Friday, March 27, 2020

TÌM HIỂU CẢM ỨNG THIÊN – MỘT ĐẠI THIỆN THƯ CỦA ĐẠO GIÁO

TÌM HIỂU CẢM ỨNG THIÊN
MỘT ĐẠI THIỆN THƯ CỦA ĐẠO GIÁO



Lê Anh Minh


Thiện thư 善書 hay khuyến thiện thư 勸善書 (books of edification; morality tracts) là một đặc chủng trong thư tịch Đạo giáo.


TÌM HIỂU CẢM ỨNG THIÊN – MỘT ĐẠI THIỆN THƯ CỦA ĐẠO GIÁO


TÌM HIỂU CẢM ỨNG THIÊN

– MỘT ĐẠI THIỆN THƯ CỦA ĐẠO GIÁO


Lê Anh Minh


Thiện thư 善書 hay khuyến thiện thư 勸善書 (books of edification; morality tracts) là một đặc chủng trong thư tịch Đạo giáo.

Đó là những kinh sách dạy làm lành lánh dữ.

Cát Nguyên Chiêu Trị 吉元昭治, tiến sĩ y khoa Nhật Bản, đứng trên góc độ y học mà cho rằng thiện thư cũng là một liệu pháp của Đạo giáo, cùng phát triển với các liệu pháp dân gian như: lên đồng (đồng cơ 童乩 còn gọi là vũ loan 武鸞), cầu cơ bút (phù cơ 扶乩 hay phù loan 扶鸞 [1] còn gọi là văn loan 文鸞), dược thiêm 藥簽 (những lá bùa để trị bệnh), thảo dược 草藥 (thuốc bằng cây cỏ rễ lá), v.v. [2] Thường thì y học chỉ trị thể xác chứ khó trị được tâm tình (y thân bất y tâm 醫身不醫心) nhưng thiện thư có thể y tâm.

Người trì tụng thiện thư dường như đã tìm được một chỗ dựa tâm linh trong cuộc sống bất trắc phù du. Họ tin rằng mọi họa phúc hiện tại đều từ bản thân mình đã gieo mầm trong quá khứ thậm chí trong tiền kiếp, cho nên họ lựa chọn thái độ kham nhẫn trong nghịch cảnh.

Sám hối và hành thiện để trông cậy một tương lai tốt đẹp hơn, thậm chí làm được 1300 điều thiện thì có thể trở thành thiên tiên 天仙 như Cảm Ứng Thiên nói. Như vậy khoái lạc và khổ đau chỉ là những tâm cảnh có giá trị tương đối.

Người trong nghịch cảnh sẽ vơi bớt đau khổ khi nương cậy vào thiện thư: «Tổn ngã nghịch ngã tiêu nghiệt duyên» 損我逆我消孽緣 (Ai làm hại ta, nghịch với ta, là để tiêu diệt những nhân duyên oan nghiệt trong quá khứ).

Hiểu như vậy lòng sẽ thanh thản, không còn khổ tâm nữa, vì đã sòng phẳng với quá khứ.

Kinh sách Đạo giáo nói chung đều có tính khuyến thiện.

Thái Bình Kinh 太平經 của thời Đông Hán và Bão Phác Tử Nội Thiên 抱朴子內篇 của thời Ngụy Tấn chẳng hạn đều bao hàm những tư tưởng khuyến thiện mặc dù nội dung chủ yếu của những kinh này là dạy luyện đạo thành tiên.

Nhưng muốn thành thần tiên thì trước hết phải là người hiền lành lương thiện. Làm người chưa xong lẽ nào thành tiên cho được?

(Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo. Nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hĩ 欲修天道先修人道人道不修天道遠矣 = Muốn tu đạo Trời [đạo giải thoát] thì trước tiên phải cho tròn đạo làm người. Học làm người chưa xong, đạo giải thoát còn xa lắm vậy).

Kinh sách thuần túy khuyến thiện thì phải kể Cảm Ứng Thiên là tối cổ, sau đó là Âm Chất Văn 陰騭文 và Công Quá Cách 功過格. Bài viết này sơ lược về Cảm Ứng Thiên.[3]

太上感應篇

太上曰:「禍福無門,惟人自召;善惡之報,如影隨形。」

是以天地有司過之神,依人所犯輕重,以奪人算。算減則貧耗,多逢憂患;人皆惡之,刑禍隨之,吉慶避之,惡星災之;算盡則死。
又有三台北鬥神君,在人頭上,錄人罪惡,奪其紀算。又有三屍神,在人身中,每到庚申日,輒上詣天曹,言人罪過。月晦之日,灶神亦然。凡人有過,大則奪紀,小則奪算。其過大小,有數百事,欲求長生者,先須避之。

是道則進,非道則退。不履邪徑,不欺暗室;積德累功,慈心於物;忠孝友悌,正己化人;矜孤恤寡,敬老懷幼;昆蟲草木,猶不可傷。宜憫人之凶,樂人之善;濟人之急,救人之危。見人之得,如己之得;見人之失,如己之失。不彰人短,不炫己長;遏惡揚善,推多取少。受辱不怨,受寵若驚;施恩不求報,與人不追悔。

所謂善人,人皆敬之,天道佑之,福祿隨之,眾邪遠之,神靈衛之;所作必成,神仙可冀。欲求天仙者,當立一千三百善;欲求地仙者,當立三百善。

苟或非義而動,背理而行;以惡為能,忍作殘害;陰賊良善,暗侮君親;慢其先生,叛其所事;誑諸無識,謗諸同學;虛誣詐偽,攻訐宗親;剛強不仁,狠戾自用;是非不當,向背乖宜;虐下取功,諂上希旨;受恩不感,念怨不休;輕蔑天民,擾亂國政;賞及非義,刑及無辜;殺人取財,傾人取位;誅降戮服,貶正排賢;凌孤逼寡,棄法受賂;以直為曲,以曲為直;入輕為重,見殺加怒;知過不改,知善不為;自罪引他,壅塞方術;訕謗聖賢,侵凌道德。

射飛逐走,發蟄驚棲;填穴覆巢,傷胎破卵;願人有失,毀人成功;危人自安,減人自益;以惡易好,以私廢公,竊人之能,蔽人之善;形人之醜,訐人之私;耗人貨財,離人骨肉;侵人所愛,助人為非;逞志作威,辱人求勝;敗人苗稼,破人婚姻;苟富而驕,苟免無恥;認恩推過,嫁禍賣惡;沽買虛譽,包貯險心;挫人所長,護己所短;乘威迫脅,縱暴殺傷;無故剪裁,非禮烹宰;散棄五縠,勞擾眾生;破人之家,取其財寶;決水放火,以害民居;紊亂規模,以敗人功;損人器物,以窮人用。

見他榮貴,願他流貶;見他富有,願他破散;見他色美,起心私之;負他貨財,願他身死;干求不遂,便生咒恨;見他失便,便說他過;見他體相不具而笑之,見他材能可稱而抑之。

埋蠱厭人,用藥殺樹;恚怒師傅,牴觸父兄;強取強求,好侵好奪;擄掠致富,巧詐求遷;賞罰不平,逸樂過節;苛虐其下,恐嚇於他;怨天尤人,呵風罵雨;鬥合爭訟,妄逐朋黨;用妻妾語,違父母訓;得新忘故,口是心非;貪冒於財,欺罔其上;造作惡語,讒毀平人;毀人稱直,罵神稱正;棄順效逆,背親向疏;指天地以證鄙懷,引神明而鑑猥事。

施與後悔,假借不還;分外營求,力上施設;淫慾過度,心毒貌慈;穢食餧人,左道惑眾;短尺狹度,輕秤小升;以偽雜真,採取姦利;壓良為賤,謾驀愚人;貪婪無厭,咒詛求直。

嗜酒悖亂,骨肉忿爭;男不忠良,女不柔順;不和其室,不敬其夫;每好矜誇,常行妒忌;無行於妻子,失禮於舅姑;輕慢先靈,違逆上命;作為無益,懷挾外心;自咒咒他,偏憎偏愛;越井越灶,跳食跳人;損子墮胎,行多隱僻;晦臘歌舞,朔旦號怒;對北涕唾及溺,對灶吟詠及哭;又以灶火燒香,穢柴作食;夜起裸露,八節行刑;唾流星,指虹霓;輒指三光,久視日月;春月燎獵,對北惡罵,無故殺龜打蛇…如是等罪,司命隨其輕重,奪其紀算。算盡則死;死有餘責,乃殃及子孫。

又諸橫取人財者,乃計其妻子家口以當之,漸至死喪。若不死喪,則有水火盜賊、遺亡器物、疾病口舌諸事,以當妄取之值。
又枉殺人者,是易刀兵而相殺也。取非義之財者,譬如漏脯救饑,鴆酒止渴;非不暫飽,死亦及之。

夫心起於善,善雖未為,而吉神已隨之;或心起於惡,惡雖未為,而凶神已隨之。其有曾行惡事,後自改悔,諸惡莫作,眾善奉行,久久必獲吉慶;所謂轉禍為福也。故吉人語善、視善、行善,一日有三善,三年天必降之福。凶人語惡、視惡、行惡,一日有三惡,三年天必降之禍。胡不勉而行之?

I. TÁC GIẢ VÀ XUẤT XỨ CỦA CẢM ỨNG THIÊN

Cảm Ứng Thiên 感應篇 là một thiên văn chương khuyến thiện rất cổ xưa trong vô số các kinh sách khuyến thiện của Trung Quốc. Người đời cực kỳ tôn trọng Cảm Ứng Thiên mà gọi là Kinh Cảm Ứng (trong Đạo Cao Đài gọi là Kinh Cảm Ứng). Nguyên tựa kinh này là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên 太上感應篇. Tựa kinh tiết lộ tác giả là Đức Thái Thượng Lão Quân 太上老君 tức Thái Thượng Đạo Tổ 太上道祖, nhưng vấn đề không đơn giản như vậy.


Cảm Ứng Thiên có tự bao giờ và tác giả là ai?

Quyển Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Linh Dị Ký 上感應篇靈異記 (Ghi chép về những linh nghiệm kỳ lạ do trì tụng Cảm Ứng Thiên) của ngài Vô Tích Vạn Quân Thúc Hào 無錫萬鈞叔豪 ghi rằng:

«Tự Tấn dĩ lai, y thử tu thân thành chân giả đa nhân, phú quý giả dĩ bất kế kỳ số hĩ, phổ thiên hạ nhai cù lý hạng, vô bất truyền bố.»

自 晉 以 來 , 依 此 修 身 成 真 者 多 人 , 富 貴 者 已 不 計 其 數 矣 , 普 天 下 街 衢 里 巷 , 無 不 傳 布

([Kinh này xuất hiện] từ đời Tấn đến nay, người noi theo đó tu thân thành tiên (chân nhân) thì rất nhiều, người trở nên phú quí thì vô số kể; kinh này phổ biến khắp nơi).[4]

 Câu văn ngắn gọn này cho biết đôi điều:

(1) Kinh xuất hiện từ đời Tấn (265-420), đến nay cũng đã hơn 1500 năm;

(2) kinh này rất linh nghiệm giúp người trì tụng trở nên phú quí hoặc tu luyện thành chân nhân;

và (3) vì sự linh nghiệm ấy kinh được phổ biến khắp nơi.

Trung Hoa Đạo Học Thông Điển [5] không khẳng định thời gian hình thành Cảm Ứng Thiên mà chỉ dè dặt nói rằng: «Thái Thượng Cảm Ứng Thiên vi Đạo gia tu chân giả, xiển thuật Thái Thượng chi tông chỉ cập kỳ thực tiễn đích trọng yếu trứ tác, tha đối Tấn đại chi tiền đích Đạo gia trứ tác Ngọc Linh Kinh, Dịch Nội Giới, Xích Tùng Tử Kinh, Hà Đồ Ký, Mệnh Phù đẳng trứ tác quân hữu khái quát. (...) Bản thư chi tác giả dữ thành thư niên đại cứ khảo chứng quân bất khả tri, chỉ năng tùng Tống Thư Nghệ Văn Chí, Đạo Tạng Tinh Hoa Lục trung đắc tri hữu thử thiên chương tồn mục, tịnh tác vi Đạo gia học phái cáo giới dữ khuyến thiện tối đại vi thư.»

太 上 感 應 篇 為 道 家 修 真 者,闡 述 太 上 之 宗 旨 及 其 實 踐 的 重 要 著 作,它 對 晉 代 之 前 的 道 家 著 作 玉 鈴 經, 易 內 戒 , 赤 松 子 經 , 河 圖 記 , 命 符 等 著 作 均 有 概 括. [...] 本 書 之 作 者 與 成 書 年 代, 據 考 證 均 不 可 知,只 能 從 宋 書 藝 文 誌, 道 藏 精 華 錄 中 得 知 有 此 篇 章 存 目, 并 作 為 道 家 學 派 兌 誡 與 勸 善 的 最 大 之 書.

(Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là trứ tác quan trọng do các Đạo gia tu chân trình bày rõ ràng tông chỉ của Đức Thái Thượng và thực tiễn của tông chỉ đó.Cảm Ứng Thiên cùng có sự khái quát [về phép tu luyện] như các trứ tác của Đạo gia trước đời Tấn như Ngọc Linh Kinh, Xích Tùng Tử Kinh, Hà Đồ Ký, Mệnh Phù, v.v.[...] Theo sự khảo chứng, tác giả kinh và thời gian bắt đầu xuất hiện kinh này đều chưa được biết rõ, chỉ có thể theo Tống Thư Nghệ Văn Chí và Đạo Tạng Tinh Hoa Lục thì biết Cảm Ứng Thiên đã được ghi chép trong đó rồi, và kinh này quả thực là quyển sách cực lớn nhằm khuyến thiện và răn [tín đồ] các phái Đạo gia giữ gìn giới luật).

Trung Quốc Đạo Giáo [6] nhận định vấn đề này như sau:

«Thái Thượng Cảm Ứng Thiên gọi tắt là Cảm Ứng Thiên. Tác giả không xác định được. Nghệ Văn Chí trong Tống Sử [Tống Thư] có chép một bản Cảm Ứng Thiên của Lý Xương Linh 李昌齡. Quyển Quận Trai Độc Thư Phụ Chí 郡齋讀書附誌 có ghi 8 quyển Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của Giáp Giang Ẩn Giả 夾江隱者 tức Lý Xương Linh 李昌齡.

Hiện nay Thư Viện Bắc Kinh đang tàng trữ một bộ 8 quyển khắc vào đời Nguyên 元 (1279-1368), một bản và một bộ 8 quyển khắc vào đời Minh 明 (1368-1644). Chính Thống Đạo Tạng 正統道藏 bộ Thái Thanh 太清 chép 30 quyển Thái Thương Cảm Ứng Thiên, phụ đề «Lý Xương Linh truyền, Trịnh Thanh Chi tán» 李昌齡傳鄭清之讚 (Lý Xương Linh truyền lại, Trịnh Thanh Chi khen ngợi).

Đời Thanh 清 (1644-1911), Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Chú 太上感應篇注 của Huệ Đống 惠棟 và Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Toản Nghĩa 太上感應篇纘義 của Du Việt 愈樾 đều căn cứ vào Tống Sử mà cho rằng Lý Xương Linh là tác giả của Cảm Ứng Thiên. Bản Cảm Ứng Thiên trong Đạo Tạng có chép lời tựa của Trần Hoán Tử 陳奐子 viết năm Thiệu Định 紹定 thứ 6 (1233) vua Lý Tông 理宗 đời Nam Tống 南宋 bảo rằng Lý Xương Linh chỉ là người chú thích Cảm Ứng Thiên.

Gần đây, một học giả Nhật Bản tên là Cát Cương Nghĩa Phong 吉岡義豐 (Yoshioka Yoshitoyo) cho rằng tác giả Cảm Ứng Thiên là Lý Thạch 李石, quê Tứ Xuyên 四川, từng viết quyển Phương Chu Tập 方舟集 vào năm đầu tiên của đời Nam Tống. Nói vậy nhưng chứng cứ không đầy đủ.»

Tửu Tỉnh Trung Phu 酒井忠夫 (Nhật Bản) viết Trung Quốc Thiện Thư Nghiên Cứu 中國善書研究 (nghiên cứu sách khuyến thiện của Trung Quốc) khẳng định Lý Xương Linh là tác giả của Thái Thượng Cảm Ứng Thiên:

«Thiện thư là sách khuyên người đời hành thiện. Nói chung đó là sách khuyến thiện từ đời Tống về sau, được tặng không bán, phổ biến đạo đức theo kinh điển Nho giáo đồng thời bao quát những điều thiện thông thường mà đa số quần chúng dễ dàng tiếp thu. (...) Vì tính cách đại chúng của thiện thư, tác giả của thiện thư thường là những ẩn sĩ có khả năng lý giải tâm lý dân chúng.

Thiện thư đầu tiên là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên do Lý Xương Linh sáng tác vào đầu đời Nam Tống. Từ đó về sau, thiện thư nhiều vô kể. Giữa đời Minh và Thanh là thời kỳ cực thịnh của thiện thư.» [7]

Tác giả Lý Cương 李剛 [8] sau khi so sánh chương Vi Chỉ 微旨 trong Bão Phác Tử Nội Thiên 抱樸子內篇 với Cảm Ứng Thiên đã nhận định tác giả của Cảm Ứng Thiên như sau:

«Tư tưởng trong Cảm Ứng Thiên phát sinh từ (tư tưởng) của các đạo sĩ thời Hán-Ngụy. Cho đến đời Bắc Tống, với một bối cảnh xã hội mới, một đạo sĩ nào đó đã gia công cắt xén, thay đổi tên họ, và lưu truyền sách cho người đời. Trong Đạo giáo, người viết sách rất thích mượn tên của một vị thần nào đó gán là tác giả, như vậy (tác phẩm) sẽ được người đời coi trọng.

Tác giả của Cảm Ứng Thiên mượn danh Thái Thượng Lão Quân để phô diễn tư tưởng của mình, như vậy rất phù hợp với đặc điểm của Đạo giáo.»

Đạo Kinh Tổng Luận 道經總論 [9] đăng mục lục của bộ Đạo Tạng Tinh Hoa 道藏精華 xuất bản ở Đài Loan, trong 13 tập thì Thái Thượng Cảm Ứng Thiên được in ở tập 1 và ghi chú là «Thái Thượng chân truyền» 太上真傳.

