩm của nước nhỏ nộp nước lớn để tỏ ý thần phụ

Ðỗ Khang: tên người nấu rượu đầu tiên, được dùng làm tiếng lóng chỉ rượu.

(Chú ý: Ðoạn văn trên vận dụng thuyết Vô Vi của Lão giáo cách nay 25 thế kỷ, không hẳn là "bảo giám" làm "minh tâm" con người ngày nay).



3A1.

* Nguyên văn:-

素書云:推古驗今所以不惑。欲知未來,先察已往。


*Âm:-

Tố Thư vân :Suy cổ nghiệm kim sở dĩ bất hoặc. Dục tri vị lai, tiên sát dĩ vãng .


* Dịch nghĩa:-

Sách Tố thư nói: Suy xưa nghiệm nay là để khỏi lầm. Muốn biết vị lai, trước phải xét dĩ vãng.


*Diễn ca: -

Muốn cho xét việc khỏi nhầm,
Thì phải sưu tầm kinh nghiệm người xưa.
Chẳng nên nghĩ cạn, làm bừa,
Con người phải chừa dấu vết bản năng.

-----------------------

3A2.

* Nguyên văn:-

巧者多勞拙厭閒,
善嫌懦弱惡嫌頑。
富遭嫉妬貧遭賤,
勤曰貪婪儉曰慳。
觸目不分皆笑蠢,
見機而作又言奸。
思量那件當教做,
做人難做做人難。
 為人難,
 為人難。
寫得紙盡筆頭干,
更寫幾句為人難。


*Âm:-

Xảo giả đa lao chuyết yếm gian,
Thiện hiềm noạ nhược ác hiềm ngoán.
Phú tao tật đố bần tao tiện,
Cần viết tham lam kiệm viết kiên.
Xúc mục bất phân giai tiếu xuẩn,
Kiến cơ nhi tác hựu ngôn gian.
Tư lương na kiện đương giáo tố,
Tố nhân nan tố tố nhân nan.
 Vi nhân nan,
 Vi nhân nan.
Tả đắc chỉ tận bút đầu can,
Cánh tả cơ kỷ cú vi nhân nan.


* Dịch nghĩa:-

Kẻ khéo chán nhiều nhọc, kẻ vụng chán nhàn rỗi.

- Người thiện bị ghét là nhu nhược, kẻ ác bị ghét là ương ngạnh.

- Kẻ giàu bị ghen ghét, kẻ nghèo bị khinh bỉ.

- Kẻ siêng bị cho là tham lam, kẻ kiệm bị cho là bủn xỉn.

Thấy tận mắt mà không nhận ra mọi người đều cho là ngu ngố

Nhìn ra vận hội mà làm lại có kẻ nói là gian hùng.

Nghĩ kỹ những chuyện ấy nên phải làm.

Làm người khó, làm chuyện làm người khó.

Làm người khó thay! Làm người khó thay!

Viết cho hết giấy, bút khô mực,

Lại vẫn phải viết mấy câu: Làm người khó thay!


*Diễn ca: -

Khéo thì quá nhọc, vụng chê nhàn,
Thiện, cười nhu nhượ Ác, làm càn!
Giàu, người căm ghét. Nghèo, khinh rẻ,
Siêng, chuốc tiếng tham. Kiệm, rán sành. (*)
Nhận định mù mờ, chê: kẻ ngốc,
Ra tay nhanh nhạy, mỉa: quân gian!
Nghĩ sao cho đúng? Làm sao đúng?
Thật khó làm người! Khó tính toan!
Mực cạn, bút cùn ngồi chép mãi:
Làm người là việc khó muôn vàn!


*Chú thích:-

Rán sành: tức "rán sành ra mỡ" thành ngữ cay độc mắng kẻ quá keo kiệt lại ngu xuẩn, thấy mảnh sành bóng láng, tưởng có lớp mỡ bám ngoài (!)


9A.

* Nguyên văn:-

龐德公誡子詩云:

凡人百藝好隨身,
賭博門中莫去親。
能使英雄為下賤,
解教富貴作飢貧。
衣衫襤褸親朋笑,
田地消磨骨肉嗔。
不信但看鄉黨內,
眼前衰敗幾多人。

*Âm:-

Bàng Đức Công Giới Tử Thi vân :

Phàm nhân bách nghệ hảo tuỳ thân,
Đổ bác môn trung mạc khứ thân.
Năng sử anh hùng vi hạ tiện,
Giải giao phú quí tác cơ bần.
Y sam lam lũ thân bằng tiếu,
Điền địa tiêu ma cốt nhục sân.
Bất tín đản khan hương đảng nội,
Nhãn tiền suy bại kỷ đa nhân .


* Dịch nghĩa:-

Bài thơ cảnh báo con của Bàng Ðức Công viết: Người đời có cả trăm nghề để theo. Chớ nên đến gần cửa cờ bạc. Nó có khả năng khiến anh hùng làm kẻ thấp hèn. Nó cởi bỏ giàu sang làm thành kẻ nghèo đói. Áo xống lam lũ, bạn thân cũng chê cười. Ruộng đất tiêu ma, cốt nhục gây gổ. Không tin thì chỉ cần xem trong làng xóm. Ðã có nhiều người suy bại ngay trước mắt.


* Diễn ca: -

Trăm nghề trong cõi người đời,
Riêng nghề cờ bạc, con thời lánh xa.
Anh hùng nó biến hèn ra,
Giàu sang nó biến thành ma đói nghèo.
Áo quần xơ xác não nề,
Bạn bè cười giễu chẳng hề nể đâu!
Ruộng vườn bán sạch từ lâu,
Anh em gây gổ, quên câu ruột rà.
Chẳng tin ngó kỹ làng ta,
Tan cơ nát nghiệp phải là ít đâu!

-----------------

10A.

* Nguyên văn:-

一樣人身幾樣心,
一般茶飯一般人,
同時天光同時夜,
幾人富貴幾人貧。
君子貧時有禮義,
小人乍富便欺貧。
東海龍王常在世,
得時休笑失時人。
大家忍耐隨時過,
知他誰是百年人。

*Âm:-

Nhất dạng nhân thân kỷ dạng tâm,
Nhất ban trà phạn nhất ban nhân,
Đồng thời thiên quang đồng thời dạ,
Kỷ nhân phú quí kỷ nhân bần.
Quân tử bần thời hữu lễ nghĩa,
Tiểu nhân sạ phú tiện khi bần.
Đông hải long vương thường tại thế,
Đắc thời hưu tiếu thất thời nhân.
Đại gia nhẫn nại tuỳ thời quá,
Tri tha thuỳ thị bách niên nhân .


* Dịch nghĩa:-

Cùng một dáng người, mấy dáng tâm,
Một loại trà cơm, một loại người.
Cùng lúc sáng trời, cùng lúc đêm về,
Mấy người giàu sang, mấy người nghèo?
Quân tử lúc nghèo có lễ nghĩa.
Tiểu nhân chợt giàu liền khinh nghèo.
Ðông Hải Long Vương (*) thường ở đời,
Ðược thời chớ cười người mất thời.
Mọi người hãy nhẫn nại sống theo thời,
Biết người khác ai sống được trăm năm?


*Diễn ca: -

Bề ngoài ai cũng giống ai,
Bề trong, Tâm mới làm sai hạng người.
Tuy cùng nước hớp, cơm xơi,
Ði sáng về tối ta thời như nhau.
Thế nhưng đây khó, đó giàu,
Dù nghèo, quân tử giữ màu lễ nghi.
Tiểu nhân giàu có gặp thì,
Tỏ ngay cái vẻ khinh khi người nghèo.
Muôn đời sóng biển vẫn reo,
Vẫn nhìn nhân loại giàu nghèo luân phiên.
Vẫn chứng kiến cảnh đảo điên,
Kẻ đắc thế liền cười kẻ sa cơ.
Theo thời, nấn ná ai ơi!
Thử xem thiên hạ ai người trăm năm?


*Chú thích:-

Ðông Hải Long Vương: vua Rồng cai quản biển Ðông, được coi là kẻ có mặt thường xuyên liên tục trên đời, chứng kiến đầy đủ các sự kiện.


11A.

* Nguyên văn:-

瘦地開花晚,
貧窮發福遲。
莫道蛇無角,
成龍也未知。
但看天上月,
團圓有缺時。


*Âm:-

Sấu địa khai hoa vãn,
Bần cùng phát phước trì.
Mạc đạo xà vô giác,
Thành long dã vị tri.
Đản khan thiên thượng nguyệt,
Đoàn viên hữu khuyết thời .


* Dịch nghĩa:-

Ðất xấu trổ hoa muộn,
Nghèo nàn phát phước chậm.
Ðừng bảo rắn không sừng,
Thành rồng chưa biết lúc nào.
Chỉ cần xem trăng trên trời,
Tròn trặn có lúc khuyết.


*Diễn ca: -

Ðất cằn hoa nở muộn,
Nghèo túng phước lâu về.
Rắn không sừng chớ chê,
Hóa rồng chẳng mấy chố
Trăng tuy tròn có lúc,
Cũng khuyết ngay đấy thôi!

-----------------

12A.

* Nguyên văn:-

萬事由天莫強求,
何需苦苦用心謀。
三餐飯內休糊想,
得一帆風便可收。
生事事生何日了,
害人人害幾時休。
冤家宜解不宜結,
各自回頭看後頭。


*Âm:-

Vạn sự do thiên mạc cưỡng cầu,
Hà nhu khổ khổ dụng tâm mưu.
Tam xan phạn nội hưu hồ tưởng,
Đắc nhất phàm phong tiện khả thu.
Sinh sự sự sinh hà nhật liễu,
Hại nhân nhân hại kỷ thời hưu.
Oan gia nghi giải bất nghi kết,
Các tự hồi đầu khán hậu đầu .


* Dịch nghĩa:-

Muôn việc do trời chớ có gượng tìm. Sao phải khổ khổ dùng lòng tính mọi cách. Chớ nên mơ tưởng hão huyền ngoài ba bữa cơm. Gió no buồm rồi thì cuộn buồm lại. Bày ra việc rồi việc đẻ việc ngày nào mới xong? Lo hại người, lo người hại lại, lúc nào mới thôi? Mối oan nên cởi không nên thắt. Mỗi người hay quay đầu nhìn phía sau.


* Diễn ca: -

Gượng đòi chi nổi với trời?
Nhọc công xoay xở, việc đời vẫn trơ.
Ðược ăn ba bữa thôi mơ,
Gió no buồm nghỉ, đừng chờ gió thêm.
Việc đẻ việc, lúc nào êm?
Hại người, người hại, ai thèm dừng đâu?
Cởi oan, chớ thắt thêm sâu,
Hãy quay nhìn lại phía sau mỗi người.


13A.

* Nguyên văn:-

雀喙四顧食,
燕寢無疑心。
量大福亦大,
機深禍亦深。


*Âm:-

Tước uế tứ cố thực,
Yên tẩm vô nghi tâm.
Lương đại phước diệc đại,
Cơ thâm hoạ diệc thâm .


* Dịch nghĩa:-

Chim sẻ mổ ăn quay nhìn bốn phía.
 Chim én ngủ thoải mái không nghi ngại gì.
Ðộ lượng lớn, phước cũng lớn.
 Mưu cơ sâu họa cũng sâu.


*Diễn ca: -

Chim sẻ lăng xăng ngảnh bốn bên,
Tiểu nhân bận rộn thuở nào yên?
Én kia nằm nghỉ lòng thanh thản,
Quân tử bất tranh nhẹ nhõm mình.
Ðộ lượng khoan hồng phước càng lớn,
Tâm cơ thâm hiểm họa càng kinh.


XI - Tuyển dịch thiên thứ mười một: TỈNH TÂM

1A.

* Nguyên văn:-

資世通訓雲:陰法遲而不漏,陽憲近而有逃。陽網密而易漏,陰網疏而難逃。


*Âm:-

Tư Thế Thông Huấn vân :Âm pháp trì nhi bất lậu, dương hiến cận nhi hữu đào. Dương võng mật nhi dị lậu, âm võng sơ nhi nan đào .

* Dịch nghĩa:-

Bài Tư Thế Thông Huấn viết: Phép trừng trị của cõi âm chậm mà không lọt. Thể chế của cõi dương gần mà có cách trốn thoát. Lưới cõi dương dày mà dễ lọt, lưới cõi âm thưa mà khó trốn thoát.


*Diễn ca: -

Phép trừng trị cõi âm khó thấy,
Chậm nhận ra nhưng lại chắc sần.
Thể chế nhà nước thật gần,
Thiên hạ chỉ cần móc ngoặc thật hay.
Tha hồ xa chạy cao bay,
Lưới luật để sổng... cả bầy nhà lươn!
Lưới cõi âm, vô phương móc ngoặc,
Mắt lưới thưa, bởi thật lâu đời.
Bao nhiêu tội dưới bầu trời,
Lưới không để lọt dù người bé, to...

-------------------

2A.

* Nguyên văn:-

景 行錄云:無瑕之玉,可以為國稅。孝弟之子可以為家寶。寶貝用之有盡,忠孝享之無窮。家和貧也好,不義富如何?但存一子孝,何用子孫多?父不憂心因子孝,夫 無煩惱是妻賢。言多語失皆因酒,義斷親疏只為錢。既取非常樂,須防不測憂。樂極悲生。得寵思辱,居安慮危。榮盛辱大,利重害深。盛名必有重責,大功必有奇窮。甚愛必甚費,甚譽必甚毀。甚喜必甚憂,甚恥必甚亡。恩愛生煩惱,追隨大丈夫。庭前生瑞草,好事不如無。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Vô hà chi ngọc, khả dĩ vi quốc thuế. Hiếu đệ chi tử khả dĩ vi gia bảo. Bảo bối dụng chi hữu tận, trung hiếu hưởng chi vô cùng. Gia hoà bần dã hảo, bất nghĩa phú như hà ?Đản tồn nhất tử hiếu, hà dụng tử tôn đa ?Phụ bất ưu tâm nhân tử hiếu, phu vô phiền não thị thê hiền. Ngôn đa ngữ thất giai nhân tửu, nghĩa đoạn thân sơ chỉ vị tiền. Ký thủ phi thường lạc, tu phòng bất trắc ưu. Lạc cực bi sinh. Đắc sủng tư nhục, cư an lự nguy. Vinh thịnh nhục đại, lợi trọng hại thâm. Thịnh danh tất hữu trọng trách, đại công tất hữu cơ cùng. Thậm ái tất thậm phí, thậm dự tất thậm huỷ. Thậm hỷ tất thậm ưu, thậm sỉ tất thậm vong. Ân ái sinh phiền não, truy tuỳ đại trượng phu. Đình tiền sinh thuỵ thảo, hảo sự bất như vô .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Viên ngọc không vết có thể làm thuế nước, con hiếu đễ có thế làm của gia bảo. Của gia bảo dùng rồi cũng có khi hết, trung hiếu đem hưởng không hết. Nhà hòa thuận thì nghèo cũng tốt, bất nghĩa thì giàu có ra gì? Chỉ còn một đứa con hiếu, cần gì con cháu nhiều? Cha không lo trong lòng vì con có hiếu, chồng không phiền não vì có vợ hiền. Nói nhiều nói bậy đều do rượu, tình nghĩa chấm dứt, người thân chia lìa chỉ vì tiền. Ðã nhận cái vui bất thường thì nên phòng mối lo bất trắ Vui tột độ thì buồn sinh ra, được yêu chiều phải nghĩ đến lúc chịu nhụ Ở cảnh yên vui phải lo lúc nguy cấp. Vinh nhiều thì nhục lớn. Lợi nặng thì hại sâu, danh vọng càng lớn thì khiển trách càng nặng, công to tất có khi cùng khốn kỳ lạ. Yêu lắm tất sử dụng lắm, khen lắm tất xỉ vả lắm, vui lắm tất lo lắm, xấu hổ lắm tất mất lắm. Ái ân sinh phiền não, đeo đuổi đại trượng phu. Trước sân mọc lên cỏ báo điềm tốt. Dù có gặp việc tốt cũng không bằng không có.


*Diễn ca: -

Ngọc quý có thể thay quốc thuế (*),
Gia bảo là con hiếu trong nhà.
Ngọc dùng sẽ hết thôi mà!
Chỉ điều trung hiếu mới là bền lâu.

Nhà bất nghĩa, càng giàu càng bậy.
Nhà thuận hòa, nghèo mấy vẫn hay.
Chỉ cần một đứa thảo ngay,
Ðâu cần chi phải đông đầy cháu con?

Con hiếu thảo, cha không lo lắng,
Vợ hiền hòa, chồng chẳng đau đầu.
Lắm lời lải nhải đâu đâu,
Chẳng qua lỡ uống phải bầu Ðỗ Khang (*).

Chỗ anh em, họ hàng xào xáo,
Chỉ vì không chu đáo tiền nong.
Khi niềm vui rộn rã lòng,
Phải nên đề phòng sẽ gặp lo âu.

Vui vẻ lắm, âu sầu càng lắm,
Nhục đến ngay say đắm yêu vì.
Sống yên phải tính sẽ nguy,
Vẻ vang phải liệu gặp kỳ nhuốc nhơ.

Lợi càng nặng, hại chờ càng nặng,
Danh to thì khó tránh trách phiền.
Ðược yêu, cuộc sống khó yên,
Ðược khen tất phải hứng liền chê bai.

Vui mừng cứ đan cài lo lắng,
Xấu hổ luôn, ắt hẳn trơ lì.
Chừng như xấu hổ mất đi,
Nhưng nào có ích được gì cho cam!

Chuyện ân ái dễ làm mệt óc,
Chẳng buông tha những bậc trượng phu.
Cho dù may mắn có dư,
Việc hay thì cũng chẳng như đừng làm.


*Chú thích:-

Quốc thuế: thuế của một nước, tức cống phẩm của nước nhỏ nộp nước lớn để tỏ ý thần phụ

Ðỗ Khang: tên người nấu rượu đầu tiên, được dùng làm tiếng lóng chỉ rượu.

(Chú ý: Ðoạn văn trên vận dụng thuyết Vô Vi của Lão giáo cách nay 25 thế kỷ, không hẳn là "bảo giám" làm "minh tâm" con người ngày nay).


3A1.

* Nguyên văn:-

素書云:推古驗今所以不惑。欲知未來,先察已往。


*Âm:-

Tố Thư vân :Suy cổ nghiệm kim sở dĩ bất hoặc. Dục tri vị lai, tiên sát dĩ vãng .


* Dịch nghĩa:-

Sách Tố thư nói: Suy xưa nghiệm nay là để khỏi lầm. Muốn biết vị lai, trước phải xét dĩ vãng.


*Diễn ca: -

Muốn cho xét việc khỏi nhầm,
Thì phải sưu tầm kinh nghiệm người xưa.
Chẳng nên nghĩ cạn, làm bừa,
Con người phải chừa dấu vết bản năng.

-----------------------

3A2.

* Nguyên văn:-

巧者多勞拙厭閒,
善嫌懦弱惡嫌頑。
富遭嫉妬貧遭賤,
勤曰貪婪儉曰慳。
觸目不分皆笑蠢,
見機而作又言奸。
思量那件當教做,
做人難做做人難。
 為人難,
 為人難。
寫得紙盡筆頭干,
更寫幾句為人難。


*Âm:-

Xảo giả đa lao chuyết yếm gian,
Thiện hiềm noạ nhược ác hiềm ngoán.
Phú tao tật đố bần tao tiện,
Cần viết tham lam kiệm viết kiên.
Xúc mục bất phân giai tiếu xuẩn,
Kiến cơ nhi tác hựu ngôn gian.
Tư lương na kiện đương giáo tố,
Tố nhân nan tố tố nhân nan.
 Vi nhân nan,
 Vi nhân nan.
Tả đắc chỉ tận bút đầu can,
Cánh tả cơ kỷ cú vi nhân nan.


* Dịch nghĩa:-

Kẻ khéo chán nhiều nhọc, kẻ vụng chán nhàn rỗi.

- Người thiện bị ghét là nhu nhược, kẻ ác bị ghét là ương ngạnh.

- Kẻ giàu bị ghen ghét, kẻ nghèo bị khinh bỉ.

- Kẻ siêng bị cho là tham lam, kẻ kiệm bị cho là bủn xỉn.

Thấy tận mắt mà không nhận ra mọi người đều cho là ngu ngố

Nhìn ra vận hội mà làm lại có kẻ nói là gian hùng.

Nghĩ kỹ những chuyện ấy nên phải làm.

Làm người khó, làm chuyện làm người khó.

Làm người khó thay! Làm người khó thay!

Viết cho hết giấy, bút khô mực,

Lại vẫn phải viết mấy câu: Làm người khó thay!


*Diễn ca: -

Khéo thì quá nhọc, vụng chê nhàn,
Thiện, cười nhu nhượ Ác, làm càn!
Giàu, người căm ghét. Nghèo, khinh rẻ,
Siêng, chuốc tiếng tham. Kiệm, rán sành. (*)
Nhận định mù mờ, chê: kẻ ngốc,
Ra tay nhanh nhạy, mỉa: quân gian!
Nghĩ sao cho đúng? Làm sao đúng?
Thật khó làm người! Khó tính toan!
Mực cạn, bút cùn ngồi chép mãi:
Làm người là việc khó muôn vàn!


*Chú thích:-

Rán sành: tức "rán sành ra mỡ" thành ngữ cay độc mắng kẻ quá keo kiệt lại ngu xuẩn, thấy mảnh sành bóng láng, tưởng có lớp mỡ bám ngoài (!)


4A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:木有所養則根本固而枝葉茂,棟樑之材成。水有所養則源泉壯而流脈長,灌溉之利博。人有所養則志氣大而見識明,忠義之士出。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Mộc hữu sở dưỡng tắc căn bản cố nhi chi diệp mậu, đống lương chi tài thành. Thuỷ hữu sở dưỡng tắc nguyên tuyền tráng nhi lưu mạch trường, quán khái chi lợi bác. Nhân hữu sở dưỡng tắc chí khí đại nhi kiến thức minh, trung nghĩa chi sĩ xuất .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Cây có cách nuôi thì gốc rễ bền mà cành lá tốt, đồ làm rường cột mới thành. Nước có cách nuôi thì suối nguồn khỏe, dòng chảy dài, cái lợi tưới tiêu được rải khắp. Người có cách nuôi thì chí khí lớn mà kiến thức sáng suốt, kẻ sĩ trung nghĩa mới xuất hiện.


*Diễn ca: -

Cây kia chăm sóc khéo tay,
Mới bền gốc rễ, mới đầy lá xanh.
Gỗ làm kèo, cột mới thành,
Nhà cao cửa rộng phải đành nhờ cây.
Nước kia chăm sóc khéo tay,
Suối nguồn mới khỏe, mới dài kênh, sông.
Tưới, tiêu mới khắp ruộng đồng,
Mới giúp con cháu nhà nông no đầy.
Người mà chăm sóc ngày ngày,
Chí khí phát triển, trí tài mới tinh.
Trung nghĩa từ đấy mới sinh,
Ðất nước nhờ đấy quang vinh thêm nhiều.

------------------

5A.

* Nguyên văn:-

左傳云:意合則吳越相親,意不合則骨肉為仇敵。
疑人莫用,用人莫疑。
物極則反,樂極則悲,大合必離,勢盛必衰,否極泰來。


*Âm:-

Tả Truyện vân :Ý hợp tắc Ngô Việt tương thân, ý bất hợp tắc cốt nhục vi cừu địch.
Nghi nhân mạc dụng, dụng nhân mạc nghi.
Vật cực tắc phản, lạc cực tắc bi, đại hợp tất ly, thế thịnh tất suy, bỉ cực thái lai .


* Dịch nghĩa:-

Sách Tả truyện nói: Ý hợp thì Ngô Việt (*) thân nhau. Ý không hợp thì tình ruột thịt cũng làm cừu địch. Nghi người thì đừng dùng, dùng người thì đừng nghi.

Vật phát triển đến tột cùng thì phải quay ngược lại: vui tột cùng thì đau buồn, hợp tới tột cùng thì chia lìa, thế lực thịnh tất sẽ suy, suy tột cùng thì thịnh lại.


*Diễn ca: -

Hợp ý, thù cũng yên,
Thù nhau, nếu trái ý.
Dùng người, đừng nghi kỵ,
Nghi kỵ thì đừng dùng.
Vật phát triển đến cùng,
Quay trăm tám mươi độ. (180°)
Vì thế, vui... hết số,
Tất phải chuyển ra buồn.
Liên kết phình đến cùng,
Mầm ly khai nhen nhóm.
Thế lực tột cùng lớn,
Tất sắp sửa suy vong.
Chịu hết hồi long đong,
Tất hưởng mùi sung sướng...


*Chú thích:-

Ngô Việt: tên hai nước chư hầu đánh nhau quyết liệt vì thù hận truyền kiếp. Cuối cùng, Việt tiêu diệt Ngô.


******


6A.

* Nguyên văn:-

水底魚,天邊雁,高可射兮低可釣。惟有人心咫尺間,咫尺人心不可料。天可度,地可量,惟有人心不可防。畫虎畫皮難畫骨,知人知面不知心。對面與語,心隔千山。


*Âm:-

Thuỷ để ngư, thiên biên nhạn, cao khả xạ hề đê khả điếu. Duy hữu nhân tâm chỉ xích gian, chỉ xích nhân tâm bất khả liệu. Thiên khả đạc, địa khả lượng, duy hữu nhân tâm bất khả phòng. Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm. Đối diện dữ ngữ, tâm cách thiên sơn .


* Dịch nghĩa:-

Cá đáy nước, nhạn bên trời, cao có thể bắn, thấp có thể câu, chỉ có lòng người trong khoảng gang tấc (*) nhưng gang tấc ấy không thể đo, đất có thể lường chỉ có lòng người không thể ngừa. Vẽ hổ vẽ da khó vẽ xương. Biết người biết mặt không biết lòng. Ðối diện chuyện trò, lòng cách nghìn non.


*Diễn ca: -

Cá đáy nước, nhạn bên trời,
Dễ câu, dễ bắn, lòng người mới gay.
Thà đo trời thẳm đất dày,
Lòng người nham hiểm dễ ai biết ngừa?
Xương hùm ai dám vẽ chưa?
Vẽ da, ai cũng biết vừa sức hơn!
Chuyện trò tay bắt mặt mừng,
Lòng đây lòng đấy nghìn trùng cách xa.


*Chú thích:-

Gang tấc: nguyên văn "chỉ xích" mô tả khoảng cách không đáng kể (chỉ: 0.256m, xích: 0.325m).

-----------------

7A.

* Nguyên văn:-

太公曰:凡人不可逆相,海水不可斗量。勸君莫結冤,冤深難解結。一日結成冤,千日解不徹。若將恩報冤,如湯去潑雪。若將冤報冤,如狼重見蠍。我見結冤人,盡被冤磨折。


*Âm:-

Thái Công viết :Phàm nhân bất khả nghịch tương, hải thuỷ bất khả đẩu lương. Khuyến quân mạc kết oán, oán thâm nan giải kết. Nhất nhật kết thành oán, thiên nhật giải bất triệt. Nhược tương ân báo oán, như thang khứ bát tuyết. Nhược tương oán báo oán, như lang trọng kiến yết. Ngã kiến kết oán nhân, tận bị oán ma chiết .


* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Người ta không nên đoán trước qua bề ngoài. Nước biển không thể đong bằng chén uống rượu. Khuyên người chớ kết oán, oán sâu khó cởi ra. Một ngày kết thành oán, nghìn ngày cởi chẳng sạch. Nếu đem ơn đáp oán, như đem nước sôi dội tuyết. Nếu đem oán đáp oán, như chó sói gặp bọ cạp. Ta thấy những người kết oán đều bị oán làm cho sứt mẻ cả.


*Diễn ca: -

Ðừng xét người đời kiểu đoán trước,
Nước biển đem cốc lường sao được?
Khuyên ai chớ có kết oan gia,
Oan gia đã buộc khó gỡ ra.
Oan gia, dù chỉ một ngày kết,
Cởi suốt nghìn ngày cũng không hết.
Nếu đem ơn nghĩa đáp oan gia,
Như dội nước sôi, tuyết chảy ra.
Nếu cứ đem oan báo oan riết,
Sói gặp bọ cạp chịu hết xiết.
Ta từng thấy bao kẻ gây oan,
Hết thảy đều chuốc bao nguy nan...