Lý Lạc Cầu 李樂俅 [10] chú thích về Thái Thượng Cảm Ứng Thiên như sau:

«Cảm Ứng Thiên được xem là xưa nhất trong loại sách khuyến thiện, không biết tác giả là ai (bất tri hà nhân sở tác 不知何人所作). Có thể thấy (sự giống nhau) ở thiên Vi Chỉ trong Bão Phác Tử Nội Thiên. Người tu chân cần phải đọc cho làu thông, bản thân phải cố gắng làm theo, coi như là cơ sở để nhập Đạo vậy. Phân chia mười chương để (người đời) rõ yếu chỉ, sửa lòng. Sách không biết bắt đầu di tặng cho đời tự bao giờ.»

Về lai lịch của Lý Xương Linh, Trung Hoa Đạo Học Thông Điển [11] chép rằng:

«Lý Xương Linh năm sinh và năm mất không rõ. Ông sống vào đời Nam Tống (1127-1279), quê ở Giáp Giang 夾江 thuộc Hán Gia 漢嘉 (nay là Giáp Giang thuộc Tứ Xuyên) vì thế ông còn biệt hiệu là Giáp Giang Ẩn Giả (người ẩn dật ở Giáp Giang).

Ông trùng tên với một Lý Xương Linh khác làm quan Ngự Sử Trung Thừa 御史中丞 đời Bắc Tống (960-1127).
Lý Xương Linh chú giải Thái Thượng Cảm Ứng Thiên thành 30 quyển, nhằm tuyên dương lý lẽ thiên nhân cảm ứng, khuyến thiện và trừng ác. Kinh hấp thụ tư tưởng và luân lý Nho gia.
Các điều thiện trong kinh liệt kê thành 26 loại, các điều ác 170 loại. Kinh rất có ảnh hưởng đến hậu thế và được đưa vào Đạo Tạng.»

Holmes Welch, giáo sư Đại Học Harvard, cũng dè dặt nói về thời gian hình thành Cảm Ứng Thiên và ông chẳng đề cập tác giả kinh này là ai. Ông viết:

«Có lẽ được trứ tác vào thế kỷ XI cn, chúng (tức là Cảm Ứng Thiên và Âm Chất Văn) được phổ biến rộng rãi do các tu viện và các tổ chức từ thiện.» [12]

Joseph Needham không cho biết tác giả Cảm Ứng Thiên là ai, chỉ bảo kinh này xuất hiện đầu thế kỷ XI CN:

«Cơ sở để nghiên cứu Đạo Tổ và giáo lý, tức là bộ Đạo Tạng, được đặt ra năm +745. Nhiều đạo thư đã được trứ tác chẳng hạn như Âm Phù Kinh của Lý Thuyên. Nhiều nhân vật kiệt xuất như Lý Bạch cũng tu tập Đạo giáo.

Dưới sức ép mạnh mẽ để tranh với Nho và Phật, các đạo sĩ giờ đây xuất hiện trong vai truyền giảng đạo đức phổ thông, thế (mới có) Thái Thượng Cảm Ứng Thiên vào đầu thế kỷ +11, và sau đó là Công Quá Cách, tương truyền là của một nhà tu đan nổi tiếng đồng thời cũng là một vị tiên tên Lữ Động Tân.» [13]

Farzeen Baldrian cho rằng thiện thư (sách khuyến thiện) bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XII CN  và nổi tiếng nhất là Cảm Ứng Thiên:

«Trong Bão Phác Tử, Cát Hồng khẳng định rằng không hành thiện thì mong thành tiên cũng hoài công. Quyển sách của ông đã cung cấp một bản liệt kê những việc thiện và ác và những điều này còn lưu giữ những qui luật đạo đức phổ quát. Những thiện thư (mà một số dựa theo bản liệt kê của Cát Hồng) bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XII cn. Nổi tiếng nhất là Cảm Ứng Thiên và Công Quá Cách.» [14]

Qua những tư liệu trên, ta thấy không dễ khẳng định tác giả của Cảm Ứng Thiên.

Còn thời gian hình thành tác phẩm thì có người cho rằng đầu đời Bắc Tống, hoặc cuối đời Bắc Tống, hoặc xưa hơn nữa là đời Tấn.

Cho nên, nếu căn cứ vào thư tịch thì vấn đề tác giả và thời gian hình thành Cảm Ứng Thiên phải còn tồn nghi vậy.

Tuy nhiên, tại Việt Nam tín đồ các tôn giáo vẫn yên tâm rằng Thái Thượng Lão Quân là tác giả của Cảm Ứng Thiên

(Kinh Cảm Ứng).

II. ẢNH HƯỞNG CẢM ỨNG THIÊN ĐỐI VỚI HẬU THẾ

Cảm Ứng Thiên từ khi xuất hiện đã được vua chúa, quan lại và sĩ phu hoan nghênh vì tác dụng giáo hóa của kinh đối với phong hóa xã hội.

Không ít vua chúa đã góp sức truyền bá bộ kinh này.

Vào đầu đời Nam Tống, triều đình xuất tiền cho khắc in.

Vua Lý Tông 理宗 (cai trị 1225-1260) nhà Tống chấp bút viết tám chữ lớn (đại tự): «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» 諸惡莫作眾善奉行 vào bìa một bản khắc in.

Vua Thành Tổ 成祖 (cai trị 1403-1424) nhà Minh có hoàng hậu Từ thị 徐氏 đã phóng tác Cảm Ứng Thiên thành Nhân Hiếu Hoàng Hậu Khuyến Thiện Thư 仁孝皇后勸善書.

Vua Thuận Trị 順治 đời Thanh đã viết bài tựa cho Cảm Ứng Thiên, gọi là Khuyến Thiện Yếu Ngôn Tự 勸善要言序.

Về phía dân chúng, vào đời Tống, ngoài bản Cảm Ứng Thiên in trong Đạo Tạng, dân chúng cũng tự khắc in riêng. Đời Nguyên, có gia đình Ôn Hoài Nhân 溫怀仁 còn tàng giữ một bản in đời Tống, vì sợ mất mát nên quyên tiền trong hai năm và in tặng không cho mọi người.

Đời Minh và Thanh rất nhiều người đi quyên tiền khắc in Cảm Ứng Thiên, như đời Minh có ông Uông Tĩnh Hư 汪靜虛 ở Tiền Đường 錢塘 đã quyên tiền khắc in một vạn bản để tặng khắp nơi.

Sự quyên tiền ấn tống kinh vào đời Thanh lại càng mạnh mẽ. Năm Càn Long 20 một quan tổng binh tên là Hoàng Chính Nguyên 黃正元 đã sáng tác Cảm Ứng Thiên Đồ Thuyết 感應篇圖說.

Năm Quang Tự 15, Nhân Tế Thiện Đường 仁濟善堂 ở Thượng Hải cho in thạch ấn lại quyển này và cải danh là Thái Thượng Bảo Phiệt Đồ Thuyết 太上寶筏圖說.

Không những là in chữ, người ta còn vẽ những hình tượng và đồ giải cho người không biết chữ xem cũng hiểu, thành thử đó cũng là một lý do khiến kinh được lưu truyền hết sức rộng rãi, ảnh hưởng rất lớn, thậm chí còn truyền sang Nhật Bản nữa.

Đệ tử thiền môn cũng rất hâm mộ Cảm Ứng Thiên, như đời Càn Long có tăng Tế Thường 際常 biết bao nhiêu lần quyên khắc ấn tống kinh này.

Đến năm Dân Quốc, Cảm Ứng Thiên vẫn còn hấp lực. Nhà văn Mao Thuẫn 茅盾 trong tác phẩm Tý Dạ 子夜 có tả một ông lão suốt ngày tụng niệm Cảm Ứng Thiên, lúc chết tay cũng không rời cuốn kinh. Không những in khắc, chép tay, tặng không khuyên đọc, vô số người gắng công chú giải Cảm Ứng Thiên.

Đời Thanh có hai đại Nho là Huệ Đống 惠棟 và Du Việt 俞樾 tập hợp những lời chú giải. Huệ Đống viết Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Chú 太上感應篇注, Du Việt viết Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Toản Nghĩa 太上感應篇纘義. [15]

Giáo sư Holmes Welch [16] nhận xét về sự phổ biến của Cảm Ứng Thiên như sau:

«Tôn giáo của đại chúng có những luân lý và khía cạnh tâm linh của nó. Điều này được minh họa ở hai trứ tác ngắn gọn là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (The Tractate on Actions and Retributions) và Âm Chất Văn (Text on Determining to Do Good Deeds in Secret). [17]

Có lẽ những trứ tác này được hình thành vào thế kỷ XI cn và chúng được phổ biến rộng rãi do các tu viện và các tổ chức từ thiện, tương tự trường hợp của kinh thánh Thiên Chúa Giáo do hội Gideon ấn tống tại Mỹ vậy. Nhà Hán Học F.H.Balfour thế kỷ XIX đã miêu tả Cảm Ứng Thiên là một quyển kinh phổ thông nhất tại Trung Quốc.»

Tây Phương cũng biết đến Cảm Ứng Thiên nhờ sự nghiên cứu và phiên dịch của các cố đạo Thiên Chúa giáo khi họ đến Trung Quốc truyền đạo vào thế kỷ qua.

James Legge đã dịch Cảm Ứng Thiên và in trong Texts of Taoism (Đạo Giáo Kinh Văn) thuộc bộ Sacred Books of the East (Kinh Điển Đông Phương), quyển XL, gồm: Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Cảm Ứng Thiên, Thanh Tĩnh Kinh, Âm Phù Kinh và Nhật Dụng Kinh. [18]

Tại Việt Nam, Kinh Cảm Ứng (Cảm Ứng Thiên) cũng hết sức phổ biến nhưng không rõ các bản dịch đã xuất hiện tự bao giờ?

Những bản Việt dịch này thường chỉ có âm Hán Việt và dịch nghĩa, không chú giải, không ghi tên dịch giả, không ghi năm xuất bản.

Kinh vì ngắn nên thường được in kèm với các kinh khác như Kinh Di Đà, Kinh Cứu Khổ, v.v. Ngôn từ tiếng Việt trong các bản kinh này rất xưa, theo giọng miền Nam.

Thí dụ: «Đều (điều) họa phước không tìm đến», «biên chép tội ác của người đặng (để) bớt kỷ bớt toán», «nếu ai muốn sống lâu, trước tua (nên) lánh mấy đều (điều) dữ», «Thửa (vốn) gọi người lành», «Khá mà (có thể) trông cậy đến bực (bậc) thần tiên», «đờn (đàn) bà», «phung (phun) nước miếng sao vá (giá), v.v.

Nghĩa là Việt ngữ la tinh hóa của giai đoạn phát triển đầu thế kỷ XX với những lỗi chính tả như hỏi/ngã, phụ âm cuối c/t, n/ng (lén lúc (lút), lấy ngan (ngang)), v.v.

Còn những bản Cảm Ứng Thiên bằng chữ Hán có lẽ đã được các sư tăng Phật giáo cũng như các đạo sĩ đạo cô của các chi phái Lão giáo tại Việt Nam trì tụng từ lâu.

III. NỘI DUNG CỦA CẢM ỨNG THIÊN

Cảm Ứng Thiên có khoảng trên 1200 chữ (tự 字), viết theo thể loại luận thuyết văn 論說文 cũng gọi là thuyết lý văn 說理文, luận thuyết chủ đề cảm ứng.

Cảm tức là «tâm tình phát sinh», ứng tức là «đáp ứng, báo ứng».


Trung Hoa Đạo Học Thông Điển (trang 785) giải thích nhan đề Cảm Ứng Thiên như sau:

«Thái Thượng tức là tiếng xưng hô một bậc vô cùng cao tột. Lễ Ký - Điển Lễ 禮記典禮 nói: «Thái Thượng quí đức» 太上貴德 (Thái Thượng Lão Quân quí trọng đạo đức).

Xuân Thu Truyện 春秋傳 nói: «Thái Thượng dĩ đức phủ dân» 太上以德撫民 (Thái Thượng Lão Quân lấy đạo đức để an ủi vỗ về dân chúng).

Thế nên kinh điển ngàn xưa đã xưng tán Đức Thái Thượng là bậc Thượng Đức hay Thượng Thánh có trước Ngũ Đế. [19] Các phái Đạo gia về sau đều trọng Đức Thái Thượng là Thầy, gọi là Thái Thượng Cao Thánh Ngọc Thần Đại Đạo Quân 太上高聖玉晨大道君 hay là Lão Quân 老君.

 «Cảm Ứng» tức là chỉ con người do trong lòng nảy sinh tình cảm hoặc phát tác một hành vi nào đó thì sẽ nhận lĩnh một hưởng ứng từ ngoại giới.»

Nói cụ thể, Cảm Ứng Thiên luận thuyết về luật Nhân Quả Báo Ứng mà tông chỉ của kinh nằm ở 16 chữ:

Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình

禍福無門惟人自召善惡之報如影隨形.

Quan niệm thiện ác báo ứng đã có từ thời Tiên Tần. Dịch Kinh, quẻ Khôn 坤, phần Văn Ngôn 文言 nói:

«Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương» 積善之家必有餘慶積不善之家必有餘殃

(Nhà nào tích thiện sẽ có nhiều may mắn, nhà nào tích ác sẽ có nhiều tai ương). [20]

Trung Quốc Đạo Giáo [21] nói về nội dung Cảm Ứng Thiên như sau:

«Kinh bảo muốn sống lâu nhiều phúc thì phải hành thiện và tích đức. Kinh liệt kê trên 20 điều thiện và trên 100 điều gọi là chuẩn mực cho việc làm lành lánh dữ.(...) Cảm Ứng Thiên xiển dương tư tưởng Thiên nhân tương cảm và nhân quả báo ứng, lại có những tín điều của Phật giáo và Đạo giáo cũng như những qui phạm luân lý của Nho gia, quả là một sự dung hợp ba nhà Nho, Thích, Đạo vậy.»

Xét về phương diện luân lý, Nho gia thường bảo:

«Lập thiện đa đoan mạc tiên trung hiếu» 立善多端莫先忠孝 (Làm điều thiện có nhiều đường nhưng chẳng gì bằng trung và hiếu).

Trung và hiếu cũng là căn bản đạo đức truyền thống của Đạo gia.

Quan điểm tu thân, trung quân, hiếu đễ ấy thể hiện rất rõ trong Cảm Ứng Thiên, chẳng hạn như:

«Bất lý tà kính, bất khi ám thất, tích đức lũy công,tâm từ ư vật, trung hiếu hữu đễ, chính kỷ hóa nhân.»
不履邪徑, 不欺暗室, 積德累功, 心慈於物, 忠孝友悌, 正己化人
(Không đi đường sái quấy, không khinh nhà tối, tích lũy công đức, lòng hiền thương mọi vật, trung quân, thương kính cha mẹ, thương em, kính anh, tự sửa bản thân rồi mới dạy người) (điều 3- Tích thiện).

Những việc kê ra ở điều 5 và 6 bị xem là ác vì phần lớn chúng ngược lại với luân lý Nho gia, thí dụ như:

«Ám vũ quân thân 暗侮君親 (Thầm khinh vua, khi dễ cha mẹ);
Mạn kỳ tiên sinh 慢其先生 (Coi thường thầy dạy);
Nhuế nộ sư phó 恚怒師傅 (Chọc giận thầy dạy);
Để xúc phụ huynh 抵觸父兄 (Khi rẻ và xúc phạm cha và anh);
Dụng thê thiếp ngữ vi phụ mẫu huấn 用妻妾語違父母訓 (Nghe lời vợ mà vi phạm lời dạy của cha mẹ);
Cốt nhục phẫn tranh 骨肉忿爭 (Chia lìa tình ruột thịt);
Nam bất trung lương 男不忠良 (Trai không lành);
Nữ bất nhu thuận 女不柔順 (Gái không nhu thuận);
Bất tri kỳ thất 不知其室 (Không quan tâm việc nhà);
Bất kính kỳ phu 不敬其夫 (Chẳng trọng chồng); v.v.»

Cảm Ứng Thiên bao hàm ngũ giới cấm [22] của Phật giáo nhưng diễn đạt cụ thể bằng cách nói khác, thí dụ như:

– «Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê, điền huyệt phúc sào, thương thai phá noãn, tổn tử đọa thai»
射飛逐走, 發蟄驚棲, 顛穴覆巢, 傷胎破卵, 損子害胎
(Săn bắn chim và thú, phá hang ổ loài bu đậu, lấp lỗ hang, lật úp tổ chim, phá thai hại trứng, hại con, phá thai)

ứng với giới cấm 1 (Bất sát sinh 不殺生).

– «Sát nhân thủ tài 殺人取財 (giết người cướp của);
phá nhân chi gia thủ kỳ tài bảo 破人之家取其財寶 (phá nhà người đế lấy của nả);
cưỡng thủ cưỡng cầu háo xâm háo đoạt 強取強求好侵好奪 (giật ngang lấy ngang, thích xâm phạm và chiếm đoạt); lỗ lược trí phú 掳掠致富 (cướp giật để trở nên giàu có)»

ứng với giới cấm 2 (Bất du đạo 不偷盜: Cấm trộm cướp).

– «Dâm dục quá độ 淫欲過度 (dâm dục không kìm chế); kiến tha sắc mỹ khởi tâm tư chi 見他色美起心私之 (Thấy vợ hoặc con gái người ta xinh đẹp thì sinh lòng tư thông chiếm đoạt)» ứng với giới cấm 3 (Bất tà dâm 不邪淫: Cấm tà dâm).

– «Hư vu trá ngụy 虛誣詐偽 (gian dối lọc lừa);
 biếm chính bài hiền 貶正排賢 (chê bai người hiền lương);
dĩ trực vi khúc dĩ khúc vi trực 以直為曲以曲為直 (lấy thẳng làm cong lấy cong làm thẳng= tráo trở);
khẩu thị tâm phi 口是心非 (lời nói ra vẻ ngay thẳng nhưng lòng toan tính tà vạy);
sàm hủy bình nhân 讒毀平人 (dèm pha hãm hại người dân thường);
hủy nhân xưng trực 毀人稱直 (hãm hại người mà tự xưng mình ngay thẳng)»

ứng với giới cấm 4 (Bất vọng ngữ 不妄語: Cấm nói lời quấy).

– «Thị tửu bột loạn 嗜酒悖亂 (Thích nhậu nhẹt quậy phá)» ứng với giới cấm 5 (Bất ẩm thực tửu nhục 不飲食酒肉: Cấm ăn thịt và cấm uống rượu).

Quan niệm Đạo giáo cũng rất sâu đậm trong Cảm Ứng Thiên. Căn bản của thành tiên chứng đạo là ở chỗ hành thiện tích đức.

Kinh viết: «Dục cầu thiên tiên giả đương lập nhất thiên tam bách thiện, dục cầu địa tiên giả đương lập tam bách thiện.» 欲求天仙者當立一千三百善, 欲求地仙者當立三百善 (Muốn thành thiên tiên thì phải làm 1300 điều thiện, muốn thành địa tiên thì phải làm 300 điều thiện) (điều 4: Thiện báo).

Đó cũng là quan niệm của Cát Hồng 葛洪 trong Bão Phác Tử 抱樸子 nhưng tiêu chuẩn của Cát Hồng là 1200 điều thiện và 300 điều thiện. Cũng trong điều 4, Kinh bảo người làm điều thiện thì được thế nhân kính trọng, trời phù hộ, phúc lộc đến, tà quái không dám lại gần, thần linh hộ vệ và có thể mong trở thành thần tiên (thần tiên khả ký 神仙可冀).

Nhưng việc thiện ác không phân biệt lớn nhỏ. Bão Phác Tử Nội Thiên, chương Đối Tục 對俗, viết:

«Nhân dục địa tiên, đương lập tam bách thiện; dục thiên tiên, lập thiên nhị bách thiện. Nhược hữu thiên nhất bách cửu thập cửu thiện, nhi hốt phục trúng hành nhất ác, tắc tận thất tiền thiện, nãi đương phục cánh khởi thiện số nhĩ. Cố thiện bất tại đại, ác bất tại tiểu dã»

 人 欲 地 仙 , 當 立 三 百 善 ; 欲 天 仙 , 立 千 二 百 善 . 若 有 千 一 百 九 十 九 善 , 而 忽 復 中 行 一 惡 , 則 盡 失 前 善 , 乃 當 復 更 起 善 數 耳 . 故 善 不 在 大 , 惡 不 在 小 也

(Người muốn thành địa tiên phải lập 300 việc thiện, muốn thành thiên tiên phải lập 1200 việc thiện. Nếu đã làm được 1199 việc thiện mà bỗng nhiên tạo một việc ác thì sẽ mất sạch số việc thiện đã làm, và như vậy phải tính lại số việc thiện từ đầu. Cho nên việc thiện không kể lớn, việc ác không kể nhỏ vậy.) [23]

Holmes Welch cũng nhận ra sự dung hợp của Tam giáo trong Cảm Ứng Thiên, ông viết:

«Cảm Ứng Thiên chỉ ra ngay từ đầu rằng tội lỗi con người luôn được trình báo cho Trời biết do Ông Táo (the God of the Hearth) và Tam Thi Thần.(...) Theo Cảm Ứng Thiên, đời người bị giảm thọ 12 năm (1 kỷ) do mỗi tội lớn và 100 ngày (1 toán) do mỗi tội nhỏ. Ai muốn sống lâu thì phải làm lành lánh dữ. Còn muốn thành thiên tiên (celestial immortals) thì phải làm 1300 điều thiện, muốn thành địa tiên (terrestrial immortals) thì làm 300 điều thiện. "

Tất cả những điều này như ta thấy, thể hiện truyền thống cổ xưa của Đạo gia. Nhưng khi ta đọc kỹ những điều thiện và ác được liệt kê trong Cảm Ứng Thiên, ta thấy chúng không thuần túy là quan điểm Đạo gia, mà hơn thế, chúng là một sự dung hợp tam giáo Nho, Thích, Đạo.

Hầu hết các điều dạy này có thể được đem vào các bài giảng đạo ở các nhà thờ Thiên Chúa giáo mà chẳng ai chú ý (nhận ra là tín điều của Tam giáo).

Người trì tụng được dạy không gian dối, không tàn ác, không kiêu căng, không đạo đức giả, không hối lộ, không cân gian đo thiếu, không thèm muốn vợ người, không phung phí vật phẩm, không khinh phụ huynh, không dùng lửa nước phá hoại nơi dân cư, v.v.

Những tín điều Phật giáo như bất sát sinh, không lật úp tổ chim, không hại thai phá trứng ắt hẳn sẽ làm người Tây phương ngạc nhiên.

Kết luận của Cảm Ứng Thiên lại là quan điểm của Nho giáo: Nếu có ai chết vì tai ương bệnh tật hay yểu mệnh mà tội nợ chưa trả hết thì số nợ còn lại phải trả sẽ chuyển sang con cháu chứ không đợi đến kiếp sau.

Một số điều trong 212 tội ác có tính cách mê tín hơn là luân lý, thí dụ: Không day về hướng Bắc mà tiểu tiện, không phun nước bọt về phía sao băng. Trong sự liệt kê các điều thiện ác thì điều ác vượt trội điều thiện khoảng 10 lần.» [24]

Luật Nhân Quả mà Cảm Ứng Thiên xiển dương vốn là điểm trọng yếu trong luân lý Phật giáo.

Đó là lẽ công bằng trong trời đất. Con người phải thu hoạch những gì mình đã tạo tác gieo trồng bao quát cả ba mặt thân (hành vi), khẩu (ngôn ngữ) và ý (tâm tư).

Người Âu châu cũng tin như vậy qua tục ngữ «Man reaps what he sows» (gieo gì gặt đó).

Người Việt Nam bao đời nay cũng hằng tin tưởng «Ở hiền gặp lành, làm ác gặp ác» là thế.

Người Trung Quốc thường nói «Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu» 種 瓜 得 瓜 種 豆 得 豆 (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu) cũng không ngoài lẽ nhân quả báo ứng.

Bên cạnh luật nhân quả báo ứng là luật Thiên nhân tương cảm 天 人 相 感 (hay Thiên nhân tương dữ  天 人 相 與, Thiên nhân hợp nhất  天 人 合 一) mà Cảm Ứng Thiên muốn xiển dương. Tam giáo quan niệm Trời tiềm ẩn trong lòng người.

Trang tử nói: «Thiên tại nội, nhân tại ngoại» 天 在 內 人 在 外 (Trời ở trong, người ở ngoài.) [25]

Lại nói: «Thiên địa dữ ngã tịnh sinh nhi vạn vật dữ ngã vi nhất» 天 地 與 我 并 生 而 萬 物 與 我 為 一 (Trời đất sinh đồng thời với ta, vạn vật với ta là một.) [26]

Đại Đỗng Chân Kinh  大 洞 真 經 viết:

«Nhân Thiên tự bản vô sai biệt» 人 天 自 本 無 差 別 (Tự bản chất Trời và người không khác nhau).

Hoàng Đế Âm Phù Kinh 黃 帝 陰 符 經 bảo: «Thiên tính nhân dã» 天 性 人 也 (Thiên tính là người).

Mạnh Tử nói: «Vạn vật giai bị ư ngã hĩ.» 萬 物 皆 備 於 我 矣 (Cái lý của vạn vật đều có đủ trong ta.) [27] Mạnh Tử quan niệm Trời ở ngay trong lòng người nên thấu triệt tường tận lòng mình thì sẽ biết tính, biết tính thì sẽ biết Trời:

«Tận kỳ tâm giả tri kỳ tính dã, tri kỳ tính tắc tri Thiên hĩ.»
 盡 其 心 者 知 其 性 也 , 知 其 性 則 知 天 矣 .

Vì Trời ngự trong lòng ta, nên nói đến Trời thì cứ nghiêm chỉnh lòng lại thì Trời tự hiện.

Diễn ý này, Kinh Thư Đại Toàn viết:

«Chí ư ngôn Thiên tắc nghiêm kỳ tâm chi sở tự xuất»

至 於 言 天 則 嚴 其 心 之 所 自 出.

Như vậy theo Tam giáo, bản thể con người là Trời, cũng gọi là Thiên, Thượng Đế, chân tính, tự tánh, linh tánh, Đạo, chân tâm, chân ngã, bản lai diện mục, cốc thần, huyền tẫn, tính, thần, v.v.

Cái bản thể ấy thường hằng bất biến và bên cạnh cái bất biến ấy là vọng tâm vọng ngã. Vọng tâm đầy rẫy thất tình lục dục nên che mờ chân tâm linh tánh.

Tính Mệnh Khuê Chỉ viết: «Phụ mẫu sinh tiền nhất điểm linh, bất linh chỉ vị kết thành hình.»
 父 母 生 前 一 點 靈 不 靈 只 為 結 成 形
(Trước khi cha mẹ sinh ra ta, ta là một điểm linh quang của Thượng Đế, chỉ vì ta mang nhục thể mà điểm linh bị che mờ nên không linh nữa).

Điểm linh ấy gọi là Thiên tâm, được Lữ Tổ 呂祖 giải thích trong Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ 太 乙 金 華 宗 旨 rằng:

«Thiên tâm giả, tam tài đồng bẩm chi tâm; đan thư sở vị huyền khiếu thị dã. Nhân nhân câu hữu. Hiền triết khải chi, ngu mê bế chi. Khải tắc trường sinh, bế tắc đoản chiết. Ủy chi mệnh số giả, phàm phu chi kiến giả.»

 天 心 者 三 才 同 稟 之 心 , 丹 書 所 謂 玄 竅 是 也 . 人 人 俱 有 . 賢 哲 啟 之 愚 迷 閉 之 . 啟 則 長 生 , 閉 則 短 折 . 委 之 命 數 者 凡 夫 之 見 也

(Thiên tâm là cái tâm cùng phú cho tam tài [thiên-địa-nhân] mà sách luyện đan gọi là huyền khiếu. Ai ai cũng có Thiên tâm. Bậc hiền triết thì khai mở nó ra, kẻ ngu mê thì đóng nó lại. Khai mở thì trường sinh, đóng lại thì chết. Đổ thừa cho số mệnh ấy là cái hiểu biết của kẻ phàm phu vậy.) [28]

Những trích dẫn trên đây xác minh mỗi người đều có Trời và thần minh ngự trị trong lòng, vì thế Trời và người tương cảm với nhau, liên lạc với nhau, có thể hợp nhất, cho nên Cảm Ứng Thiên cho rằng hễ có Cảm thì ắt có Ứng.

Cảm Ứng Thiên còn thuyết minh về thiện ác.

Mỗi con người có hai phần Chân và Vọng. Phần chân thì bất biến, đó là chân tính, là Trời tiềm ẩn trong ta với biết bao tốt đẹp thiện lương.

Phần vọng thì biến đổi, là vọng tâm do thất tình lục dục quấy nhiễu với bản chất xấu xa.

Cảm Ứng Thiên dạy ta trở về với thiên tính thiện lương ấy và lánh xa tội lỗi.

Biết Trời ngự trị trong lòng, biết thần minh luôn giám sát, tự nhiên ta sẽ thay đổi tính tình, cố ăn ở cho đàng hoàng hơn.

Nghĩa là nhờ kính sợ Trời mới có thể luyện kỷ tu thân, cho nên Luận Ngữ nói: «Tu kỷ dĩ kính» 修 己 以 敬 (Lấy lòng kính sợ Trời mà sửa mình).

Trong sự sửa mình có hai khía cạnh: ăn năn sám hối tội cũ (mà Cảm Ứng Thiên gọi là cách đổi họa thành phúc) và ngăn chận tội lỗi có thể phạm trong tương lai.

Vì vậy kinh không luận suông về thiện ác mà chỉ dạy cách làm lành lánh dữ.

Kinh nói: «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành»

 諸 惡 莫 作 眾 善 奉 行

(Không làm các điều ác, phải làm mọi điều thiện).

Nhưng làm thế nào biết nhìn ra điều ác để mà tránh?


Khổng Tử dạy:

«Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân»

 己 所 不 欲 勿 施 於 人

(Điều gì mình chẳng muốn ai gây cho mình, thì mình chớ làm cho họ). [29]

Nói cách khác ta phải đặt mình vào hoàn cảnh của người thì mới hiểu tâm tư và khát vọng của người thụ lãnh hành vi, nhờ đó sẽ biết việc nào nên làm hoặc không nên làm.

Đó là căn bản của hành vi thiện ác.

Tuy nhiên chúng ta cũng cần xét rõ nguyên nhân cấu thành tội ác để diệt trừ tận gốc.

Tội ác có thể do cố ý hoặc không cố ý. Không cố ý là do lỡ tay (thí dụ trường hợp ngộ sát) hoặc do tâm thần điên loạn nên không ý thức và không kiểm soát được hành vi.

Còn trường hợp cố ý mà phạm tội thì phải có một tiến trình cấu thành:

tư tưởng phát sinh (vọng ý 妄意, vọng niệm 妄念) chỉ đạo ngôn ngữ (ác khẩu 惡口) hoặc và hành vi (thân nghiệp 身業).

Ngoài ra cũng phải xét đến sự huân tập hành ác trong quá khứ nữa.

Cho nên người tu phải tu dưỡng phần chân tâm linh tánh, không để vọng tâm lấn lướt quấy nhiễu nảy sinh thất tình lục dục.

Thất tình lục dục không kiềm chế nên phát sinh ác khẩu và vọng động tạo ác nghiệp.

Vậy muốn trở nên hiền lương phải đặc biệt trừng tâm, nghĩa là chú trọng yếu tố ý 意 trong ba yếu tố thân khẩu ý 身口意.

Cảm Ứng Thiên bảo ở điều 8 rằng:

«Khi lòng nảy sinh thiện ý, tuy điều thiện chưa làm nhưng cát thần đã chực sẵn bên mình; khi lòng nảy sinh ác ý, tuy điều ác chưa làm nhưng hung thần đã chực sẵn bên mình.» [30]

Luật Thiên nhân tương cảm như vậy thật là hết sức nghiêm nhặt và đáng sợ. Có sợ thì mới cố sửa mình.

Mặc dù Cảm Ứng Thiên khẳng định sự thưởng phạt công minh (thiện báo và ác báo) nhưng kỳ thực hiền nhân quân tử hành thiện không phải để truy cầu những thiện báo ấy.

Vậy thì tại sao phải hành thiện? Vì trọn thiện trọn lành là bản tánh con người, Nho gia gọi đó là cái Đức Sáng (Minh Đức 明德).

Do sự huân tập thế tục và do dục vọng, cái đức sáng ấy bị lu mờ, nên bổn phận con người là làm sáng lại cái đức sáng ấy (minh minh đức 明明德) và dừng lại nơi chí thiện (chỉ ư chí thiện 止 於 至 善).

Mạnh Tử nói:

«Quân tử mạc đại hồ dữ nhân vi thiện»
君 子 莫 大 乎 與 人 為 善
(Điều lớn lao nhất của người quân tử là làm điều thiện cho người khác).[31]

Khổng Tử bảo quân tử phải làm điều tốt đẹp cho người:
«Quân tử thành nhân chi mỹ»
 君 子 成 人 之 美. [32]
Làm điều thiện không cần ai biết ai hay, không cần báo đáp: «Thi ân bất cầu báo» 施 恩 不 求 報 (Cảm Ứng Thiên - điều 3).

Người đời không biết, trong lòng ta không oán hận:

«Nhân bất tri nhi bất oán»

人 不 知 而 不 怨. [33]

Hiền nhân quân tử chỉ biết trong lòng thầm vui và thanh thản, đó là một trong ba điều vui mà theo Mạnh Tử bậc đế vương trong thiên hạ chưa chắc đã có:

«Ngưỡng bất quí ư Thiên, phủ bất tạc ư nhân»

仰 不 愧 於 天 俯 不 怍 於 人

(Trông lên không hổ với Trời, cúi xuống không thẹn với người).[34]

Như vậy, nội dung cơ bản của Cảm Ứng Thiên thâu tóm nền luân lý Tam giáo đồng thời xiển dương lẽ Thiên nhân tương cảm và luật nhân quả báo ứng, qua đó khuyến dạy người đời làm lành lánh dữ.

Nhưng phân tích những điều mục đạo đức trong kinh (chủ yếu ở điều 5 và 6) ta còn nhận ra những điểm sau đây:

* Kinh coi trọng quan hệ huyết thống, tông tộc: Chế độ gia đình là kết cấu xã hội cơ bản trong xã hội Trung Quốc cổ đại. Sự liên hệ giữa các thành viên trong gia đình là dựa vào huyết thống. Trong chế độ gia trưởng, mỗi người đều có tôn ti trật tự, không được nhiễu loạn, phải lấy hoà mục tông thân làm quan trọng.

Kinh đề xướng: «Trung hiếu hữu đễ» 忠 孝 友 悌 (trung với vua, có hiếu với cha mẹ, yêu kính anh, thương em) và phản đối: «Để xúc phụ huynh» 抵 觸 父 兄 (công kích, xúc phạm cha và anh); – «Vi phụ mẫu huấn» 違 父 母 訓 (làm trái lời dạy của cha mẹ); – «Bối thân hướng sơ» 背 親 向 疏 (nghịch với người thân thuộc mà chạy theo người dưng); – «Cốt nhục phẫn tranh» 骨 肉 忿 爭 (anh chị em ruột thịt tranh giành vật chất, chia rẽ nhau); – «Bất tri kỳ thất, bất kính kỳ phu» 不 知 其 室 , 不 敬 其 夫 (chồng bỏ bê gia đình, vợ coi rẻ chồng); – «Vô hạnh ư thê tử, thất lễ ư cữu cô, khinh mạn tiên linh» 無 行 於 妻 子, 失 禮 於 舅 姑 , 輕 慢 先 靈 (chồng không tử tế với vợ con, vợ hỗn hào với cha mẹ chồng, khinh khi ông bà tổ tiên đã khuất), v.v.

* Tán đồng chế độ quân chủ: Quân chủ chế là sự phóng đại của gia trưởng chế. Hiếu là đạo con đối với cha mẹ, trung là đạo tôi đối với vua. Trung quân là một tầng cao của hiếu phụ. Cảm Ứng Thiên cho rằng trung hiếu đứng trên mọi điều thiện, là cơ sở của thành tiên liễu đạo, nên kinh phản đối «Vi nghịch thượng mệnh» 違 逆 上 命 (trái lệnh trên), «Ám vũ quân thân» 暗 侮 君 親 (thầm khinh vua và cha mẹ), «Nhiễu loạn quốc chính» 擾 亂 國 政 (làm loạn chính trị trong nước), «Khi võng kỳ thượng» 欺 罔 其 上 (Khinh thường, khuất lấp đối với bề trên), v.v.