8A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:結冤於人,謂之種禍,舍善不為,謂之自賊。莫信直中直,須防仁不仁。禮義生於富足,盜賊起於飢寒。貧窮不與下賤而下賤自生,富貴不與驕奢而驕奢自至。

飽暖思淫慾,飢寒起盜心。長思貧難危困自然不驕,每念疾病熬煎並無愁悶。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Kết oán ư nhân, vị chi chủng hoạ, xả thiện bất vi, vị chi tự tặc. Mạc tín trực trung trực, tu phòng nhân bất nhân. Lễ nghĩa sinh ư phú túc, đạo tặc khởi ư cơ hàn. Bần cùng bất dữ hạ tiện nhi hạ tiện tự sinh, phú quí bất dữ kiêu xa nhi kiêu xa tự chí.

Bão noãn tư dâm dục, cơ hàn khởi đạo tâm. Trường tư bần nan nguy khốn tự nhiên bất kiêu, mỗi niệm tật bệnh ngao tiên tịnh vô sầu muộn.


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Kết oan với người gọi là trồng họa, bỏ việc thiện không làm gọi là tự hại mình. Chớ tin cái gọi là thẳng của kẻ thẳng, phải đề phòng cái bất nhân của người nhân. Lễ nghĩa nảy sinh nơi giàu đủ, trộm cướp nổi lên nơi đói rét. Nghèo nàn không đi cùng hạ tiện mà hạ tiện tự sinh. Giàu sang không đi cùng kiêu xa nhưng kiêu xa tự đến.

No ấm nghĩ đến dâm dục, đói rét nổi lên lòng trộm cắp. Nghĩ mãi đến nghèo khổ, tai nạn nguy khốn, tự nhiên không kiêu. Nhớ mãi đến tật bệnh thuốc thang sẽ không sầu muộn.


*Diễn ca: -

Kết oan, trồng họa chờ ngày,
Vứt bỏ việc thiện, gây tai ương mình.
Thẳng thắn chưa hẳn đủ tin,
Trong nhân, nhận rõ tình hình bất nhân.
Khi giàu, lễ nghĩa đến gần,
Khi nghèo, thói trộm dần dần nảy sinh.
Ðã nghèo tự khắc hóa hèn,
Ðã giàu, xa xỉ, kiêu căng nẩy liền.
No đầy, tơ tưởng... "chơi tiên",
Ðói rét nghĩ cách kiếm tiền thật nhanh.
Thấp thỏm sợ chuyện chẳng lành,
Tự chữa cho mình khỏi thói kiêu căng.
Nhớ hoài bệnh tật, thuốc men,
Tự nhiên xóa sạch buồn phiền quấy ta.

----------------

9A.

* Nguyên văn:-

疏廣曰:賢人多財則損其志,愚人多財則益其過。


*Âm:-

Sớ Quảng viết :Hiền nhân đa tài tắc tổn kỳ chí, Ngu nhân đa tài tắc ích kỳ quá .


* Dịch nghĩa:-

Sớ Quảng nói: Người giỏi có nhiều của thì hao tổn chí hướng của họ. Người ngu có nhiều của thì càng có thêm cái lỗi của họ.


*Diễn ca: -

Người giỏi có lắm của,
Của làm nhụt chí đi.
Kẻ ngu có lắm của,
Của xui tội thêm ghi.


10A.

* Nguyên văn:-

老子曰 : [多財失其守正,多學惑於所聞。」


*Âm:-

Lão Tử viết : [ Đa tài thất kỳ thủ chính, đa học hoặc ư sở văn .]


* Dịch nghĩa:-

Lão Tử nói: Của nhiều làm mất đi cái chân lý mình bám giữ. Học nhiều làm nghi hoặc vốn kiến thức đã thu thập.


*Diễn ca: -

Của nhiều, lý tưởng hao đi,
Học nhiều, nghi hoặc những gì tưởng hay.

-----------------
11A.

* Nguyên văn:-

人非堯舜,焉能每事盡善?人貧志短,福至心靈。不經一事,不長一智。成則妙用,敗則不能。是非終日有,不聽自然無。來說是非者,便是是非人。若聽二面說,便見相離別。


*Âm:-

Nhân phi Nghiêu Thuấn, yên năng mỗi sự tận thiện ?Nhân bần chí đoản, phước chí tâm linh. Bất kinh nhất sự, bất trường nhất trí. Thành tắc diệu dụng, bại tắc bất năng. Thị phi chung nhật hữu, bất thính tự nhiên vô. Lai thuyết thị phi giả, tiện thị thị phi nhân. Nhược thính nhị diện thuyết, tiện kiến tương ly biệt .


* Dịch nghĩa:-

Người ta không phải là vua Nghiêu vua Thuấn (*) làm sao mọi việc đều tốt hết mức được? Người nghèo thì lập chí kém, phước đến thì lòng tinh tế ra. Không từng trải một việc thì không khôn ra một chút, việc thành thì cho là tuyệt vời, việc bại thì cho là không có khả năng. Phải trái cả ngày phải có. Cứ không nghe là tự nhiên thành không có. Kẻ đến nói chuyện phải trái tức là con người lắm chuyện. Nếu nghe hai kẻ lắm chuyện như thế nói, sẽ thấy cả hai cách biệt hẳn nhau.


*Diễn ca: -

Nghiêu Thuấn là mẫu người xưa,
Ngày nay ai dám so bừa thánh quân?
Nhà nghèo lập chí khó khăn,
May ra phước đến, khôn lanh ít nhiều.
Việc đời chưa trải bao nhiêu,
Dễ chi tài trí cao siêu hơn đời?
Việc thành, ca ngợi vẽ vời,
Việc hỏng chuốc lấy bao lời chê bai.
Phải quấy ai chẳng một vài,
Nghe đâu bỏ đấy chẳng ai phiền lòng.
Kẻ đem phải quấy phao đồn,
(Là trò khó phỉnh người khôn mắc lừa!)
Nếu nghe hai phía phân bua,
Thấy ngay là chả ai vừa với ai!


*Chú thích:-

Nghiêu Thuấn: vua Ðường Nghiêu (2357 - 2256 trước Công Nguyên) và Ngu Thuấn (2255 - 2206 trước Công Nguyên). Tương truyền là hai vị vua đạo đức nhất.


12A.

* Nguyên văn:-

擊壤詩云:平生不作皺眉事,天下應無切齒人。爾害別人猶自可,別人害爾卻何如?嫩草怕霜霜怕日,惡人自有惡人磨。有名豈在鐫頑石,路上行人口勝碑。有麝自然香,何必當風立?


*Âm:-

Kích Nhưỡng Thi vân :

Bình sinh bất tác trứu mi sự,
Thiên hạ ưng vô thiết xỉ nhân.
Nhĩ hại biệt nhân do tự khả,
Biệt nhân hại nhĩ khước hà như ?
Nộn thảo phạ sương sương phạ nhật,
Ác nhân tự hữu ác nhân ma.
Hữu danh khởi tại tuyên ngoán thạch,
Lộ thượng hành nhân khẩu thắng bi.

Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập ?


* Dịch nghĩa:-

Thơ Kích Nhưỡng (*) nói: Trong đời không làm việc nhíu mày, thiên hạ sẽ không có người nghiến răng. Mầy hại người khác thì mầy cho là được, người khác hại mầy thì mới sao? Cỏ non sợ sương, sương sợ mặt trời. Kẻ ác tự nhiên có kẻ ác giũa mài nó. Có danh há ở chỗ khắc vào đá cứng? Những người đi trên đường có miệng hơn bia đá. Có xạ tự nhiên thơm. Cần gì phải đứng đầu gió?


*Diễn ca: -

Ðừng làm thiên hạ chau mày,
Thì thiên hạ chẳng có ai căm hờn.
Mầy hại người, tưởng mầy hơn,
Người ta hại lại, mầy còn nói chi?
Cỏ non sương muối teo đi,
Mặt trời rọi xuống, sương kia tan tành.
Kẻ ác cứ tưởng lừng danh,
Phải tôn kẻ khác đàn anh mấy hồi?
Danh đâu khắc đá đỉnh đồi?
Nó nằm ở miệng người đời đấy thôi.
Xạ thơm thì đã thơm rồi,
Cần chi phải đặt ở nơi gió nhiều?

-------------
13A.

* Nguyên văn:-

張無盡曰:事不可使盡,勢不可倚盡,言不可道盡,福不可享盡。有福莫享盡,福盡身貧窮。有勢莫倚盡,勢盡冤相逢。福兮常自惜,勢兮常自恭。人生驕與侈,有始多無終。


*Âm:-

Trương Vô Tận viết :Sự bất khả sử tận, thế bất khả ỷ tận, ngôn bất khả đạo tận, phước bất khả hưởng tận. Hữu phước mạc hưởng tận, phước tận thân bần cùng. Hữu thế mạc ỷ tận, thế tận oán tương phùng. Phước hề thường tự tích, thế hề thường tự cung. Nhân sinh kiêu dữ xỉ, hữu thủy đa vô chung .


* Dịch nghĩa:-

Trương Vô Tận nói: Việc không nên làm đến hết, thế không nên ỷ hết, nói không nên nói hết, phước không nên hưởng hết. Có phước không hưởng hết, phước hết mình nghèo túng. Có thế không dùng hết, thế hết gặp oan trái. Phước phải thường tiếc, thế phải thường cung kính. Người kiêu căng với xa xỉ chỉ có được lúc đầu, phần nhiều không có lúc cuối.


*Diễn ca: -

Việc đời giữ mực vừa vừa,
Cần phải biết chừa khoảng cách an ninh.
Chớ nên dốc hết bình sinh,
Có quyền thế phải giữ mình khiêm cung.
Nói năng cũng phải dè chừng,
Có phước chớ hưởng đến cùng cho xong.
Hết phước sẽ gặp long đong,
Hết quyền thế, chuốc mối oan là thường.
Hưởng phước phải biết dè chừng.
Hưởng quyền thế phải nhún nhường giữ thân.
Những người xa xỉ, kiêu căng,
Chỉ được vênh váo, hung hăng lúc đầu.
Rồi ra lép vế về sau,
Ai ơi! Hãy liệu khuyên nhau vừa vừa!



14A.

* Nguyên văn:-

太公曰:貧不可欺,富不可侍。陰陽相推,週而復始。


*Âm:-

Thái Công viết :Bần bất khả khi, phú bất khả thị. Âm dương tương thôi, chu nhi phục thủy .


* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Nghèo không nên khinh, giàu không nên cậy, âm dương đắp đổi nhau, giáp vòng là quay lại lúc đầu.


*Diễn ca: -

Thấy nghèo thì chớ có khinh,
Thấy giàu chớ tưởng là mình dễ vay.
Âm dương đắp đổi vần xoay,
Hôm qua nghèo đấy, hôm nay giàu rồi!
Ngày mai nghèo lại ngay thôi,
Thế là vận số đã trôi giáp vòng.

------------------

15A.

* Nguyên văn:-

王參政四留銘言:

留有餘不盡之功以還造化;
留有餘不盡之祿以還朝廷;
留有餘不盡之財以還百姓;
留有餘不盡之福以遺子孫。


*Âm:-

Vương Tham Chính Tứ Lưu Minh ngôn :

Lưu hữu dư bất tận chi công dĩ hoàn tạo hoá ;
Lưu hữu dư bất tận chi lộc dĩ hoàn triều đình ;
Lưu hữu dư bất tận chi tài dĩ hoàn bách tính ;
Lưu hữu dư bất tận chi phước dĩ di tử tôn.


* Dịch nghĩa:-

Bài minh 「Ðể lại bốn cái」 của Vương Tham Chính viết:

- Ðể lại phần còn thừa của công lao chưa hưởng hết trả lại Tạo Hóa.

- Ðể lại phần còn thừa của bổng lộc chưa hưởng hết trả lại triều đình.

- Ðể lại phần còn thừa của tiền tài chưa hưởng hết trả lại trăm họ.

- Ðể lại phần còn thừa của phước đức chưa hưởng hết trả lại con cháu.


*Diễn ca: -

Công lao xin hưởng vừa vừa,
Ðể lại phần thừa trả Tạo Hóa thôi.
Bổng lộc cũng đã hưởng rồi,
Ðể phần thừa lại trả nơi triều đình.
Tiền tài hưởng đủ phần mình,
Phần thừa để lại chúng sinh làm quà.
Phận may hưởng được phước nhà,
Dành cho con cháu, bớt ra một phần.

**********

16A.

* Nguyên văn:-

漢書云:勢交者近,勢盡而亡。財交者密,財盡則疏。色交者親,色衰義絕。


*Âm:-

Hán Thư vân :Thế giao giả cận, thế tận nhi vong. Tài giao giả mật, tài tận tắc sơ /sớ. Sắc giao giả thân, sắc suy nghĩa tuyệt.


* Dịch nghĩa:-

Sách Hán thư nói: Kẻ giao du bằng quyền thế thì rất thân cận, nhưng quyền thế hết là mất. Kẻ giao du bằng tiền tài thì rất thân mật nhưng tiền tài hết thì rời nhau. Kẻ giao du bằng nhan sắc thì rất thân nhau nhưng sắc suy là cắt đứt.


*Diễn ca: -

Thân nhau cùng chức vị cao,
Một bên mất chức, là xao lảng tình?
Thân nhau giữa kẻ lắm tiền,
Một bên phá sản là quên tức thì!
Thân nhau nhan sắc mê si,
Một bên bệnh hoạn nan y là rời!
Ai ơi xin nhắn một lời:
"Tỉnh tâm" cho kỹ mới thôi "thân" nhầm!

 -----------------
17A.

* Nguyên văn:-

黃金千兩未為貴,得人好語勝千金。千金易得,好語難求。求人不如求己,能管不如能推,用心閒管是非多。能者乃是拙之奴。知事少時煩惱少,識人多處是非多。小船不堪重載,深徑不宜獨行。踏實地無煩惱。黃金未為貴,安樂值錢多。非財害己,惡語傷人。人為財死,鳥為食亡。

*Âm:-

Hoàng kim thiên lạng vị vi quí, đắc nhân hảo ngữ thắng thiên kim. Thiên kim dị đắc, hảo ngữ nan cầu. Cầu nhân bất như cầu kỷ, năng quản bất như năng thôi, dụng tâm nhàn quản thị phi đa. Năng giả nãi thị chuyết chi nô. Tri sự thiếu thời phiền não thiếu, thức nhân đa xứ thị phi đa. Tiểu thuyền bất kham trọng tải, thâm kính bất nghi độc hành. Đạp thực địa vô phiền não. Hoàng kim vị vi quí, an lạc trị tiền đa. Phi tài hại kỷ, ác ngữ thương nhân. Nhân vi tài tử, điểu vi thực vong .

* Dịch nghĩa:-

Vàng ròng nghìn lạng chưa phải là quý. Ðược của người một lời nói tốt quý hơn nghìn vàng. Nghìn vàng dễ có được, lời nói tốt khó tìm được. Ðòi hỏi người không bằng đòi hỏi mình. Cai quản giỏi không bằng triển khai giỏi. Nặng lòng cai quản sẽ gặp nhiều rắc rối. Kẻ có khả năng là đầy tớ kẻ vụng dại. Lúc biết ít việc thì ít phiền não, biết người nhiều quá thì chịu nhiều thị phi. Thuyền bé không chịu nổi chở nặng, lối đi rậm khuất không nên đi một mình. Giẫm lên chỗ đất chắc thì không gặp chuyện phiền não. Vàng ròng chưa phải là quý, yên vui có giá trị hơn tiền nhiều. Của phi nghĩa làm hại mình, lời dữ làm tổn thương người. Người chết vì của, chim chết vì mê ăn.


*Diễn ca: -

Nghìn vàng chưa hẳn quý đâu,
Lời hay lắm lúc in sâu nhiều đời.
Nghìn vàng kiếm cũng ra thôi,
Dễ gì kiếm được một lời hay ho?
Ðòi hỏi mình, mới đáng lo,
Ðòi hỏi người, chỉ tính cho nhất thời.
Giữ cái có, đã khó rồi,
Mở mang cái có, muôn đời ngợi khen.
Ở đời, những kẻ tài năng,
Chỉ làm đầy tớ mấy anh vụng về.
Biết ít, chuyện đỡ nhiêu khê,
Biết nhiều người, chốn, lắm bề thị phi.
Thuyền con chở nặng khó đi,
Nẻo đường rậm khuất, ngại khi một mình.
Vì mồi, chim dễ hy sinh,
Vì của thiên hạ bỏ mình như chơi!


**********

18A.

* Nguyên văn:-

景 行錄云:利可共而不可獨,謀可獨而不可眾。獨利則敗,眾謀則洩。機不密先發。不孝怨父母,負債怨財主,食多嚼不細,家貧願鄰有。在家不會迎賓客,出外方知 少主人。但願有錢留客醉,勝如騎馬倚人門。貧居鬧市無人問,富在深山有遠親。世情看冷暖,人面逐高低。仁義盡從貧處斷,世情偏向有錢家。吃盡千般無人知。衣衫襤褸被人欺。寧塞無底坑,莫塞鼻下橫。馬行步慢只因瘦,人不風流只為貧。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Lợi khả cộng nhi bất khả độc, mưu khả độc nhi bất khả chúng. Độc lợi tắc bại, chúng mưu tắc duệ. Cơ bất mật tiên phát. Bất hiếu oán phụ mẫu, phụ trái oán tài chủ, thực đa tước bất tế, gia bần nguyện lân hữu. Tại gia bất hội nghênh tân khách, xuất ngoại phương tri thiếu chủ nhân. Đản nguyện hữu tiền lưu khách tuý, thắng như kỵ mã ỷ nhân môn. Bần cư náo thị vô nhân vấn, phú tại thâm sơn hữu viễn thân. Thế tình khan lãnh noãn, nhân diện trục cao đê. Nhân nghĩa tận tùng bần xứ đoạn, thế tình thiên hướng hữu tiền gia. Ngật tận thiên ban vô nhân tri. Y sam lam lũ bị nhân khi. Ninh tắc vô để kháng, mạc tắc tỵ hạ hoành. Mã hành bộ mạn chỉ nhân sấu, nhân bất phong lưu chỉ vị bần .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Lợi có thể chung mà không thể một mình, mưu có thể một mình mà không thể đông người. Lợi một mình thì hư, mưu đông người thì rò rỉ. Mưu cơ không kín đáo thì họa xảy ra trước. Ðứa bất hiếu oán cha mẹ, kẻ mắc nợ oán chủ nợ. Tham nhiều nhai chẳng nát, nhà nghèo mong láng giềng có của. Ở nhà không biết đón khách, đi ra mới biết ít chủ nhân. Chỉ mong có tiền giữ khách ở lại nhậu còn hơn cưỡi ngựa tựa cổng người khá Kẻ nghèo ở nơi chợ đông không có người hỏi, kẻ giàu ở non sâu cũng có bà con xa. Tình đời chỉ xem lạnh ấm, mặt người chỉ nhìn theo cao thấp. Nhân nghĩa mất theo cảnh nghèo, tình đời chỉ lệch về phía có tiền. Ăn cả nghìn món không ai biết, áo xổng lam lũ bị người ta khinh ngay. Thà lấp hang không đáy, không lấp nổi vạch ngang dưới mũi. Ngựa bước chậm chạp chỉ vì gầy, người không phong lưu chỉ vì nghèo.


*Diễn ca: -

Lợi thì chung hưởng mới là,
Chớ nên hưởng một mình ta sinh rầy.
Mưu thì chỉ một người hay,
Nhiều người biết đến, lộ ngay đấy mà!
Con bất hiếu oán mẹ cha,
Kẻ vay nợ, lại oán nhà cho vay.
Tham đầy mồm, tất khó nhai,
Nghèo mong lối xóm ai ai cũng giàu.
(Phòng khi vay mượn cũng mau,
Trả nợ cũng đỡ đi lâu nhọc người!)
Nhà thưa tiếng khách nói cười,
Ði ra cũng ít được người đón đưa.
Có tiền mời khách say sưa,
Còn hơn ghé ngựa đứng chờ cổng ai.
Nghèo ở chợ chẳng ai hay,
Giàu ở núi, tiếp suốt ngày bà con.
Tình đời ấm lạnh tùy cơn,
Mặt người ngước chốn cao hơn đấy mà!
Khi nghèo, nhân nghĩa phôi pha,
Nhiều tiền mới hút người ta kéo về.
Khi ta đánh chén no nê,
Chẳng ai hỏi lối đi về của ta.
Nhưng khi ta xác xơ ra,
Họ kéo cả nhà xúm lại khinh khi.
Lấp hang không đáy khó chi,
Nhưng chẳng dễ gì lấp miệng xôn xao.
Ngựa gầy bước thấp bước cao,
Người nghèo chẳng biết làm sao đỡ hèn!

**********

19A.

* Nguyên văn:-

濟顛和尚警世云:看盡彌陀經,念徹大悲咒。種瓜還得瓜,種豆還得豆。經咒本慈悲,冤結如何救。照見本來心,做者還他受,自作還自受。

*Âm:-

Tế Điên Hoà Thượng cảnh thế vân :Khán tận Di Đà Kinh, niệm triệt Đại Bi Chú. Chủng qua hoàn đắc qua, chủng đậu hoàn đắc đậu. Kinh chú bản từ bi, oán kết như hà cứu. Chiếu kiến bản lai tâm, tố giả hoàn tha thụ, tự tác hoàn tự thụ .


* Dịch nghĩa:-

Hòa Thượng Tế Ðiên răn đời rằng: Xem hết kinh Di Ðà, niệm sạch bài chú Ðại Bi thì trồng dưa vẫn được dưa, trồng đậu vẫn được đậu. Kinh chú vốn từ bi, kết oan cứu sao được? Soi thấy cái Tâm vốn có, kẻ nào làm thì nấy chịu, mình tự làm thì tự chịu.


*Diễn ca: -

Kinh Di Ðà, chú Ðại Bi,
Thấm nhuần, thấu triệt, ích gì mấy đâu?
Một khi kết oán đã sâu,
Dẫu kinh cùng chú nhiệm mầu cũng thua.
Cha ông suy gẫm từ xưa,
Trồng đậu chẳng hái được dưa đâu mà!
Lẽ nhân quả chẳng buông tha,
Mình làm mình chịu, ai mà cứu ai?


----------------

20A.

* Nguyên văn:-

荀子云 : [公生明,偏生暗。作德生通,作偽生塞。誠信生神,誕誇生惑。 」


*Âm:-

Tuân Tử vân :Công sinh minh, thiên sinh ám. Tác đức sinh thông, tác nguỵ sinh tắc. Thành tín sinh thần, đản khoa sinh hoặc.


* Dịch nghĩa:-

Tuân Tử nói: Công tâm sinh ra sáng suốt, thiên vị sinh ra tối tăm, làm theo đức thì trôi chảy, làm theo bịp bợm thì bế tắc. Thật thà tin cậy sinh ra thần tình, dối trá khoác lác sinh ra ngờ vực.


*Diễn ca: -

Kẻ công tâm nói gì cũng đúng,
Thiên vị thường lúng túng vụng về.
Làm điều đức độ xuôi ghê,
Làm điều dối gạt như đê chận dòng.
Thần tình là kẻ thật lòng,
Lừa người thì mới thổi phồng, tán dương.



21A.

* Nguyên văn:-

漢書云 : 曲突徙薪無恩澤,焦頭爛額為上客。


*Âm:-

Hán Thư vân :Khúc đột tỉ tân vô ân trạch, tiêu đầu lạn ngạch vi thượng khách .


* Dịch nghĩa:-

Sách Hán thư nói: Kẻ uốn cong ống khói, dời củi đi thì không được coi là có ơn, kẻ cháy tóc bỏng trán lại làm thượng khách.


*Diễn ca: -

(Chuyển thể thơ ngụ ngôn)

Hỏa hoạn ai cũng ngán,
Cỏ kẻ khuyên đề phòng.
Củi nên dời chỗ thoáng,
Ống khói nên nắn cong.

Lời khuyên, gác ngoài tai,
"Kẻ khuyên" đành tiu nghỉu.
Cả xóm hùa chê bai,
"Kẻ khuyên" bấm bụng chịu.

Quả nhiên xảy cháy nhà,
Tài sản hao hơn nửa.
"Kẻ khuyên" bận đi xa,
Lối xóm xúm dập lửa.

"Kẻ khuyên" đi xa về,
Tìm lời sang an ủi.
Thấy tiệc bày ê hề,
Chủ nhân như muốn đuổi:

- Quả là đồ xấu xa!
Chỉ rủa nhà ta cháy!
Giờ thì cháy thật rồi!
Chắc có kẻ vui đấy!

Lại quay sang khách mời:
- Phước may nhờ các vị!
Cụng ly một cái chơi!
Hoan hô người tận tụy!

"Kẻ khuyên" chua chát cười,
Như học trò thi hỏng:
"Mình tử tế mười mươi!
Nhưng nói ra lại... ngọng."



----------------------

22A.

* Nguyên văn:-

三寸氣在千般用,一旦無常萬事休,萬物莫逃其數,萬般祥瑞不如無。天不生無祿之人,地不生無根之草,大富由天,小富由勤,大富則驕,大貧則憂。憂則為盜,驕則為暴。莫道家未成,成家子未生,莫道家未破,破家子未大。成家之兒,惜糞如金,敗家之子,用金如糞。


*Âm:-

Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhất đán vô thường vạn sự hưu. Vạn vật mạc đào kỳ số, vạn ban tường thuỵ bất như vô. Thiên bất sinh vô lộc chi nhân, địa bất sinh vô căn chi thảo. Đại phú do thiên, tiểu phú do cần, đại phú tắc kiêu, đại bần tắc ưu. Ưu tắc vi đạo, kiêu tắc vi bạo. Mạc đạo gia vị thành, thành gia tử vị sinh, mạc đạo gia vị phá, phá gia tử vị đại. Thành gia chi nhi, tích phẩn như kim, Bại gia chi tử, dụng kim như phẩn .


* Dịch nghĩa:-

Ba tấc hơi còn, dùng cả nghìn việc, một sớm gặp chuyện vô thường (tức chết đi) thì muôn việc đều thôi. Muôn vật chẳng trốn nổi số, muôn thứ điềm lành chẳng bằng không. Trời chẳng sinh người không lộc, đất chẳng sinh cỏ không rễ. Giàu to do trời, giàu nhỏ nhờ siêng năng. Giàu lớn thì kiêu, nghèo lớn thì lo. Lo thì làm trộm, kiêu thì tàn bạo. Chớ nói nhà chưa nên, con làm nhà nên còn chưa sinh. Chớ nói nhà chưa tan, con làm nhà tan còn chưa lớn. Con làm nên nhà thì tiếc phân như vàng, con làm tan nhà, xài vàng như phân.


*Diễn ca: -

Còn hơi thở, còn xoay nghìn việc,
Tắt hơi rồi, ai thiết chi chi.
Số trời khi đã dứt đi,
Muôn điều lành tốt đều thì bằng không.
Trời sinh người cũng đồng hưởng lộc,
Ðất sinh cỏ đủ gốc rễ thôi.
Giàu to nhờ bởi số trời,
Giàu nhỏ là bởi cả đời siêng năng.
Kẻ giàu to, kiêu căng khinh bạc,
Kẻ nghèo to, phờ phạc lo âu.
Lo âu toan trộm nhà giàu,
Kiêu nhà giàu bạo chẳng bao giờ vừa.
Chớ nghĩ rằng nhà chưa phát đạt,
Chẳng qua con kích phát chưa sinh.
Ðừng cho nhà nọ vẫn yên,
Chẳng qua đứa phá chờ phiên trưởng thành.
Con nhà nên, quý phân như ngọc,
Con nhà hư, coi ngọc như phân.
Cơ trời biến chuyển xoay vần,
Nên, hư, tốt, xấu dần dần lộ ra...

**********

23A.

* Nguyên văn:-

胡文定公曰:大抵人家須常教有不足處,若十分快意,提防有不恰好事出。


*Âm:-

Hồ Văn Định Công viết :Đại để nhân gia tu thường giáo hữu bất túc xứ, nhược thập phần khoái ý, đề phòng hữu bất kháp hảo sự xuất .