Không riêng gì Cảm Ứng Thiên, ngay từ đời Đông Hán, Thái Bình Kinh 太 平 經 và đời Ngụy Tấn, Bão Phác Tử đã khẳng định trung hiếu là căn bản đức hạnh của người tu tiên và hầu hết kinh sách của các phái Đạo giáo từ đời Tống về sau rất coi trọng trung hiếu, thậm chí có giáo phái như Tịnh Minh phái lấy trung hiếu làm tông chỉ.[35]

* Cảm Ứng Thiên đề ra phép xử thế: Phần lớn những cách ứng xử mà Cảm Ứng Thiên đề ra thì phù hợp với những cách ngôn, gia huấn trong các quyển như Tòa Hữu Minh 座 右 銘, Danh Hiền Tập 名 賢 集, Tăng Quảng Hiền Văn 增 廣 賢 文, v.v. Tòa Hữu Minh 座 右 銘 của Thôi Viện 崔瑗 nói: «Vô đạo nhân chi đoản, vô thuyết kỷ chi trường. Thi nhân thận vật niệm, thụ thi thận vật vong»
無 道 人 之 短 無 說 己 之 長 施 人 慎 勿 念 受 施 勿 忘
(Đừng nói ra chỗ kém của người, chớ bày tỏ cái hay của mình. Cho ai cái gì phải thận trọng và đừng ghi nhớ, thụ nhận ai cái gì thì phải thận trọng chớ quên).

Cảm Ứng Thiên cũng dạy như thế:

«Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường. Thi ân bất cầu báo, dữ nhân bất truy hối»
不 彰 人 短 , 不 衒 己 長 . 施 恩 不 求 報 . 與 人 不 追 悔
(Không phô bày cái dở của người, không khoe khoang cái hay của mình. Ra ơn cho ai thì không mong sự đáp đền, cho ai cái gì thì chớ nghĩ lại mà hối tiếc).

Hoặc phê phán: «Tỏa nhân sở trường, hộ kỷ sở đoản. Can cầu bất toại, tiện sinh chú hận. Thi dữ hậu hối. Giả tá bất hoàn. Phận ngoại doanh cầu»
挫 人 所 長 護 己 所 短 干 求 不 遂 便 生 咒 恨 . 施 與 後 悔 , 假 借 不 還 , 分 外 營 求
(Chèn ép cho cùn nhụt chỗ hay của người, bảo hộ chỗ dở của mình. Mong cầu [chức tước bổng lộc] mà không được nên sinh lòng chưởi bới oán hận. Cho ai cái gì về sau lại tiếc. Vay mượn không trả. Mong muốn những điều vượt quá phận mình).

• Kinh đề cao giới luật và phương thuật của Đạo giáo:

Trừ những chỗ nói về Tư Quá Thần, Tam Thi Thần, Bắc Đẩu Thần Quân, Tam Thai, v.v. là chư thần của Đạo giáo, và quan niệm từ bi giới sát ái sinh của Phật giáo (từ tâm ư vật 慈 心 於 物: lòng từ bi đối với vạn vật), Cảm Ứng Thiên còn ủng hộ phương thuật và lên án việc cản trở phương thuật (Ủng tắc phương thuật 壅 塞 方 術).

Phương thuật là gì? Từ đời Tần và đời Hán đã có những người thi hành phương thuật và được gọi là phương sĩ 方士 (magician), thí dụ như Lô Sinh 盧生 và Từ Phúc 徐福 đời Tần Thủy Hoàng 秦 始 皇 hay Lý Thiếu Quân 李少君 đời Hán Vũ Đế 漢武帝.

Phương sĩ xuất hiện từ Vu giáo 巫教 của thời Xuân Thu (722-481) và Chiến Quốc (403-221).

Chữ vu 巫 gồm chữ công 工 và hai chữ nhân 人, tượng trưng hai người đang nhảy múa cầu đảo. Người ta gọi chung bọn đồng cốt phù thủy là vu hịch 巫覡 (vu gọi nữ, hịch gọi nam).

Vương Hữu Tam [36] giải thích hai chữ vu hịch như sau:

«Vu hịch là những người cổ đại cầu đảo thần minh giáng phúc, là người môi giới giữa con người và thần minh, cũng có thể thay mặt quốc gia mà cầu thần minh phù hộ. Trong thời ban sơ của tôn giáo, vu hịch chiếm địa vị quan trọng. Quan chế thời cổ có chức chúc 祝, đó là chức quan phụ trách việc tế trời và cầu đảo thần minh, và vu chính là biệt danh của chúc. Người nam gọi là hịch, người nữ gọi là vu.

Thuyết Văn Giải Tự nói:

«Vu, chúc dã» 巫祝也 (Vu chính là chúc) và «Hịch năng trai túc sự thần minh dã, tại nam viết hịch, tại nữ viết vu»
 覡 能 齋 肅 事 神 明 也 在 男 曰 覡 在 女 曰 巫
(Hịch trai giới cúc cung phụng sự thần minh, người nam gọi là hịch, người nữ gọi là vu). (...)

Dần dần vu hịch trở thành một tệ mê tín phổ biến trong dân gian, và lưu truyền tại Trung Quốc mấy ngàn năm mà không suy thoái.»

Theo Lưu Ngọc Kiến [37] đời Thương là thời kỳ đỉnh thịnh của bọn vu hịch, gần như một tôn giáo, gọi là Vu giáo 巫教. Bọn họ (gọi là vu sử 巫史) giữ chức vụ trọng yếu trong triều, vừa có nhiệm vụ về tôn giáo (thông công với thần minh) vừa có nhiệm vụ chính trị.

Một số nhân vật vu hịch có tên tuổi được cổ tịch đề cập như Y Doãn 伊尹 (tức là A Hành 阿衡) (xem Sử Ký Tư Mã Thiên- Ân bản kỷ; Mặc Tử- Thượng hiền trung; Kinh Thi- Thương tụng), Y Trắc 伊陟 (con trai của Y Doãn) [38] (xem Sử Ký- Ân bản kỷ), Vu Hàm 巫咸 và con trai là Vu Hiền 巫賢 (xem Sử Ký - Ân bản kỷ), Cam Bàn 甘盤 (xem Thương Thư - Chu thư; Sử Ký - Yên thế gia).

Theo Lý Viễn Quốc [39] ngoài công việc chính yếu là bốc phệ, các vu hịch dần dần bị phân hoá trên nhiều lãnh vực khác nhau như thiên văn, y học, tôn giáo, chính trị, v.v. Một số vu hịch lại có nguyện vọng truy cầu sự khang kiện và trường thọ nên rất chú trọng đến y dược và luyện dưỡng. Những vu hịch này dần dần tách biệt với Vu giáo và hình thành một hệ thống độc lập và được gọi là phương sĩ. Phương pháp luyện dưỡng của họ được gọi là phương thuật, gọi như vậy để khu biệt với vu thuật của bọn vu hịch.

Nhưng đến đời Tống thì phương thuật hay pháp thuật mới được Bạch Ngọc Thiềm 白玉蟾 định nghĩa rõ ràng hai khái niệm pháp 法 và thuật 術:

«Phong phù vũ ấn, long binh hổ kỵ, tế sinh độ tử, thông chân đạt linh, thử sở vị pháp. Tốn phong hóa cáp, dụ nghĩ hô qui, phi kiếm trảm tinh, đầu giản náo long, thử sở vị thuật»

風 符 雨 印 ,龍 兵 虎 騎 , 濟 生 度 死 , 通 真 達 靈 , 此 所 謂 法 . 噀 蜂 化鴿 , 誘 蟻 呼 龜 , 飛 劍 斬 精 , 投 簡 撓 龍 此 所 謂 術

(Dán phù gọi gió bắt ấn gọi mưa, cỡi cọp dẫn binh rồng, cứu người sống độ người chết, giao tiếp với tiên và thần linh, những cái đó gọi là pháp. Phun nước vào con ong biến nó thành chim bồ câu, lấy con kiến hô biến thành con rùa, phóng kiếm chém yêu tinh, ném thẻ tre cản ngăn rồng, những thứ ấy gọi là thuật). Nói cách khác, theo Bạch Ngọc Thiềm, thuật (tức đạo thuật) chỉ những hành vi và thao tác cụ thể, còn pháp (tức đạo pháp) chỉ những phương pháp để giao tiếp với thần linh, nhưng người đời quen gọi chung là pháp thuật (hay phương thuật).

Thật sự phương thuật của Đạo giáo rất phong phú, chia làm hai loại chính: một loại gồm những cách tu luyện của các đạo sĩ như thủ nhất, huỳnh đình, nội thị, thổ nạp, đạo dẫn, tịch cốc, phòng trung, hoàng bạch, kim đan, phục thực, nội đan, v.v... loại kia gồm những hoạt động tế thế độ nhân của các đạo sĩ như phù, chú, linh đồ, hàng yêu, nhiếp quỉ, v.v. [40]

Cảm Ứng Thiên ủng hộ phương thuật, nhưng phản đối dùng phương thuật với ý đồ xấu:

«Mai cổ yểm nhân» 埋 蠱 厭 人 (Chôn bùa ếm người). Ngoài ra kinh cũng lưu giữ những giới luật của Đạo giáo: «Mạ thần xưng chánh. Chỉ thiên địa dĩ chứng bỉ hoài. Dẫn thần minh nhi giám ôi sự. Hối lạp ca vũ. Sóc đán hiệu nộ. Đối bắc thế thóa cập niệu. Đối táo ngâm vịnh cập khốc. Hựu dĩ táo hỏa thiêu hương. Uế sài tác thực. Dạ khởi lõa lộ. Bát tiết hành hình. Thóa lưu tinh chỉ hồng nghê. Triếp chỉ tam quang. Cửu thị nhật nguyệt. Xuân nguyệt liệu lạp. Đối bắc ác mạ. Vô cố sát qui đả xà.»

罵 神 稱 正 . 指 天 地 以 證 鄙 懷 . 引 神 明 而 鑑 猥 事. 晦 臘 歌 舞 , 朔 旦 號 怒 . 對 北 涕 唾 及 溺 ,對 灶 吟 詠 及 哭 . 又 以 灶 火 燒 香 , 穢 柴 作 食 , 夜 起 裸 露 , 八 節 行 刑 , 唾 流 星 指 紅 霓 , 輒 指 三 光 , 久 視 日 月 , 春 月 燎 臘 , 對 北 惡 罵 , 無 故 殺 龜 打 蛇.

(Chưởi rủa Thần Thánh, tự xưng mình ngay thẳng. Chỉ trời chỉ đất để làm chứng cho lòng dạ xấu xa của mình. Gọi thần minh chứng giám cho việc quấy. Ngày cuối tháng, cuối năm ca múa. Ngày đầu tháng đầu năm khóc la giận hờn. Day về hướng bắc khóc, hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện. Trước ông Táo ngâm vịnh, khóc lóc, hoặc đốt nhang trong bếp lò. Củi dơ nấu ăn. Đêm tối để cho thân thể loã lồ. Ngày bát tiết thi hành hình phạt. Khạc nhổ về phía sao băng. Tay chỉ cầu vồng. Thường chỉ trỏ nhật nguyệt tinh. Nhìn lâu mặt trời mặt trăng. Mùa xuân đốt rừng săn bắn. Day về hướng bắc chưởi rủa độc địa. Không có lý do mà đánh giết rắn rùa.) (Cảm Ứng Thiên, điều 6).

Những cấm kỵ như «Bát tiết hành hình 八 節 行 刑 (hành hình vào các ngày thuộc 8 tiết); sóc đán hiệu nộ 朔 旦 號 怒 ngày đầu tháng, đầu năm kêu gào giận khóc); đối bắc thế thóa cập niệu 對 北 涕 唾 及 溺 (day về hướng bắc hỉ mũi, khạc nhổ và tiểu tiện); triếp chỉ tam quang 輒 指 三 光 (chỉ trỏ nhật nguyệt tinh); cửu thị nhật nguyệt 久 視 日 月 (nhìn lâu mặt trời mặt trăng)» thì Tôn Tư Mạc 孫思邈 đời Đường cũng nói trong quyển Nhiếp Dưỡng Chẩm Trung Phương 攝養枕中方 khi đề cập những đại kỵ của người tu Tiên:

«Vật dĩ bát tiết nhật hành uy hình, vật dĩ hối sóc nhật nộ, vật hướng bắc đại tiểu tiện, ngưỡng thị tam quang»

勿 以 八 節 日 行 威 刑 , 勿 以 晦 朔 日 怒 , 勿 向 北 大 小 便 ,仰 視 三 光

(Không được hành hình vào những ngày thuộc 8 tiết, không giận dữ vào ngày cuối tháng và mồng một, không hướng về phía bắc mà đại tiện và tiểu tiện, không được ngước nhìn nhật nguyệt tinh.) [41]

* Cảm Ứng Thiên dạy người đời phải công bằng trong đời sống kinh tế xã hội: Trước tiên là không giữ của cải phi nghĩa, không được mưu cầu lợi lộc mà hại mạng người khác, không được vi phạm pháp luật mà hối lộ (Cưỡng thủ cưỡng cầu. Háo xâm háo đoạt. Lỗ lược trí phú. Khí pháp thụ lộ»
強 取 強 求 , 好 侵 好 奪 , 掳 掠 致 富.棄 法 取 賂).

Trong mua bán thì không được cân gian đo thiếu (Đoản xích hiệp độ. Khinh xứng tiểu thăng. Dĩ ngụy tạp chân. Thái thủ gian lợi

短 尺 狹 度 , 輕 秤 小 升, 以 偽 雜 真 ,採 取 姦 利 ).

Vay mượn thì phải hoàn trả sòng phẳng, cấm không được «mượn tài vật của ai rồi nguyện cho khổ chủ chết đi để quịt nợ» (Phụ tha hóa tài nguyện tha thân tử
負 他 財 貨 願 他 身 死) hay «trước mượn sau giật» (Giả tá bất hoàn 假 借 不 還).

Lý Lạc Cầu chép lời của Tịnh Ý Cư Sĩ 淨 意 居 士:

«Quan Cảm Ứng Thiên Linh Dị Ký, như ảnh tùy hình, nhi sở dĩ trí thử linh dị giả hữu tam: viết tụng, viết hành, viết truyền. Tam giả chi trung, lực hành tối vi trọng yếu, nhi đắc báo tắc dĩ ấn truyền vi tối thần tốc. Cái nhất nhân hành thiện, bất như nhân nhân hành thiện dã»
 觀 感 應 篇 靈 異 記 , 如 影 隨 形 , 而 所 以 致 此 靈 異 者 有 三 : 曰 誦 , 曰 行 , 曰 傳 . 三 者 之 中 ,力 行 最 為 重 要 , 而 得 報 則 以 印 傳 為 最 神 速 . 蓋 一 人 行 善 不 如 人 人 行 善 也
(Xem quyển Cảm Ứng Thiên Linh Dị Ký mới thấy những sự linh dị cũng như ảnh theo hình. Muốn đạt những sự linh dị thì có ba điều: tụng niệm, thi hành và truyền bá Cảm Ứng Thiên. Trong ba điều ấy, cố gắng thi hành là quan trọng hơn cả. Để được thiện báo thần tốc thì in ấn và truyền bá kinh. Một người hành thiện chẳng bằng người người hành thiện vậy).

 Như vậy, thiết nghĩ, hiểu nội dung Cảm Ứng Thiên rồi thì chúng ta cần phải «chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» 諸 惡 莫 作 眾 善 奉 行 (chớ làm mọi điều ác, hãy làm mọi điều thiện), thế mới quý.

************     

IV. BỐ CỤC CẢM ỨNG THIÊN

Các bản Cảm Ứng Thiên mà tôi dùng tham khảo có bố cục và phân đoạn khác nhau như:

(1) Cảm Ứng Thiên Trực Giảng 感應篇直講 của Hứa Chỉ Tịnh 許止淨 [42] không có phần khai kinh, mà giảng một mạch từ đầu đến hết kinh, không phân đoạn.

(2) Thái Thượng Cảm Ứng Thiên 太上感應篇 in trong Trung Hoa Đạo Học Thông Điển [43] cũng không phân đoạn và không có phần khai kinh. Bản này do Mã Chấn Á 馬振亞 chú dịch căn cứ vào Hán Học Sư Thừa Ký 漢學師承記 mà phân thành hai quyển:

+ Quyển thượng từ câu «Thái Thượng viết họa phúc vô môn duy nhân tự triệu» đến câu «Túng bạo sát thương» [thuộc điều 5 ở bản có phân điều / đoạn].

+ Quyển hạ từ câu «Vô cố tiễn tài» [thuộc điều 5 ở bản có phân điều/đoạn] cho đến câu chót «Hồ bất miễn hành chi».

Hai quyển thượng - hạ trên không phân điều / đoạn gì cả mà ngay sự phân quyển cũng không hợp lý vì làm gián đoạn mạch văn.

(3) Bản Thái Thượng Cảm Ứng Thiên trong Tiên Học Diệu Tuyển 仙學妙選 của Lý Lạc Cầu 李樂俅 [44] không có phần khai kinh và chia làm 10 chương [khác với bản (4) và (5) sau đây] là:

Chương 1- Minh Nghĩa 明義 [«Thái Thượng viết họa phúc vô môn... như ảnh tùy hình»].

Chương 2 - Thị Cảnh 示警 [«Sở dĩ thiên địa hữu tư quá chi thần ...toán tận tắc tử »].

Chương 3 - Giám Sát 鑑察 [« Hựu hữu tam thai ... dục cầu trường sinh giả tiên tu tị chi»].

Chương 4 - Tích Thiện 積善 [«Thị đạo tắc tiến ... dữ nhân bất tri hối»].

Chương 5- Thiện báo 善報 [«Sở vị thiện nhân ... đương lập tam bách thiện»].

Chương 6 - Chư Ác 諸惡 [«Cẩu hoặc ... Vô cố sát qui đả xà»].

Chương 7 - Ác Báo 惡報 [«Như thị đẳng tội ...tử diệc cập chi»].

Chương 8 - Chỉ Vi 指微 [«Phù tâm khởi ư thiện ... nhi hung thần dĩ tùy chi»].

Chương 9 - Hối Quá 悔過 [«Kỳ hữu tằng hành ác sự ... Sở vị chuyển họa vi phúc dã »].

Chương 10 - Lực Hành 力行 [«Cố cát nhân ngứ thiện ... Hồ bất miễn hành chi ?»].


(4) Bản Cảm Ứng Thiên trong quyển Kinh Cúng Tứ Thời in tại Saigon 1963 của phái Cao Đài Chiếu Minh (tức Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh) gồm có phần khai kinh và phần kinh tụng chia ra làm 10 điều. Toàn kinh chỉ có phần dịch nghĩa tiếng Việt.

Sự phân chia thành 10 điều này phù hợp với một bản Cảm Ứng Thiên khác [photocopy] theo dạng ấn tống, không ghi tên dịch giả. Chỉ có chữ Hán, phiên âm Hán Việt và dịch nghĩa với nhiều lỗi ấn loát ở phần chữ Hán. Cách phiên âm Hán Việt cũng chưa chính xác lắm. Phong cách tiếng Việt của bản dịch kèm chữ Hán này khá xưa, khoảng 40 - 50 năm về trước. Sự phân điều / đoạn hai bản này giống nhau ở chỗ dứt xong một điều rồi mới đưa ra tiêu đề và gọi thứ tự của điều.

Thí dụ: Hết điều «Đức Thái Thượng nói rằng: Đều [điều] họa phước không tìm đến, chỉ tại mình vời đến, đều [điều] lành dữ báo ứng như bóng nọ theo hình» thì ghi «I. Giải nghĩa thứ nhứt». Cách đánh dấu này chứng tỏ bản dịch rất xưa, còn giữ y theo cách đánh dấu phân chương của cổ tịch Trung Quốc. Cổ tịch Trung Quốc thường ghi từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, rồi ghi «Hữu đệ nhất chương» 右第一章 [phần bên phải là hết chương một], ghi theo tiếng Việt là «phần bên trên đây là hết chương một».

(5) Bản Cảm Ứng Thiên do Đức Văn Xương Đế Quân giáng bút diễn nghĩa ra thơ lục bát[45] không ghi chú thời gian và địa điểm Đức Văn Xương Đế Quân giáng bút, nhưng gồm có phần khai kinh và phần kinh tụng y như bản Cảm Ứng Thiên của phái Chiếu Minh.

Tuy nhiên, tựa đề mỗi điều là một câu thơ đặt trước mỗi điều. Bản khác nhau của hai bản là ở điều 8. Bản phái Chiếu Minh ghi «Ấy là điều 8» ứng với bản chữ Hán photocopy «Chỉ vi đệ bát 只為第八» thì bản Tân Định ghi là «Là điều thứ tám sửa mình thiện lương».

(Bản kinh mà Lý Lạc Cầu tuyển thì viết là «Chỉ Vi chương đệ bát» 指微章第八 [chỉ rõ điều tế vi], tôi thấy chữ chỉ vi 指微 này hợp lý hơn). Bản phái Chiếu Minh và bản Tân Định còn giống nhau ở chỗ: trước khi tụng kinh phải niệm danh tám vị Tiên Phật.

Bản do Lý Lạc Cầu tuyển có sự phân chia bố cục khác với hai bản của Cao Đài. Điều 2 ở hai bản Cao Đài thì bị ngắt ra ở cuối câu «Toán tận tắc tử» trở thành chương 2 [Thị Cảnh] và chương 3 [Giám Sát] ở bản Lý Lạc Cầu tuyển. Còn điều 5 [Chư Ác, thượng] và điều 6 [Chư Ác, hạ] ở hai bản Cao Đài được nhập thành chương 6 [Chư Ác] ở bản Lý Lạc Cầu tuyển. Điều này cũng hữu lý.

Nhưng tôi theo sự phân điều / đoạn / chương của hai bản kinh của phái Chiếu Minh và Thánh Thất Tân Định. Toàn bộ kinh văn đã gọi là thiên 篇 thì nên chia nhỏ thành tiết 節 hay đoạn 段, hoặc chương 章 (như bản Lý Lạc Cầu tuyển) nhưng để phù hợp hai bản kinh trên, tôi cũng gọi là điều.

Như vậy bố cục Cảm Ứng Thiên (Cảm Ứng Thiên) như sau: Mở đầu là phần khai kinh do Đức Thái Cực Chân Nhân giảng. Sau đó là phần kinh tụng chia làm 10 điều:

+ Điều 1 - Minh Nghĩa. Thuyết minh tổng quát về họa phúc, thiện ác và nhân quả báo ứng. Đây là tông chỉ của Cảm Ứng Thiên, bao gồm 16 chữ « Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình». Chín điều còn lại là khai triển điều một.

+ Điều 2 - Giám Sát. Thuyết minh sự giám sát nghiêm nhặt của thần minh đối với từng hành vi, ngôn ngữ, và tâm ý mỗi người. Từ đó nhấn mạnh rằng con người cần tránh xa tội lỗi.

+ Điều 3 - Tích Thiện. Thuyết minh rằng con người cần tích lũy điều thiện. Điều thiện cần xem xét và thi hành bao quát 3 mặt thân, khẩu, ý.

+ Điều 4 - Thiện Báo. Thuyết minh sự báo ứng tốt đẹp xuất phát từ sự tích thiện.

+ Điều 5 và 6 - Chư Ác. Liệt kê những điều ác mà con người thường gây ra. Đây là cái nhân xấu, dẫn đến cái quả xấu (ác báo) được giải thích ở điều 7.

+ Điều 7 - Ác Báo. Giải thích những quả báo xấu do những điều ác mà con người gây ra [nói ở điều 5 và 6].

+ Điều 8 - Chỉ Vi. Chỉ ra cho thấy sự tế vi, nhấn mạnh sự linh ứng cấp thời: Ngay khi con người khởi tâm (thiện hoặc ác) thì cát thần hoặc hung thần đã chực sẵn để ra tay.

+ Điều 9 - Hối Quá. Nhấn mạnh sự ăn năn sám hối tội lỗi đã qua và phòng ngừa cho khỏi làm ác về sau. Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành (không làm mọi điều ác, phải phụng hành mọi điều thiện). Được vậy thì lâu ngày sẽ trở nên tốt đẹp (cát khánh), đó là phép chuyển đổi họa thành phúc.

+ Điều 10 - Luật Định. Những luật định ra về việc hành thiện và hành ác. Đức Thái Thượng dạy rằng nếu chúng ta đã biết luật định như vậy thì phải cố gắng làm lành lánh dữ.

************     

V. VAI TRÒ CỦA CẢM ỨNG THIÊN TRONG VIỆC TU NỘI ĐAN (TU ĐƠN)

Cảm Ứng Thiên (Cảm Ứng Thiên) được Phật gia và Đạo gia coi trọng.
Trong Cảm Ứng Thiên Trực Giảng của Hứa Chỉ Tịnh do Thượng Hải Phật Học Thư Cục ấn hành, chúng ta đọc được bài tựa của Ngài Ấn Quang Pháp Sư 印光法師 viết vào năm Mậu Thìn 戊辰 nhằm năm Dân Quốc 17 (1928). Ngài hết sức ca tụng Cảm Ứng Thiên và cổ vũ việc ấn tống phổ biến rộng khắp, đăng đàn thuyết giảng kinh này, coi đó là một công đức vô lượng.

Cảm Ứng Thiên được đưa vào Đạo Tạng, đó là bằng chứng sự trọng thị của Đạo gia đối với kinh này. Nhưng toàn bộ Cảm Ứng Thiên chẳng nói chi đến phép luyện đan (tức là tu đan hay "tu đơn" theo cách nói của tín đồ Cao Đài) vậy thì tại sao kinh này được gọi là rất hệ trọng với người tu đan?

Một giai đoạn trong phép tu đan là trúc cơ 筑基 (đắp nền) mà căn bản của trúc cơ là luyện kỷ 煉己 tức là rèn luyện bản thân, hàng phục phàm tâm, tu dưỡng chân tâm, giữ gìn tam bảo [tinh - khí - thần].

 Người tu hằng ngày tụng Cảm Ứng Thiên để nhớ lý Thiên nhân tương cảm mà hàng phục vọng tâm nhờ đó tâm hồn trong sạch, linh tánh sáng suốt.

Nhưng kỷ 己 là gì? Đời Thanh, Liễu Hoa Dương Chân Nhân 柳華陽真人 giải thích chữ kỷ 己 trong quyển Kim Tiên Chứng Luận 金仙證論 như sau:

«Kỷ tức ngã tâm trung chi niệm nhĩ»

己 即 我 心 中 之 念 耳

(Kỷ tức là niệm trong tâm ta).

Niệm ở đây là vọng niệm hay tạp niệm phát sinh từ tam độc [tham- sân- si]. Vọng niệm quấy nhiễu sự thanh tĩnh của người tu, phá hoại tam bảo, kết quả là tinh hao tổn, khí bất túc, và thần không vượng.

Vậy Cảm Ứng Thiên giúp người tu đan luyện kỷ, giữ gìn linh tánh, bảo tồn nguyên tinh, tức là cơ sở của tam hoa tụ đỉnh 三華聚頂.


VI. KHẢO SÁT NGÔN NGỮ TRONG CẢM ỨNG THIÊN


Trung Hoa Đạo Học Thông Điển nhận xét về ngôn ngữ của Cảm Ứng Thiên qua 20 chữ như sau:

 «Từ lý chất phác thâm áo, khái quát la liệt thiện ác ảnh hưởng khả vị vi hiển xiển u.»

 詞 理 質 樸 深 奧 概 括 羅 列 善 惡 影 響 可 謂 微 顯 闡 幽

(Từ ngữ và lý lẽ chất phác, thâm áo, khái quát vô số thiện báo và ác báo, có thể gọi là làm rõ được sự tế vi và sâu kín).

Dù theo giả thiết Cảm Ứng Thiên có từ đời Tấn [cách nay trên 1500 năm] hoặc cho rằng Kinh này bắt đầu từ đời Nam Tống [cách nay khoảng 700 năm] thì ta thấy ngôn ngữ của Cảm Ứng Thiên thuộc về Hán Ngữ cổ đại.

Về phương diện từ nghĩa 詞義 có những từ mà ý nghĩa hiểu khác với ngày nay, như hữu 友 ngày nay hiểu là bạn bè, nhưng nghĩa cổ là tình anh đối với em (huynh đối đệ thân ái 兄對弟親愛 [trong câu trung hiếu hữu đễ, điều 3- Tích Thiện]. Ngày nay còn hiểu hữu là tốt đẹp với nhau, thân ái với nhau (tương hảo, hỗ tương thân ái 相好, 互相親愛). Sự dời chuyển từ nghĩa theo thời gian (shift of meaning) là hiện tượng bình thường trong các ngôn ngữ. Một chữ khác là chữ lạp 臘 [trong câu hối lạp ca vũ, điều 6- Chư Ác] thì gần với nghĩa ngày nay là tháng chạp, đôi khi cũng nói là lạp nguyệt 臘月. Thí dụ nói lạp bát 臘八 tức là mồng tám tháng chạp âm lịch, là ngày người Trung Quốc nấu cháo [gồm ngũ cốc và các mứt quả khô] để cúng tế tổ tiên và thần linh.[46]

Nhưng thời Tiên Tần, lạp là ngày tế lễ bách thần vào tháng mười âm lịch, đến Tần Thủy Hoàng thì bị dời vào tháng chạp. Trong thiên Ngũ Đố 五蠹 của Hàn Phi Tử 韓非子có câu:

 «Phù sơn cư nhi cốc cấp giả lâu lạp nhi tương di dĩ thủy»

 夫 山 居 而 谷 汲 者 臘 而 相 遺 以 水

 (Cư dân nơi sơn cốc lấy nước ở đó để dùng thì những ngày lễ lâu và lạp lấy nước để tặng nhau).

 Lâu là ngày tế lễ thần ẩm thực tại nước Sở vào tháng Hai âm lịch, Lạp ở đây chỉ có nghĩa là ngày tế lễ bách thần vào tháng 10 âm lịch.[47] Chữ hoặc 或 trong Hán ngữ hiện đại thường mang ý có lẽ/ hoặc là, nhưng trong cổ văn nó còn là một vô định đại từ, dịch là «có người» tương đương cụm từ 有的人 trong Hán ngữ hiện đại.

Thí dụ, Tư Mã Thiên viết Báo Nhiệm An Thư 報任安書 có câu: «Nhân cố hữu nhất tử, hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao» 人 固 有 一 死 或 重 於 泰 山 或 輕 於 鴻 毛 (Người ta ai cũng có một lần chết, có người xem nó nặng như Thái Sơn, có người xem nó nhẹ như lông hồng).[48]

Điều 5 trong Cảm Ứng Thiên mở đầu bằng chữ Cẩu hoặc 苟或, phải dịch là «Nếu như có người mà...». Ở Điều 2 có câu: «Đoạt kỳ kỷ toán» 奪其紀算 và: «Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt toán» 凡 人 有 過 大 則 奪 紀 小 則 奪 算.

Kỷ và toán là hai khái niệm cổ mà Hán ngữ hiện đại đã loại bỏ ý nghĩa này: Kỷ là 12 năm và toán là 100 ngày. Các tự/từ điển như Khang Hi, Từ Hải, Học Sinh Cổ Hán Ngữ Từ Điển, Cổ Hán Ngữ Thường Dụng Tự Tự Điển đều giải thích Kỷ 紀 là đơn vị thời gian bằng 12 năm.

Nhưng Toán thì không còn xem là một đơn vị thời gian nữa. Tuy nhiên Cát Hồng Bão Phác Tử Nội Thiên đã định nghĩa Kỷ là 300 ngày và Toán là 3 ngày (Kỷ giả tam bách nhật dã 紀 者 三 百 日 也.Toán giả tam nhật dã 算 者 三 日 也).

Kỷ toán dùng chung với nhau hiểu là tuổi thọ. Hai câu trên phải dịch là «bị giảm tuổi thọ» và «Hễ người nào có lỗi thì mỗi lỗi lớn bị trừ 12 năm, mỗi lỗi nhỏ bị trừ 100 ngày».

Trong tiếng Việt ngày nay, nhiều người thích dùng từ thập kỷ với ý là 10 năm [thí dụ: thập kỷ 90, lẽ ra phải nói là thập niên 90]. Nói thập kỷ như vậy là sai vì thập kỷ sẽ có nghĩa là 120 năm.

Về phương diện ngữ pháp, phần lớn câu văn được viết ngắn gọn, ẩn chủ ngữ. Cảm Ứng Thiên dùng rất ít hư tự 虛字 tức là chữ có chức năng ngữ pháp (function words), đây là điều đặc biệt hiếm thấy trong cổ văn. Hư tự được dùng trong kinh này thường là: Thị dĩ 是以, chi 之, tắc 則, hựu 又, kỳ 其, giả 者, dã 也, ư 於, nhược 若, cẩu 苟, tất 必, phù 夫, sở 所, sở dĩ 所以, hồ 胡...

Về biện pháp tu từ, Cảm Ứng Thiên thường dùng phép tịnh đề 并提 mà ta hay gọi là cài răng lược (có thể xem là tiểu đối 小對). Phép tu từ này cũng thường thấy trong tiếng Việt, như ta nói trăm cay ngàn đắng, gió thảm mưa sầu, cười đau khóc hận... Cảm Ứng Thiên có những cách nói như vậy, thí dụ: căng cô tuất quả, biếm chính bài hiền, lăng cô bức quả, thương thai phá noãn...

Một phép tu từ khác là tỉ dụ 比喻 chỉ dùng một lần nơi điều 7: «Hựu uổng sát nhân giả, thị dịch đao binh nhi tương sát dã. Thủ phi nghĩa chi tài, thí như lậu phụ cứu cơ, trấm tửu chỉ khát. Phi bất tạm bão, tử diệc cập chi.» 又 枉 殺 人 者 , 是 易 刀 兵 而 相 殺 也 . 取 非 義 之 財 者 , 譬 如 漏 脯 救 饑 , 鴆 酒 止 渴 , 非 不 暫 飽 死 亦 及 之 (Lại có kẻ giết oan người khác [sau này cũng bị giết lại] giống như đổi đao gươm mà giết nhau. Giữ của cải phi nghĩa [để làm giàu] cũng giống như dùng thịt độc rượu độc để đỡ đói khát, nhưng chẳng tạm no lòng mà khiến cái chết xảy đến cho mình).

Nói chung, ngôn ngữ của Cảm Ứng Thiên giản dị chất phác, không dùng điển cố văn học gì, không dùng những phép tu từ cầu kỳ trong văn bản hơn 1200 chữ Hán.[49] Ta thấy tác giả của quyển kinh khuyến thiện này không nhắm vào việc sáng tác văn chương, mà chỉ muốn dùng những lời lẽ giản phác để bất cứ ai cũng hiểu được, nhằm xiển dương lẽ Thiên nhân tương cảm và nhân quả báo ứng. Có lẽ đó cũng là một trong những lý do khiến cho kinh phổ biến khắp mọi giai tầng trong xã hội.

VII. BÃO PHÁC TỬ NỘI THIÊN VÀ CẢM ỨNG THIÊN

Bão Phác Tử Nội Thiên 抱朴子內篇 gồm 20 quyển là tác phẩm tôn giáo, triết học và khoa học kỹ thuật do Cát Hồng 葛洪 [283-363] đời Tấn trứ tác. Đây là một tác phẩm bất hủ của Trung Quốc có giá trị độc đáo trên lĩnh vực Đạo giáo sử, hoá học sử và y học sử mà bất cứ ai nghiên cứu về Đạo giáo Trung Quốc đều phải tìm đọc.

Giá trị của tác phẩm này bao gồm hai điểm:

(1) Giá trị sử liệu Đạo giáo và

(2) giá trị sử liệu của khoa học kỹ thuật Trung Quốc cổ đại.

Cát Hồng tự là Trĩ Xuyên 稚川, hiệu là Bão Phác Tử 抱朴子 (đời gọi là Tiểu Tiên Ông 小仙翁), quê ở Đan Dương 丹陽, Cú Dung 句容 (nay thuộc Giang Tô 江蘇), xuất thân là sĩ tộc thế gia, là hào tộc ở Giang Nam 江南.

Ông tổ là Cát Phổ Lư 葛浦廬, làm Phiêu kỵ đại tướng quân 驃騎大將軍. Tổ phụ là Cát Hệ, làm Tam Quốc Ngô nhậm lại bộ thị lang 三國吳任吏部侍郎 và Ngự sử trung thừa 御史中丞. Cha ông là Cát Đễ Tiên 葛悌先, làm Ngô nhậm ngũ quan lang 吳任官郎.

Thuở nhỏ Cát Hồng lập chí làm văn nho để chấn hưng Nho giáo. Ông nhậm chức Tư Nghị Tham Quân 諮議參軍 nhưng vì thời thế ông từ quan ở ẩn, bỏ Nho theo Đạo, chuyên cần luyện đan ở La Phù Sơn 羅浮山, Quảng Châu 廣州. Đó là năm Quang Hi 光熙 nguyên niên (tức năm 306) đời Tây Tấn.

Từ luyện đan, ông tìm cầu thuật trường sanh bất tử, hết sức đề xướng thần tiên Đạo giáo. Bão Phác Tử Nội Thiên được ông viết trong thời kỳ ở La Phù Sơn đến năm Kiến Vũ 建武 nguyên niên (tức năm 317) đời Đông Tấn thì xong. Cát Hồng học đạo nơi Trịnh Tư Viễn 鄭思遠 tức là Trịnh Ẩn 鄭隱) mà không học nơi Cát Huyền 葛玄 (Cát Huyền là chú của Cát Hồng, vốn là sư phụ của Trịnh Tư Viễn).