* Dịch nghĩa:-

Ông Hồ Văn Ðịnh nói: Tất cả mọi người phải thường giữ cho có sự chưa đủ. Nếu mười phần thỏa ý phải đề phòng xuất hiện cái không ăn khớp với việc tốt.


*Diễn ca: -

"Cái chưa đủ" buộc người đối phó,
Dịch quyết nhanh khi có lôi thôi.
Cái Tâm đã định thế rồi,
Lôi thôi xảy đến vẫn coi chuyện thường.
"Cái khoái ý" mọi đường thỏa mãn,
Xem cuộc đời chẳng đáng bận tâm.
Chủ quan nên dễ sinh nhầm,
Tai ương xảy đến, thâm tâm rối bời...

--------------

24A.

* Nguyên văn:-

康節邵先生曰:

閒居慎勿說無妨,
纔說無妨便有妨。
爽口物多終作病,
快心事過必為殃。
爭先徑路機關惡,
過後語言滋味長。
與其病後能服藥,
不若病前能自防。

饒人不是痴,過後得便宜。趕人不要趕上,捉賊不如趕賊。


*Âm:-

 Khang Tiết Thiệu tiên sinh viết :

Nhàn cư thận vật thuyết vô phương,
Tài thuyết vô phương tiện hữu phương.
Sảng khẩu vật đa chung tác bệnh,
Khoái tâm sự quá tất vi ương.
Tranh tiên kính lộ cơ quan ác,
Quá hậu ngữ ngôn tư vị trường.
Dữ kỳ bệnh hậu năng phục dược,
Bất nhược bệnh tiền năng tự phòng.

Nhiêu nhân bất thị si, quá hậu đắc tiện nghi. Cản nhân bất yếu cản thượng, tróc tặc bất như cản tặc.

* Dịch nghĩa:-

Thiệu Khang Tiết nói: Lúc rảnh rang chớ nói là không hại gì. Vừa nói không hại liền có hại. Sướng miệng ăn nhiều rốt cuộc bị bệnh. Gặp việc khoái ý tất có tai ương. Tránh đi trước đường nhỏ gặp nạn bất ngờ. Qua rồi lời lẽ nghiệm ra mùi vị thấm thía lâu. Ðể lâm bệnh rồi mới tìm thuốc, không bằng biết tự phòng ngừa trướ Tha người không phải là dại. Vì sau đấy sẽ gặp sự thuận lợi. Ðuổi người chẳng nên đuổi chận đầu. Bắt giặc không bằng đuổi giặc.


*Diễn ca: -

Chớ nên bảo "Chẳng hề gì!"
Dứt lời, có chuyện "hề gì" tới ngay.
Món ngon đánh chén no say,
Dễ sinh nên bệnh lo ngày lo đêm.
Thấy việc thú vị lại thèm,
Biết đâu chuốc họa nhiều thêm ích gì?
Lối hẹp, đi trước dễ nguy,
Nói sau mới đủ những gì hay ho.
Lâm bệnh, xuôi ngược chăm lo,
Chi bằng trước đấy phòng cho kỹ càng.
Tha người, há kém khôn ngoan?
Mai sau hẳn gặp dễ dàng cho ta.
Rượt người, hãy chớ rượt nà,
Bắt sống quân địch kém xa xua về.

**********

25A.

* Nguyên văn:-

梓潼帝君垂訓:

妙藥難醫冤債病,
橫財不富命窮人,
虧心折盡平生福,
行短天教一世貧,
生事事生君莫怨,
害人人害汝休嗔,
天地自然皆有報,
遠在兒孫近在身.

藥醫不死病,
佛化有緣人。

*Âm:-

Tử Đồng Đế Quân thuỳ huấn :Diệu dược nan y oan trái bệnh, Hoạnh tài bất phú mệnh cùng nhân. Khuy tâm chiết tận bình sinh phước, Hành đoản thiên giáo nhất thế bần. Sinh sự sự sinh quân mạc oán, hại nhân nhân hại nhữ hưu sân. Thiên địa tự nhiên giai hữu báo, viễn tại nhi tôn cận tại thân. Dược y bất tử bệnh, Phật hoá hữu duyên nhân .

* Dịch nghĩa:-

Tử Ðồng Ðế Quân (*) buông lời dạy: Thuốc hay không chữa được bệnh oan trái. Của hoạnh tài không làm giàu được người mệnh cùng. Lòng phụ bạc rút cạn hết phước bình sinh. Nếu cư xử kém trời bắt nghèo cả đời. Sinh sự tất sự sinh ngươi chớ oán. Hại người tất người hại lại, mầy đừng cự nự. Trời đất tự nhiên đều có báo đáp. Xa thì đời con đời cháu, gần thì ở ngay đời mình. Thuốc chữa thứ bệnh không chết, Phật hóa độ cho người có duyên lành.


*Diễn ca: -

Bệnh oan trái thuốc nào chữa nổi?
Của hoạnh tài chẳng đổi mạng nghèo.
Cả đời làm phước dẫu nhiều,
Trái lòng một việc, phước theo sạch liền!
Tính nết kém, liên miên nghèo túng,
Cán cân trời, cân đúng lòng trời.
Gieo gì gặt nấy mà thôi,
Khuyên ai chớ oán, buông lời sân si.
Trời lẳng lặng duy trì báo ứng,
Hoặc bản thân, hoặc hướng cháu con.
Thuốc hay chỉ chữa người còn,
Phật chỉ hóa độ tâm hồn có duyên.


*Chú thích:-

Tử Ðồng Ðế Quân: Nhân vật vô cùng kỳ lạ trong đức tin người Trung Quốc (có lẽ khó được giới nghiên cứu tiếp thu).

Lúc đầu ông là người thường, có tên là Trương Á Tử tức Trương Dục người núi Thất Khúc, làm quan đời Tấn (thế kỷ IV). Năm Ninh Khang 2 (394) đời Hiếu Vũ đế nhà Ðông Tấn, ông tự xưng Thục vương khởi nghĩa chống nhà Tiên Tần, tử trận chôn ở núi Thất Khúc, thuộc quận Tử Ðồng. Các đời Ðường, Tống về sau đều phong tặng ông tước Vương. Ðến đời Nguyên Nhân Tông, năm 1316 ông được phong là Văn Xương Ðế Quân (!) cai quản... chùm sao Văn Xương (gồm sáu ngôi, phía tả chùm sao Bắc Ðẩu).

Truyền thuyết kể rằng Văn Xương Ðế Quân hóa thân xuống trần gian làm quan 73 lần đều thanh liêm nên được Thiên Ðế giao quản lý Quế Tịch (hồ sơ công danh) điều hành việc đỗ đạt, thăng thưởng.

Các đời Nguyên, Minh đều có lập Văn Xương Cung, Văn Xương Các, Văn Xương Từ, tế lễ trọng hậu cấp nhà nướ Quy mô hoành tráng nhất là ở quận Tử Ðồng (nơi có lăng mộ Trương Á Tử). Ở đấy còn xây dựng hàng loạt công trình phụ sử dụng như một trường đại học ngày nay. Thánh đản được tổ chức thành lễ hội vào ngày 3 tháng 2 hàng năm.

(Tóm tắt tư liệu của Châu Quân Vũ)

----------------

26A.

* Nguyên văn:-

花落花開開又落,錦衣布衣更換著,豪家未必長富貴,貧家未必常寂寞。扶人未必上青霄,推人未必填溝壑。凡事勸君莫怨天,天意於
人無厚薄。

*Âm:-

Hoa lạc hoa khai khai hựu lạc, cẩm y bố y cánh hoán trước, hào gia vị tất trường phú quí, bần gia vị tất thường tịch mịch. Phù nhân vị tất thượng thanh tiêu, thôi nhân vị tất điền câu hác. Phàm sự khuyến quân mạc oán thiên, thiên ý ư nhân vô hậu bạc .


* Dịch nghĩa:-

Hoa rụng, hoa nở, nở xong lại rụng. Áo gấm áo vải thay đổi nhau mặc. Nhà hào phú chưa chắc cứ giàu mãi, nhà nghèo hèn chưa chắc lặng lẽ hoài. Nâng người chưa chắc nâng tới trời xanh, đẩy người chưa chắc rơi đến khe mương. Khuyên ngươi mọi việc không nên oán trời. Ý trời không hậu với ai, không bạc với ai.


*Diễn ca: -

Hôm nay hoa rụng khắp trời,
Ngày mai hoa nở nơi nơi tía hồng.
Rồi ra rụng khắp tây đông,
Ðời người gẫm lại cũng không khác nào.
Hôm nay chức trọng quyền cao,
Ngày mai áo vải rơi vào dân đen.
Giàu nghèo đắp đổi luân phiên,
Chẳng ai bền bỉ liên miên một bề.
Xô người xuống tận đáy khe,
Mai kia người cũng lăm le lên bờ.
Nâng người lên tận mây trời,
Mai kia người cũng sẽ rơi xuống trần.
Ai ơi! Xin chớ oán ngầm,
Trời kia phân phát mọi phần công minh.


**********


27A.

* Nguyên văn:-

莫入州衙與縣衙,
勸君勤儉作生涯,
池塘積水須防旱,
田地勤耕足養家,
教子教孫並教藝,
栽桑栽柘少栽花,
閒是閒非休要管,
渴飲清泉悶煮茶。


*Âm:-

Mạc nhập châu nha dữ huyện nha,
Khuyến quân cần kiệm tác sinh nha (nhai).
Trì đường tích thuỷ tu phòng hạn,
Điền địa cần canh túc dưỡng gia.
Giáo tử giáo tôn tịnh giáo nghệ,
Tài tang tài giá thiếu tài hoa.
Nhàn thị nhàn phi hưu yếu quản,
Khát ẩm thanh tuyền muộn chử trà .


* Dịch nghĩa:-

Ðừng đến Châu nha với Huyện nha. Khuyên ngươi cần kiệm để sinh nhai. Ao vũng chứa nước phải phòng hạn. Ruộng đất siêng cày đủ nuôi nhà. Dạy con dạy cháu đều nên dạy nghề. Trồng dâu trồng đố (*) ít trồng hoa. Chuyện phải quấy vặt vãnh đừng bận tâm. Khát uống suối trong, buồn uống trà.


*Diễn ca: -

Chớ nên bén mảng chốn quan nha,
Cần kiệm làm ăn thế mới là!
Ao vũng nước nhiều phòng hạn hán,
Ruộng vườn cày cấy đủ nuôi nhà.
Dạy nghề này nọ cho con cháu,
Trồng đố, trồng dâu, bớt thích hoa.
Mọi chuyện thị phi đừng vướng bận,
Khát dùng nước suối, chán dùng trà.


*Chú thích:-

Ðố: loài cây cho lá nuôi tằm, vỏ làm thuốc nhuộm, làm dây cung.

---------------------

28A.

* Nguyên văn:-

寬性寬懷過幾年,
人死人生在眼前。
隨高隨下隨緣過,
或長或短莫埋怨。
自有自無休嘆息,
家貧家富總由天。
平生衣祿隨緣度,
一日清閒一日仙。


*Âm:-

Khoan tính khoan hoài quá kỷ niên,
Nhân tử nhân sinh tại nhãn tiền.
Tuỳ cao tuỳ hạ tuỳ duyên quá,
Hoặc trường hoặc đoản mạc mai oán.
Tự hữu tự vô hưu thán tức,
Gia bần gia phú tổng do thiên.
Bình sinh y lộc tuỳ duyên độ,
Nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tiên .


* Dịch nghĩa:-

Tính nhẹ nhõm lòng nhẹ nhõm được mấy năm rồi. Người chết người sống ở trước mắt. Gặp cao theo cao, gặp thấp theo thấp tùy từng lú Có khi khá có khi kém không oán ngầm. Có thì có, không thì không, chả than van. Nhà nghèo hay giàu mặc lòng trời. Cả đời hưởng lộc, cho phép mặc sao hay vậy. Một ngày an nhàn là làm tiên một ngày.


*Diễn ca: -

Tâm hồn thanh thản mấy năm rồi,
Chết sống chuyện thường trước mắt thôi.
Cao thấp công danh không đếm xỉa,
Dở hay tài trí chẳng thừa hơi.
Dù không dù có thôi than thở,
Nghèo túng giàu sang phó mặc trời.
Cái mặc cái ăn sao cũng được,
An nhàn mới sướng nhất trên đời.

**********

29A.

* Nguyên văn:-

家語云:君子有三思不可不察也。少而不學,長無能也。老而不教,死無思也。有而不施,窮無與也。是故君子少思其長則務學,老思其死則務教,有思其窮則務施。


*Âm:-

Gia Ngữ vân :Quân tử hữu tam tư bất khả bất sát dã. Thiếu nhi bất học, trường vô năng dã. Lão nhi bất giáo, tử vô tư dã. Hữu nhi bất thi, cùng vô dữ dã. Thị cố quân tử thiếu tư kỳ trường tắc vụ học, lão tư kỳ tử tắc vụ giáo, hữu tư kỳ cùng tắc vụ thi .


* Dịch nghĩa:-

Sách Gia ngữ nói: người quân tử có ba điều lo không thể không xét vậy: nhỏ mà không học, lớn không có khả năng, già mà không dạy, chết đi không ai nghĩ đến, có mà không bố thí, lúc cùng khốn chẳng ai cho. Thế cho nên người quân tử lúc nhỏ nghĩ đến khi lớn thì lo học, lúc già nghĩ đến cái chết nên lo dạy. Khi có nghĩ đến khi cùng khổ nên lo bố thí.


*Diễn ca: -

Ba cái lo lớn trên đời,
Nhỏ không học hỏi, lớn thời vô năng.
Già không truyền dạy tận tâm,
Chết không ai nhớ, ai khâm phục mình.
Khi giàu chẳng dốc nghĩa tình,
Sa cơ thất thế kẻ khinh người cười.
Lo xa, lúc trẻ không lười,
Lúc già chăm dạy cho người gắng công.
Lúc giàu bớt tiếc tiền nong,
Ðem ra giúp đỡ kẻ không có tiền.

--------------

30A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:能自愛者未必能成人,自欺者必罔人。能自儉者未必能周人,自忍者必害人。此無他為善難,為惡易。富貴易於為善,其為惡也亦不難。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Năng tự ái giả vị tất năng thành nhân, tự khi giả tất võng nhân. Năng tự kiệm giả vị tất năng chu nhân, tự nhẫn giả tất hại nhân. Thử vô tha vi thiện nan, vi ác dị. Phú quí dị ư vi thiện, kỳ vi ác dã diệc bất nan .

* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Kẻ giỏi thương mình chưa chắc giỏi làm cho người ta nên. Kẻ tự dối mình tất dối người. Kẻ tiết kiệm cho mình chưa chắc chu cấp cho người. Kẻ nhẫn tâm với mình tất hại người. Như thế không có gì khác là làm điều thiện khó, làm điều ác dễ. Giàu sang dễ làm điều thiện, mà làm điều ác cũng không khó.


*Diễn ca: -

Thương mình chưa chắc thương người,
Dối mình, cầm chắc mười mươi dối người.
Kẻ tiết kiệm của thường dư,
Cũng dễ khước từ khi có người vay.
Mạng mình coi tựa cỏ cây,
Mạng người chắc cũng thẳng tay dễ dàng.
Chẳng qua điều thiện khó làm,
Ðiều ác thì dễ, chẳng ham vẫn rành.
Giàu sang làm thiện cũng nhanh,
Làm ác cũng chóng, tiến hành dễ hơn!

**********

31A.

* Nguyên văn:-

子曰:富而可求也,雖執鞭之士,吾亦為之,如不可求,從吾所好。


*Âm:-

Tử viết :Phú nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi, như bất khả cầu, tùng ngô sở hảo .


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Giàu mà có thể tìm được, tuy làm tên lính cầm roi (đánh xe ngựa) ta cũng làm. Nếu không thể tìm thì ta làm theo cái ta muốn.


*Diễn ca: -

Cái giàu nếu dễ kiếm ra,
Dù đánh xe ngựa thì ta cũng làm.
Còn như chẳng dễ gì ham,
Thì ta đeo đuổi cách làm ta ưa.

-----------------

32A.

* Nguyên văn:-

千卷詩書難卻易,一般衣飯易卻難。天無絕人之路,一身還有一身愁。人無遠慮必有近憂。輕諾者信必寡,面譽者背必非。


*Âm:-

Thiên quyển thi thư nan khước dị, nhất ban y phạn dị khước nan. Thiên vô tuyệt nhân chi lộ, nhất thân hoàn hữu nhất thân sầu. Nhân vô viễn lự tất hữu cận ưu. Khinh nặc giả tín tất quả, diện dự giả bối tất phi.


* Dịch nghĩa:-

Nghìn cuốn thi thư khó mà dễ. Một món áo cơm dễ mà khó. Trời không cắt đứt đường của người nhưng mỗi người còn có mỗi nỗi sầu. Người không nghĩ xa tất có lo gần. Kẻ "ừ" dễ dàng quá tất ít đáng tin cậy. Kẻ khen trước mặt sẽ chê sau lưng.


*Diễn ca: -

Sử sách khó mà dễ,
Áo cơm dễ mà khó.
Trời nào đóng cửa ai?
Thế nhưng rầu vẫn có.
Kẻ chẳng biết lo xa,
Thì lo gần tất rõ.
Kẻ vâng lời nhẹ tênh,
Sẽ dễ dàng phủi bỏ.
Kẻ khen ào trước mặt,
Sau lưng sẽ chê đó!



**********

33A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:大丈夫見善明,故重名節於泰山;用心剛,故輕生死於鴻毛。外事無大小,中慾無淺深,有斷則生,無斷則死,大丈夫以斷為先。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Đại trượng phu kiến thiện minh, cố trọng danh tiết ư Thái Sơn ;Dụng tâm cương, cố khinh sinh tử ư hồng mao. Ngoại sự vô đại tiểu, trung dục vô thiển thâm, Hữu đoán tắc sinh, vô đoán tắc tử, đại trượng phu dĩ đoán vi tiên .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Bậc đại trượng phu thấy điều thiện sáng tỏ cho nên coi danh tiết nặng hơn Thái Sơn, dụng tâm cứng cỏi cho nên coi sống chết nhẹ hơn lông hồng. Việc bên ngoài không kể là lớn hay nhỏ, dục vọng trong lòng không kể là cạn hay sâu, có quyết đoán thì sống, không quyết đoán thì chết. Ðại trượng phu lấy quyết đoán làm đầu.


*Diễn ca: -

Phàm là bản lĩnh đàn ông,
Coi trọng danh dự hơn hòn Thái Sơn.
Cái Tâm cứng cỏi chẳng sờn,
Nên coi cái chết nhẹ hơn lông hồng.
Việc dù lớn nhỏ mặc lòng,
Dục vọng sâu cạn không vui, chẳng buồn.
Việc đến tay, quyết đoán luôn,
Rụt rè, dè dặt, nói suông, chẳng hề!

---------------------

34A.

* Nguyên văn:-

子曰:知而不為,不如勿知。親而不信,不如勿親。樂之方至,樂而勿驕,患之所至,思而勿憂。


*Âm:-

Tử viết :Tri nhi bất vi, bất như vật tri. Thân nhi bất tín, bất như vật thân. Lạc chi phương chí, lạc nhi vật kiêu. Hoạn chi sở chí, tư nhi vật ưu.


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Biết mà không làm, không bằng đừng biết. Thân mà không tin cậy, không bằng đừng thân. Ðiều vui vừa đến, vui nhưng đừng kiêu, hoạn nạn vừa đến, nghĩ đến nó nhưng đừng lo âu.


*Diễn ca: -

Hiểu biết nhưng chẳng chịu làm,
Hơn gì những kẻ cứ cam ngu đần?
Chẳng tin nhau, bảo rằng thân,
Hơn gì những kẻ chẳng cần biết nhau?
Chuyện vui dù lớn đến đâu,
Chớ nên kiêu ngạo làm đau lòng người.
Hoạn nạn xảy đến mười mươi,
Nghĩ đến cứ nghĩ, ưu tư xin đừng!

**********

35A.
* Nguyên văn:-

經目之事猶恐未真,背後之言豈足深信?人不知己過,牛不知力大。不恨自家麻繩短,只恐他人古井深。僥倖脫,無辜報。贓濫滿天下,罪拘福薄人。人心似鐵,官法如爐。


*Âm:-

Kinh mục chi sự do khủng vị chân, bối hậu chi ngôn khởi túc thâm tín ?Nhân bất tri kỷ quá, ngưu bất tri lực đại. Bất hận tự gia ma thằng đoản, chỉ khủng tha nhân cổ tỉnh thâm. Nghiêu hạnh thoát, vô cô báo. Tàng lạm mãn thiên hạ, tội câu phước bạc nhân. Nhân tâm tự thiết, quan pháp như lô .

* Dịch nghĩa:-

Việc xảy ra trước mắt còn sợ chưa thật, lời nói sau lưng há đủ đáng tin? Người không biết mình lỗi, trâu không biết sức lớn. Không giận dây gai của mình ngắn mà chỉ sợ giếng cổ của người khác sâu. (Kẻ phạm tội) may mắn thoát, kẻ không phạm tội lại phải đền tội. Kẻ lạm dụng quả tang khắp thiên hạ (nhưng) người phước mỏng bị ghép tội. Lòng người như sắt, phép quan như lò.


*Diễn ca: -

Cái điều thấy rõ mười mươi,
Chắc gì khỏi bị chê cười là sai?
(Chọc que xuống nước gãy hoài,
Mắt thì thấy vậy nhưng sai quá chừng!)
Huống chi lời nói sau lưng,
Nghe qua rồi bỏ, xin đừng quá tin.
Người đời chẳng biết lỗi mình,
Loài trâu chẳng biết sức bền đến đâu.
Giếng kia mực nước quá sâu,
Múc không tới, trách để lâu cạn rồi!
Không hề nghĩ: "Tại mình thôi,
Dây ngắn quá rồi, gàu múc trên cao.
Phạm tội lại thoát, may sao!
Kẻ không gây tội lại vào nhà giam.
Tham ô, lạm dụng tràn lan,
Chỉ người phước mỏng liên can tù đày.
Lòng người như sắt khó lay,
Phép quan lò nấu, chảy ngay mấy hồi.

--------------------

36A.

* Nguyên văn:-

康節邵先生曰:有人來問卜,如何是禍福?我虧人是禍,人虧我是福。大廈千間,夜臥八尺。良田萬頃,日食二升。不孝慢燒千束紙,虧心枉焚萬爐香。神明本是正直做,豈受人間枉法贓?

久住令人賤,頻來親也疏。但看三五日,相見不如初。

渴時一滴如甘露,醉後添杯不如無。酒不醉人,人自醉,花不迷人,人自迷。


*Âm:-

Khang Tiết Thiệu tiên sinh viết :Hữu nhân lai vấn bốc, như hà thị hoạ phước ?Ngã khuy nhân thị hoạ, nhân khuy ngã thị phước. Đại hạ thiên gian, dạ ngoạ bát xích. Lương điền vạn khoảnh, nhật thực nhị thăng. Bất hiếu mạn thiêu thiên thúc chỉ, khuy tâm uổng phần vạn lô hương. Thần minh bản thị chính trực tố, khởi thụ nhân gian uổng pháp tàng ?

Cửu trụ lệnh nhân tiện, tần lai thân dã sơ. Đản khan tam ngũ nhật, tương kiến bất như sơ.

Khát thời nhất trích như cam lộ, tuý hậu thiêm bôi bất như vô. Tửu bất tuý nhân, nhân tự tuý, Hoa bất mê nhân, nhân tự mê .


* Dịch nghĩa:-

Thiệu Khang Tiết nói: Có người đến xem bói, hỏi thế nào là họa phước? Ta hại người là họa, người hại ta là phướ Nhà lớn cả nghìn gian, đêm cũng chỉ nằm tám (*) thước. Ruộng tốt muôn khoảnh (**), ngày ăn hai thăng. Kẻ bất hiếu đốt bừa nghìn bó giấy, kẻ xấu bụng đốt oan muôn lò hương. Thần minh vốn chính trực, há chịu cho người đời hối lộ, bẻ cong phép tắc?

Ở lâu khiến người hóa hèn ra. Ðến mãi thì kẻ thân thiết cũng thờ ơ. Chỉ cần xem năm ba ngày gặp lại không bằng lúc mới đầu.

Lúc khát thì một giọt cũng quý như cam lộ. Say rồi thì thêm một chén không bằng không thêm. Rượu không làm người say mà là người tự làm mình say. Hoa không mê hoặc người mà là người tự tìm sự mê hoặc.


*Diễn ca: -

Có người đến bói Dịch,
Hỏi: "Họa phước đâu ra?"
- Họa khi hại người khác,
Phước khi người hại ta.
Ðêm chỉ nằm tám thước,
Dẫu có nghìn gian nhà.
Ngày ăn hai thăng gạo,
Dẫu ruộng tốt bao la,
Ðốt cả núi hàng mã,
Tưởng báo hiếu mẹ cha.
Xông hương trầm nghi ngút,
Tưởng tội lỗi được tha.
Thần linh vốn ngay thẳng,
Hối lộ dễ đâu mà!
Mùi trầm cùng tro giấy,
Bẻ cong phép tắc à?
Ở lâu sinh nhờn mặt,
Ðến hoài tình phôi pha.
Thử ở năm ba bữa,
Thấy khác lúc đầu xa!
Ðang khát, quý từng giọt,
Say rồi, coi như pha!
Say rượu tại cố uống,
Mê hoa chẳng tại hoa.


*Chú thích:-

Tám thước: (thước cổ) tương đương 1m 92.

Khoảnh: (đơn vị đo lường cổ) tương đương 50 ha.



**********

37A.

* Nguyên văn:-

公心若比私心,何事不辨?道念若同情念,成佛多時。過後方知前事錯,老來方覺少時非。


*Âm:-

Công tâm nhược tỉ tư tâm, hà sự bất biện ?Đạo niệm nhược đồng tình niệm, thành Phật đa thời. Quá hậu phương tri tiền sự thác, lão lai phương giác thiếu thời phi .


* Dịch nghĩa:-

Lòng dành cho việc chung nếu so được như lòng dành cho việc riêng thì việc gì mà không Dịch quyết xong? Nghĩ đến đạo nếu bằng với nghĩ đến tình thì thành Phật lâu rồi. Việc qua rồi, sau đó mới biết trước đó đã nhầm. Già rồi mới biết thời trẻ sai quấy.


*Diễn ca: -

Việc chung hăng tựa việc riêng,
Thì bao nhiêu việc nhẹ tênh cả rồi.
Say đạo ngang say tình đời,
Thì bao nhiêu người thành Phật từ lâu.
Việc xong, nhầm lẫn thấy sau,
Nhận sai thời trẻ, lúc đầu bạc phơ.

------------------

38A.

* Nguyên văn:-

子曰:不知命無以為君子也。不知禮無以立也。不知言無以知人也。有德者必有言,有言者不必有德。


*Âm:-

Tử viết :Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã. Bất tri lễ vô dĩ lập dã. Bất tri ngôn vô dĩ tri nhân dã. Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức .


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Không biết về Mệnh thì không lấy gì chứng tỏ là người quân tử. Không biết lễ thì không lấy gì để đứng (giữa đời) được. Không biết về cách nói năng thì không lấy gì để biết người. Kẻ có đức tất có cách nói năng, kẻ biết cách nói năng chưa chắc có đức.


*Diễn ca: -

Người quân tử lạc thiên, an mệnh,
Không mưu toan bứt phá đổi đời.
(Vẫy vùng để tạo cơ ngơi,
Giữ sao vẹn được những lời dạy xưa?)
Phải đứng vững trên đời bằng lễ,
Chẳng kính nhường, chẳng thể làm người.
Trong khi bàn bạc, nói cười,
Hiểu sao cho đúng mọi lời đổi trao?
Hiểu đúng ý, biết nhau mới rõ,
Mới cùng nhau cởi bỏ bất đồng.
Một khi đạo đức đầy lòng,
Lời lời phát biểu sáng trong làu làu...
Gặp những kẻ chuốt trau lời lẽ,
Giọng ngọt ngào san xẻ cửa nhà.
Ðề phòng bụng dạ xấu xa,
Phần đức trống rỗng, ba hoa gạt người...

**********

39A.