* Hệ thống truyền thừa đan đạo này như sau:

(1) Tả Từ 左慈 (Tả Nguyên Phóng 左元放) truyền đạo (các bộ kinh: Bạch Hổ Thất Biến Kinh 白虎七變經, Thái Thanh Kim Dịch Thần Đan Kinh 太上金液神丹經, Tam Nguyên Chân Nhất Diệu Kinh 三元真一妙經, Hoàng Đế Cửu Đỉnh Thần Đan Kinh 皇帝九鼎神丹經, ...) cho Cát Huyền 葛玄 (tự Hiếu Tiên 孝先, đời gọi là Cát Tiên Ông 葛仙翁).

(2) Cát Huyền truyền đạo (bộ kinh và phù lục gọi là Động Thần Kinh 洞神經, gồm Chính Nhất Pháp Văn 正一法文, Tam Tinh Nội Văn 三星內文, Ngũ Nhạc Chân Hình Đồ 五岳真形圖, Động Huyền Ngũ Phù 洞玄五符, ...) cho Trịnh Tư Viễn 鄭思遠 (tức Trịnh Ẩn 鄭隱).

(3) Trịnh Tư Viễn truyền đạo cho Cát Hồng 葛洪.

Cát Hồng kế thừa và sửa đổi lý luận về thần tiên thuở ban đầu của Đạo giáo.

Ông không những tổng kết toàn bộ những lý luận về thần tiên từ đời Tấn về trước mà còn tổng kết các phép tu luyện như thần tiên phương thuật (bao quát thủ nhất, hành khí, đạo dẫn, phòng trung thuật, v.v) trước đời Tấn.

Đồng thời ông cũng nhấn mạnh sự kết hơp thần tiên phương thuật với hệ thống đạo đức của Nho giáo: «Kẻ mong thành thần tiên, phải lấy trung, hiếu, hoà, thuận, nhân, tín làm gốc.

Nếu ai không tu sửa đức hạnh mà vụ cầu phương thuật thì đều không được trường sinh.Hoàng Đế và Lão Tử], thuyết âm dương ngũ hành, và thuyết thiên nhân cảm ứng.


Hạt tâm trong lý luận của Cát Hồng là Huyền 玄, còn mục tiêu của ông là Thần 神, Tiên 仙, và Trường sinh 長生, và con đường tu luyện là thể Đạo đắc tiên 體道得仙 bao quát 4 điểm cụ thể sau đây:

(1) Lý luận về thần tiên:

Trong quyển 1 (Sướng Huyền 暢玄) của bộ Bão Phác Tử Nội Thiên, Cát Hồng trình bày vũ trụ quan rằng: bản thể vũ trụ là Huyền (tương đương khái niệm Đạo hay Nhất).

Ông nói: «Huyền giả, tự nhiên chi thủy tổ, nhi vạn thù chi đại tông dã» 玄 者 自 然 之 始 祖 而 萬 殊 之 大 宗 也 (Huyền là thủy tổ của cõi tự nhiên, là cái gốc lớn của vạn vật sai biệt). Huyền sản sinh ra thiên địa và vạn vật. Huyền là cơ sở lý luận của Cát Hồng về phương thuật và thần tiên luận.

Trong 5 quyển Luận Tiên 論仙, Đối Tục 對俗, Chí Lý 至理, Tắc Nan 塞難, và Biện vấn 辦問, ông khẳng định thần tiên là có thật và con người có thể học hỏi để thành thần tiên.

Thần tiên, theo ông nghĩ, là những người

«lấy thuốc để dưỡng sinh, lấy thuật số để kéo dài mạng sống, làm cho trong thân không sinh bệnh tật, làm cho hoạn nạn bên ngoài không xâm nhập vào mình»
(Dĩ dược vật dưỡng sinh, dĩ thuật số diên mệnh, sử nội tật bất sinh, ngoại hoạn bất nhập)
以 藥 物 養 生, 以 術 數 延 命 ,使 內 疾 不 生, 外 患 不 入,

nhờ thế sẽ trường sinh cửu thị (tức là trường sinh bất tử). Con người sở dĩ chẳng gặp tiên vì tiên tục đôi đường thanh trọc khác nhau, nếu ai không đắc đạo thì chẳng bao giờ gặp tiên.

Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế xưa kia cầu thành tiên mà không được vì chẳng chịu tu. Muốn thành tiên thì phải:

(a) chí thành tin tưởng là có tiên,

(b) tìm minh sư và đêm ngày chuyên cần tu luyện,

(c) điềm tĩnh vô dục,

(d) tích thiện, lập công quả, lòng từ bi
 trải rộng khắp chúng sinh. Lập được 300 việc thiện thì thành địa tiên, 1200 việc thiện thì thành thiên tiên.

Ông còn nhấn mạnh:

«Dục cầu tiên giả, đương dĩ trung hiếu hòa thuận nhân tín vi bản. Nhược đức hạnh bất tu, nhi đản vụ phương thuật, giai bất đắc trường sinh dã»
欲 求 仙 者 , 當 以 忠 孝 和 順 仁 信 為 本 . 若 德 行 不 修 , 而 但 務 方 術 ,皆 不 得 長 生 也
(Kẻ mong thành tiên phải lấy trung, hiếu, hòa thuận, nhân ái, tín thành làm gốc. Nếu không tu dưỡng đức hạnh mà vụ cầu những phương thuật thì không thể sống lâu được).

(2) Tiên đạo phương thuật:

Các quyển Kim Đan 金丹, Hoàng Bạch 黃白, Tiên Dược 仙藥, Vi Chỉ 微旨, Tạp Ứng 雜應, ThíchTrệ 釋滯 và Thủ Chân 守真 của Bão Phác Tử Nội Thiên luận về phương thuật của tiên gia mà ba điều quan trọng là hành khí, phòng trung, và phục tiên dược.

Phục thực kim đan (tiên dược) là mấu chốt của đạo trường sinh bất tử. Ông nói:
«Trường sinh chi đạo bất tại tế lễ sự quỉ thần dã, bất tại đạo dẫn dữ khuất thân dã, thăng tiên chi yếu, tại thần đan dã»
長 生 之 道 不 在 祭 禮 事 鬼 神 也 , 不 在 導 引 與 屈 伸 也 , 升 仙 之 要 ,在 神 丹 也
(Đạo trường sinh chẳng phải ở chỗ thờ cúng quỉ thần, cũng chẳng phải ở phép đạo dẫn vận động co duỗi, mà điều quan trọng để phi thăng thành tiên là thần đan vậy).

(3) Đạo giáo pháp thuật:

Bão Phác Tử Nội Thiên ghi chép những pháp thuật lưu hành vào đời Ngụy Tấn như các phép tàng hình, ẩn thân biến hóa thành những chủng loại động vật khác nhau, phép địa hành một ngày đi ngàn dặm, v.v. trong các quyển Tạp Ứng 雜應, Chí Lý 至理, Đăng Thiệp 登涉 , và Địa Chân 地真.

(4) Kỹ thuật Trung Quốc cổ đại:

Các quyển Kim Đan và Hoàng Bạch ghi chép cụ thể về phép luyện kim, coi như là thành tựu của phép luyện đan trước thời Ngụy Tấn mà Joseph Needham gọi là một thứ giả khoa học (pseudo-science), [52] là mở đường cho ngành hóa học Trung Quốc.

Trên đây là giới thiệu sơ lược về Cát Hồng và tác phẩm rất danh tiếng của ông: Bão Phác Tử Nội Thiên.

Sau đây chúng ta đối chiếu một phần của quyển 6 [Vi Chỉ] trong Nội Thiên [53] với điều 2 của Cảm Ứng Thiên.

 Bão Phác Tử- quyển 6: Vi Chỉ

天 地 有 司 過 之 神, 隨 人 所 犯 輕 重 , 以 奪 其 算 , 算 減 則 人 貧 耗 疾 病 , 屢 逢 憂 患 , 算 盡 則 人 死 , 諸 應 奪 算 者 有 數 百 事, 不 可具 論 . 又 言 身 中 有 三 尸 , 三 尸 之 為 物 雖 無 形 而 實 魂 靈 鬼 神 之 屬 也 . 欲 使 人 早 死 , 此 尸 當 得 作 鬼, 自 放 縱 游 行 , 享 人 祭 酹 . 是 以 每 到 庚 申 之 日, 輒 上 天 白 司 命 , 道 人 所 為 過 失 . 又 月 晦 之 夜 , 灶 神 亦 上 天 白 人 罪 狀 , 大 者 奪 紀 , 紀 者 , 三 百 日 也 . 小 者 奪 算 .算 者, 三 日 也 .

Thiên địa hữu Tư Quá chi thần, tùy nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt kỳ toán, toán giảm tắc nhân bần hao tật bệnh, lũ phùng ưu hoạn, toán tận tắc nhân tử, chư ưng đoạt toán giả hữu sổ bách sự, bất khả cụ luận. Hựu ngôn thân trung hữu Tam Thi, Tam Thi chi vi vật, tuy vô hình nhi thực hồn linh quỉ thần chi thuộc dã. Dục sử nhân tảo tử, thử thi đương đắc tác quỉ, tự phóng túng du hành, hưởng nhân tế loại. Thị dĩ mỗi đáo canh thân chi nhật, triếp thướng thiên bạch Tư Mệnh, đạo nhân sở vi quá thất. Hựu nguyệt hối chi dạ, Táo thần diệc thướng thiên bạch nhân tội trạng. Đại giả đoạt kỷ. Kỷ giả, tam bách nhật dã. Tiểu giả đoạt toán. Toán giả, tam nhật dã.


(Trời đất có thần Tư Quá, tùy theo tội nặng hay nhẹ của con người mà bớt tuổi của họ; tuổi giảm thì nghèo, tốn hao, và tật bệnh, thường gặp lo rầu;tuổi hết thì chết; những sự việc cần phải bớt tuổi có đến vài trăm việc, nên không thể kể ra hết ở đây. Lại nói trong thân thể có Tam Thi. Tam Thi là vật, tuy vô hình nhưng thuộc loại hồn linh quỉ thần; chúng muốn cho con người mau chết sớm để chúng thành quỉ thoát khỏi xác con người mà phóng túng du hành, hưởng thụ vật cúng tế của người. Cho nên mỗi khi đến ngày canh thân, chúng bay lên trời báo cáo với thần Tư Mệnh về tội lỗi của con người. Lại nữa, mỗi đêm cuối tháng âm lịch, Táo thần cũng bay lên trời báo cáo tội trạng của con người. Tội lớn thì bớt kỷ. Kỷ là 300 ngày. Tội nhỏ bớt toán. Toán là 3 ngày).

 Cảm Ứng Thiên: điều 2

天 地 有 司 過 之 神 , 依 人 所 犯 輕 重 , 以 奪 人 算 . 算 減 則 人 貧 耗 多 逢 憂 患 , 人 皆 惡 之 , 刑 禍 隨 之 , 吉 慶 避 之 , 惡 星 災 之 , 算 盡 則 死 . [...] 又有 三 尸 神 在 人 身 中 , 每 到 庚 申 之 日, 輒 上 詣 天 曹 ,言 人 罪 過 , 月 晦 之 日 , 灶 神 亦 然 . 凡 人 有 過 , 大 則 奪 紀 , 小 則 奪 算 .

Thiên địa hữu Tư Quá chi thần, y nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt nhân toán. Toán giảm tắc nhân bần hao đa phùng ưu hoạn, nhân giai ố chi, hình họa tùy chi, cát khánh tị chi, ác tinh tai chi, toán tận tắc tử.[...] Hựu hữu Tam Thi thần tại nhân thân trung, mỗi đáo canh thân chi nhật, triếp thướng nghệ thiên tào, ngôn nhân tội quá, nguyệt hối chi nhật, táo thần diệc nhiên.Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt toán.

(Trời đất có thần Tư Quá,tùy theo tội nặng hay nhẹ của người mà bớt tuổi của họ.Tuổi giảm ắt người bị nghèo, hao tốn, và gặp nhiều lo rầu, người đời ghét bỏ, tai họa đi theo, không được vui mừng may mắn, ác tinh gieo họa, tuổi hết thì chết.[...] Lại có thần Tam Thi trong thân thể con người, mỗi khi đến ngày Canh Thân thì bay thẳng đến Thiên tào báo cáo tội lỗi của con người; ngày cuối tháng âm lịch, ông Táo cũng thi hành y như vậy. Người hễ có lỗi, lỗi lớn thì bớt bị kỷ, lỗi nhỏ thì bị bớt toán).

Qua sự so sánh trên đây, chúng ta thấy nhiều câu văn gần như y hệt nhau. Điều đó chứng minh rằng nếu Cảm Ứng Thiên xuất hiện sau Bão Phác Tử Nội Thiên (cứ cho là khoảng đời Tống) thì tác giả của Cảm Ứng Thiên không thể nào là Đức Thái Thượng Lão Quân được vì lẽ nào bậc thần tiên lại sao chép văn chương thế nhân.

Trở lại với giả thiết của Lý Cương, ta thấy họ Lý suy luận có phần hợp lý: Một đạo sĩ ẩn danh vào cuối đời Tống đã dựa trên những tác phẩm như Thái Bình Kinh của đời Đông Hán và Bão Phác Tử Nội Thiên thời Ngụy Tấn đồng thời vận dụng tư tưởng và luân lý tam giáo dung hợp với những qui ước đạo đức phổ quát mà sáng tác ra Cảm Ứng Thiên. Để tăng trọng lượng của tác phẩm, đạo sĩ đã mượn danh Thái Thượng Lão Quân là tác giả.


TẠM KẾT

Bài viết này góp phần tìm hiểu Cảm Ứng Thiên của Đạo giáo Trung Quốc, tức là Kinh Cảm Ứng .
 Tuy còn có những vấn đề mà cho đến nay người ta không thể nào xác quyết được (như vấn đề tác giả và thời gian hình thành tác phẩm), nhưng tác phẩm khuyến thiện tối cổ này vẫn có giá trị nhất định và là một trong những nhân tố rèn luyện đạo đức cho con người Đông phương.

Sách khuyến thiện (thiện thư) có ba vấn đề:
(1) ấn tống phổ biến,
(2) đọc hiểu nội dung, và
(3) thi hành (tức hành thiện).

Trong đó, hành thiện là quan trọng nhất, như Cảm Ứng Thiên đã khẳng định: «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» 諸 惡 莫 作 眾 善 奉 行 (chớ làm mọi điều ác, hãy làm mọi điều thiện).

LÊ ANH MINH 


************     


CHÚ THÍCH


[1] Người Việt ở miền Nam Việt Nam – nhất là tín đồ Cao Đài – dùng từ «phò loan».

[2] Cát Nguyên Chiêu Trị 吉元昭治, Đạo Giáo Dữ Bất Lão Trường Thọ Y Học 道教與不老長壽醫學 (nguyên tựa: 道教と不老長壽の醫學), bản dịch Hán văn của Dương Vũ 楊宇, Thành Đô xuất bản xã (=xbx), 1992, tr. 81.

[3] Phần phiên âm và dịch chú kinh văn Cảm Ứng Thiên cũng như phần khảo dịch và chú thích Âm Chất Văn và Công Quá Cách được trình bày trong quyển Thiện Thư trong thư tịch Đạo giáo của Lê Anh Minh.

[4] Nguyên văn: khắp phố phường ngõ hẻm trong thiên hạ chẳng nơi nào mà kinh không truyền bá đến (phổ thiên hạ nhai cù lý hạng, vô bất truyền bố).

[5] Ngô Phong 吳楓 chủ biên, Trung Hoa Đạo Học Thông Điển 中華道學通典, Nam Hải Xuất Bản Công Ty, Trung Quốc, 1994, tr. 785.

[6] Khanh Hy Thái 卿希泰 chủ biên, Trung Quốc Đạo Giáo 中國道教, Đông Phương xbx Trung Tâm, Thượng Hải, 1996, quyển 2, tr. 124.

[7] Cát Nguyên Chiêu Trị, sđd., tr. 80.

[8] Lý Cương 李剛, Đạo Giáo Sinh Mệnh Lý Luận 道教生命理論, Tứ Xuyên Nhân Dân xbx, 1994, tr. 133.

[9] Chu Việt Lợi 朱越利, Đạo Kinh Tổng Luận 道經總論, Liêu Ninh Giáo Dục xbx, 1991, tr. 341.

[10] Lý Lạc Cầu 李樂俅, Tiên Học Diệu Tuyển 仙學妙選, Chân Thiện Mỹ xb, Đài Bắc, tr. 6.

[11] Ngô Phong, sđd., tr. 1013.

[12] Holmes Welch, Đạo Chi Phân Kỳ 道之分歧 (Taoism, the Parting of the Way), Boston, 1967, tr. 140. (Probably composed in the 11th century A.D., these came to be widely distributed by monasteries and by charitable societies).

[13] Joseph Needham, Science & Civilisation in China, Vol. 2, p. 159. (The foundations of the patrology, the Tao Tsang, were laid in +745. Many Taoist books were written, such as the Yin fu Ching [Harmony of the Seen and the Unseen] of Li Chuan. Many distinguished men, such as Li Pai, were practising Taoist initiates. Under strong pressure to compete with Confucianism and Buddhism, the Taoists now appeared in the role of preachers of conventional morality, hence the Thai Shang Kan Ying Phien [tractate of Actions and Retributions] of the early +11th century; following the Kung Kuo Ko [Examination of Merits and Demerits] attributed to the famous alchemist and hsien Luš Tung Pin.)
Công Quá Cách có nhiều chủng loại, bản mà Needham cho là của Lữ Động Tân vốn được gọi: Thập Giới Công Quá Cách 十誡功過格, đã được Léon Wieger dịch sang tiếng Pháp). Tác giả của Âm Phù Kinh 陰符經 (mà Needham bảo do Lý Thuyên 李筌 sáng tác) là một vấn đề hấp dẫn khác.

 Theo các học giả Trung Quốc hiện đại, chưa rõ ai là tác giả của Âm Phù Kinh. Bản Âm Phù Kinh in trong Trung Quốc Khí Công Đại Thành 中國氣功大成, Phương Xuân Dương 方春陽 chủ biên, Cát Lâm Khoa Học Kỹ Thuật xbx, 1999, tr. 383, ghi là Lý Thuyên tập chú (chứ không phải là tác giả như Needham bảo).

[14] Encyclopedia of Religion, vol. 14, New York Macmillan, 1987, mục từ Taoism, tr. 298. Ko Hung asserted in his Pao-p’u-tzu that without the practice of virtues it was useless to wish to become an immortal. His text provided a list of good and evil deeds that remained the code of popular morality. Morality tracts [shan-shu] many of which were based on Ko Hung’s list, began to appear in the twelfth century. The most famous are the Kan-ying p’ien [Book of Divine Responses to the Conduct of Men] and the Kung-kuo ke [Diagram of Meritorious Actions and Sins].

[15] Khanh Hy Thái, Sđd., quyển 2, tr. 125 và Lý Cương, Sđd., tr. 144-145.

[16] Holmes Welch, Sđd., tr. 139-140.

[17] Âm Chất Văn đã được P.Carus và D.T. Suzuki dịch ra tiếng Anh với nhan đề Yin Chih Wen - The Tract of the Quiet Way [nxb Open Court Publishing Co.,1906] [H. Welch, Sđd., tr. 140]. Trong Sources of Chinese Tradition, Vol. II, của WM. Theodore de Bary, Wing-tsit Chan, và Chester Tan, có in bản dịch tiếng Anh của Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (The Treatise of the Most Exalted One on Moral Retribution, tr. 287-290) và Âm Chất Văn (The Silent Way of Recompense, tr. 290-293).

[18] James Legge (Lý Nhã Các 理雅閣, 1815 - 1897) là giáo sĩ Hội Truyền Giáo London (the London Missionary Society), cũng là một Hán học đại gia cự phách. Xem tiểu sử của J. Legge trong: Dương Ngọc Dũng & Lê Anh Minh, Kinh Dịch và Cấu Hình Tư Tưởng Trung Quốc, nxb Khoa Học Xã Hội, 1999, tr. 631-632.

[19] Tức là Thái Hạo 太皓, Viêm Đế 炎帝, Hoàng Đế 黃帝, Thiếu Hạo 少皓 và Chuyên Húc 顓頊.

[20] Ngũ Hoa 伍華 chủ biên, Chu Dịch Đại Từ Điển 周易大辭典, Quảng Châu, 1993, tr. 1009.

[21] Khanh Hy Thái, Sđd., quyển 2, tr. 124.

[22] Ngũ giới cấm 五戒禁: (1) Bất sát sinh 不殺生, (2) Bất du đạo 不偷盜, (3) Bất tà dâm 不邪淫, (4) Bất vọng ngữ 不妄語, và (5) Bất ẩm thực tửu nhục 不飲食酒肉.

[23] Ninh Chí Tân 寧志新 chủ biên, Đạo Giáo Thập Tam Kinh 道教十三經, Hà Bắc, 1994, quyển hạ, tr. 1051 (Bão Phác Tử Nội Thiên, quyển 3 - Đối Tục).

[24] Holmes Welch, Sđd., tr. 140 -141

[25] Nam Hoa Kinh 南華經, Thu Thủy 秋水.

[26] Nam Hoa Kinh 南華經, Tề Vật Luận 齊物論.

[27] Mạnh Tử 孟子, Tận Tâm [thượng] 上].

[32] Luận Ngữ 論語, Nhan Uyên 顏淵.

[33] Luận Ngữ 論語, Học Nhi 學而.

[34] Mạnh Tử 孟子, Tận Tâm [thượng] 39] Lý Viễn Quốc 李遠國, Đạo Giáo Khí Công Dưỡng Sinh Học 道教氣功養生學, Tứ Xuyên Tỉnh Xã Hội Khoa Học xbx, Thành Đô, 1988, tr. 95.

[40] Khanh Hy Thái, Sđd., quyển 3, tr. 172.

[41] Đạo Gia Nhiếp Sinh Bí Pháp 道家攝生秘法, Nội Mông Cổ Nhân Dân xbx, 1992, tr. 16.

[42] Thượng Hải Phật Học Thư Cục 上海佛學書局 ấn hành, không ghi năm.

[43] Ngô Phong 吳楓 chủ biên, Trung Hoa Đạo Học Thông Điển 中華道學通典, Nam Hải Xuất Bản Công Ty, 1994, tr. 785-790.

[44] Lý Lạc Cầu 李樂俅, Tiên Học Diệu Tuyển 仙學妙選, Chân Thiện Mỹ 真善美 xuất bản, Đài Bắc, [năm ?].

[45] Thánh Thất Tân Định ấn tống, giấy phép xuất bản 18-11-1964, khổ nhỏ 12 x 14 cm, 32 trang, in chung với Cứu Khổ Chơn Kinh, Chú Vãn Sanh, Bài Thần Chú Cứu Nạn của Đức Lữ Tổ.

[46] Nhà văn Trung Quốc hiện đại là Lão Xá 老舍 (1899-1996) mô tả món cháo thập cẩm của ngày Lạp bát hết sức sinh động trong đoản thiên Tiết Xuân Bắc Kinh 北京的春節 Bắc Kinh đích Xuân Tiết) và dí dỏm gọi món cháo này là «cuộc triển lãm nông nghiệp ở qui mô nhỏ» (小型的農業展覽會Tiểu hình đích nông nghiệp triển lãm hội).

[47] Xem Điền Thụy Quyên 田瑞娟 và Trương Liên Vinh 張聯榮 chủ biên, Văn Ngôn Văn Yếu Lãm 文言文要覽, Đại Học Bắc Kinh xb, 1988, tr. 3.

[48] Xem Vương Lực 王力 chủ biên, Cổ Hán Ngữ Thường Dụng Tự Tự Điển 古漢語常用字字典, Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc Kinh, 1993, tr. 127, và Trần Cao Xuân 陳高春 chủ biên, Thực Dụng Hán Ngữ Ngữ Pháp Đại Từ Điển 實用漢語語法大辭典, Bắc Kinh, 1989, tr. 597.

[49] Điều này ngược với Âm Chất Văn, tuy là một bản văn rất ngắn nhưng Âm Chất Văn có khá nhiều điển cố văn học, có lẽ tác giả muốn nhắm vào tầng lớp sĩ nhân hơn là người bình dân.

[50] Dục cầu tiên giả, yếu đang dĩ trung hiếu hoà thuận nhân tín vi bản. Nhược đức hạnh bất tu, nhi đản vụ cầu phương thuật, giai bất đắc trường sinh 欲 求 仙 者 , 要 當 以 忠 孝 和 順 仁 信 為 本 . 若 德 行 不 修 , 而 但 務 求 方 術 , 皆 不 得 長 生 也.

[51] Lãm chư Đạo giới, vô bất vân dục cầu trường sinh giả, tất dục tích thiện lập công, từ tâm ư vật, thứ kỷ cập nhân, nhân đãi côn trùng, lạc nhân chi cát, mẫn nhân chi khổ, chu nhân chi cấp, cứu nhân chi cùng, thủ bất thương sinh, khẩu bất khuyến họa, kiến nhân chi đắc như kỷ chi đắc, kiến nhân chi thất như kỷ chi thất, bất tự quý, bất tự dự, bất tật đố thắng kỷ, bất nịnh siểm âm tặc, như thử nãi vi hữu đức, thụ phúc ư thiên, sở tác tất thành, cầu tiên khả ký dã. 覽 諸 道 戒 , 無 不 云 欲 求 長 生 者, 必 欲 積 善 立 功 , 慈 心 於 物 , 恕 己 及 人 , 仁 逮 昆 蟲 , 樂 人 之 吉 , 愍 人 之 苦 , 賙 人 之 急 , 救 人 之 窮 ,手 不 傷 生 , 口 不 勸 禍 , 見 人 之 得 如 己 之 得 , 見 人 之 失 如 己 之 失 , 不 自 貴 , 不 自 譽 , 不 嫉 妒 勝 己 , 不 佞 諂 陰 賊 , 如 此 乃 為 有 德 , 受 福 於 天 , 所 作 必 成 , 求 仙 可 冀 也 .

[52] Trần Lập Phu 陳立夫 dịch là ngụy khoa học 偽科學, xem Trung Quốc Cổ Đại Khoa Học Tư Tưởng Sử 中國古代科學思想史, Giang Tây Nhân Dân xbx, 1990. Đây là một bản dịch Anh Hán từ quyển Science & Civilisation in China, Vol. 2, của Joseph Needham (Lý Ước Sắt 李約瑟 tức Đan Diệu 丹耀 hay Thắng Nhũng Tử 勝冗子 hay Thập Túc Đạo Nhân 十宿道人).

[53] Đạo Giáo Thập Tam Kinh 道教十三經, Ninh Chí Tân 寧志新 chủ biên, Hà Bắc Nhân Dân xbx, 1994, quyển hạ, tr. 1099 (Bão Phác Tử Nội Thiên 抱朴子內篇, quyển 6 - Vi Chỉ 微旨).

------------------   

******************     
















TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI * 象 言 破 疑

TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI * 象 言 破 疑
TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI 

TUONG NGON PHA NGHI
象 言 破 疑


TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI * 象 言 破 疑
TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI
TUONG NGON PHA NGHI
象 言 破 疑

TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI


象 言 破 疑




TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI

象 言 破 疑

NGỘ NGUYÊN LÃO NHÂN trước tác

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch



 
MỤC LỤC

Tượng ngôn phá nghi tự

QUYỂN THƯỢNG

Thuận nghịch thuyết
Dược Vật Thuyết
Hỏa Hầu thuyết

QUYỂN HẠ

Phá nghi thi
Huyền tẫn chân khiếu thuyết
Tu chân yếu quyết

----------------------------

Tượng ngôn phá nghi tự

象 言 破 疑 序

Đơn kinh vạn quyển giai Tượng Ngôn dã. Tượng Ngôn giả phi Chân Ngôn, phi minh ngôn, phi không ngôn, phi dị ngôn, nãi hữu vật, hữu tắc ngôn chỉ hữu chứng, thủ tượng diễn trực chi ngôn. Hậu nhân bất cứu kỳ ý, chỉ chấp kỳ tượng. Tại Nho giả độc chi dĩ vi quái đản bất kinh, tại Đạo giả độc chi dĩ vi bao bì ngoại tượng. Thậm chí hữu chấp tượng sai nghi, bách ban tố tác, lưu ư khúc kính tà hành, tự thương Tính Mệnh giả bất khả mai cử. Hi! thị khởi cổ nhân tiên hiền, thủ tượng lập ngôn chi ý hồ.

Dịch viết: Pháp tượng mạc đại hồ thiên địa, biến thông mạc đại hồ tứ thời, huyền tượng trứ minh mạc đại hồ nhật nguyệt [1]. Đơn kinh giai bản Chu Dịch nhi tác. Kỳ Dược Vật, Hỏa Hầu câu tá Thiên Địa, nhật nguyệt, tứ thời dĩ phát huy kỳ áo diệu. Nhược dĩ Đơn Kinh Tượng Ngôn vi quái đản, vi bao bì. Dịch hữu phong vân, lôi điện, long hổ, ngưu mã, lộc dương, qui trĩ chi tượng.

Phù: Diễu năng thị, bí năng lý [2], Thừa kỳ Dung [3], Bằng hạp trâm [4], Phệ phu diệt tị [5], Khốn ư Chu Mộc [6], Tải quỉ nhất phương [7], Sĩ khuê dương vô huyết [8] đẳng tượng. Diệc tương dĩ vi quái đản bao bì hồ? Bi phù chính đạo thất truyền dĩ cửu, bất tự kim thủy. Dư tự ngộ Chân sư chi hậu, thủ chư gia đơn kinh, bỉ thử tham trước, thật hữu đắc hồ tượng ngôn chi ý. Nhân tương sở đắc ư sư giả, tận tiết ư tham ngộ xiển chân nguyên chỉ đẳng thư chi nội. Do khủng học giả nan ư quán thông, hựu trước Tượng Ngôn Phá Nghi nhất thư, hội đồ họa tượng, tế phân thị phi, tảo bàng môn nhi chỉ chính Đạo, tức tà thuyết nhi biện chân tông. Thử tắc Dư chi bản nguyện. Kiến thị thư giả, đương tư tử nhân diệc năng thuyết sinh thuật, vật dĩ tao phách tiếu khí vi hạnh thậm.

Thời:

Gia Khánh thập lục niên (1811), Tân Mùi, Xuân Vương Chính Nguyệt, Thê Vân Sơn Tố Phác Lão Tẩu, Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh tự tự ư Tẩy Tâm Đình.

象 言 破 疑 序

丹 經 萬 卷 皆 象 言也 . 象 言 者 非 真 言, 非 明 言, 非 空 言, 非 異 言, 乃 有 物, 有 則 言 指 有 証, 取 象 演 直 之 言 後 人 不 究 其 意, 止 執 其 象. 在 儒 者 讀 之 以 為 怪 誕 不 經, 在 道 者 讀 之 以 為 包 皮 外 象. 甚 至 有 執 象 猜 疑 百 般 做 作, 流 於 曲 徑 邪 行, 自 傷 性 命 者, 不 可 枚 舉. 咦是 豈 古 聖 先 賢, 取 象 立 言 之 意 乎.

易 曰: 法 象 莫 大 乎 天 地, 變 通 莫 大 乎 四 時, 懸 象 著 明 莫 大 乎 日 月. 丹 經 皆 本 周 易 而 作. 其 藥 物 火 候 俱 借 天 地, 日 月, 四 時 以 發 揮 其 奧 妙. 若以 丹 經 象 言 為 怪 誕 為 包 皮. 易 有 風 雲, 雷 電, 龍 虎, 牛 馬, 鹿 羊, 龜 雉 之 象.

夫 眇 能 視, 跛 能 履, 乘其 墉, 朋 盍 簪, 噬 膚 滅 鼻, 困 於 株 木, 載 鬼 一 方, 士 刲 羊 無 血 等 象. 亦 將 以 為 怪 誕 包 皮 乎 ? 悲 夫 正 道 失 傳 以 久, 不 自 今 始.余 自 遇 真 師 之 後, 取 諸 家 丹 經, 彼 此 參 著, 實 有 得 乎 象 言 之 意.因 將 所 得 於 師 者, 盡 洩 於 參 悟 闡 真 原 旨 等 書 之 內. 猶 恐 學 者 難 於 貫 通, 又 著 象 言 破 疑 一 書 繪 圖 畫 像, 細 分 是 非, 掃 旁 門 而 指 正 道, 息 邪 說 而 辯 真 宗.此 則 余 之 本 願. 見 是 書 者, 當 思 死 人 亦 能 說 生 術, 勿 以 糟 粕 笑 棄 為 幸 甚.



嘉 慶 十 六 年 辛 未春 王 正 月 棲 雲 山 素 樸 老 叟 悟 元 子 劉 一 明 自 敘 於 洗 心 亭.

------------------

Xem những chú thích ở: -

[1] Nguyễn Văn Thọ, Dịch Kinh Đại Toàn, tập 3, Hệ Từ Thượng, Chương XI, tiết 7, tr. 489.

[2] Hào Lục Tam quẻ Lý, NVT, Dịch Kinh Đại Toàn, tập 2, tr. 161.

[3] Hào Cửu Tứ quẻ Đồng Nhân, NVT, Dịch Kinh Đại Toàn, tập 2, tr. 194.

[4] Hào Cửu Tứ quẻ Dự, NVT, Dịch Kinh Đại Toàn, tập 2, tr. 225.

[5] Hào Lục Nhị quẻ Phệ Hạp, NVT, Dịch Kinh Đại Toàn, tập 2, tr. 269.

**********************         

QUYỂN THƯỢNG

Thuận nghịch thuyết
Dược Vật Thuyết
Hỏa Hầu thuyết

THÊ VÂN SƠN, NGỘ NGUYÊN LÃO NHÂN TRƯỚC

棲 雲 山 悟 元 老 人 著

MÔN NHÂN NGỤY DƯƠNG THÀNH KHAN TỬ

門 人 魏 陽 誠 刊 梓

HẬU HỌC LƯU BỐC VÂN TRÙNG KHAN

後 學 劉 卜 人 重 刊


Tu chân chi đạo, sách xưa thường nói tới đạo Vô Vi, mà ít nói tới Đạo Hữu Vi. Vả Đạo Vô Vi thì chỉ có những bậc thượng trí mới đốn ngộ viên thông nó được. Biết một thông trăm lập tức bước lên thánh vức. Còn những hạng Trung Hạ, thì Tính Chất Ngu Độn, căn trần nặng nề, kiến thức hẹp hòi, nếu theo đạo Vô Vi thì lực lượng không bắt kịp, nên ắt không thể vạn duyên câu không, trực đăng bỉ ngạn.

Ngụy Bá Dương tiên ông đời Hậu Hán chuẩn theo Kinh Dịch mà soạn ra bộ Tham Đồng Khế, dẫn dắt những người bậc Trung, bậc Hạ, lấy Hữu Tượng thí dụ vô tượng, lấy hữu hình dụ vô hình, nên bắt đầu mới có danh từ Kim Đơn, Duyên Hống, Sa Ngân, Ô Thố, Long Hổ, Anh Xá, Dược Vật, Lô Đỉnh, Phanh Luyện. v.v...

Phép Pháp Tượng bắt đầu từ đó, và thành ra như một Đạo. Các vị Chân Nhân đều lấy Tham Đồng Khế làm tổ kinh mà soạn ra Đơn Kinh, bàn rõ Diệu Lý. Ý các Ngài dạy cho Hậu Học thấy cái này suy ra cái kia, mượn cái này chứng cái nọ.

Nếu học giả không tìm hiểu ý của ngụ ngôn, không biết lý của phép thủ tượng, thấy nói Kim Đơn, Duyên Hống, Lô Đỉnh thì nghĩ ngay đến ăn uống (phục thực) và cứ lo về Lô Hỏa; thấy nói Ô Thố, Long Hổ thì nghĩ là Tạng Phủ, và chuyên lo Tồn Tưởng; thấy nó Nhà Người, Nhà Ta, Nam Nữ, thì tưởng là Khuê Đơn (chuyện phòng the) nên lo Thái Thủ; thấy nói Nghịch Thuận Điên Đảo thì nghĩ là Cưỡng Tác, và nghĩ đến Vận Chuyển; thấy nói Tu Tính Vô Vi chi thuyết, thì nghĩ ngay đến Tịch Diệt và chủ trương Ngoan Không; thấy nói Tu Mệnh là Hữu Vi chi thuyết thì nghĩ là Bãi Lộng, và lo Chấp Tướng v.v...

Tất cả đều là thấy hươu tưởng ngựa, thấy chim tưởng loan, không những vô ích cho Tính Mệnh, mà còn làm hại Tính Mệnh nữa. Đó đâu phải ý của tổ sư khi lập ra phép Thủ Tượng Dụ Ngôn đâu?

Tượng là Tượng Hình. Nói vật này mà tượng là vật khác, nói vật kia mà tượng vật này.