* Nguyên văn:-

濂溪先生曰:巧者言,拙者默。巧者勞,拙者逸。巧者賊,拙者德。巧者凶,拙者吉。嗚呼!天下拙,刑政徹,上安下順,風清弊絕。


*Âm:-

Liêm Khê tiên sinh viết :Xảo giả ngôn, chuyết giả mặc. Xảo giả lao, chuyết giả dật. Xảo giả tặc, chuyết giả đức. Xảo giả hung, chuyết giả cát. Ô hô !Thiên hạ chuyết, hình chính triệt, thượng an hạ thuận, phong thanh tệ tuyệt .


* Dịch nghĩa:-

Chu Liêm Khê (*) nói: Kẻ khôn khéo thì nói, kẻ vụng về làm thinh. Kẻ khôn khéo thì nhọc, kẻ vụng về rảnh rỗi. Kẻ khôn khéo thì gây hại, kẻ vụng về giữ đức. Kẻ khôn khéo gặp việc dữ, kẻ vụng về gặp việc lành. Hỡi ôi! Thiên hạ vụng về thì việc sử dụng hình phạt phải dẹp bỏ, ở trên yên, ở dưới thuận, phong tục trong sáng, tệ nạn chấm dứt!


*Diễn ca: -

Kẻ khéo ăn nói hùng hồn,
Kẻ vụng chỉ còn dựa cột mà nghe.
Kẻ khéo xông xáo mọi nghề,
Kẻ vụng rảnh rỗi, yên bề vô tâm.
Kẻ khéo dễ vấp lỗi lầm,
Kẻ vụng âm thầm để đức cho con.
Kẻ khéo việc dữ đổ dồn,
Kẻ vụng trái lại, chỉ còn việc hay.
Hỡi ôi! Thiên hạ ngày nay,
Nếu toàn vụng dại, chẳng ai vào tù!
Trên yên, dưới thuận êm ru,
Phong tục trong sáng, thói hư chẳng còn!


*Chú thích:-

Chu Liêm Khê: tức Chu Ðôn Di (1017 - 1073) nhà Lý học lừng danh đời Tống.

-------------------

40A.

* Nguyên văn:-

易曰:德微而位尊,智小而謀大,無禍者鮮矣。


*Âm:-

Dịch viết : Đức vi nhi vị tôn, trí tiểu nhi mưu đại, vô họa giả tiễn hĩ .


* Dịch nghĩa:-

Kinh Dịch nói: Ðức mỏng mà ngôi cao, trí nhỏ mà mưu lớn, rất ít kẻ không gặp họa vậy.


*Diễn ca: -

Ðức hèn kém, chiếm ngôi tôn qúi,
Thật khó bề khỏi bị tai ương.
Trí vừa đủ quản một phương,
Ðem ra trị nước, khó đương mọi bề.
Kẻ tham vọng chẳng hề nhận kém,
Lại không ưa kẻ dám trái lời.
Chỉ nghe miệng lưỡi xu thời,
Gây nên bao cảnh hại người, hại ta.

**********

41A.

* Nguyên văn:-

說苑云:官怠於宦成,病加於少愈,禍生於懈惰,孝衰於妻子。察此四者慎終如始。


*Âm:-

Thuyết Uyển vân :Quan đãi ư hoạn thành, bệnh gia ư thiếu dũ, hoạ sinh ư giải đoạ, hiếu suy ư thê tử. Sát thử tứ giả thận chung như thủy .

* Dịch nghĩa:-

Sách Thuyết Uyển nói: Quan trễ nãi vào lúc địa vị hình thành, bệnh nặng thêm vào lúc đỡ bớt, họa sinh ra ở lúc lười nhác ỷ y, hiếu suy kém khi bận bịu vợ con. Xét kỹ bốn điều ấy để thận trọng lúc cuối như lúc đầu.


*Diễn ca: -

Quan ngồi vững ghế mới lười,
Bệnh thường trở nặng khi người đỡ đau.
Thảnh thơi họa mới đến sau,
Hiếu sa sút lúc bắt đầu vợ con.
Cẩn thận nhớ giữ cho tròn,
Trước sao sau vậy mới không sai lầm.

--------------------

42A.

* Nguyên văn:-

顏子曰:鳥窮則啄,獸窮則攫,人窮則詐,馬窮則跌。自古及今,未有窮其下而能無危者也。著意栽花花不發,無心插柳柳成陰。


*Âm:-

Nhan Tử viết :Điểu cùng tắc trác, thú cùng tắc quặc, nhân cùng tắc trá, mã cùng tắc trật. Tự cổ cập kim, vị hữu cùng kỳ hạ nhi năng vô nguy giả dã. Trước ý tài hoa hoa bất phát, vô tâm sáp liễu liễu thành âm .


* Dịch nghĩa:-

Chim cùng đường thì mổ, thú cùng đường thì vồ, người cùng đường thì gian trá, ngựa cùng đường thì đá. Từ xưa đến nay chưa có ai đẩy kẻ dưới vào đường cùng mà không gặp nguy cả. Có ý trồng hoa, hoa không phát triển, vô tâm cắm liễu, liễu rũ thành bóng râm.


*Diễn ca: -

Cùng đường chim cứ mổ bừa,
Thú thì vồ đại, người ưa dối người.
Cùng đường, ngựa đá hậu thôi,
Xưa nay kẻ dưới bị "chơi" tới cùng.
Thường là họ cũng nổi khùng,
Chén đất, chén sứ vỡ chung là hòa.
Trồng hoa, hoa chẳng trổ hoa,
Cắm chơi cành liễu, lòa xòa bóng râm.



**********

XII - Tuyển dịch thiên thứ mười hai: LẬP GIÁO



1A.

* Nguyên văn:-

子曰:立身有義而孝為本。喪事有禮而哀為本。戰陣有列而勇為本。治政有理而農為本。居國有道而嗣為本。生財有時而力為本。


*Âm:-

Tử viết :Lập thân hữu nghĩa nhi hiếu vi bản. Tang sự hữu lễ nhi ai vi bản. Chiến trận hữu liệt nhi dũng vi bản. Trị chính hữu lý nhi nông vi bản. Cư quốc hữu đạo nhi tự vi bản. Sinh tài hữu thời nhi lực vi bản .


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Lập thân có nghĩa nhưng hiếu làm gốc. Việc tang có lễ nhưng thương xót làm gốc. Chiến trận có hàng ngũ nhưng dũng cảm làm gốc. Xứ lý chính sự có lý nhưng việc nông làm gốc. Cư xử việc nước có đạo nhưng lấy việc nối dõi làm gốc. Làm ra của cải có lúc nhưng lấy sức làm gốc.

*Diễn ca: -

Hiếu thảo là gốc lập thân,
Ðau thương là gốc việc tang hợp tình.
Chiến trường dàn trận phân minh,
Có lòng dũng cảm mới thành chiến công.
Trị nước phải trọng nghề nông,
Ở ngôi thì việc nối dòng sớm lo.
Chần chờ, cân nhắc, đắn đo,
Dễ sinh chia rẽ, dằng co rầy rà.
Của cải quyết chí làm ra,
Phải coi nỗ lực mới là phương châm.

2A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:為政之要曰公與清。成家之要曰勤與儉。讀書成家之本。循理保家之本。勤儉治家之本。和順齊家之本。勤者富之本,儉者富之源。

*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Vi chính chi yếu viết công dữ thanh. Thành gia chi yếu viết cần dữ kiệm. Độc thư thành gia chi bản. Tuần lý bảo gia chi bản. Cần kiệm trị gia chi bản. Hoà thuận tề gia chi bản. Cần giả phú chi bản, kiệm giả phú chi nguyên .


* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Ðiều cốt yếu của việc cai trị là công bằng với thanh liêm. Ðiều cốt yếu của việc nên nhà là siêng năng cùng tiết kiệm. Ðọc sách là gốc nên nhà. Noi theo lẽ phải là gốc giữ nhà. Cần kiệm là gốc của việc cai quản gia đình hoàn hảo. Siêng năng là gốc của việc làm giàu. Tiết kiệm là nguồn của việc làm giàu.


*Diễn ca: -

Thanh liêm cùng với công bằng,
Là nếp rất cần cai quản quốc gia.
Muốn cho nên cửa nên nhà,
Ðiều cốt yếu là tiết kiệm, siêng năng.
Ðồng thời chăm việc sách đèn,
Dựa theo đạo lý làm ăn đàng hoàng.
Cần kiệm xua đuổi cơ hàn,
Là gốc chu toàn, quản lý, ấm êm.
Siêng năng là gốc giàu lên,
Tiết kiệm là suối rót thêm cho giàu.

**********

3A.

* Nguyên văn:-

古靈陳先生教其民曰:為吾民者,父義母慈,兄友弟恭,夫婦有恩,男女有別,子弟有學,鄉閭有禮。貧窮患難親戚相救;婚姻死喪,鄰堡相助。毋惰農業,毋作盜賊,毋學賭博,毋好爭訟,毋以惡凌善,毋以富吞貧。行者讓路,耕者讓畔,頒白者不負戴於道路則為禮義之俗矣。

*Âm:-

Cổ Linh Trần Tiên Sinh giáo kỳ dân viết :Vi ngô dân giả, phụ nghĩa mẫu từ, huynh hữu đệ cung, phu phụ hữu ân, nam nữ hữu biệt, tử đệ hữu học, hương lư hữu lễ. Bần cùng hoạn nan thân thích tương cứu ;hôn nhân tử táng, lân bảo tương trợ. Vô đoạ nông nghiệp, vô tác đạo tặc, vô học đổ bác, vô hảo tranh tụng, vô dĩ ác lăng thiện, vô dĩ phú thôn bần. Hành giả nhượng lộ, canh giả nhượng bạn, ban bạch giả bất phụ đái ư đạo lộ tắc vi lễ nghĩa chi tục hĩ .


* Dịch nghĩa:-

Trần Cổ Linh dạy dân mình rằng: Kẻ làm dân ta phải cha nghĩa mẹ hiền, anh coi em như bạn, em phải kính nể anh. Vợ chồng biết ơn nhau, trai gái phải phân biệt, con em phải có học, làng xóm phải có lễ. Nghèo túng hoạn nạn bà con nội ngoại phải cứu nhau. Gặp việc cưới gả, ma chay, xóm giềng phải giúp nhau. Chớ bê trễ việc nông, chớ làm trộm cướp, chớ học bài bạc, chớ ham kiện cáo, chớ để kẻ ác lấn lướt người thiện, chớ để kẻ giàu thôn tính kẻ nghèo. Ði đường phải nhường bước, cày ruộng phải nhường bờ, kẻ già nua không mang vác trên đường là có phong tục lễ nghi vậy.


*Diễn ca: -

Mấy lời dạy bảo dân ta,
Mẹ từ cha nghĩa mới là điều hay.
Từ là cư xử hằng ngày,
Dịu dàng, hiền hậu, tràn đầy tình thương.
Nghĩa là sốt sắng mọi đường,
Việc cần, việc khó, đảm đương tận tình.
Anh coi em tựa bạn mình,
Vui buồn cùng hưởng, lợi quyền cùng chia.
Với anh, em phải nể vì,
Không được so bì, không cậy chiều nuông.
Vợ chồng phải nhớ ơn luôn,
Vì duyên, vì nợ, yêu thương hết lòng.
Xóm làng mỹ tục thuần phong,
Cùng nhau tuân giữ mới hòng văn minh.
Gái trai mình giữ phận mình,
Xô bồ, phức tạp, linh tinh... phải ngừa.
Nghèo túng, hoạn nạn, mất mùa,
Ma chay, cưới hỏi, phải hùa nhau lo.
Miếng khi đói, gói khi no,
Kẻ nhận cảm kích, người cho vui mừng.
Nghề nông khuyên chớ dửng dưng,
Chớ ham lên rừng theo nghiệp lâu la.
Bác thằng bần, phải tránh xa,
Cửa công chớ đến kêu ca hàm hồ.
Cũng đừng cậy thói côn đồ,
Xúc phạm người khác thân cô, thế hèn.
Kẻ giàu chớ cậy lắm tiền,
Cho vay nặng lãi, xiết liền cơ ngơi.
Ði đường giữ đạo làm người,
Phải biết tươi cười nhường bước cho nhau.
Người vì việc gấp phải mau,
Người vì già yếu, ốm đau tìm thầy.
Ra đồng chăm việc cấy cày,
Xén bờ chớ lạm dù vài lóng tay.
Trên đường đêm cũng như ngày,
Người già, kẻ yếu, không ai gánh gồng.
Phải thế lễ nghĩa mới thông,
Phong tục mới tốt, non sông huy hoàng.

**********

4A.

* Nguyên văn:-

說苑云:治國若彈琴,治家若執轡。孝當竭力,忠則盡命。女慕貞潔,男效才良。


*Âm:-

Thuyết Uyển vân :Trị quốc nhược đàn cầm, trị gia nhược chấp bí. Hiếu đương kiệt lực, trung tắc tận mệnh. Nữ mộ trinh khiết, nam hiệu tài lương .


* Dịch nghĩa:-

Sách Thuyết Uyển nói: trị nước như gảy đàn, trị nhà như cầm cương. Hiếu phải hết sức, trung phải liều mạng. Gái quý mến sự trinh sạch, trai cố sức cho có tài năng lương thiện.


*Diễn ca: -

Trị nước phải như đánh đàn,
Du dương trầm bổng dân an nước giàu.
Chớ nên thuế nặng sưu cao,
Cung điện hoành tráng, của hao dân gầy.
Trị nhà là việc khó thay!
Như cầm cương ngựa, đường dài khó đi.
Lúc giong, lúc giật, lúc ghì,
Căng sức duy trì nề nếp gia phong.
Con hiếu thì phải hết lòng,
Tôi trung thì phải đừng mong dưỡng già.
Con trai quý ở tài ba,
Con gái quý nhất chính là tiết trinh.


----------------

5A.

* Nguyên văn:-

張思叔座右銘曰:凡語必忠信,凡行必篤敬。飲食必慎節,字畫必楷正。容貌必端莊,衣冠必肅整。步履必安祥,居處必正靜。作事必謀始,出言必顧行。常德必固持,言諾必重應。見善如己出,見惡如己病。凡此十四者我皆未深省,書此當座隅朝夕視為警。


*Âm:-

Trương Tư Thúc toạ hữu minh viết :Phàm ngữ tất trung tín, phàm hành tất đốc kính. Ẩm thực tất thận tiết, tự hoạ tất khải chính. Dung mạo tất đoán trang, y quán tất túc chỉnh. Bộ lí tất an tường, cư xứ tất chính tĩnh. Tác sự tất mưu thủy, xuất ngôn tất cố hành. Thường đức tất cố trì, ngôn nặc tất trọng ưng. Kiến thiện như kỷ xuất, kiến ác như kỷ bệnh. Phàm thử thập tứ giả ngã giai vị thâm tỉnh, thư thử đương toạ ngung triêu tịch thị vi cảnh .


* Dịch nghĩa:-

Bài minh bên chỗ ngồi của Trương Tư Thúc viết: Hễ nói thì phải thẳng thắn đáng tin, hễ làm thì phải hết lòng kính cẩn, ăn uống phải thận trọng chừng mực, nét chữ phải chân phương, dung mạo phải đoan trang, áo mũ phải chỉnh tề, bước đi phải vững vàng, cư xử phải chính đáng bình tĩnh, làm việc phải tính trước, nói ra phải đi đôi với việc làm, phải giữ bền đức thường (*), nói lời vâng phải coi trọng sự ưng thuận. Thấy việc thiện như mình tạo ra, thấy việc ác như mình gây nên.

Mười bốn điều ấy ta chưa xét mình sâu sắc nên viết ra treo ở góc chỗ ngồi, sớm chiều đều xem để tự cảnh tỉnh.


*Diễn ca: -

Một là nói thật, đáng tin,
Hai là công việc giữ gìn cho nghiêm.
Ba là ăn uống có chừng,
Bốn là chữ viết giữ đừng lôi thôi.
Năm là dung mạo dễ coi,
Sáu là áo mũ săm soi chỉnh tề.
Bảy là đi đứng giữ lề,
Tám là cư xử khỏi chê điều gì.
Chín là động đến việc chi,
Cũng đều cân nhắc nghĩ suy mới làm.
Mười là mỗi lúc mở mồm,
Phải coi lời nói, việc làm hợp không.
Mười một, lòng mãi dặn lòng,
Duy trì cái đức sáng trong vững vàng.
Mười hai, khi đã nói "vâng",
Phải xem lòng đã thuận lòng thế chưa?
Mười ba thấy thiện là ưa,
Thỏa lòng như chính mình vừa làm xong.
Mười bốn thấy ác chạnh lòng,
Tưởng như mình có dự phần gây nên.
Lòng ta xét thấy chưa yên,
Viết ra như thế dán bên chỗ ngồi...


*Chú thích:-

*"Tọa hữu minh 座右銘" là danh từ riêng chỉ cho một thể loại văn có giá trị là "lời tự khuyên răn nhắc nhở mình" (gọi là bài châm), thường được treo (dán) bên cạnh chỗ ngồi làm việc (đọc sách), không nhất thiết phải là "bên phải = hữu " hay "bên trái = tả " gì cả.

* Đức thường, tức ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

**********

6A.

* Nguyên văn:-

范益謙座右銘曰:

一不言朝廷利害邊報差除。
二不言州縣官員長短得失。
三不言眾人所作過惡。
四不言仕進官職趨時附勢。
五不言財利多寡,厭貧求富。
六不言淫媟戲慢評論女色。
七不言求覓人物需索酒食。

又曰:

一人附書信不可開拆沉滯。
二與人並坐不可窺人私書。
三凡入人家不可看人文字。
四凡借人物不可損壞不還。
五凡吃飲食不可揀擇去取。
六與人同處不可自擇便利。
七見人富貴不可歎羨詆毀。

凡此數事犯之者足以見用意之不肖,於存心修身大有所害,因書以自警。

*Âm:-

Phạm Ích Khiêm toạ hữu minh viết :

Nhất bất ngôn triều đình lợi hại biên báo sai trừ.
Nhị bất ngôn châu huyện quan viên trường đoản đắc thất.
Tam bất ngôn chúng nhân sở tác quá ác.
Tứ bất ngôn sĩ tiến quan chức xu thời phụ thế.
Ngũ bất ngôn tài lợi đa quả, yếm bần cầu phú.
Lục bất ngôn dâm tiết hí mạn bình luận nữ sắc.
Thất bất ngôn cầu mịch nhân vật nhu sách tửu thực.

Hựu viết :

Nhất nhân phụ thư tín bất khả khai sách trầm trệ.
Nhị dữ nhân tịnh toạ bất khả khuy nhân tư thư.
Tam phàm nhập nhân gia bất khả khán nhân văn tự.
Tứ phàm tá nhân vật bất khả tổn hoại bất hoàn.
Ngũ phàm ngật ẩm thực bất khả giản trạch khứ thủ.
Lục dữ nhân đồng xứ bất khả tự trạch tiện lợi.
Thất kiến nhân phú quí bất khả thán tiện để huỷ.
Phàm thử số sự phạm chi giả túc dĩ kiến dụng ý chi bất tiếu, ư tồn tâm tu thân đại hữu sở hại, nhân thư dĩ tự cảnh .


* Dịch nghĩa:-

Bài minh bên chỗ ngồi của Phạm Ích Khiêm viết:

Một là không nói đến chuyện lợi hại của triều đình, chuyện phái đến rút đi của tin tức biên thùy. Hai là không nói đến chuyện giỏi, dở, được, mất của quan chức châu huyện. Ba là không nói đến những việc làm ác, phạm lỗi của mọi người. Bốn là không nói đến việc tiến chức, thăng quan, xu thời dựa thế. Năm là không nói đến của cải nhiều ít, chán nghèo tìm giàu. Sáu là không nói đến bình phẩm gái đẹp, bỡn cợt chơi bời. Bảy là không nói đến chuyện tìm kiếm người nầy kẻ nọ đòi hỏi ăn nhậu.

Lại nói: Một là người ta gửi thư tín không được bóc mở, ỉm đi hay bê trễ. Hai là ngồi cùng người khác, không dòm xem thư riêng của họ. Ba là vào nhà người ta không nên xem giấy má của họ. Bốn là mượn vật dụng của người ta không được làm hư hỏng, không trả. Năm là ăn uống không nên lựa chọn bỏ, lấy. Sáu là ở chung với người khác, không nên chọn phần tiện lợi hơn. Bảy là thấy người ta giàu sang không nên xuýt xoa khen chê.

Ðấy là vài việc mà ai phạm phải thì đủ thấy là có dụng ý không tử tế, rất tai hại cho việc giữ tâm, sửa mình, do đó (ta) viết ra để tự răn giữ.


*Diễn ca: -

Một là chớ kháo vua quan,
Biên cương ai đến, ai đang triệu hồi?
Toàn là bí mật cả thôi,
Ðối phương lợi dụng, ta thời gặp nguy.
Hai là đàm tiếu thị phi,
Quan hay, quan dở, quan bi, quan hài.
Ngợi khen hay dám chê bai,
Rừng có mạch, vách có tai, sinh phiền.
Ba là đừng kể huyên thiên,
Kẻ ác, kẻ hiền, kẻ xấu, kẻ hư.
Biết đâu ta kể say sưa,
Khi những kẻ ấy... đang chừa cũng nên!
Bốn là việc của quan trên,
Ai thăng, ai giáng, ai hèn, ai oai?
Ta đâu giữ chức khâm sai?
Dẫu khen chê đúng thì ai trả tiền?
Năm là bàn chuyện sang hèn,
Kẻ nầy nhiều tiền, kẻ nọ xác xơ.
Nào chán ngán, nào ước mơ,
Nhắc chi loại chuyện từ xưa đã đầy?
Sáu là làm bộ ta đây,
Sành sõi em nầy, dan díu ả kia.
Chuyện chặp tối, chuyện canh khuya,
Sành sõi há được dựng bia để đời?
Bảy là chuyện nhậu, chuyện chơi,
Bạn cũ, bạn mới, ép mời liên hoan.
Tốn nhiều, cứ ngỡ là sang,
Xem ra chỉ toàn lối sống bản năng!
Ðể cái miệng hại cái thân,
Thử hỏi có cần cái óc nữa không?

Và:

Một là người khác gửi thư,
Chuyển liền, chớ có quá ư lề mề.
Hai là người đọc thứ gì,
Chớ nên ghé mắt giống y của mình.
Ba là thăm viếng gia đình,
Dù chỗ thân tình, chớ lục lung tung.
Thư riêng, bản thảo, đề cương,
Chủ không cho phép thì đừng mó tay.
Bốn là mượn vật dụng ai,
Phải lo trả sớm, chớ xài hỏng, hao.
Năm là ăn uống tiệc nào,
Ðừng chọn tùy tiện, gắp vào sớt ra.
Sáu là khi ở chung nhà,
Thì chớ có mà lấn chiếm phần hơn.
Thiệt thòi chút ít chớ hờn,
Cái tình giữ nổi mới hơn nhiều phần.
Bảy là thấy kẻ giàu sang,
Phải nên xử sự đàng hoàng mới hay.
Chớ thán phục, chớ chê bai,
Bạc tiền là thứ mây bay giữa trời.
Nếu đem làm thước đo người,
Thì là... thước ảo, chẳng nơi nào cần!


**********

7A.

* Nguyên văn:-

武 王問太公曰:人居世上何有貴賤貧富不同?願聞其說。太公曰:富貴如聖人之德,皆由天命。富者用之有節,不富者家有十盜。武王曰:何為十盜?太公曰:將熟不 收為一盜,收積不了為二盜,無事燃燈寢睡為三盜,慵懶不耕為四盜,不施工力為五盜,專行竊害為六盜,養畜太多為七盜,晝眠懶起為八盜,貪酒嗜欲為九盜,強 行嫉妬為十盜。武王曰:家無十盜,不富者何如?太公曰:人家必有三耗。武王曰:何名三耗?太公曰:倉庫漏濕不蓋,鼠雀亂食為一耗,收種失時為二耗,拋撒米 穀穢賤為三耗。武王曰:家無三耗,不富者何如?太公曰:人家必有一錯,二誤,三痴,四失,五逆,六不祥,七奴,八賤,九愚,十強自招其禍,非天降殃。武王 曰:悉願聞之。太公曰:養男不教訓為一錯,嬰孩不訓為二誤,初迎新婦不行嚴訓為三痴,未語先笑為四失,不養父母為五逆,夜起赤身為六不祥,好挽他弓為七 奴,愛騎他馬為八賤,吃他酒勸他人為九愚,吃他飲食朋友為十強。武王曰:誠哉斯言也。


*Âm:-

Vũ Vương vấn Thái Công viết :Nhân cư thế thượng hà hữu quí tiện bần phú bất đồng ?Nguyện văn kỳ thuyết. Thái Công viết :Phú quí như thánh nhân chi đức, giai do thiên mệnh. Phú giả dụng chi hữu tiết, bất phú giả gia hữu thập đạo. Vũ Vương viết :Hà vi thập đạo ?Thái Công viết :Tương thục bất thu vi nhất đạo, thu tích bất liễu vi nhị đạo, vô sự nhiên đăng tẩm thuỵ vi tam đạo, dung lại bất canh vi tứ đạo, bất thi công lực vi ngũ đạo, chuyên hành thiết hại vi lục đạo, dưỡng súc thái đa vi thất đạo, trú miên lại khởi vi bát đạo, tham tửu thị dục vi cửu đạo, cường hành tật đố vi thập đạo. Vũ Vương viết :Gia vô thập đạo, bất phú giả hà như ?Thái Công viết :Nhân gia tất hữu tam hao. Vũ Vương viết :Hà danh tam hao ?Thái Công viết :Thương khố lậu thấp bất cái, thử tước loạn thực vi nhất hao, thu chủng thất thời vi nhị hao, phao tán mễ cốc uế tiện vi tam hao. Vũ Vương viết :Gia vô tam hao, bất phú giả hà như ?Thái Công viết :Nhân gia tất hữu nhất thác, nhị ngộ, tam si, tứ thất, ngũ nghịch, lục bất tường, thất nô, bát tiện, cửu ngu, thập cường tự chiêu kỳ hoạ, phi thiên giáng ương. Vũ Vương viết :Tất nguyện văn chi. Thái Công viết :Dưỡng nam bất giáo huấn vi nhất thác, anh hài bất huấn vi nhị ngộ, sơ nghênh tân phụ bất hành nghiêm huấn vi tam si, vị ngữ tiên tiếu vi tứ thất, bất dưỡng phụ mẫu vi ngũ nghịch, dạ khởi xích thân vi lục bất tường, hảo vãn tha cung vi thất nô, ái kỵ tha mã vi bát tiện, ngật tha tửu khuyến tha nhân vi cửu ngu, ngật tha ẩm thực bằng hữu vi thập cường. Vũ Vương viết :Thành tai tư ngôn dã .


* Dịch nghĩa:-

Vũ Vương hỏi Thái Công: Người ta sống trên đời tại sao sang hèn nghèo giàu không như nhau? Xin được nghe nói rõ về chuyện ấy.

Thái Công nói: Giàu sang cũng giống như cái Ðức của thánh nhân, đều là do mệnh trời. Kẻ giàu nhờ tiêu dùng chừng mực, kẻ không giàu là do trong nhà có mười kẻ trộm.

Vũ Vương hỏi: Mười kẻ trộm là gì?

Thái Công nói: Sắp chín mà không thu hoạch là kẻ trộm thứ nhất. Thu hoạch mà cất chứa không xong là kẻ trộm thứ hai. Không có việc mà chong đèn suông để ngủ là kẻ trộm thứ ba. Lười nhác không cày cấy là kẻ trộm thứ tư. Không dốc hết công sức là kẻ trộm thứ năm. Chuyên làm việc trộm xén gây hại là kẻ trộm thứ sáu. Nuôi gia súc tốn quá nhiều là kẻ trộm thứ bảy. Ngủ ngày lười dậy là kẻ trộm thứ tám. Nghiện rượu, ham sắc dục là kẻ trộm thứ chín. Lo ganh ghét, làm ăn gượng gạo là tên trộm thứ mười.

Vũ Vương hỏi: Nhà không có mười kẻ trộm mà không giàu là tại sao?

Thái Công nói: Nhà ấy tất có ba điều hao.

Vũ Vương hỏi: Ba điều hao ấy gọi tên là gì?

Thái Công nói: Kho chứa dột ướt không che lợp, chuột và chim sẻ ăn loạn xạ là điều hao thứ nhất. Thu hoạch và cấy trồng sai thời vụ là điều hao thứ hai. Ném vứt thóc gạo nơi bẩn thỉu là điều hao thứ ba.

Vũ Vương hỏi: Nhà không có ba điều hao mà không giàu là tại sao?

Thái Công nói: Nhà người ấy tất có cái thứ nhất là nhầm, cái thứ hai là lẫn, cái thứ ba là si mê, cái thứ tư là lỗi, cái thứ năm là ngược, cái thứ sáu là chẳng lành, cái thứ bảy là tôi tớ, cái thứ tám là hèn hạ, cái thứ chín là ngu, cái thứ mười là gượng. Ðấy là tự rước họa cho mình chứ không phải trời gieo tai ương.

Vũ Vương nói: Xin được nghe một thể.

Thái Công nói: Nuôi con trai không dạy dỗ là cái nhầm thứ nhất. Khi còn bé không lo dạy là cái lẫn thứ hai. Mới đón vợ về mà không tiến hành nghiêm huấn là cái si mê thứ ba. Chưa nói đã cười là cái lỗi thứ tư. Không nuôi cha mẹ là cái ngược thứ năm. Ban đêm dậy trần trụi là bất tường thứ sáu. Thích kéo dây cung của người khác là điều tôi tớ thứ bảy. Thích cưỡi ngựa người khác là sự hèn hạ thứ tám. Uống rượu người ta mời người khác là cái ngu thứ chín. Ăn món ăn của bạn người ta là cái gượng thứ mười.

Vũ Vương nói: Tốt lắm! Lời nói ấy chân thành lắm thay!


*Diễn ca: -

Vũ Vương hỏi chuyện Thái Công:

- Giàu nghèo sao lại bất đồng thế kia?
Ðáp rằng số mệnh đã chia,
Mệnh giàu dè xẻn, thường khi để dành.
Kẻ không giàu phá của nhanh,
Nuôi mười kẻ trộm xúm quanh về hùa.
Thứ nhất, thu hoạch trễ mùa,
Rơi vãi, hư thối, chịu thua một phần.
Thứ hai, bảo quản sai lầm,
Góp thêm mất mát âm thầm không hay.
Thứ ba, xài phí vung tay,
Chong đèn cả lúc ngủ say không cần.
Thứ tư, đất ruộng bỏ hoang,
Chẳng lo cày cấy tính toan làm giàu.
Thứ năm, không ốm chẳng đau,
Vẫn dửng dưng chuyện làm giàu bằng ai.
Thứ sáu, mất cắp lai rai,
Sinh ra lười nhác, chẳng ai chăm làm.
Thứ bảy, gia súc gia cầm,
Nuôi thật phung phí, thức ăn khắp vườn.
Thứ tám, bám kỹ cái gường,
Ngủ ngày dậy muộn chuyện thường xảy ra.
Thứ chín, gái rượu la cà,
Vung tay quá trán, tỏ ra anh hào.
Thứ mười, ganh ghét kẻ giàu,
Làm ăn gượng gạo, bảo sao chẳng nghèo?

Vũ Vương lại hỏi tiếp theo:
- Thoát mười kẻ trộm, khỏi nghèo được sao?
Ðáp rằng: Ba cái gây hao,
Phạm ba cái ấy làm sao cũng nghèo.
Một hao kho chứa lèo tèo,
Kém che, vụng chắn, chuột vào, sẻ ra.
Hai hao thời vụ lơ là,
Gieo trồng, thu hái, chẳng ra mùa màng.
Ba hao vun, đổ tràn lan,
Hư hỏng, bẩn thỉu, trông càng xót xa.

Vũ Vương hỏi tiếp câu ba:
- Khỏi hao, khỏi trộm, ắt là giàu to?
Ðáp rằng: Còn chục mối lo,
Xui gây nên những rủi ro lâu dài:
Một là chẳng dạy con trai,
Hai là chẳng dạy đúng ngày còn thơ.
Ba là từ thuở ban sơ,
Chẳng khuyên tùy tục, làm ngơ vợ lười!
Bốn là chưa nói đã cười,
Năm là chẳng phụng dưỡng người bề trên.
Sáu là thức giấc nửa đêm,
Dầy dầy lõa thể, điềm thêm bất tường.
Bảy là cung lạ thích giương,
Tám là ngựa lạ tiện đường cưỡi ngay.
Chín là ké cuộc vui say,
Mười là xơi món không bày vì ta.

Vũ Vương nghe đáp thật thà,
Khen rằng: "Nói thế mới là lời hay!"

---------------------

*Xin lưu ý: Ðành rằng sử có chép Vũ Vương tên thật là Cơ Phát, vua khai sáng nhà Chu, trị vì 15 năm (1131 - 1116 trước Công Nguyên) và Thái Công (Khương Tử Nha) là quân sư đắc lực của Vũ Vương nhưng trên đây chỉ là chuyện hư cấu, hoàn toàn không có giá trị lịch sử, chỉ nhằm mục đích răn đời.


**********

XIII - Tuyển dịch thiên thứ mười ba: TRỊ CHÍNH

1A.

* Nguyên văn:-

唐太宗御製:上有麾之,中有乘之,下有附之,幣帛衣之,倉廩食之,爾俸爾祿民膏民脂,下民易虐,上蒼難欺。


*Âm:-

Đường Thái Tông ngự chế :Thượng hữu huy chi, trung hữu thặng chi, hạ hữu phụ chi, tệ bạch y chi, thương lẫm thực chi, nhĩ bổng nhĩ lộc dân cao dân chỉ, hạ dân dị ngược, thượng thương nan khi .


* Dịch nghĩa:-

Bài ngự chế của Ðường Thái Tông nói: Trên có sai khiến cho, giữa có sai khiến theo, dưới có phụ lực cho, vải vóc mặc cho, kho đụn nuôi cho, bổng lộc ngươi hưởng là máu mỡ của dân đấy! Với dân ở dưới thì dễ hà khắc, với cao xanh ở trên thì khó qua mặt.

*Diễn ca: -

Ở trên chỉ đạo ngọn ngành,
Ở giữa thừa hành thực hiện chủ trương.
Ở dưới thì có dân thương,
Cái ăn, cái mặc, mọi đường dân lo.
Triều đình cấp bổng lộc cho,
Chính là máu mỡ dân lo cho mình.
Với dân ngươi nổi lôi đình,
Tuy có bất bình, dân cố chịu thôi.
Cao xanh tuy ở xa xôi,
Kẻ định lừa trời, chưa chắc nổi đâu!

----------------

2A.

* Nguyên văn:-

童 蒙訓曰:當官之法,唯有三事:曰清,曰慎,曰勤。知此三者則知所以持身矣。當官者必以暴怒為戒。事有不可當詳處之必無不當。若先暴怒只能自害,豈能害人。 事君如事親,事官長如事兄。與同僚如家人,待群吏如奴僕。愛百姓如妻子,處官事如家事,然後能盡吾之心,如有毫末未至,皆吾心有所不盡也。


*Âm:-

Đồng Mông Huấn viết :Đương quan chi pháp, duy hữu tam sự :Viết thanh, viết thận, viết cần. Tri thử tam giả tắc tri sở dĩ trì thân hĩ. Đương quan giả tất dĩ bạo nộ vi giới. Sự hữu bất khả đương tường xứ chi tất vô bất đương. Nhược tiên bạo nộ chỉ năng tự hại, khởi năng hại nhân. Sự quân như sự thân, sự quan trường như sự huynh. Dữ đồng liêu như gia nhân, đãi quần lại như nô bộc. Ái bách tính như thê tử, xứ quan sự như gia sự, nhiên hậu năng tận ngô chi tâm, như hữu hào mạt vị chí, giai ngô tâm hữu sở bất tận dã .


* Dịch nghĩa:-

Sách dạy trẻ nói: Phép tắc kẻ làm quan chỉ có ba việc: thanh liêm, cẩn thận, siêng năng. Kẻ giữ được ba phép tắc ấy là giữ nổi thân vậy. Kẻ làm quan tất phải dè dặt sự giận dữ. Việc có vẻ không thể đảm đương nhưng xử rõ ra tất không có gì là không thể đảm đương. Nếu ngay từ trước đã giận dữ thì chỉ tự gây hại cho mình, há thể hại người? Thờ vua như thờ cha mẹ, phụng sự quan trên như phụng sự anh, đối với đồng liêu như người nhà, đãi ngộ đám lại dịch như nô bộc, yêu trăm họ như vợ con, xử lý việc quan như việc nhà mới tỏ hết lòng ta. Nếu có mảy may chưa đạt được đều là lòng ta còn chỗ chưa dốc hết.


*Diễn ca: -

Làm quan có ba điều răn:
Thanh liêm, cẩn thận, siêng năng nằm lòng.
Giữ ba điều ấy cho xong,
Tức là ta thoát được vòng hiểm nguy.
Không nên giận dữ điều gì,
Ðã giận dữ thì nhất định mất khôn.
Gặp việc khó, tưởng vô phương,
Cân nhắc tỏ tường, Dịch quyết dễ thôi.
Nếu ta đã trót giận rồi,
Hại mình quá rõ, hại người dễ đâu!
Làm quan muốn được bền lâu,
Thờ vua như đáp ơn sâu sinh thành.
Với quan trên, kính như anh,
Với đồng liêu, tựa gia đình của ta.
Với bao lại dịch, sai nha,
Coi như tôi tớ giúp ta bao điều.
Coi dân con quý, vợ yêu,
Việc quan coi tựa bao nhiêu việc nhà.
Hết lòng hết dạ của ta,
Một mảy sơ suất cũng là chưa xong.

**********

3A.

* Nguyên văn:-

居官者凡異色人不宜與之相接。巫祝尼媼之類尤宜罷絕,要以清心省事為本。


*Âm:-

Cư quan giả phàm dị sắc nhân bất nghi dữ chi tương tiếp. Vu chúc ni ẩu chi loại vưu nghi bãi tuyệt, yếu dĩ thanh tâm tỉnh sự vi bản .


* Dịch nghĩa:-

Ở địa vị làm quan thì không nên tiếp xúc với những người khác màu sắ Với loại đồng bóng, ni cô càng nên bãi bỏ cắt đứt, cốt lấy sự trong sáng cho tâm hồn và bớt việc làm gố


*Diễn ca: -

Làm quan, dành sức lo dân,
Những việc không cần, chớ có tự chuyên.
Chuyện đồng bóng, chuyện hóa duyên,
Ðừng để gây phiền trách nhiệm chuyên môn,
Giữ cho trong sáng tâm hồn,
Chớ nên mua việc, làm mòn sức dân.

----------------

4A.

* Nguyên văn:-

劉安禮問臨民。明道先生曰:使民各得輸其情。問御史?曰:正己以格物。


*Âm:-

Lưu An Lễ vấn Lâm Dân. Minh Đạo Tiên Sinh viết :Sử dân các đắc thâu kỳ tình. Vấn ngự sử ?Viết :Chính kỷ dĩ cách vật .

* Dịch nghĩa:-

Lưu An Lễ hỏi cách trị dân Thầy Minh Ðạo (*) nói: Khiến cho dân ai nấy bày tỏ hết tình của họ. Hỏi đến việc quản lý cấp thừa hành. Ngài đáp: Giữ cho mình ngay thẳng để thấu hiểu họ.


*Diễn ca: -

Lưu An Lễ hỏi ngài Minh Ðạo:
Ðối với dân, dạy bảo ra sao?
Ðáp rằng: Lòng họ thế nào,
Tỏ ra thế ấy, xiết bao an toàn.
Lại hỏi việc điều hành cấp dưới,
Phải thế nào thì mới yên dân?
Ðáp rằng: Giữ tốt bản thân,
Làm gương cho họ thì dân thỏa tình.

--------------

*Chú thích:-

Minh Ðạo: tên tự của Trình Hạo (cũng đọc là Hiệu, 1032 - 1185). Ông cùng em ruột là Y Xuyên tiên sinh Trình Di (1033 - 1107) và Chu Tử (tức Chu Hi, 1130 - 1200) là 3 cột trụ của trường phái Tính Lý học của nho gia, có công phục hồi Nho Giáo (vốn bị lép vế trước Phật và Lão dưới thời Ðường). Cụm từ Khổng Mạnh Trình Chu dùng chỉ Nho học là gồm các vị ấy và họ cũng được gọi là Tống nho (nhà nho đời Tống).

**********

5A.

* Nguyên văn:-

子曰:不教而殺謂之虐。不戒視成謂之暴。慢令致期謂之賊。猶之與人也,出納之吝謂之有司。


*Âm:-

Tử viết :Bất giáo nhi sát vị chi ngược. Bất giới thị thành vị chi bạo. Mạn lệnh chí kỳ vị chi tặc. Do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận vị chi hữu ty .

* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: (Quan trên) không dạy mà giết (dân) thì gọi là ngang ngược. Không răn bảo chỉ chờ làm cho xong là tàn bạo. (Không thúc giục) để nhờn lệnh đến kỳ gọi là giặc. Nghi ngại cho người, chi nhập nhầm lẫn keo kiệt gọi là (thói) quan liêu.


*Diễn ca: -

Không dạy dân biết đúng sai,
Cứ quấy thì giết là loài sài lang.
Không răn đe thật đàng hoàng,
Cứ đòi được việc là tàn bạo thôi.
Hạn kỳ kết thúc đến rồi,
Làm ngơ không giục, chờ hồi thẳng tay.
Thế là kẻ địch chẳng sai,
Chăm chăm mong được hại ai đến cùng.
Còn như nghi ngại lung tung,
Thu chi riết róng là phường quan liêu.

--------------------

6A.

* Nguyên văn:-

子張問仁於孔子。孔子曰:恭,寬,信,敏,惠。恭則不侮,寬則得眾,信則人任焉,敏則有功,惠則足以使人。


*Âm:-

Tử Trương vấn nhân ư Khổng Tử. Khổng Tử viết :cung, khoán, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vụ, khoán tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhậm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân .

* Dịch nghĩa:-

Tử Trương hỏi Khổng Tử về đạo Nhân, Khổng Tử nói: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung kính thì không bị dân nhờn, khoan hồng thì được lòng dân, tỏ lòng tin thì dân tín nhiệm, nhanh nhẹn thì có công, ban ơn huệ thì đủ để sai khiến người ta.


*Diễn ca: -

Tử Trương vấn nạn (*) tôn sư:
Muốn có Nhân phải làm như thế nào?
Rằng: theo năm chữ như sau:
Cung, Khoan, Tín, Mẫn là đầu đức Nhân.
Rồi thêm chữ Huệ cho dân,
Vận dụng dần dần, đức độ sẽ thông.
Giữ cung kính cho bản thân,
Trịnh trọng mọi việc thì dân chẳng nhờn.
Giữ cho lòng dạ khoan hồng,
Thì dân cũng được thỏa lòng ước ao.
Với dân, tỏ ý tin nhau,
Thì dân tín nhiệm, chẳng câu nghi ngờ.
Giữ cho nhanh nhẹn, tùy cơ,
Ðã làm, phải thấy sờ sờ công lao.
Tận vùng sâu, tận rẻo cao,
Ðều hưởng ơn huệ, bảo sao chẳng thuần?


*Chú thích:-

Vấn nạn: hỏi "chất lượng cao", gây khó khăn cho người đáp, đòi họ phải động não, phải lập luận lôgich (không ngụ ý là "vấn đề nguy hiểm có khả năng gây tai nạn" như cách hiểu ngày nay).

**********

7A.

* Nguyên văn:-

子曰:君子惠而不費,勞而不怨,欲而不貪,泰而不驕,威而不猛。

*Âm:-

Tử viết :Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh .

* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Người quân tử làm ơn nhưng không tốn kém, làm nhọc người ta nhưng không gây oán, ham muốn nhưng không tham lam, thư thái nhưng không kiêu căng, oai vệ nhưng không hung dữ.


*Diễn ca: -

Làm ơn, mình chẳng tốn nhiều,
Gây nhọc, thiên hạ vẫn yêu mến mình.
Không tham nên chẳng ai khinh,
Thế nhưng quyết tình ham muốn gắt gao.
Thư thái mà chẳng làm cao,
Oai vệ nhưng chả khi nào hung hăng.
Thấm nhuần như thế thành quen,
Mới là quân tử, khó khăn chẳng sờn.

-------------------

8A.

* Nguyên văn:-

孟子曰:責難於君謂之恭,陳善閉邪謂之敬。吾君不能謂之賊。

*Âm:-

Mạnh Tử viết :Trách nan ư quân vị chi cung, trần thiện bế tà vị chi kính. Ngô quân bất năng vị chi tặc .

* Dịch nghĩa:-

Mạnh Tử nói: Đòi vua làm được việc khó gọi là kính trọng vua, trình bày điều thiện, chận đứng điều trái (của vua) gọi là tôn kính vua. (Để mặc cho) Vua không hoàn thành chức năng là làm hại vua.


*Diễn ca: -

Ðòi hỏi vua phải anh minh,
Ấy mới thực tình kính trọng nhà vua.
Vua nhầm, quyết chẳng a dua,
Gợi vua làm thiện mới thừa nể nang.
Còn như vua thiếu khả năng,
Dửng dưng mặc kệ, cầm bằng hại vua.

**********

XIV - Tuyển dịch thiên thứ mười bốn: TRỊ GIA


1A.

* Nguyên văn:-

勤儉常豐至老不窮。待客不得不豐。治家不得不儉。有錢常備無錢日。安樂須防病患時。健奴無禮,嬌兒不孝。教婦初來,教子嬰孩。


*Âm:-

Cần kiệm thường phong chí lão bất cùng. Đãi khách bất đắc bất phong. Trị gia bất đắc bất kiệm. Hữu tiền thường bị vô tiền nhật. An lạc tu phòng bệnh hoạn thời .Kiện nô vô lễ, kiều nhi bất hiếu. Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài .

* Dịch nghĩa:-

Cần kiệm thường được dồi dào đến già không túng (nhưng) đãi khách thì không được không dồi dào. Quản trị việc nhà không được không kiệm. Có tiền phòng bị ngày không tiền. Yên vui phải phòng lúc hoạn nạn. Ðầy tớ khỏe (thường) vô lễ, con cưng (thường) bất hiếu. Dạy vợ lúc mới về nhà chồng, dạy con lúc còn trẻ thơ.


*Diễn ca: -

Kẻ cần kiệm chẳng hề rỗng túi,
Ðỡ lo toan tận buổi về già.
Nhưng đãi khách, chớ xuề xòa,
Của ngon vật lạ mới ra nhiệt tình.

Việc gia đình chẳng nên không kiệm,
Phòng khi cần, đỡ kiếm ngược xuôi.
Hôm nay đang sống yên vui,
Mai kia hoạn nạn, ngậm ngùi hầu bao!

Nuôi đầy tớ, đứa nào quá khỏe,
Phải đề phòng vô lễ khó sai.
Nuôi con nhớ kỹ một hai,
Chiều chuộng càng dài, bất hiếu càng sâu.

Rước vợ về, từ đầu phải hiểu,
Thấy làm sai, nên liệu bảo ban.
Chẳng nên dễ dãi khen tràn,
Mai kia trở giọng, mắng quàng mắng xiên.

Dạy trẻ con, chớ nên lần lữa,
Uốn nắn ngay từ thuở còn thơ.
Thấy sai nếu cứ làm ngơ,
Trễ nãi ngày giờ, sai ấy lớn thêm.

---------------

2A.

* Nguyên văn:-

太公曰:痴人畏婦,賢婦敬夫。凡使奴僕,先問飢寒。時時防火發,夜夜防賊來。子孝雙親樂,家和萬事成。


*Âm:-

Thái Công viết :Si nhân uý phụ, hiền phụ kính phu. Phàm sử nô bộc, tiên vấn cơ hàn. Thời thời phòng hoả phát, dạ dạ phòng tặc lai. Tử hiếu song thân lạc, gia hoà vạn sự thành .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Người khờ sợ vợ, gái ngoan kính chồng. Hễ sai khiến tôi tớ, trước hết phải hỏi chuyện đói rét. Lúc nào cũng phải phòng lửa cháy. Ðêm nào cũng phải ngừa trộm viếng. Con hiếu thảo cha mẹ vui, nhà hòa thuận muôn việc đều nên.


*Diễn ca: -

Sợ vợ là kẻ ngu si,
Kính chồng là những nữ nhi biết điều.
Muốn cho đầy tớ siêng nhiều,
Hỏi han đói rét là điều trước tiên.
Hỏa hoạn phải sợ thường xuyên,
Ăn trộm là họa mỗi đêm mỗi ngừa.
Con hiếu cha mẹ đều ưa,
Việc nhà trôi chảy là nhờ thuận nhau.


**********

3A.

* Nguyên văn:-

司 馬溫公曰:凡議婚姻,當先須察其婿與婦之性行及家法何如?勿苟慕其富貴婿苟賢矣,今雖貧賤,安知異時不富貴乎?苟為不肖,今雖富盛,安知異時不貧賤乎?婦 者家之所由盛衰也。苟慕一時之富貴而娶之,彼挾其富貴鮮有不輕其夫而傲其舅姑,養成驕妬之性,異日為患庸有極乎?假使因婦財以致富,依婦勢以取貴,苟有丈 夫之志氣者,能無愧乎?

*Âm:-

Tư Mã Ôn Công viết :Phàm nghị hôn nhân, đương tiên tu sát kỳ tế dữ phụ chi tính hành cập gia pháp hà như ?Vật cẩu mộ kỳ phú quí tế cẩu hiền hĩ, kim tuy bần tiện, an tri dị thời bất phú quí hồ ?Cẩu vi bất tiếu, kim tuy phú thịnh, an tri dị thời bất bần tiện hồ ?Phụ giả gia chi sở do thịnh suy dã. Cẩu mộ nhất thời chi phú quí nhi thú chi, bỉ hiệp kỳ phú quí tiên hữu bất khinh kỳ phu nhi ngạo kỳ cữu cô, dưỡng thành kiêu đố chi tính, dị nhật vi hoạn dung hữu cực hồ ?Giả sử nhân phụ tài dĩ trí phú, y phụ thế dĩ thủ quí, cẩu hữu trượng phu chi chí khí giả, năng vô quí hồ ?

* Dịch nghĩa:-

Tư Mã Ôn Công nói: Phàm bàn việc hôn nhân, trước tiên phải xét tính nết chàng rể nàng dâu cùng nề nếp gia đình ra sao? Chớ vội mến sự giàu sang của họ, rể dâu giỏi giang, ngày nay tuy nghèo hèn, biết đâu lúc khác không giàu sang sao? Dầu là không ra gì, nay tuy giàu to, biết đâu lúc khác lại không nghèo hèn? Sự thịnh suy của gia đình do ở vợ mà ra. Nếu hâm mộ sự giàu sang nhất thời mà cưới người ta, người ta dựa vào sự giàu sang của họ, rất ít khi không khinh chồng mình mà còn ngạo mạn với bố mẹ chồng, nuôi thành thói ghen ghét kiêu ngạo làm mối lo cho ngày sau, có ngu nào tột độ đến vậy? Giả sử nhờ của cải nhà vợ mà làm giàu, dựa thế vợ để chuốc sang, dù kẻ có chí khí trượng phu, há không hổ thẹn hay sao?


*Diễn ca: -

Khi đề cập chuyện hôn nhân,
Tính nết phải cần bàn đến trước tiên.
Xét nền gia giáo đôi bên,
Ðừng vì tài sản mà quên nhân tình.
Nếu rể quả thật người hiền,
Nay nghèo rồi cũng đến phiên sang giàu.
Nếu rể là hạng cứng đầu,
Nay giàu ai biết ngày sau nghèo nàn?
Cảnh nhà phát đạt, vẻ vang,
Toàn do phẩm chất của nàng dâu thôi.
Nếu ham giàu có nhất thời,
Nàng dâu cậy của dễ coi thường chồng.
Vô lễ, kiêu ngạo khó trông,
Có ngày đổ đốn, chuyện không ra gì!
Dù ai giàu có ê chề,
Nếu nhờ đào mỏ, đáng chê nhất đời!

---------------

4A.

* Nguyên văn:-

安定胡先生曰:嫁女必須勝吾家者,勝吾家則女之事人必欽必戒。娶婦必須不若吾家者,不若吾家則婦之事舅姑必執婦道。


*Âm:-

An Định Hồ tiên sinh viết :Giá nữ tất tu thắng ngô gia giả, thắng ngô gia tắc nữ chi sự nhân tất khâm tất giới. Thú phụ tất tu bất nhược ngô gia giả, bất nhược ngô gia tắc phụ chi sự cữu cô tất chấp phụ đạo .


* Dịch nghĩa:-

Hồ An Ðịnh nói: gả con gái tất phải hơn nhà mình. Có hơn nhà mình thì con gái mới phụng sự người ta một cách kính nể e dè. Cưới vợ tất phải chọn chốn không bằng nhà mình. Không bằng nhà mình tất con gái phụng sự bố mẹ chồng vững đạo làm vợ.


*Diễn ca: -

Gả con gái, lựa nơi khá giả,
Con sẽ không đanh đá, lăng loàn.
Dễ thành dâu thảo, dâu ngoan,
Nhà chồng quý trọng, xóm làng ngợi khen.
Cưới nàng dâu, nghèo hèn mới quý,
Mới siêng năng, chiều ý nhà chồng.
Thuận lòng tát nước biển Ðông,
Mới nêu gương tốt cháu con sau nầy.


**********

5A.

* Nguyên văn:-

司馬溫公曰:

凡為家長必謹守禮法以御群子弟及家眾,分之以職,授之以事,而責其成功。

制財用之節,量入以為出稱家之有無以給上下之衣食及吉凶之費皆有品節,莫不均一,裁省冗費,禁止奢華,常須稍存贏餘以備不虞。

*Âm:-

Tư Mã Ôn Công viết :

Phàm vi gia trường tất cẩn thủ lễ pháp dĩ ngự quần tử đệ cập gia chúng, phân chi dĩ chức, thụ chi dĩ sự, nhi trách kỳ thành công.

Chế tài dụng chi tiết, lương nhập dĩ vi xuất xứng gia chi hữu vô dĩ cấp thượng hạ chi ý thực cập cát hung chi phí giai hữu phẩm tiết, mạc bất quân nhất, tài tỉnh nhũng phí, cấm chỉ xa hoa, thường tu sáo tồn doanh dư dĩ bị bất ngu .

* Dịch nghĩa:-

Tư Mã Ôn công nói: Hễ làm gia trưởng tất phải giữ lễ và phép cẩn thận để điều khiển đám con em cùng bọn người nhà, chia nhiệm vụ cho họ, trao công việc cho họ mà đòi hỏi sự thành công của họ, định đoạt sự chừng mực trong việc sử dụng của cải, lường đầu vào để làm đầu ra cho xứng với tình hình có hay không có của gia đình để cấp ăn mặc cho kẻ trên người dưới cùng các phí tổn về việc lành việc dữ đều phải có chừng mực theo hạng bậc, không khoản nào là không đồng đều như một. Giảm bớt những tiêu pha quá lạm, chận đứng sự xa hoa. Thường phải giữ cho dư ra chút ít để ngừa lúc bất ngờ.


*Diễn ca: -


Làm gia trưởng phải theo nề nếp,
Lễ giữ uy và phép tuân hành.
Mỗi người đảm nhiệm một phần,
Ai lo việc nấy, hoàn thành hay ho.

Với của cải, tính cho hợp lý,
Thu nhập sao? Chi phí ra sao?
Cái ăn, cái mặc tốn hao,
Liệu tính đồng vào, dè xẻn đồng ra.

Người cùng nhà, chi tiêu đúng bậc,
Mỗi bậc đều thống nhất phân minh.
Chẳng nên lễ cưới gia đinh,
Ðám nầy linh đình, đám khác đơn sơ.

Chớ bao giờ vung tay quá trán,
Ðừng cho mình xứng đáng xa hoa.
Dè chừng các khoản tiêu pha,
Phải dư chút đỉnh phòng xa bất ngờ.


**********

XV - Tuyển dịch thiên thứ mười lăm: An Nghĩa

1A.