Ví dụ lấy chuyện mắt thấy nhãn tiền, mọi người đều hay biết mà luận, ví dụ như nấu nướng đồ ăn, thì cái Nồi là Đỉnh, Bếp là Lò. Trong nồi chứa nước, dưới bếp đốt lửa. Lửa bốc lên, nước chảy xuống. Để cho nước trong nồi ở trên, để cho lửa dưới bếp ở dưới. Thế là Thủy Hỏa điên đảo, hai bên tương tế, nhờ vậy mà đồ ăn mới chín. Phàm thủy phàm hỏa giúp nhau là như vậy.

Ở nơi con người cương tính thì khô táo và động. Cho nên động thời thuộc Hỏa.Nhu Tính thời hoãn và Tĩnh. Tĩnh thuộc thủy. Dùng Nhu để dưỡng Cương, dùng Cương để đến với Nhu. Cương Nhu tương đáng không táo không hoãn, trở về trung chính, đại đạo dễ thành.

Đó là cái lý của Thần Thủy Thần Hỏa tương tế. Lấy cái tượng của Phàm Thủy Phàm Hỏa tương tế mà ví dụ cái Lý của Thần Thủy Thần Hỏa tương tế, làm cho cái Lý ấy trở thành hiển nhiên vậy.

Lại như một người vốn có gia tài sản nghiệp phong phú, mà không biết an phận lại phá tán hết gia tài. Rồi hốt nhiên tự tri hối quá, khổ tâm lao lực trùng vụ sinh hoạt, dần dần tích tụ được tài vật, từ ít đến nhiều, cuối cùng tất phục hồi lại được gia nghiệp, thế là Hoàn Nguyên Phản bản được gia sản cũ.

Con người vốn có Tinh Thần, Linh Khí viên mãn, đầy đủ; khi giao vào Hậu Thiên, thuận chiều Tạo Hóa, phí Tinh, lao Thần, Nguyên Khí suy bại, Nguyên bản tiêu hao cho đến hết, nếu biết cải đầu hoán diện, trừng phẫn, trật dục, nhàn tà tồn thành, tiệm thứ dụng công, cuối cùng sẽ qui căn phục mệnh. Đó là Lý của Hoàn Nguyên Phản bản. Dùng cái tượng của Hoàn Nguyên Phản Bản, để ví dụ cái Lý của Hoàn Nguyên phản bản, làm cho cái Lý trở nên Hiển Nhiên vậy.

Lại như thế gian nam nữ tương phối, đôi bên hợp nhất, nên mới sinh con, sinh cháu. Thế là cái tượng Sinh Sinh của nhân loại, dùng để ví dụ cái Lý Sinh Sinh của Đơn Đạo, làm cho cái Lý trở nên hiển nhiên vậy.

Đơn Kinh chuyên dùng Tượng để ví dụ Lý, dạy người từ Tượng mà suy ra cái lý của sự việc, chứ không dạy người đi ngược với Chân Lý, rồi cứ bám vào tượng mà hoạt động, làm cho mọi người không chịu tìm cho ra nghĩa lý, chỉ nhận biết có tượng. Buồn thay!

Đơn kinh dùng Tượng thật nhiều. Học giả nên từ Tượng tìm cho ra nghĩa lý, mà được tượng thì phải quên lời, hiểy ý thì phải quên tượng, như vậy mới được.


Thuận nghịch thuyết:

Người thế gian chỉ biết Thuận hành mà không biết Nghịch Vận. Thế nào là Thuận? Thuận là thuận theo Tạo Hóa. Thế nào là Nghịch? Nghịch là đi ngược Tạo Hóa.

Tạo hóa là sinh nhân, sinh vật, sinh lão bệnh tử, luân hồi không ngừng, Nghịch Tạo Hóa là thành Tiên, thành Phật, bất sinh bất diệt, thọ cùng Trời Đất.

Con người từ khi thành thai sinh thân về sau, hai tám số đủ, giao vào Hậu Thiên, trong thì Thất tình Lục dục làm mê cái Chân, ngoài thì Vạn Duyên Vạn Sự làm mệt cái Hình, nhận Giả làm Chân, lấy Tà làm Chính, coi Khổ làm Sướng, thuận theo sở dục, không gì không làm, đem Tinh, Khí, Thần tam bảo bản lai của mình, tiêu hao cho hết. Làm cho Chân Tính viên minh của mình bị lu mờ đi. Đến khi khí nơi yết hầu bị đứt đoạn, mà cũng không biết ngừng nghỉ, cho nên bị Sinh Sinh, Tử Tử vạn kiếp trầm luân, cho nên nói Diêm La không gọi mà mình tự đến nộp mạng.

Còn những bậc Đại Trí Tuệ, thì nghịch vận Tạo Hóa, không để cho tạo hóa câu thúc, không để cho Âm Dương hun đúc, không để cho vạn vật khiên dẫn, không dễ cho vạn duyên khiên di, trong lửa trồng sen, trong bùn chèo thuyền, mượn thế pháp để tu đạo pháp, y nhân đạo để toàn Thiên Đạo, đem vạn kiếp căn trần vứt bỏ đi, quét sạch mọi khách khí, mệnh do ta làm chủ không do Trời, trở lại bộ mặt Càn Nguyên xưa của ta, thoát Luân Hồi siêu xuất Tam Giới, trở thành Kim Cương bất hoại chi vật.

Vả trong chiều Thuận của Tạo Hóa mà vẫn vận dụng được Chiều Nghịch, có khẩu truyền tâm thụ hẳn hoi, thì ắt phải có Chân Sư điểm hóa, không thể tự nhiên mà biết. Học giả thế gian tự phụ vào ánh sáng đom đóm của mình, lại nhìn qua ống quản, chỉ biết vài thoại đầu, nhớ vài Công Án, mà đã cho mình là Biết Đạo, không chịu hỏi han ai, chỉ dùng mấy lời loạn đàm nơi cửa mồm, như người mù dẫn bọn mù, thật là tội lỗi.

Lại như một kẻ hồ đồ, không nhận được Chân Sư, sáng nói Vương chiều nói Lý. Học với hạng Tiểu Thừa, mà cho mình là có Đạo, dù có người hay trước mắt cũng không chịu hạ mình cầu học, làm bậy làm bạ.

Hoặc coi Tâm Khí hạ giáng, Thận Khí thượng thăng là Nghịch Hành, hoặc vận khí Hậu Thăng Tiền Giáng làm Nghịch Hành, hoặc coi Hoàn Tinh Bổ Não làm Nghịch Hành, hoặc coi Bế Khí Định Thần làm Nghịch Hành, hoặc Thái Âm bổ Dương làm Nghịch Hành, hoặc đàn bà nằm trên, đàn ông nằm dưới là Nghịch Hành, cứ như thế, trăm đường nghìn nẻo đều là đi Nghịch Thánh Đạo, không phài là Thuận Nghịch Tạo Hóa, không phải là Chí Sinh chi Đạo.

Có biết đâu rằng Nghịch là trở về với Phụ Mẫu Sinh Thân chi sơ, như người bỏ nhà đi xa, nay lại trở về nhà. Tuy nói là Nghịch Hành nhưng kỳ thật là đi theo đúng lý (thuận lý nhi hành), đó chính là Nghịch trung chi Đại Thuận. Chỉ vì nó đi ngược với đường lối của thế nhân, nên gọi là Nghịch vậy.

Bàng môn tả đạo, vì hiểu lầm chữ Nghịch, nên bày vẽ ra trăm nghìn công tác cho cái thân xác thịt này, để rồi ra đọa lạc vào không vong, Thật là ngu si vậy.


Dược Vật Thuyết:


Đơn kinh Tử thư nói tới Thái Dược để phanh luyện Kim Đơn đều là Tiên Thiên Vô Hình Vô Chất chi chân, không phải là Thế Gian Hữu Hình Hữu Chất chi dược, cũng không phải là vật gì hữu hình hữu chất trong thân thể con người.

Bởi vì từ sau khi con người sinh ra, đã Nhận Giả và đã Thất Chân, đem viên ngọc quí mình vốn có thủa ban đầu, tiêu hao cho đến hết. Trong con nghì chỉ còn toàn Âm chất và Tà Khí, như người mắc bệnh, chỉ còn chờ chết, nếu không có Linh Dược Chân Chính, thì làm sao biến Âm thành Dương, làm sao bảo toàn được Tính Mệnh?

Chân Chính Linh Dược 真 正 靈 藥 là gì? Đó là Tiên Thiên Nhất Khí 先 天一 氣 vậy. Là Tiên Thiên Tinh Khí Thần Tam Bảo 先 天 精 氣 神 三 寶 vậy, Tiên Thiên Chân Nhất chi khí  先 天真 一 之 氣 còn gọi là Chân Chủng Tử 真 種 子.


Cái Khí này không rơi vào Sắc Tượng, nó là Chí Vô nhưng hàm Chí hữu, Chí Hư nhưng hàm Chí Thực, nó là Chân Không Diệu Hữu 真 空 妙 有.

Nó thống nhiếp Tinh Khí Thần Tam Bảo.

Tam Bảo này cũng không phải là Hữu Hình Chi Vật. Nó là Vô Hình Chi Chân 無 形 之 真.

Ngọc Thiềm Ông viết:

Cái Tinh này không phải là Giao Cảm Tinh, mà là nước rải của Ngọc Hoàng, cái Khí này không phải là cái Khí Hô Hấp, mà là cái khói của Thái Tố, cái Thần này không phải cái Thần Tư Lự, nhưng nó sánh được với Nguyên Thủy.

Tuy chia thành Ba Nhà nhưng vẫn qui lại là một Tiên Thiên Nhất Khí, Tam gia hợp nhi thành Nhất Khí, Nhất Khí Phân nhi thành Tam Gia. Hái thuốc chính là hái cái Nhất Khí Tam Bảo đó.

Dùng Chân Hỏa Đoàn Luyện nó sẽ thành Đơn, nó sẽ điểm hóa cho tất cả Âm Khí trong ta biến thành Thuần Dương. Thanh Tịnh không dính bụi bặm trần ai.

Như người có bệnh dùng thuốc trị liệu cho thành người thường. Gọi là Dược Vật, là dùng phép Tượng Hình.

Hậu thế học giả thấy đơn kinh nói về Dược Vật, lầm tưởng là cái gì Hữu Hình Hữu Chất chi vật 有 形 有 質之 物, nên đi vào núi hái dược thảo, phối hợp mà dùng mơ tưởng sẽ được trường sinh, hoặc lấy Ngũ Kim Bát Thạch luyện thành Đơn Dược mà dùng, mơ tưởng sẽ bay bổng lên Trời.

Có biết đâu rằng Thuốc hữu hình chỉ chữa được những bệnh hữu hình, không thể chữa những bệnh vô hình.

Muốn chữa những bệnh vô hình nếu không lấy được Tiên Thiên Chân Nhất chi khí thì không có thuật nào khác vậy.

Tham Đồng Khế viết: Đồng loại dị thi công hề, phi chủng nan vi xảo 同 類 易 施 工 兮 非 種 難 為 巧.

Ngộ Chân Thiên viết:

Trúc phá tu tương trúc bổ nghi,

竹 破須 將 竹 補 宜

Bão kê đương dụng noãn vi chi.

抱 雞當 用 卵 為 之

Vạn ban phi loại đồ lao lực,

萬 般非 類 徒 勞 力

Tranh tự Chân Diên hợp thánh ky.

爭 似真 鉛 合 聖 機

Dịch:-

Đồ tre, muốn sửa phải dùng tre,

Muốn gà cần trứng, mới nên nghe!

Đồng loại chẳng dùng, hao phí sức,

Phải có Chân Diên mới hành nghề.


Chân Diên chính là Tiên Thiên Chân Nhất chi khí.

Đọc đoạn này xong, mới thấy tưởng phàm dược là tiên dược thật là sai lầm vậy.


Hỏa Hầu thuyết:


Đơn Kinh Tử Thư đều nói đến Hỏa Hầu, để ví dụ Công Phu và Thứ Tự Chuẩn Tắc tu trì. Vì Công Phu Tu Trì có trước có sau, có nhanh có chậm, có tiến, có thoái. Đáng đi trước mà lại đi sau, đáng đi sau mà lại đi trước, đáng nhanh lại chậm; đáng chậm lại nhanh; đáng tiến, lại thoái, đáng thoái lại tiến; lại như lửa trong lò, có Văn Hỏa, có Vũ Hỏa, có lúc phải ngừng.

Cho nên cái thứ tự trong việc Tu Chân, nói theo Tượng thì là Hỏa Hầu. Vả dụng công Hỏa Hầu, không kể năm tháng, ngày giờ. Khắc khắc hành nó, đáng trước thì trước, đáng sau thì sau, đáng nhanh thì nhanh, đáng chậm thì chậm, đáng tiến thì tiến, đáng thoái thì thoái, tùy thời biến thông, tóc tơ không nhầm. Đáng trước thì trước nghĩa là trước hết phải nghiêm bên trong; đáng sau nghĩa là phải đề phòng bên ngoài; đáng nhanh là phải nhanh khi dụng công; đáng chậm là chậm khi ôn dưỡng; đáng tiến là khi Dương chưa đủ thì phải tiến; đáng thoái là khi Âm vừa sinh thì phải thoái Âm.

Đó là Thực Lý về Hỏa Hầu. Chứ không phải là như Công gia nói:Tí thời tiến Dương Hỏa, Ngọ thời thoái Âm Phù, Mão Dậu nhị thời nghi Mộc Dục; cũng không phải là Đông Chí tiến Dương Hỏa, Hạ Chí thoái Âm Phù; Xuân Phân Thu Phân thời Mộc Dục. Vả Trời có Tí Ngọ Mão Dậu; Người có Tí Ngọ Mão Dậu, chứ đâu phải Tí Ngọ Mão Dậu của Trời là Tí Ngọ Mão Dậu của người.

Trong con người lúc nào cũng có Tí Ngọ Mão Dậu.

Cổ Kinh nói: «Bất tất Thiên biên tầm Tí Ngọ, Thân trung tự hữu nhất Dương sinh» 不 必 天 邊 尋 子 午, 身 中 自 有 一 陽 生. Vả coi Dương sinh là Tí, coi Âm sinh là Ngọ, Dương với Âm hợp nhau là Mão, Âm với Dương hợp nhau là Dậu, nên gọi là Hoạt Tí, Ngọ, Mão, Dậu vậy. Đâu phài là Tí Ngọ Mão Dậu chết trên khung Trời đâu? Sách Kim Đơn Tứ Bách Tự viết: «Hỏa Hầu không có thời, Đông Chí không tại Tí, cũng như nói Mộc Dục là Mão Dậu chỉ là cách so sánh mà thôi.»

Ngộ Chân Thiên nói:

Tổng thức Chu Sa dữ Hắc Diên,

總 識朱 砂 與 黑 鉛

Bất tri Hỏa Hậu dã như nhàn,

不 知火 候 也 如 閑

Đại đô toàn tạ tu trì lực,

大 都全 藉 修 持 力

Hào phát sai thù bất kết đơn.[1]

毫 髮差 殊 不 結 丹


Dịch:-

Nếu biết Chu Sa với Hắc Đơn,

Hỏa hầu không biết cũng như không.

Chung qui toàn dụng tu trì lực,

Nếu sai tơ tóc, sẽ hỏng Đơn.


Nói Đông Chí không tại Tí, thì Mão Dậu cũng là cách so sánh chơi mà thôi. Nói Hào Phát Sai Thù Bất Kết Đơn, thì biết ngay là không phải Thiên Biên Tí Ngọ Mão Dậu vậy. Nếu như nói Thiên Biên Tí Ngọ là 12 giờ, như vậy chỉ có 4 giờ tu trì, còn dư 8 giờ khác thì bỏ đi không dùng, thì làm sao nói được là Hào phát vô sai được?

Nhập Dược Kính viết: Trong một ngày có 12 giờ thì Ý cũng có thể đến, và ta đều thấy đều biết. Niên nguyệt nhật thời khắc khắc dụng công tu trì, phòng nguy lự hiểm, hào phát không được sai lầm. Đến như Hỏa Hầu trong 64 quẻ cũng là để nói lên lẽ Âm Dương Tiến Thoái, dạy người tùy thời gia giảm biến thông dụng công vậy. Đâu phải là dạy người cứ theo thứ tự 64 quẻ mà hành động đâu?

Sách Ngộ Chân viết:

Quải trung thiết tượng bản nghi hình,

卦 中 設 象 本 儀 形

Đắc tượng vong ngôn ý tự minh,

得 象 忘 言 意 自 明

Cử thế mê đồ duy chấp tượng,

舉 世 迷 徒 唯 執 象

Khước hành quải khí vọng phi thăng.[2]

卻 行 卦 氣 望 飛 升

Từ quải vẽ nên tượng, ý, hình,

Biết tượng quên lời, ý tự minh.

Thế gian mê muội chuyên chấp tượng,

Mong hành quải khí với phi thăng.

Đọc sách phải biết cách Lập Ngôn Thủ Tựợng của người xưa, nên đã Đắc Ý thì phải Quên Tượng vậy.

Thiên kinh vạn quyển của Đạo Tu Chân chỉ là Tượng Ngôn mà thôi. Tuy cách Thủ Tượng không đồng nhất, nhưng chung qui đều cốt là phát minh lẽ Âm Dương thuận nghịch, Dược Vật Chân Gỉa, Hỏa Hầu Chuẩn Tác mà thôi. Ngoài ra không có thuyết nào khác.

Tôi (Lưu Nhất Minh) được thày chỉ vẽ cho biết phải tìm cho ra Ý trong Tượng, nên không dám dề cao mình.

Nguyện cùng các bậc tri âm đem những điều khẩn yếu của Đơn kinh vẽ thành đồ bản, phân tách thị phi để phá mọi nghi ngờ của các học giả. Còn các điều khác, suy ra sẽ thấy.[3]

Hình 1. Thai Trung Diện Mục 胎 中 面 目

(Trong Hình vẽ,Ta thấy có 1 hình tròn, trên có Chữ Vô Cực, phía Phải có chữ Vô Thanh Vô Xú, phía Trái có chữ Vô Hình Vô Sắc, Dưới có chữ Bản Sinh Thân Xứ. Ý nói Tâm ta từ thủa Sơ Sinh, vốn là Viên Đồng với Hư Vô, với Vô Cực. Nghĩa là Ta với Trời là Đồng Đẳng. Nên nhớ Trung Dung đã dùng 4 chữ Vô Thanh Vô Xú để chỉ Thượng Đế không tiếng, không hơi, nơi cuối sách Trung Dung). [4]

Khi con người chưa sinh ra đời, khi Nam Nữ Âm Dương nhị khí giao cảm nhau, trong lúc yểu minh đó có một điểm sinh cơ, từ Hư Vô trung tới, gọi là Tiên Thiên Chân Nhất