* Nguyên văn:-

曹大家曰:夫婦以義為親,以恩為合。若行楚撻,義欲何為?詈罵叱咤,恩欲何施?恩義既絕,鮮不離矣。


*Âm:-

Tào Đại Gia viết :Phu phụ dĩ nghĩa vi thân, dĩ ân vi hợp. Nhược hành sở thát, nghĩa dục hà vi ?Lỵ mạ sất sá, ân dục hà thi ?Ân nghĩa ký tuyệt, tiển bất ly hĩ.

* Dịch nghĩa:-

Tào đại gia (*) nói: Vợ chồng lấy nghĩa làm tình thân, lấy ân ái làm sự hòa hợp. Nếu làm chuyện quất bằng roi thì nghĩa để làm gì? Chửi mắng quát tháo thì ân tỏ ra ở đâu? Ân nghĩa đã hết, ít khi không xa lìa nhau vậy.


*Diễn ca: -

Vợ chồng lấy nghĩa làm thân,
Quất roi tới tấp, "nghĩa" cần làm chi?
Hòa hợp đâu có dễ gì!
Cái "ân" gấp vạn, cái uy đừng nhầm!
Vũ phu bất chấp nghĩa, ân,
Con đường ly dị mới gần làm sao!


*Chú thích:-

Tào đại gia: cách gọi suy tôn Ban Chiêu đời Hán, đồng tác giả bộ sách Hán thư xuất sắc viết từ thế kỷ 1. Hai tác giả kia là Ban Bưu và Ban Cố, cha và anh bà. Bà là vợ Tào Thế Thúc (nhưng cách gọi ấy lại không dùng cho họ Tào mà chỉ thấy dùng cho Ban Chiêu!)

-----------------

2A.

* Nguyên văn:-

蘇東坡曰:富不親兮貧不疏,此是人間大丈夫。富則進兮貧則退,此是人間真小輩。


*Âm:-

Tô Đông Pha viết :Phú bất thân hề bần bất sơ, Thử thị nhân gian đại trượng phu. Phú tắc tiến hề bần tắc thoái, Thử thị nhân gian chân tiểu bối .


* Dịch nghĩa:-

Tô Ðông Pha (*) nói: Với giàu không kết thân, với nghèo không ruồng rẫy, đấy là hạng đại trượng phu của nhân gian. Với giàu thì đến, với khó thì lui, đấy là loại người tiểu nhân trong nhân gian.


*Diễn ca: -

Thấy giàu, chẳng thiết lân la,
Gặp nghèo, chẳng chịu coi là không quen.
Tính tình ấy mới đáng khen,
Thật đáng coi bằng bậc đại trượng phu!
Thấy giàu, chỉ muốn... làm sui(!)
Thấy nghèo len lén rút lui, sợ phiền!
Kết giao chỉ nhắm bạc tiền,
Tiểu nhân chính hiệu, vô duyên nhất đời.


*Chú thích:-

Tô Ðông Pha: tên thật là Tô Thức (1036 - 1101) là một trong số những người có nhiều giai thoại nhất của mọi thời. Ông cùng cha (Tô Tuân) và em (Tô Triệt) đều đỗ tiến sĩ, nức tiếng tài danh, đều được xếp vào hàng 8 tác giả lớn nhất của thời Ðường Tống (618 - 1279)

-------------
3A.

* Nguyên văn:-

太公曰:知恩報恩,風光如雅。有恩不報,非為人也。

*Âm:-

Thái Công viết :Tri ân báo ân, phong quang như nhã. Hữu ân bất báo, phi vi nhân dã .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Lòng biết ơn và sự đền ơn là điều tao nhã vinh diệu. Có ơn mà không báo đáp thì không phải là người vậy.


*Diễn ca: -

Biết ơn cùng biết đền ơn,
Chính là vẻ đẹp quý hơn mọi điều.
Thế nhưng những kẻ hợm, kiêu,
Tự ái quá nhiều, cố ý quên ơn.
Tưởng thế mới trọn danh thơm,
Thật ra chẳng xứng áo cơm làm người.

**********

XVI - Tuyển dịch thiên thứ mười sáu: TUÂN LỄ

1A.

* Nguyên văn:-

子曰:居家有禮故長幼辦。閨門有禮故三族和。朝廷有禮故官爵序。田獵有禮故戎事和。軍旅有禮故武功成。



*Âm:-

Tử viết :Cư gia hữu lễ cố trưởng ấu biện. Khuê môn hữu lễ cố tam tộc hoà. Triều đình hữu lễ cố quan tước tự. Điền liệp hữu lễ cố nhung sự hoà. Quân lữ hữu lễ cố vũ công thành.

* Dịch nghĩa:

Khổng Tử nói: Ở nhà có giữ Lễ thì lớn bé mới phân biệt. Các nữ thành viên trong nhà có giữ Lễ cho nên ba họ hòa thuận. Triều đình có giữ Lễ thì quan tước mới có trật tự. Săn bắn có giữ Lễ nên việc chinh chiến mới hòa (*). Trong quân đội có giữ Lễ nên võ công mới thành.


*Diễn ca: -

Lễ là xương sống cuộc đời,
Thiếu Lễ con người thô lỗ khó coi.
Trong nhà phân biệt hẳn hoi,
Kính trên nhường dưới, người ngoài nể nang.
Nữ giới cư xử đàng hoàng,
Ðỡ rối họ hàng điều nọ tiếng kia.
Triều đình giữ phép tôn ti,
Thì việc trị vì, cai quản mới êm.
Săn bắn giữ Lễ cho nghiêm,
Tạo nên hòa khí, láng giềng trọng nhau.
Ba quân lấy Lễ làm đầu,
Mới mong chiến thắng, mới mau thanh bình.


*Chú thích:-

(*): Câu trên hơi tối nghĩa, xin diễn dịch như sau:

Vào thời Khổng Tử, Trung Quốc có hàng nghìn chư hầu luôn tìm cơ hội thôn tính lẫn nhau một kế hoạch thường dùng là... vua đi săn! Với lý do ấy, nước nầy có thể xua quân vào nước kia để dò xét thực lực, nếu đụng độ càng thuận lơi. (tất nhiên vua nước kia cùng xài kế đi săn để ngăn địch vào cõi)


-------------------

2A.

* Nguyên văn:-

孟子曰:朝廷莫如爵,鄉黨莫如齒,輔世長民莫如德。


*Âm:-

Mạnh Tử viết :Triều đình mạc như tước, hương đảng mạc như xỉ, phụ thế trường dân mạc như đức .


* Dịch nghĩa:-

Mạnh Tử nói: Chốn triều đình không gì bằng được tước vị, nơi làng xóm không gì bằng tuổi tác, trong việc giúp đời giúp dân không gì bằng đức độ.


*Diễn ca: -

Việc giữ Lễ, đời từng qui ước,
Chốn triều đình, chức tước làm nền.
Thầy chức dưới, trò chức trên,
Phải trình phải bẩm theo nền nếp chung.

Trong cuộc sống xóm thôn thì khác,
Chỉ trọng nhau tuổi tác mà thôi.
Quan to nhưng trí sĩ rồi,
Về quê cũng phải nhường người tuổi cao.

Thói cường hào thường xao nhãng Lễ,
Nẩy nòi ra ông trẻ, trưởng ngành.
Sinh sau đẻ muộn rành rành,
Mượn hơi đời trước tranh giành khơi khơi.

Cư xử với người đời không dễ,
Mặc chức quyền, chẳng kể tuổi cao.
Ðức độ mới đáng dựa vào,
Cả ngài, cả cụ, phải chào, phải kiêng...


----------------

3A.

* Nguyên văn:-

欒供子曰:民生於三,事之如一。父生之,師教之,君食之。非父不生,非食不長,非教不知,生之族也。。


*Âm:-

Loan Cung Tử viết :Dân sinh ư tam, sự chi như nhất. Phụ sinh chi, sư giáo chi, quân thực chi. Phi phụ bất sinh, phi thực bất trường, phi giáo bất tri, sinh chi tộc dã.

* Dịch nghĩa:-

Loan Cung Tử nói: Dân sống từ ba nguồn gốc, phải phụng sự như một: cha sinh ra, thầy dạy cho, vua nuôi cho. Không phải cha thì không sinh, không ai nuôi thì không lớn, không ai dạy thì không biết, đấy là loài nuôi cuộc sống (của dân) vậy.


*Diễn ca: -

Ðã sinh ra ở trên đời,
Phải trọng ba người tác động nên ta.
Người thứ nhất, ấy là cha,
Thứ nhì thầy dạy, thứ ba vua hiền.
Không cha thì lấy ai sinh?
Không thầy ta dốt, kẻ khinh người cười.
Không vua hiền, khó sống vui,
Tuân lễ phải quý ba người như nhau.

**********

XVII - Tuyển dịch thiên thứ mười bảy: TỒN TÍN

1A.

* Nguyên văn:-

子曰:人而無信,不知其可也。大車無輗,小車無軏,其何以行之哉!


*Âm:-

Tử viết :Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kỳ hà dĩ hành chi tai !


* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Người mà không có lòng tin (như) xe lớn không càng, xe nhỏ không gọng thì lấy gì để đi cho được!


*Diễn ca: -

Lòng tin nếu chẳng sẵn sàng,
Như xe không càng, biết kéo đi đâu?
Lẽ nào lừa gạt mãi nhau,
Trẻ thơ đến tận bạc đầu chưa thôi?

---------------

2A.

* Nguyên văn:-

老子曰:人之有信如車有輪。君子一言,快馬一鞭。一言既出,駟馬難追。

*Âm:-

Lão Tử viết :Nhân chi hữu tín như xa hữu luân. Quân tử nhất ngôn, khoái mã nhất tiên. Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy .

* Dịch nghĩa:-

Lão Tử nói: Người có lòng tin như xe có bánh xe. Quân tử nói một lời (như) ngựa hay bị một roi. Một lời đã nói ra, cổ xe ngựa tứ mã cũng khó đuổi nổi.


*Diễn ca: -

Không bánh, xe chẳng chuyển dời,
Không lòng tin, sống ở đời vô phương.
Biết bao lòng dạ thuần lương,
Ðều phải tìm đường gửi gắm lòng tin.
Muôn nghìn cơ sở tâm linh,
Mở ra phục vụ lòng tin con người!
Quân tử khi đã cất lời,
Khác chi tuấn mã nhận roi phóng liền.
Nếu lòng quân tử không yên,
Muốn níu lại liền cũng phải bó tay!

-----------

3A.

* Nguyên văn:-

益智書云:君臣不信國不安,父子不信家不睦。兄弟不信情不親,朋友不信交易疏。


*Âm:-

Ích Trí Thư vân :Quân thần bất tín quốc bất an, Phụ tử bất tín gia bất mục. Huynh đệ bất tín tình bất thân, Bằng hữu bất tín giao dịch sơ .

* Dịch nghĩa:-

Sách Ích Trí nói: Vua tôi không còn tin nhau, nước không yên. Cha con không còn tin nhau, nhà không hòa thuận. Anh em không còn tin nhau, tình không thân thiết. Bạn bè không còn tin nhau, giao tình dễ lỏng lẻo.


*Diễn ca: -

Vua tôi khi hết tin nhau,
Rối rén việc nước, khổ đau dân lành.
Cha con đánh mất chân thành,
Gia đình khó sống yên lành bên nhau.
Anh em nghi kỵ càng đau,
Biết bao kỷ niệm bền lâu đều tàn.
Bạn bè chí cốt cũng tan,
Nếu cả đôi đàng đã hết tin nhau.

**********

XVIII - Tuyển dịch thiên thứ mười tám: NGÔN NGỮ


1A.

* Nguyên văn:-

[可與言而不與之言,失人。不可與言而與之言,失言。知者不失人,亦不失言。」

*Âm:-

Khả dữ ngôn nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân. Bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, thất ngôn. Tri giả bất thất nhân, diệc bất thất ngôn.

* Dịch nghĩa:-

Có thể nói với mà không nói với họ thì mất người. Không thể nói với mà nói với là mất lời. Kẻ biết rõ đối tượng thì không mất người, cũng không mất lời.


*Diễn ca: -

Với người phục thiện, mong khuyên,
Ta không góp ý; tất nhiên mất người.
Với người ương bướng dễ ngươi,
Có khuyên cũng chỉ uổng lời, mất công.
Những người hiểu biết tinh thông,
Người không để mất, cũng không mất lời.

------------------

2A.

* Nguyên văn:-

劉會曰:言不中理,不如不言。一言不中,千言無用。


*Âm:-

Lưu Hội viết :Ngôn bất trúng lý, bất như bất ngôn. Nhất ngôn bất trúng, thiên ngôn vô dụng .

* Dịch nghĩa:-

Lưu Hội nói: Nói không đúng lẽ thì không bằng không nói. Một lời nói không đúng, có nói nghìn lời nữa cũng vô dụng.


*Diễn ca: -

Nói trái lẽ, thà làm thinh,
Ðỡ gây bất bình, đỡ bị rác tai.
Một lời đã lỡ nói sai,
Nói nghìn lời nữa, chẳng ai nghe giùm!

**********

3A.

* Nguyên văn:-

景行錄云:稠人廣坐之中,一言有失,顏色之羞便有悔容。言不可不慎也。


*Âm:-

Cảnh Hạnh Lục vân :Trù nhân quảng toạ chi trung, nhất ngôn hữu thất, nhan sắc chi tu tiện hữu hối dung. Ngôn bất khả bất thận dã .

* Dịch nghĩa:-

Sách Cảnh Hạnh chép: Giữa đám người dày đặc ngồi khắp chung quanh, nói ra một lời bị hố, vẻ mặt hổ thẹn liền có dáng ăn năn ngay. Lời nói không thể không thận trọng vậy.


*Diễn ca: -

Chung quanh dày đặc những người,
Ðăm đăm nhìn, uống từng lời của ta.
Vô tình buột miệng thốt ra,
Một lời khiếm nhã, mặt ta đỏ bừng.
Tiếng cười chế nhạo không ngừng:
Lời chưa nghĩ kỹ thì đừng nói ra!

----------------------

4A.

* Nguyên văn:-

四皡 謂子房曰:向獸彈琴,徒盡其聲。


*Âm:-

Tứ Hạo vị Tử Phòng viết :Hướng thú đàn cầm, đồ tận kỳ thanh .

* Dịch nghĩa:-

Bốn ông già (*) bảo Tử Phòng (*) rằng: Ðánh đàn cho thú nghe chỉ mất suông âm thanh của đàn.


*Diễn ca: -

Một cụ dạy đã thấy hay,
Ðến bốn cụ dạy, đố ai chê cười?
Dạy rằng: "Ðàn gảy cho người,
Ðừng gảy cho thú, mất tươi tiếng đàn"
Tử Phòng vận dụng khôn ngoan,
Họ Lưu (*) chẳng thể giết càn họ Trương.


*Chú thích:-

-Bốn ông già: nguyên văn "Tứ hạo 四皡 ", gọi tắc cụm từ "Thương Sơn tứ hạo" (bốn ông già ở núi Thương Sơn) chỉ bốn ẩn sĩ đầu đời Hán (Ðông Viên Công, Ỷ Lý Quý, Hạ Hoàng Công, Dữu Lý tiên sinh).

-Tử Phòng: tức Trương Lương, một trong số "Hán gia tam kiệt" (cùng Hàn Tín, Tiêu Hà) tạo nên nhà Hán.

-Họ Lưu: ở đây chỉ Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ.

**********

5A.

* Nguyên văn:-

荀子曰:與善人言,暖如布帛。傷人之言,痛如刀刺。人不以多言為益,人不以善笑為良。刀瘡易好,惡語難消。口殺傷人斧,言是割舌刀,閉口深藏舌,安身處處牢。


*Âm:-

Tuân Tử viết :Dữ thiện nhân ngôn, noãn như bố bạch. Thương nhân chi ngôn, thống như đao thích. Nhân bất dĩ đa ngôn vi ích, nhân bất dĩ thiện tiếu vi lương. Đao sang dị hảo, ác ngữ nan tiêu. Khẩu sát thương nhân phủ, ngôn thị cát thiệt đao, bế khẩu thâm tàng thiệt, an thân xứ xứ lao .

* Dịch nghĩa:-

Tuân Tử nói: Nói với người thiện, ấm như mặc vải lụa. Lời nói gây tổn thương người ta, đau như dao đâm. Người ta không lấy việc nhiều lời làm lợi ích. Người ta không lấy việc khéo cười làm dấu ấn lương thiện. Vết dao đâm dễ lành, lời nói độc ác khó tiêu tan. Miệng là búa giết người, lời nói là dao cắt lưỡi người. Ngậm miệng giấu lưỡi cho sâu là cách bảo vệ yên thân bất cứ nơi đâu.


*Diễn ca: -

Chuyện cùng người thiện ấm sao!
Lời như lụa, vải, nghe vào khỏe ra.
Những câu xúc phạm người ta,
Như dao đâm thấu ruột già, ruột non.
Ích gì cái thói đa ngôn?
Cái trò cười nịnh đâu còn giấu ai?
Vết dao đau chẳng kéo dài,
Cho bằng lời dữ vào tai người lành.
Lời dao, miệng búa rành rành,
Ngậm miệng cho kỹ, yên lành cái thân.

--------------------

6A.

* Nguyên văn:-

逢人且說三分話,未可全拋一片心。不怕虎生三個口,只恐人懷兩樣心。

*Âm:-

Phùng nhân thả thuyết tam phân thoại,
Vị khả toàn phao nhất phiến tâm.
Bất phạ hổ sinh tam cá khẩu,
Chỉ khủng nhân hoài lưỡng dạng tâm .

* Dịch nghĩa:-

Mới gặp người hãy nên nói ba phần chuyện đã, chưa thể ném cả lòng mình ra. Không sợ hổ sinh ba cái miệng, chỉ kinh khủng người ăn ở hai lòng.


*Diễn ca: -

Làm quen, chỉ nói vài câu,
Phơi lòng trải dạ còn đâu e dè?
Cọp ba mồm cũng ít ghê,
Với người hai dạ, khó bề kết giao.


**********

7A.

* Nguyên văn:-

子曰:巧言令色鮮矣仁。

*Âm:-

Tử viết :Xảo ngôn lệnh sắc tiển hĩ nhân .

* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: (Kẻ) khéo nói, giỏi ra lệnh cho sắc mặt thì ít có lòng nhân.


*Diễn ca: -

Dùng lời khéo léo dễ tin,
Sắc mặt diễn cảm, kẻ nhìn phải mê.
Ðều là thủ đoạn đáng ghê,
Một mảy nhân ái khó bề tìm ra.

-------------------------

8A.

* Nguyên văn:-

子曰:道聽而塗說,德之棄也。


*Âm:-

Tử viết :Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã .

* Dịch nghĩa:-

Khổng Tử nói: Nghe lời ngoài đường mà đem nói lại là vứt bỏ cái đức vậy.


*Diễn ca: -

Nghe lời vớ vẩn ngoài đường,
Chưa hề kiểm chứng, chưa tường đúng sai.
Ðem về kháo chuyện, rỉ tai,
Ấy là cái đức bị mai táng rồi.


(còn tiếp)

nhuocthuy:
(tiếp theo)

XIX - Tuyển dịch thiên thứ mười chín: Giao Hữu


1A.

* Nguyên văn:-

與好人交如蘭蕙之香,一人種之,眾人皆香。與惡人交如抱子上牆,一人失腳,兩人遭殃。


*Âm:-

Dữ hảo nhân giao như lan huệ chi hương, nhất nhân chủng chi, chúng nhân giai hương. Dữ ác nhân giao như bão tử thượng tường, nhất nhân thất giác, lưỡng nhân tao ương.

* Dịch nghĩa:-

Giao du với người tốt như hương thơm lan huệ, một người trồng nó, nhiều người đều thấy thơm. Giao du với người ác như ẵm trẻ leo tường, một người sẩy gót, cả hai người gặp họa.


*Diễn ca: -

Sống cùng người tốt tựa trồng hoa,
Chỉ một người trồng, thơm cả nhà.
Sống cạnh kẻ xấu, như ẵm trẻ,
Sẩy chân một kẻ, cả hai la...

------------------

2A.

* Nguyên văn:-

太公曰:近朱者赤,近墨者黑。近賢者明,近才者智,近痴者愚,近良者德,近佞者諂,近偷者賊。


*Âm:-

Thái Công viết :Cận chu giả xích, Cận mặc giả hắc. Cận hiền giả minh, Cận tài giả trí, Cận si giả ngu, Cận lương giả đức, Cận nịnh giả siểm, Cận thâu giả tặc .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người giỏi thì sáng suốt, gần người tài thì khôn ngoan, gần người dại thì ngu đần, gần người lương thiện thì có đức, gần kẻ nịnh thì a dua, gần kẻ cắp thì thành kẻ trộm.


*Diễn ca: -

Gần son dính đỏ ngay thôi,
Gần mực nhất định có hồi thấm đen.
Gần người giỏi, sẽ đáng khen,
Gần người tài, chắc kẻ hèn hóa hay.
Gần người dại, sẽ hóa ngây,
Gần người lương thiện, đức dày hơn xưa.
Gần kẻ nịnh, hóa a dua,
Gần kẻ cắp, sẽ thành... vua khoét tường.


**********

3A.

* Nguyên văn:-

嵇康曰:凶險之人,敬而遠之。賢德之人,親而近之。彼以惡來,我以善應。彼以曲來,我以直應。豈有怨之哉!


*Âm:-

Kê Khang viết :Hung hiểm chi nhân, kính nhi viễn chi. Hiền đức chi nhân, thân nhi cận chi. Bỉ dĩ ác lai, ngã dĩ thiện ứng. Bỉ dĩ khúc lai, ngã dĩ trực ứng. Khởi hữu oán chi tai !

* Dịch nghĩa:-

Kê Khang (*) nói: Với kẻ hung ác nham hiểm, hãy kính trọng nhưng phải xa lánh. Với người hiền đức, hãy thân thiết mà gần gũi. Họ cư xử ác, ta dùng thiện đáp ứng, họ cư xử thủ đoạn, ta lấy ngay thẳng đáp ứng, há có thể oán ta được ư!


*Diễn ca: -

Với kẻ nham hiểm, hung tàn,
Ta càng kính trọng phải càng lánh xa.
Với người đức hạnh hiền hòa,
Hết lòng thân thiện mới là kết giao.
Kẻ kia tàn ác bậc nào,
Ta giữ lòng thiện, làm sao oán hờn?
Lòng ta cứ thẳng dây đờn,
Kẻ kia xiên xẹo, không hơn đâu mà!


*Chú thích:-

Kê Khang 嵇康: nhân vật đời Tấn, tương đối đặc biệt:

1. Là tác giả khúc nhạc Quảng Lăng Tán (Truyện Kiều: Kê Khang nầy khúc Quảng Lăng, Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân...)

2. Có chân trong nhóm "Trúc lâm thất hiền" khá nổi tiếng, sau mười bảy thế kỷ, người đời còn nhắc Lưu Linh, Cát Hồng, Nguyễn Tịch, v.v... Ông bị giết vì trái ý Tư Mã Sư.

3. Có con trai là Thị Trung Kê Thiệu được coi là trung nghĩa điển hình, liều thân che cho Tấn Huệ đế, máu đẫm áo vua (Chính Khí Ca: Vi Kê Thị Trung huyết - Làm máu quan Thị Trung họ Kê).

---------------------------

4A.

* Nguyên văn:-

太公曰:女無明鏡,不知面上精粗;士無良友,不知行步虧踰。


*Âm:-

Thái Công viết :Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô ;Sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy thâu .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Nữ giới không có gương soi thì không biết vẻ mịn thô trên mặt. Kẻ sĩ không có bạn hiền thì không hay biết việc sa đà lạc bước.


*Diễn ca: -

Nữ giới nếu thiếu gương soi,
Băn khoăn mặt mũi khó coi? ưa nhìn ?
Kẻ sĩ thiếu bạn đáng tin,
Ðường đời sẩy, trượt, biết vin nơi nào?


**********

5A.

* Nguyên văn:-

- 宋弘曰:糟糠之妻不可下堂,貧賤之交不可忘。

- 施恩於未遇之先,結交於貧寒之際。人情常似初相識,到底終無怨恨心。

- 酒食弟兄千個有,急難之時一個無。不結子花休要種,無義之朋切莫交。君子之交淡如水,小人之交甜似蜜。人用錢交,金用火試。水將杖探知深淺,人用財交便見心。仁義莫交財,交財仁義絕。路遙知馬力,事久見人心。

*Âm:-

- Tống Hoằng viết :Tao khang chi thê bất khả hạ đường, bần tiện chi giao bất khả vong.

- Thi ân ư vị ngộ chi tiên, kết giao ư bần hàn chi tế. Nhân tình thường tự sơ tương thức, đáo để chung vô oán hận tâm.

- Tửu thực đệ huynh thiên cá hữu, cấp nạn chi thời nhất cá vô. Bất kết tử hoa hưu yếu chủng, vô nghĩa chi bằng thiết mạc giao. Quân tử chi giao đạm như thuỷ, tiểu nhân chi giao điềm tự mật. Nhân dụng tiền giao, kim dụng hoả thí. Thuỷ tương trượng thám tri thâm thiển, nhân dụng tài giao tiện kiến tâm. Nhân nghĩa mạc giao tài, giao tài nhân nghĩa tuyệt. Lộ dao tri mã lực, sự cữu kiến nhân tâm .

* Dịch nghĩa:-

-Tống Hoằng nói: Vợ tấm mẳn không thể ruồng bỏ, giao tình buổi nghèo không thể quên.

-Làm ơn trước khi người ta chưa gặp thời, kết giao vào lúc người ta đang nghèo hèn. Tình người thường tựa lúc mới quen thì cuối cùng mới không có lòng oán hận.

-Lúc rượu thịt thì có cả nghìn anh em, lúc gặp nạn gấp thì không có nổi một kẻ. Hoa không kết hạt thì đừng trồng, thứ bạn bất nghĩa nhất thiết chớ giao du. Giao tình của quân tử nhạt như nước, giao tình của tiểu nhân ngọt như mật. Người thì dùng tiền để kết giao, vàng thì dùng lửa để thử. Ðem gậy dò nước biết sâu cạn, đem của cải giao thiệp với người liền rõ lòng. Kẻ nhân nghĩa không giao thiệp qua tiền của, giao thiệp qua tiền của thì mất nhân nghĩa. Ðường xa biết sức ngựa, việc xảy ra lâu mới thấy rõ lòng người.


*Diễn ca: -

Chớ ruồng rẫy vợ hàn vi,
Chớ quên bè bạn thời kỳ tả tơi.
Làm ơn, chọn kẻ chờ thời,
Kết bạn chọn kẻ giữa đời khó khăn.
Giữ lòng như buổi mới quen,
Về sau mới đỡ thù hằn lẫn nhau.
Rượu thịt ngàn kẻ bâu vào,
Ðến khi hoạn nạn thì nào thấy ai?
Ðã toan tính chuyện trồng cây,
Phải cầm chắc ngày hái đặng quả ngon.
Muốn cho tình bạn vuông tròn,
Tránh xa những kẻ tâm hồn sai ngoa.
Kẻ lời mật ngọt thiết tha,
Tiểu nhân đích thị, đáng ta đề phòng.
Lời lãnh đạm mới thật lòng,
Ðấy là quân tử, vàng ròng khó so.
Dùng tiền, lòng bạn dễ dò,
Cũng như dùng lửa để đo tuổi vàng.
Có gậy lội nước dễ dàng,
Có của dễ biết bạn vàng hay thau.
Muốn cho tình nghĩa bền lâu,
Chớ đem của cải làm rầu bạn ta.
Sức ngựa rõ lúc đường xa,
Lòng người rõ lúc trải qua lâu ngày.

**********

XX - Tuyển dịch thiên thứ hai mươi: Phụ Hạnh

1A.

* Nguyên văn:-

太公曰:婦人之禮,語必細,行必緩步,止則斂容,動則(足羊)(足且)(通徉徂,款款緩步行走。),耳無餘聽,目無餘視,出無諂容,不窺牆壁,不觀戶牖。早起夜眠,莫憚勞苦。戰戰兢兢,常憂玷辱。賢婦令夫貴,惡婦令夫敗。家有賢妻,夫不遭橫禍。賢婦和六親,佞婦破六親。

*Âm:-

Thái Công viết :Phụ nhân chi lễ, ngữ tất tế, hành tất hoãn bộ, chỉ tắc liễm dung, động tắc (túc dương )(túc thả )(thông dương tồ, khoản khoản hoãn bộ hành tẩu. ).Nhĩ vô dư thính, mục vô dư thị, xuất vô siểm dung, bất khuy tường bích, bất quán hộ dũ. Tảo khởi dạ miên, mạc đạn lao khổ. Chiến chiến căng căng, thường ưu điếm nhục. Hiền phụ lệnh phu quí, ác phụ lệnh phu bại. Gia hữu hiền thê, phu bất tao hoành hoạ. Hiền phụ hoà lục thân, nịnh phụ phá lục thân .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Cách giữ Lễ của đàn bà là nói năng phải nhỏ nhẹ, đi phải khoan thai, dừng phải điềm đạm, cử động phải dè dặt, tai không nghe thừa, mắt không trông thừa, đi ra ngoài không có dáng chiều ý ai, không dòm qua tường vách, không ngó vào cửa lớn nhỏ. Dậy sớm ngủ khuya không sợ lao khổ. Nơm nớp thấp thỏm thường lo lắng bị nhục nhã tì vết. Vợ hiền làm chồng sang ra, vợ xấu làm chồng thất bại. Nhà có vợ hiền chồng đỡ gặp tai họa bất ngờ. Vợ hiền tạo hòa thuận cho lục thân (*). Vợ xấu xa gây tan rã lục thân.


*Diễn ca: -

Ðàn bà giữ Lễ ra sao?
- Nói năng nhỏ nhẹ, ra vào khoan thai.
Ðoan trang, kính cẩn chớ sai,
Chuyện nhảm xua khỏi mắt tai, chớ màng.
Ra khỏi cửa, phải đàng hoàng,
Mắt đừng liếc dọc, nhìn ngang nhà người.
E dè lời nói, tiếng cười,
Chớ chiều ý người, gièm siểm, a dua.
Vui cùng cực nhọc sớm khuya.
Nơm nớp tiết hạnh, sợ mua chê cười.
Vợ hiền chồng được hơn người,
Vợ mang tai tiếng, chồng thời xót xa.
Vợ hiền thân thuộc thuận hòa,
Vợ hư lục đục cả nhà nhuốc nhơ.


*Chú thích:-

Lục thân: sáu thành phần trong đại gia đình: cha, mẹ, vợ, con, anh, em.

**********

2A.

* Nguyên văn:-

列女傳曰:古者婦人妊子,寢不側,坐不偏,立不躍,不食邪味,割不正不食,席不正不坐。目不視邪色,耳不聽淫聲,夜則令瞽誦詩,道正事。如此則生子形容端正,才智過人矣。

*Âm:-

Liệt Nữ Truyện viết :Cổ giả phụ nhân nhẫm tử, tẩm bất trắc, toạ bất thiên, lập bất dược, bất thực tà vị. Cát bất chính bất thực, tịch bất chính bất toạ. Mục bất thị tà sắc, nhĩ bất thính dâm thanh, dạ tắc lệnh cổ tụng thi, đạo chính sự. Như thử tắc sinh tử hình dung đoán chính, tài trí quá nhân hĩ .

* Dịch nghĩa:-

Truyện Liệt Nữ nói: Ðời xưa đàn bà có thai thì nằm không nghiêng, ngồi không lệch, đứng không nhón chân. Không ăn vị lạ, cắt không ngay ngắn không ăn, chiếu trải chưa ngay ngắn không ngồi, mắt không nhìn sắc bất chính, tai chẳng nghe âm thanh dâm đãng. Ban đêm thì sai người mù đọc Kinh Thi (theo trí nhớ) nói chuyện chân chính. Như thế tất sinh con hình dung đoan chính, tài trí hơn người vậy.


*Diễn ca: -

Ðàn bà khi đã mang thai,
Nằm ngồi, đi, đứng, chớ sai đạo thường.
Nằm nghiêng dễ xảy tổn thương,
Ngồi lệch gây hại, đứng đừng kiễng chân.
Cẩn thận cái uống, miếng ăn,
Ðừng ham vật lạ, chẳng cần của ngon.
Cắt miếng ăn, phải ra hồn,
Chiếu trải ngay ngắn, nếu không đừng ngồi,
Mắt đừng nhình cảnh lả lơi,
Tai đừng nghe nhạc, nghe lời lẳng lơ.
Thuê người mù (*) đến đọc thơ,
Kể chuyện đạo lý, bỏ khờ, học khôn.
Giữ gìn như thế cho tròn,
Ắt là sẽ được sinh con anh tài.


*Chú thích:-

Người mù: người mù vốn có ưu thế về trí nhớ và xúc giác bén nhạy nên ngày xưa họ thường hành nghề mát - xa kèm đọc thơ, kể chuyện. Ba thứ dịch vụ ấy bổ sung nhau tạo hiệu quả cao (thuê người mù thai phụ cùng chồng họ cảm thấy thoải mái hơn).


HẾT

**********

(Cảm tác theo Minh Tâm Bảo Giám)


Giữ Lòng Thanh Thản


惡人罵善人 Ác nhân mạ thiện nhân
善人總不對 Thiện nhân tổng bất đối
善人若還對 Thiện nhân nhược hoàn đối
彼此無智慧 Bỉ thử vô trí tuệ.

不對心清凉 Bất đối tâm thanh lương
罵者口熱沸 Mạ giả khẩu nhiệt phí
正如人唾天 Chính như nhân thóa thiên
還從己身墜 Hoàn tùng kỷ thân trụy.

我若被人罵 Ngã nhược bị nhân mạ
佯聾不分說 Dương lung bất phân thuyết
譬如火當空 Thí như hỏa đương không
不救自然滅 Bất cứu tự nhiên diệt.

嗔人亦如是 Sân nhân diệc như thị
有物遭他熱 Hữu vật tao tha nhiệt
我心等虚空 Ngã tâm đẳng hư không
聽彼翻唇舌 Thính bỉ phiên thần thiệt.


*Dịch: -

Kẻ dữ mắng người hiền
Người hiền không đáp trả
Nếu cãi vã lại liền
Cả hai cùng dại cả.

Ai nhịn thì thanh thản
Ai chửi chỉ hoài hơi
Khác nào phun lên trời
Nước bọt rơi xuống mặt.

Khi bị người ta chửi
Cứ giả điếc làm thinh
Lửa cháy không thêm củi
Sẽ tắt bất thình lình.

Người giận cũng như vậy
Gặp bổi là lửa lan
Hãy giữ lòng trống rỗng
Để mặc ai nói càn.

Châu Sa dịch

(từ Minh Tâm Bảo Giám)


************


3A.

* Nguyên văn:-

嵇康曰:凶險之人,敬而遠之。賢德之人,親而近之。彼以惡來,我以善應。彼以曲來,我以直應。豈有怨之哉!


*Âm:-

Kê Khang viết :Hung hiểm chi nhân, kính nhi viễn chi. Hiền đức chi nhân, thân nhi cận chi. Bỉ dĩ ác lai, ngã dĩ thiện ứng. Bỉ dĩ khúc lai, ngã dĩ trực ứng. Khởi hữu oán chi tai !

* Dịch nghĩa:-

Kê Khang (*) nói: Với kẻ hung ác nham hiểm, hãy kính trọng nhưng phải xa lánh. Với người hiền đức, hãy thân thiết mà gần gũi. Họ cư xử ác, ta dùng thiện đáp ứng, họ cư xử thủ đoạn, ta lấy ngay thẳng đáp ứng, há có thể oán ta được ư!


*Diễn ca: -

Với kẻ nham hiểm, hung tàn,
Ta càng kính trọng phải càng lánh xa.
Với người đức hạnh hiền hòa,
Hết lòng thân thiện mới là kết giao.
Kẻ kia tàn ác bậc nào,
Ta giữ lòng thiện, làm sao oán hờn?
Lòng ta cứ thẳng dây đờn,
Kẻ kia xiên xẹo, không hơn đâu mà!


*Chú thích:-

Kê Khang 嵇康: nhân vật đời Tấn, tương đối đặc biệt:

1. Là tác giả khúc nhạc Quảng Lăng Tán (Truyện Kiều: Kê Khang nầy khúc Quảng Lăng, Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân...)

2. Có chân trong nhóm "Trúc lâm thất hiền" khá nổi tiếng, sau mười bảy thế kỷ, người đời còn nhắc Lưu Linh, Cát Hồng, Nguyễn Tịch, v.v... Ông bị giết vì trái ý Tư Mã Sư.

3. Có con trai là Thị Trung Kê Thiệu được coi là trung nghĩa điển hình, liều thân che cho Tấn Huệ đế, máu đẫm áo vua (Chính Khí Ca: Vi Kê Thị Trung huyết - Làm máu quan Thị Trung họ Kê).

---------------------------

4A.

* Nguyên văn:-

太公曰:女無明鏡,不知面上精粗;士無良友,不知行步虧踰。


*Âm:-

Thái Công viết :Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô ;Sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy thâu .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Nữ giới không có gương soi thì không biết vẻ mịn thô trên mặt. Kẻ sĩ không có bạn hiền thì không hay biết việc sa đà lạc bước.


*Diễn ca: -

Nữ giới nếu thiếu gương soi,
Băn khoăn mặt mũi khó coi? ưa nhìn ?
Kẻ sĩ thiếu bạn đáng tin,
Ðường đời sẩy, trượt, biết vin nơi nào?




************



5A.

* Nguyên văn:-

- 宋弘曰:糟糠之妻不可下堂,貧賤之交不可忘。

- 施恩於未遇之先,結交於貧寒之際。人情常似初相識,到底終無怨恨心。

- 酒食弟兄千個有,急難之時一個無。不結子花休要種,無義之朋切莫交。君子之交淡如水,小人之交甜似蜜。人用錢交,金用火試。水將杖探知深淺,人用財交便見心。仁義莫交財,交財仁義絕。路遙知馬力,事久見人心。

*Âm:-

- Tống Hoằng viết :Tao khang chi thê bất khả hạ đường, bần tiện chi giao bất khả vong.

- Thi ân ư vị ngộ chi tiên, kết giao ư bần hàn chi tế. Nhân tình thường tự sơ tương thức, đáo để chung vô oán hận tâm.

- Tửu thực đệ huynh thiên cá hữu, cấp nạn chi thời nhất cá vô. Bất kết tử hoa hưu yếu chủng, vô nghĩa chi bằng thiết mạc giao. Quân tử chi giao đạm như thuỷ, tiểu nhân chi giao điềm tự mật. Nhân dụng tiền giao, kim dụng hoả thí. Thuỷ tương trượng thám tri thâm thiển, nhân dụng tài giao tiện kiến tâm. Nhân nghĩa mạc giao tài, giao tài nhân nghĩa tuyệt. Lộ dao tri mã lực, sự cữu kiến nhân tâm .

* Dịch nghĩa:-

-Tống Hoằng nói: Vợ tấm mẳn không thể ruồng bỏ, giao tình buổi nghèo không thể quên.

-Làm ơn trước khi người ta chưa gặp thời, kết giao vào lúc người ta đang nghèo hèn. Tình người thường tựa lúc mới quen thì cuối cùng mới không có lòng oán hận.

-Lúc rượu thịt thì có cả nghìn anh em, lúc gặp nạn gấp thì không có nổi một kẻ. Hoa không kết hạt thì đừng trồng, thứ bạn bất nghĩa nhất thiết chớ giao du. Giao tình của quân tử nhạt như nước, giao tình của tiểu nhân ngọt như mật. Người thì dùng tiền để kết giao, vàng thì dùng lửa để thử. Ðem gậy dò nước biết sâu cạn, đem của cải giao thiệp với người liền rõ lòng. Kẻ nhân nghĩa không giao thiệp qua tiền của, giao thiệp qua tiền của thì mất nhân nghĩa. Ðường xa biết sức ngựa, việc xảy ra lâu mới thấy rõ lòng người.


*Diễn ca: -

Chớ ruồng rẫy vợ hàn vi,
Chớ quên bè bạn thời kỳ tả tơi.
Làm ơn, chọn kẻ chờ thời,
Kết bạn chọn kẻ giữa đời khó khăn.
Giữ lòng như buổi mới quen,
Về sau mới đỡ thù hằn lẫn nhau.
Rượu thịt ngàn kẻ bâu vào,
Ðến khi hoạn nạn thì nào thấy ai?
Ðã toan tính chuyện trồng cây,
Phải cầm chắc ngày hái đặng quả ngon.
Muốn cho tình bạn vuông tròn,
Tránh xa những kẻ tâm hồn sai ngoa.
Kẻ lời mật ngọt thiết tha,
Tiểu nhân đích thị, đáng ta đề phòng.
Lời lãnh đạm mới thật lòng,
Ðấy là quân tử, vàng ròng khó so.
Dùng tiền, lòng bạn dễ dò,
Cũng như dùng lửa để đo tuổi vàng.
Có gậy lội nước dễ dàng,
Có của dễ biết bạn vàng hay thau.
Muốn cho tình nghĩa bền lâu,
Chớ đem của cải làm rầu bạn ta.
Sức ngựa rõ lúc đường xa,
Lòng người rõ lúc trải qua lâu ngày.



************



XX - Tuyển dịch thiên thứ hai mươi: Phụ Hạnh

1A.

* Nguyên văn:-

太公曰:婦人之禮,語必細,行必緩步,止則斂容,動則(足羊)(足且)(通徉徂,款款緩步行走。),耳無餘聽,目無餘視,出無諂容,不窺牆壁,不觀戶牖。早起夜眠,莫憚勞苦。戰戰兢兢,常憂玷辱。賢婦令夫貴,惡婦令夫敗。家有賢妻,夫不遭橫禍。賢婦和六親,佞婦破六親。

*Âm:-

Thái Công viết :Phụ nhân chi lễ, ngữ tất tế, hành tất hoãn bộ, chỉ tắc liễm dung, động tắc (túc dương )(túc thả )(thông dương tồ, khoản khoản hoãn bộ hành tẩu. ).Nhĩ vô dư thính, mục vô dư thị, xuất vô siểm dung, bất khuy tường bích, bất quán hộ dũ. Tảo khởi dạ miên, mạc đạn lao khổ. Chiến chiến căng căng, thường ưu điếm nhục. Hiền phụ lệnh phu quí, ác phụ lệnh phu bại. Gia hữu hiền thê, phu bất tao hoành hoạ. Hiền phụ hoà lục thân, nịnh phụ phá lục thân .

* Dịch nghĩa:-

Thái Công nói: Cách giữ Lễ của đàn bà là nói năng phải nhỏ nhẹ, đi phải khoan thai, dừng phải điềm đạm, cử động phải dè dặt, tai không nghe thừa, mắt không trông thừa, đi ra ngoài không có dáng chiều ý ai, không dòm qua tường vách, không ngó vào cửa lớn nhỏ. Dậy sớm ngủ khuya không sợ lao khổ. Nơm nớp thấp thỏm thường lo lắng bị nhục nhã tì vết. Vợ hiền làm chồng sang ra, vợ xấu làm chồng thất bại. Nhà có vợ hiền chồng đỡ gặp tai họa bất ngờ. Vợ hiền tạo hòa thuận cho lục thân (*). Vợ xấu xa gây tan rã lục thân.


*Diễn ca: -

Ðàn bà giữ Lễ ra sao?
- Nói năng nhỏ nhẹ, ra vào khoan thai.
Ðoan trang, kính cẩn chớ sai,
Chuyện nhảm xua khỏi mắt tai, chớ màng.
Ra khỏi cửa, phải đàng hoàng,
Mắt đừng liếc dọc, nhìn ngang nhà người.
E dè lời nói, tiếng cười,
Chớ chiều ý người, gièm siểm, a dua.
Vui cùng cực nhọc sớm khuya.
Nơm nớp tiết hạnh, sợ mua chê cười.
Vợ hiền chồng được hơn người,
Vợ mang tai tiếng, chồng thời xót xa.
Vợ hiền thân thuộc thuận hòa,
Vợ hư lục đục cả nhà nhuốc nhơ.


*Chú thích:-

Lục thân: sáu thành phần trong đại gia đình: cha, mẹ, vợ, con, anh, em.



************



2A.

* Nguyên văn:-

列女傳曰:古者婦人妊子,寢不側,坐不偏,立不躍,不食邪味,割不正不食,席不正不坐。目不視邪色,耳不聽淫聲,夜則令瞽誦詩,道正事。如此則生子形容端正,才智過人矣。

*Âm:-

Liệt Nữ Truyện viết :Cổ giả phụ nhân nhẫm tử, tẩm bất trắc, toạ bất thiên, lập bất dược, bất thực tà vị. Cát bất chính bất thực, tịch bất chính bất toạ. Mục bất thị tà sắc, nhĩ bất thính dâm thanh, dạ tắc lệnh cổ tụng thi, đạo chính sự. Như thử tắc sinh tử hình dung đoán chính, tài trí quá nhân hĩ .

* Dịch nghĩa:-

Truyện Liệt Nữ nói: Ðời xưa đàn bà có thai thì nằm không nghiêng, ngồi không lệch, đứng không nhón chân. Không ăn vị lạ, cắt không ngay ngắn không ăn, chiếu trải chưa ngay ngắn không ngồi, mắt không nhìn sắc bất chính, tai chẳng nghe âm thanh dâm đãng. Ban đêm thì sai người mù đọc Kinh Thi (theo trí nhớ) nói chuyện chân chính. Như thế tất sinh con hình dung đoan chính, tài trí hơn người vậy.


*Diễn ca: -

Ðàn bà khi đã mang thai,
Nằm ngồi, đi, đứng, chớ sai đạo thường.
Nằm nghiêng dễ xảy tổn thương,
Ngồi lệch gây hại, đứng đừng kiễng chân.
Cẩn thận cái uống, miếng ăn,
Ðừng ham vật lạ, chẳng cần của ngon.
Cắt miếng ăn,phải ra hồn,
Chiếu trải ngay ngắn, nếu không đừng ngội
Mắt đừng nhình cảnh lả lơi,
Tai đừng nghe nhạc, nghe lời lẳng lơ.
Thuê người mù (*) đến đọc thơ,
Kể chuyện đạo lý, bỏ khờ, học khôn.
Giữ gìn như thế cho tròn,
Ắt là sẽ được sinh con anh tài.


*Chú thích:-

Người mù: người mù vốn có ưu thế về trí nhớ và xúc giác bén nhạy nên ngày xưa họ thường hành nghề mát- xa kèm đọc thơ, kể chuyện. Ba thứ dịch vụ ấy bổ sung nhau tạo hiệu quả cao (thuê người mù thai phụ cùng chồng họ cảm thấy thoải mái hơn).


HẾT


************



(Cảm tác theo Minh Tâm Bảo Giám)


Giữ Lòng Thanh Thản


惡人罵善人 Ác nhân mạ thiện nhân
善人總不對 Thiện nhân tổng bất đối
善人若還對 Thiện nhân nhược hoàn đối
彼此無智慧 Bỉ thử vô trí tuệ.

不對心清凉 Bất đối tâm thanh lương
罵者口熱沸 Mạ giả khẩu nhiệt phí
正如人唾天 Chính như nhân thóa thiên
還從己身墜 Hoàn tùng kỷ thân trụy.

我若被人罵 Ngã nhược bị nhân mạ
佯聾不分說 Dương lung bất phân thuyết
譬如火當空 Thí như hỏa đương không
不救自然滅 Bất cứu tự nhiên diệt.

嗔人亦如是 Sân nhân diệc như thị
有物遭他熱 Hữu vật tao tha nhiệt
我心等虚空 Ngã tâm đẳng hư không
聽彼翻唇舌 Thính bỉ phiên thần thiệt.


*Dịch: -

Kẻ dữ mắng người hiền
Người hiền không đáp trả
Nếu cãi vã lại liền
Cả hai cùng dại cả.

Ai nhịn thì thanh thản
Ai chửi chỉ hoài hơi
Khác nào phun lên trời
Nước bọt rơi xuống mặt.

Khi bị người ta chửi
Cứ giả điếc làm thinh
Lửa cháy không thêm củi
Sẽ tắt bất thình lình.

Người giận cũng như vậy
Gặp bổi là lửa lan
Hãy giữ lòng trống rỗng
Để mặc ai nói càn.

Châu Sa dịch

(từ Minh Tâm Bảo Giám)





************



TOÁT YẾU

MINH TÂM BẢO GIÁM



************

* Phạm Bân


Ngày xưa, tổ tiên ta học chữ Hán không phải chỉ để thông văn tự, tường huấn hỗ, minh cú đậu mà trước hết là để học cái đạo làm người, học luân thường đạo nghĩa, nghĩa là chú trọng học thế nào là nhân, lễ, nghĩa, trí và tín. Trước học lễ, sau mới học văn chương (Tiên học lễ, hậu học văn). Thiên V, Minh Tâm Bảo Giám, "Chính Kỷ" (Tu Thân), Khổng Tử nói:

Quân tử bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cố. Chủ trung tín.

(Người quân tử không thận trọng (coi trọng, không dám khinh thường, nặng, tự trọng) thì không có uy, học thì không vững vàng. Phải chuyên giữ lòng thật thà và không gian dối). 

Muốn học văn (tức học các sách thuộc hàng kinh điển như: Tứ Thư, Ngũ Kinh, Cổ Văn, Truyện, Chí, v.v...) thì ngừời Việt Nam phải học qua một số sách căn bản và phổ thông; trong đó gồm có sách của người Việt Nam viết như: Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi và của người Trung quốc viết như: Tam Tự Kinh, Thiên Tự Văn, Hiếu Kinh, Minh Tâm Bảo Giám, Minh Đạo Gia Huấn, v.v… Bởi vì chỉ chú trọng đến luân thường đạo nghĩa nên nội dung của các sách vừa nêu không theo phương pháp dạy từ dễ đến khó, từ thấp lên cao, cũng không phân biệt tuổi tác, trình độ suy tư mà cứ mỗi chữ, mỗi bài đều là một bài học luân lý cho tất cả mọi người.

Minh Tâm Bảo Giám là cuốn sách tập hợp các tư tưởng độc đáo của thánh hiền. Có rất nhiều câu được người Việt Nam trích dẫn và sử dụng trong đời sống hàng ngày, phổ biến rất rộng rãi. Như nghĩa của tựa sách đã nói rõ, sách này là tấm gương quý để soi và giữ lòng mình trong sáng. Sách chính là công cụ để mọi người noi theo, tự mình đối chiếu vào đó mà tu tâm, dưỡng tính. Minh Tâm Bảo Giám đã được một số học giả Việt Nam dịch ra tiếng Việt, đặc biệt có học giả Trương Vĩnh Ký đã dịch và chú giải rất chu đáo. (Minh Tâm Bảo Giám. Le précieux miroir du coeur, texte en caractères traduit et annoté en Annamite par P. J. B. Trương Vĩnh Ký, Saigon, Imprimerie de l' Union Nguyễn Văn Của, 1924).

Minh Tâm Bảo Giám phản ảnh cách nhìn sự vật và con người của hệ thống Triết lý phương Đông. Một số bạn sẽ nhận thấy cách nhìn của phương Đông rất khác phương Tây, có khi trái ngược lại. Thí dụ: phương Tây lấy chủ nghĩa cá nhân (individualism), duy vật chất (materialism) và sự thắng thế, tham lam, đè bẹp người khác làm mục tiêu cho sự thành công ở đời (Họ hay nói: You must try to get the most out of someone (or something) You must be a winner.); trong khi phương Đông lại dạy khiêm nhường, nhẫn nhịn, lợi ích cá nhân phải nhượng bộ cho lợi ích tập thể, xã hội. Thiên VII, MTBG, Tồn Tâm (giữ lòng mình), Khổng Tử nói:

Thông minh duê, trí thủ chi dĩ ngụ Công bị thiên hạ thủ chi dĩ nhượng. Dũng lực chấn thế thủ chi dĩ khiếp. Phú hữu tứ hải thủ chi dĩ khiêm.

Nghĩa:

Thông minh sâu sắc nhưng giữ trí mình như ngu. Công trùm thiên hạ nhưng cứ giữ lòng nhường nhịn. Sức mạnh tuyệt luân nhưng cứ giữ mình như nhát. Tiền rừng bạc biển nhưng cứ giữ nết khiêm cung.

Tất nhiên, hai hệ thống khác nhau nên không thể so sánh được bên nào hợp lý hơn, bên nào trúng, bên nào sai, mà trúng thì trúng tới đâu và sai thì sai cỡ nào; cũng giống như người ta không bao giờ so sánh tác dụng chữa bệnh của muối trong Đông Y với đường trong Tây Y vậy.

Thiên XI, MTBG, Tỉnh Tâm, Vương Tham Chính nói:

Lưu hữu dư bất tận chi công dĩ hoàn tạo hóa

Lưu hữu dư bất tận chi lộc dĩ hoàn triều đình

Lưu hữu dư bất tận chi tài dĩ hoàn bách tính

Lưu hữu dư bất tận chi phúc dĩ hoàn tử tôn

Nghĩa:

Giữ lại công lao có dư để trả lại cho Trời Đất

Giữ lại lộc có dư để trả lại cho triều đình (quốc gia)

Giữ lại của cải có dư để trả lại cho trăm họ (xã hội)

Giữ lại phúc đức có dư để dành cho con cháu

Thiên VIII, MTBG, Giới Tính, sách Cảnh Hạnh Lục viết:

Nhân tính như thủy. Thủy nhất khuynh tắc bất khả phục. Tính nhất túng tắc bất khả phản. Chế thủy giả tất dĩ đê phòng. Chế tính giả tất dĩ lễ pháp. Nhẫn nhất thời chi khí, miễn bách nhật chi ưu. Đắc nhẫn thả nhẫn, đắc giới thả giới. Bất giới tiểu sự thành đại. Nhất thiết chư phiền não giai tòng bất nhẫn sinh. Phật ngữ tại vô tranh. Nho thư quý vô tranh. Hảo điều khoái hoạt lộ, thế thượng thiểu nhân hành.

Nghĩa:

Tính người như nước. Nước một khi đổ thì không hốt lại được Tính người một khi phóng túng rồ`i thì không thể phản hồi lại. Muốn ngăn nước thì phải đắp đê để phòng. Muốn chế ngự tính thì phải sử dụng phép tắc. Nhịn khí giận nhất thời thì cả trăm ngày khỏi lo lắng. Nhịn được cứ nhịn. Kiêng được cứ kiêng. Không kiêng thì chuyện nhỏ hóa to. Tất cả phiền não đều do không nhịn mà ra. Lời Phật cốt yếu là không cãi cọ. Sách Nho quý ở chỗ không tranh giành. Tuy nhiên, con đường sung sướng ấy lại ít người đi.

Minh Tâm Bảo Giám gồm có 20 thiên, trong đó có một số thiên đã trở nên lỗi thời do nếp sống, hoàn cảnh sinh hoạt ngày nay không giống như xưa. Một số thiên có tính cách triết lý rất sâu sắc về vũ trụ, con người mà ngày nay vẫn còn là đề tài bàn luận nóng bỏng cho ngành Triết. Cho dù tán thành hay phản đối, suy rộng hay tán hẹp các câu dạy bảo của thánh hiền, người thấm nhuần đạo Nho vẫn luôn luôn khắc ghi rằng:

Quân tử hữu tam úy: úy thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn. (Khổng Tử, MTBG, Thiên VII: Tồn Tâm)

Nghĩa:

Người quân tử có ba điều kiêng sợ: kiêng mệnh Trời, kiêng người trên, kiêng lời của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh Trời cho nên không biết sợ, lờn mặt người trên, khinh thường lời nói của thánh nhân.

Điều cần lưu ý khi đọc Minh Tâm Bảo Giám là thể văn biền ngẫu và quan niệm về người quân tử và kẻ tiểu nhân. Biền nghĩa gốc là hai con ngựa đóng kèm với nhau, chạy song song với nhau; ngẫu là một cặp. Văn biền ngẫu là một thể văn xuôi, không có vần nhưng luôn luôn có hai vế đối nhau. Còn quan niệm quân tử và tiểu nhân là hai quan niệm độc đáo, có tính chất nền tảng cho văn hóa phương Đông. Xã hội chia ra hai hạng người: hạng quân tử là hạng người đúng đắn, gương mẫu để học hỏi, noi theo; còn hạng tiểu nhân là hạng người ti tiện, đáng khinh.

Đọc kỹ Minh Tâm Bảo Giám thì tự khắc biết được một số nét căn bản trong cái ruột và cái đầu của người theo đạo Nho.

Thiên XVI, MTBG, Tuân Lễ, Mạnh Tử nói:

Quân tử chi sở dĩ dị ư nhân giả dĩ kỳ tồn tâm dã. Quân tử dĩ nhân tồn tâm, dĩ lễ tồn tâm. Nhân giả ái nhân, hữu lễ giả kính nhân. Ái nhân giả nhân hằng ái chị Kính nhân giả nhân hằng kính chi.

Nghĩa:

Người quân tử khác người ở chỗ giữ tâm. Người quân tử lấy lòng thương người để giữ tâm, lấy lễ để giữ tâm. Người có Nhân tức người có lòng yêu người, người có Lễ tức người biết kính người. Yêu người thì được người yêu, kính người thì được người kính lại.

Thiên VII, MTBG, Tồn Tâm (giữ lòng mình), Phạm Trung Tuyên viết:

Nhân tuy chí ngu, trách nhân tắc minh. Tuy hữu thông minh thứ kỷ tắc hôn. Đãn thường dĩ trách nhân chi tâm trách kỷ. Thứ kỷ chi tâm thứ nhân, bất hoạn bất đáo thánh hiền địa vị dã.

Nghĩa:

Kẻ nào dù vô cùng dốt nát nhưng khi trách người thì lại rất sáng suốt. Kẻ nào dù thông minh nhưng dung thứ lỗi của chính mình thì lại trở nên u tối. Nên luôn luôn luôn dùng cái tâm trách người để trách mình và tâm dung thứ lỗi của chính mình để dung thứ người. Vậy thì không lo gì để đạt đến bậc thánh.

Dựa vào suy nghĩ và phán xét riêng, tôi chọn lọc và trích ra dưới đây một ít thiên và câu mà tôi thiết nghĩ rằng vẫn còn đáng suy gẫm. Nếu thấy cần, tôi sẽ viết thêm phần chú giải. Lẽ tất nhiên, tôi chỉ cố gắng giới thiệu Minh Tâm Bảo Giám trong chừng mực hiểu biết nông cạn của mình mà thôi, còn việc hiểu, học và áp dụng như thế nào thì bá nhân, bá tính, cứ tùy theo khả năng gạn đục, khơi trong của từng người mà cảm nhận; tôi chẳng dám lạm bàn.



************



Sau đây, chúng ta thử xét vài thiên quan trọng trong Minh Tâm Bảo Giám.

THIÊN I: KẾ THIỆN (noi theo việc thiện)

Đạo Nho chủ trương con người sinh ra ban đầu vốn thiện (nhân chi sơ tính bản thiện), nhưng sau đó vì va chạm với đời sống vật dục nên thay đổi mà làm điều ác. Thuyết tính thiện của Thầy Mạnh được xem là thuyết chính thống của đạo Nho:

"Cáo Tử viết: Tính du thoan thủy dã. Quyết chư Đông phương, tắc Đông lưu; quyết chư Tây phương, tắc Tây lưụ Nhân tính chi vô phân ư thiện, bất thiện dã, du thủy chi vô phân ư Đông, Tây dã.

Mạnh Tử viết: Thủy tính vô phân ư Đông, Tây, vô phân ư thượng, hạ hồ? Nhân tính chi thiện dã, du thủy chi tựu hạ dã; nhân vô hữu bất thiện, thủy vô hữu bất hạ. Kim phù thủy, bác nhi dược chi khả sử quá táng; kích nhi hành chi khả sử tại sơn; thị khởi thủy chi tính taỉ Kỳ thế, tắc nhiên dã. Nhân chi khả sử vi bất thiện, kỳ tính diệc du thị dã".

Nghĩa:

"Thầy Cáo nói: Tính người ta cũng như nước chảy quanh vậy. Khơi sang phương Đông thì chảy phương Đông; khơi sang phương Tây thì chảy phương Tây. Tính người không phân biệt thiện với bất thiện, cũng như nước không phân biệt phương Đông với phương Tây vậy.

Thầy Mạnh nói: Nước đành là không phân biệt phương Đông phương Tây, nhưng lại không phân biệt chỗ cao chỗ thấp đấy ử Tính người ta vốn thiện, cũng như nước vốn chảy chỗ thấp; tính người ta không có người nào là chẳng thiện, nước không có nước nào là chẳng chảy chỗ thấp. Nay nước kia đập mà cho bắn lên, có thể khiến vọt qua trán; ngăn mà cho đi ngược, có thể khiến tràn đến núi; ấy há phải cái nguyên tính của nước thế đâu, vì cái thế nó bị đập, bị ngăn thì nó mới thế vậy; người ta mà bị khiến làm điều bất thiện là vì cái tính nó bị vật dục che lấp cũng như nước bị người đập hay ngăn cản đi vậy". 

(Mạnh Tử, Thiên Cáo Tử thượng, Chương 11 do Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Đôn Phục dịch trong "Mạnh Tử quốc văn giải thích", Editions du Trung Bắc Tân Văn, Hanoi, 1932.)

Phần trích thiên Kế Thiện:

Khổng Tử nói:

Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc.

Vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ họa.

(Làm điều thiện thì Trời ban cho phúc.

Làm điều ác thì Trời giáng họa cho).

Từ Thần Ông nói:

Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.

Tử tế tư lương thiên địa bất thác.

(Chứa lành gặp lành, chứa ác gặp ác.

Đắn đo suy nghĩ kỹ lưỡng thì Trời Đất không lầm lẫn đâu).

(Chú thích: tích: chứa, gom góp lại

tư 思: 4 nét, bộ Tâm: suy nghĩ, tương tư

thác 錯: lầm lẫn, bộ Kim, 8 nét)

Trang Tử nói:

Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi

(Một ngày không nghĩ đến điều lành thì các điều ác đều tự nổi dậy).

Lão Tử nói:

Thiện nhân, bất thiện nhân chi sư. Bất thiện nhân, thiện nhân chi tư. Nhu thắng cương, nhược thắng cường, cố thiệt nhu thường tồn, xỉ cương tắc chiết.

(Người lành là thầy của kẻ dữ. Người dữ là nguồn chỗ nhờ cậy của người thiện. Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, do đó lưỡi còn hoài còn răng cứng thì gãy).

(Chú thích: tư: 6 nét, bộ Bối (con sò: ngày xưa dùng vỏ sò làm tiền nên cái gì liên quan đến tiền, của cải thì hay dùng bộ này): của cải, vốn liếng (tư bản), tư chất, chỗ nhờ cậy (tư cách cao quý).

Lão Tử nói:

"Quân tử vi thiện nhược thủy, ủng chi khả dĩ tại sơn, kích chi khả dĩ quá tảng, năng phương năng viên ủy khúc tùy hình. Cố quân tử năng nhu nhi bất nhược, năng cường nhi bất cương, như thủy chi tính dã. Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thủỵ Thị dĩ nhu nhược thắng cương cường".

(Người quân tử làm điều lành giống như nước vậy, ngăn lại thì có thể giữ nước ở trong núi, khuấy động nước lên thì có thể văng quá trán, tùy theo hình dáng mà nước có thể thành hình vuông hay hình tròn. Vì vậy, người quân tử có thể mềm mà không yếu, mạnh mà không cứng, giống như bản chất của nước vậỵ Trong cõi trời đất không có gì vượt trội hơn nước được. Bởi vậy cho nên mềm yếu thắng cứng mạnh).

Vô danh:

Bình sinh hành thiện thiên gia phúc,

Nhược thị ngu ngoan thụ họa ương.

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,

Cao phi viễn tẩu dã nan tàng.

(Một đời làm lành thì Trời ban phúc,

Nếu như ngu ngốc, ngang bướng thì chịu tai vạ.

Thiện ác cuối cùng đều có báo ứng,

Bay cao chạy xa rồi cũng khó trốn thoát được).

Khi nhân thị họa, nhiêu nhân thị phúc.

Thiên võng khôi khôi, báo ứng thậm tốc.

(Khinh miệt người là họa, bao dung người là phúc.

Lưới Trời lồng lộng nhưng báo ứng rất nhanh).

Thiệu Khang Tiết nói:

Thượng phẩm chi nhân, bất giáo nhi thiện. Trung phẩm chi nhân, giáo nhi hậu thiện. Hạ phẩm chi nhân, giáo diệc bất thiện. Bất giáo nhi thiện, phi thánh nhi hà? Giáo nhi hậu thiện, phi hiền nhi hà? Giáo diệc bất thiện, phi ngu nhi hà?

Thị tri: Thiện dã giả, cát chi vị dã. Bất thiện dã giả, hung chi vị dã. Cát dã giả mục bất quan phi lễ chi sắc, nhĩ bất thính phi lễ chi thanh, khẩu bất đạo phi lễ chi ngôn, túc bất tiễn phi lễ chi địa, nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ. Thân hiền như tựu chi lan, tị ác như úy xà hạt. Hung dã giả ngữ ngôn quỷ quyệt, động chỉ âm hiểm, háo lợi tập phi, tham dâm lạc họa, tật lương thiện như thù khích, phạm hình hiến như ẩm thực. Tiểu tắc vẫn thân diệt tính, đại tắc phúc tông tuyệt tự.

Truyện hữu chi viết: Cát nhân vi thiện, duy nhật bất túc. Hung nhân vi bất thiện diệc duy nhật bất túc. Nhữ đẳng dục vi cát nhân hồ? Dục vi hung nhân hồ?

Nghĩa:

Người bậc trên, không dạy vẫn thiện. Người bậc giữa, dạy rồi mới thiện. Người bậc dưới, có dạy cũng không thiện. Không dạy vẫn thiện, chẳng phải bậc thánh sao? Dạy rồi mới thiện, chẳng phải người hiền sao? Dạy rồi cũng không thiện, chẳng phải là người ngu sao?

Ấy mới biết: Thiện chính là điều lành. Không thiện chính là điều dữ. Lành có nghĩa là mắt không nhìn màu sắc hoặc hình ảnh không đúng lễ, tai không nghe những tiếng không đúng lễ, miệng không nói những lời không đúng lễ, chân không đi trên đất không đúng lễ, người phi nghĩa thì không kết làm bạn, vật phi nghĩa thì không giữ. Kết thân với người hiền như được mang hoa lan và cỏ thơm, tránh kẻ ác như sợ rắn và bò cạp. Dữ có nghĩa là lời nói dối trá và gian xảo, việc làm thì đen tối và sâu độc, ham lợi thành thói bậy bạ, tham dâm gây họa, ganh ghét người lành như hận thù, phạm pháp như cơm bữa. Nhỏ thì mạng vong, mất tính, lớn thì mất dòng, tuyệt giống.

Sách Truyện nói: người tốt suốt ngày làm điều lành chưa thấy đủ. Người dữ suốt ngày làm điều hung ác cũng chưa thấy đủ. Các anh muốn làm người tốt chăng? Hay muốn làm người dữ?

THIÊN II: THIÊN LÝ (Lẽ Trời)

Theo đạo Nho, nguồn gốc của vũ tru là một cái lý độc nhất, tuyệt đối, bao trùm, rộng lớn vô cùng, gọi là lý thái cực. Lý này sinh ra hai khí âm và dương, rồi hai khí âm dương biến hóa sinh ra muôn loài, muôn vật. Trong ý nghĩa bao trùm khắp thế gian thì lý ấy gọi là Thiên, trong ý nghĩa chủ tể muôn loài, muôn vật thì lý ấy gọi là Đế hoặc Thiên Đế. Lý thái cực siêu việt vô cùng, không sao biết được cái tĩnh thể mà chỉ biết được cái động thể do lý thể hiện ra ngoài mà thôi. Đạo Nho xét cái động thể của lý để xây dựng tông chỉ, lấy thiên lý làm cơ bản, nhận có Trời làm chủ tể, chủ trương con người phải sống theo mệnh Trời.

Tuy không tán thành cách viết lịch sử Việt Nam của học giả Trần Trọng Kim (1882 - 1953), nhưng tôi nể trọng các khảo cứu của ông về đạo Nho. Trong cuốn Nho Giáo, Lời phát đoan, học giả Trần Trọng Kim viết:

"Khổng Tử ngắm cảnh tượng của tạo hóa mà xét việc cổ kim, đạt được lẽ biến hóa của trời đất. Ngài muốn người ta theo cái lẽ ấy mà hành động, khiến cho nhân sự và thiên lý cùng thích hợp với nhau theo đạo thái hòa trong vũ trụ. Ngài tin rằng người ta sinh ra đã bẩm thụ cái lý khí của trời đất, tất là cùng với trời đất có thể tương cảm tương ứng với nhau được. Sự tương cảm tương ứng ấy lúc nào cũng có, nhưng khi ta để lòng tư dục mạnh lên, rồi chỉ dùng lý trí mà tính toán những điều hơn thiệt của mình thì cái tinh thần rối loạn đi, cái trực giác thành ra ám muội, dẫu có cảm có ứng, ta cũng không biết được. Nhưng nếu ta biết nén tư dục xuống, giữ cho lúc nào cũng có thái độ điều hòa, cái bình hành hoàn toàn, thì cái trực giác thành ra mẫn nhuệ, trông cái gì thấy ngay được đến phần rất sâu xa, u uẩn.

Giữ được thái độ điều hòa và cái bình hành hoàn toàn, tức là giữ được cái trung. Cứ ở trong cái trung ấy mà hoạt động mà lưu hành theo thiên lý, rồi cứ đôn đốc tình cảm cho thật hậu thì tất là đến bậc nhân. Người nào tu dưỡng đến bậc nhân thì tinh thần rất hoạt động, xem xét điều gì cũng biết rõ thật hư, và sự hành vi bao giờ cũng hợp với đạo thái hòa của trời đất. Đã nhân mà lại thành là bậc thánh. Thành là chân thực, đúng như cái lý tự nhiên của trời đất. Người chí thành tức là người đã khiến mình trở nên thuần túy như nguyên tính của Trời phú cho, thì tự khắc biết được hết cái tính của muôn vật, và có thể giúp sự hóa dục của trời đất mà sánh ngang với trời đất. Bởi thế cho nên mới gọi là thánh. Tông chỉ đạo Khổng rút lại chỉ có thế mà thôi. Còn những điều hiếu nghĩa lễ trí trung tín đều bởi đó mà ra cả.

Cứ như ý kiến của Khổng Tử thì vạn vật ở trong vũ trụ cứ biến hóa theo lẽ điều hòa và lẽ tương đối mà lưu hành mãi mãi thì ở đời có việc gì là việc nhất định được. Vậy ta cứ nên tùy thời mà hành động, miễn là lúc nào cũng giữ lấy thái độ điều hòa, cái bình hành hoàn toàn thì sự hành vi của ta bao giờ cũng được trung chính. Làm việc gì cũng giữ cho trung bình, vừa phải, không thái quá, không bất cập, ấy là theo cái đạo trung dung rất phải rất haỵ Khổng Tử đem cái tông chỉ ấy mà lập thành một cái đạo nhân sinh triết học tức là cái đạo luân lý rất êm ái, rất hòa nhã, đủ làm cho người ta có cái vẻ thư thái vui thú, không có những điều lo sợ buồn bã".

Phần trích thiên Thiên Lý:

Mạnh Tử nói:

Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong.

(Thuận theo Trời thì còn, nghịch Trời thì mất).

Gia Cát Khổng Minh nói:

Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Nhân nguyện như thử, thiên lý vị nhiên, vị nhiên.

(Mưu việc ở người nhưng thành hay không là ở Trời. Người muốn như thế, lẽ Trời chưa thế thì là chưa thế).

Sách Tích Hiền:

Nhược nhân tác bất thiện đắc hiển danh giả,

Nhân bất hại thiên tất tru chi.

Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.

Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.

Thâm canh thiển chủng, thượng hữu thiên tai.

Lợi kỷ tổn nhân, khởi vô quả báo.

Nghĩa:

Nếu như người làm ác mà được rạng danh,

Người không hại họ thì Trời tất phải diệt họ.

Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.

Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt,

Cày sâu cuốc bẩm, trồng cây (cạn), vẫn còn bị thiên tai.

Lợi cho mình mà hại cho người, há không bị quả báo chăng?

Phàm sống ở đời thì ai cũng có bạn: có người có nhiều bạn, có người có ít bạn; rồi trong nhóm bạn lại có nhiều loại: bạn nối khố,bạn đời, bạn trăm năm, bạn vàng, bạn thân, bạn học, bạn ... xã giao, bạn "bốn phương", bạn đãi bôi, bạn nhậu, bạn "bèo giạt, mây trôi", bạn"đá cá, lăn dưa" nhưng nói chung, không thể gọi là sống nếu không có bạn.

Trong kỳ cắm trại vừa qua, do anh Tô Minh Toàn tổ chức, có một anh CTKD4 nói với tôi một ý thật chí lý, càng nghĩ càng ngấm. Ý đó lấy trong Minh Tâm Bảo Giám, Thiên XVIII, "Ngôn ngữ":

Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,

Thoại bất cơ đầu bán cú đa!

(Uống rượu mà gặp người hiểu mình thì một ngàn chén vẫn là ít, 

Nói chuyện mà không ăn ý với nhau thì nửa câu cũng là nhiều!)

Ca ngợi tình bạn thì xưa nay chưa có câu chuyện nào hay cho bằng tiếng đàn tri âm của Bá Nha và Tử Kỳ: khi Tử Kỳ mất, Bá Nha đập vỡ đàn, thề không bao giờ đàn nữa vì thiếu bạn tri âm. (xin hẹn lúc khác sẽ viết chu đáo hơn về hai người này)

Có bạn là điều đương nhiên trong đời sống của mọi người. Ảnh hưởng khá quan trọng của bạn đối với mỗi người chúng ta là điều không nên coi thường vì vậy, "chọn bạn mà chơi” hoặc ”gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" là điều cần lưu ý.

Thiên XI: Tỉnh Tâm (xét lòng mình - tỉnh: bộ Mục: con mắt), Minh Tâm Bảo Giám, Thư Kinh viết:

Thủy để ngư, thiên biên nhạn. Cao khả xạ hề, đê khả điếu.

Duy hữu nhân tâm chỉ xích gian. Chỉ xích nhân tâm bất khả liệu. Thiên khả đạc, địa khả lượng. Duy hữu nhân tâm bất khả phòng.

Họa hổ họa bì nan họa cốt,

Tri nhân tri diện bất tri tâm,

Đối mặt dữ ngữ, tâm cách thiên san!

Nghĩa:

Cá ở đáy nước, chim nhạn ở ven trời. Bay cao có thể bắn, lặn sâu có thể câu.

Lòng người chỉ có gang tấc ngắn ngủi thôi. Lòng người ngắn như gang tấc nhưng không thể liệu chừng được. Trời có thể đo, đất có thể lường. Chỉ có lòng người là không thể đề phòng được.

Vẽ cọp, vẽ da nhưng khó vẽ xương được,

Biết người, biết mặt nhưng không thể biết lòng người đó được.

Gặp nhau, nói chuyện mà lòng thì xa cách ngàn trùng!

Nếu ai muốn biết quan điểm của người xưa về bạn thì xin mời đọc các câu trích từ Thiên XIX: Giao Hữu (Kết Bạn), Minh Tâm Bảo Giám như dưới đây.

1. Khổng Tử nói:

Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dữ chi hóa hĩ. Dữ bất thiện nhân cư như nhập bào ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú, diệc dữ chi hóa hĩ.

Đan chi sở tàng giả xích. Tất chi sở tàng giả hắc. Thị dĩ quân tử tất thận kỳ sở dữ xử.

Nghĩa:

Gần gũi người thiện thì như vào nhà có cỏ thơm và hoa lan, ở lâu trong nhà nên không thấy thơm bởi vì mình cũng đã hóa thơm rồi. Gần gũi người ác thì như vào cửa hàng cá ươn, ở lâu trong đó nên không thấy hôi thối bởi vì mình cũng đã hóa tanh rồi.

Son vốn đã có sẵn màu đỏ. Sơn vốn đã có sẵn màu đen. Vì vậy người quân tử phải thận trọng trong giao du, thân cận.

2. Gia ngữ viết:

Dữ hảo nhân xử như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y thời thời tư nhuận.

Dữ vô thức giả xử như xí trung tọa, tuy bất ô y thời thời văn xú.

Dữ ác nhân xử như đao kiếm trung lập, tuy bất thương nhân thời thời kinh khủng.

Nghĩa:

Chơi với người tốt như đi trong sương mù, tuy áo không ướt nhưng lúc nào cũng tươi mát.

Chơi với người không biết phải quấy như ngồi trong cầu tiêu, tuy áo không dơ nhưng lúc nào cũng nghe thấy hôi thối.

Chơi với người ác như đứng trong rừng đao kiếm, tuy thân người chưa bị thương nhưng lúc nào cũng sợ hãi.

3. Thái Công nói:

Cận châu giả xích, cận mặc giả hắc

Cận hiền giả minh, cận tài giả trí

Cận trí giả minh, cận ngu giả ám

Cận nịnh giả siểm, cận thâu giả tặc

Nghĩa:

Gần son thì đỏ, gần mực thì đen

Gần người hiền thì sáng, gần người giỏi thì khôn ngoan

Gần người hiểu biết thì sáng, gần người ngu thì tối tăm

Gần người nịnh thì bợ đỡ, gần người ăn cắp thì thành kẻ trộm cướp

4. Kê Khang nói:

Hung hiểm chi nhân, kính nhi viễn chi

Hiền đức chi nhân, thân nhi cận chi

Bỉ dĩ ác lai, ngã dĩ thiện ứng

Bỉ dĩ khúc lai, ngã dĩ trực ứng

Khởi hữu oán chi tai?

Nghĩa:

Đối với người hung ác và hiểm độc thì biết sợ mà tránh xa người đó.

Đối với người hiền đức thì thân mật mà gần gũi

Kẻ nào dữ với mình thì mình lấy thiện đáp lại

Kẻ nào lươn lẹo với mình thì mình lấy ngay thẳng đáp lại

Như vậy làm sao có oán thù được?

5. Mạnh Tử nói:

Trách thiện, bằng hữu chi đạo dã

(Đòi hỏi bạn phải tốt chính là cái đạo bạn bè vậỵ)

6. Tống Hoằng nói:

Tửu thực huynh đệ thiên cá hữu

Cấp nạn chi thời nhất cá vô

Bất kết tử hoa hưu yếu chủng

Vô nghĩa chi bằng thiết mạc giao

Quân tử chi giao đạm nhược thủy

Tiểu nhân chi giao điềm như mật

Nghĩa:

Bạn bè lúc ăn nhậu thì nhiều vô số

Khi bị nạn cần gấp thì không có ma nào

Cây mà không kết hoa thì đừng nên trồng

Bạn bè mà không biết phải quấy thì không nhất thiết phải giao du

Người quân tử giao tình nhạt như nước lạnh (vì thành thực)

Kẻ tiểu nhân giao tình ngọt như mật. (để dụ dỗ, lừa gạt)

*Phần chú thích nhân vật:

1) Khổng Tử: tên Khâu, hiệu Trọng Ni, người nước Lỗ, chủ trương dùng lòng nhân để cai trị xã hội. Ngài có công lớn trong việc san định các tư tưởng của thánh hiền và lập thành hệ thống để truyền bá nên được tôn xưng là ông tổ của đạo Nho và ông thầy của muôn đời (vạn thế sư biểu).

2) Cảnh Hạnh Lục: sách viết về những tính nết (hạnh) rất tốt đẹp (cảnh); lấy ý từ Kinh Thi: Thái sơn ngưỡng chỉ. Cảnh hạnh hành chỉ (Ngửa trông núi Tháị Làm theo hạnh dẹp)- Kinh Thi là một trong Ngũ Kinh của đạo Nho, chép các câu ca dao của Trung quốc thời thượng cổ, phản ảnh tính tình, phong tục và chính trị thời đó.

3) Mạnh Tử: tên Kha, người nước Trâu, học trò của cháu Khổng Tử (Tử Tư). Thầy Mạnh có tài hùng biện, chủ trương Vương đạo, tính con người sinh ra vốn thiện. Thầy là nhân vật cự phách của đạo Nho, được tôn xưng là Á Thánh.

4) Gia Cát Vũ Hầu: tức Khổng Minh Gia Cát Lượng, quân sư cho nước Thục thời Tam quốc.

5) Thiệu Khang Tiết (1011 - 1017 ?) tức Thiệu Ung, người đời Tống, tự là Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết và An Lạc tiên sinh. Ông là người đức học rộng, không ưa danh lợi, thuộc trường phái Trần Đoàn, rất giỏi về kinh Dịch, viết các sách Hoàng Cực Kinh Thế, Tiên Thiên Đồ.

6) Tử Hạ: họ Bốc, tên Thương, người thời Xuân Thu, học trò của Khổng Tử, có tài ăn nói và được liệt vào số 72 người hiền.

7) Liệt Tử: tức Liệt Ngự Khấu, người nước Trịnh, triết gia thời Chiến quốc (khoảng thế kỷ IV trước Tây lịch), thuộc Đạo giạ Sách Liệt Tử là do các học trò chép lại, có 8 thiên.

8) Tăng Tử: tức Tăng Sâm, học trò của Khổng Tử. Tăng Sâm rất có hiếu, lấy hiếu làm gốc cho mọi đức tính khác. Ông là một trong 72 người hiền, cùng các học trò khác soạn bộ Luận Ngữ và Hiếu Kinh.

9) Thái Công: tức Lữ Thương,phò vua Chu Vũ Khương diệt Ân Trụ, được phong làm Tề Hầu, đời sau tôn xưng làm Thái Công Vọng.

10) Tính Lý Thư: sách triết học nổi tiếng của đạo Nho thời Tống, ghi lại học vấn của Trình Tử, Chu Tử, phổ biến rộng rãi trong giới Nho học. Ngoài ra còn có bộ Tính Lý đại toàn gồm 70 quyển do nhóm Hồ Quảng đời Minh vâng theo sắc chỉ của nhà vua soạn ra, sưu tầm lời của 120 nhà Tống Nho phân chia làm 13 loại: Lý khí, Quỷ thần, Tính lý, Đạo thống, Thánh hiền, Chư Nho, Học, Chư Tử, Lịch đại, Quân đạo, Trí đạo, Thi, Văn.

11) Tố Thư: bộ sách một quyển đề là Hoàng Thạch Công soạn. Trương Thương Anh, tể tướng đời Tống chú thích. Tương truyền Trương Tử Phòng đời Hán được Hoàng Thạch Công trao cho sách này bên cầu Dĩ. Đại ý của sách là lấy Đạo, Đức, Nhân, Nghĩa, Lễ tóm thâu làm một thể. Họ Trương chú thích đều dùng học thuyết của Lão Tử để làm lời huấn thích. Bút pháp từ đầu đến cuối sách một khuôn như nhau nên người ta ngỡ là ngụy tác của Trương Thương Anh.

12) Đại Học: là một trong các sách kinh điển của đạo Nho,dạy đạo người quân tử, gồm hai phần: Kinh là lời dạy của Khổng Tử và Truyện là lời giảng giải của Tăng Tử.

13) Tuân Tử: tên Huống, tự là Khanh, người nước Triệu thời Chiến quốc, sinh sau Mạnh Tử khoảng 50 năm, là triết gia cự phách của đạo Nho; lập ra phái hình pháp mà học trò sau này là Hàn Phi Tử và Lý Tự Sách của ông để lại là bộ Tuân Tử gồm có 32 thiên.

14) Trung Dung: là một thiên trong Lễ Ký, ghi lại những lời tâm pháp của Khổng Tử, được cháu Ngài là Tử Tư chép thành sách.

15) Trần Hi Di, tức Trần Đoàn, người thời Tống (thế kỷ X), rất tinh thâm Dịch Lý, nổi tiếng khoa thuật số học, thuộc phái Đạo giạ. 

16) Kê Khang (223-263) là triết gia, văn sĩ đời nhà Tấn, một trong Trúc lâm thất hiền (bảy người hiền trong rừng trúc), thuộc phái Thanh Đàm, sống theo đạo của Lão Tử và Trang Tử. Theo sách Thế thuyết tân ngữ: Kê Khang nổi tiếng, được sánh với núi ngọc, với cây tùng.






Feature Post Co Thuoc

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are just exactly some cold or flu influenza) Smart Curing Therapy Treatment _ Toa Thuoc dieu tri benh Corona hieu qua nhat hien nay

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are j...

Popular post Co Thuoc: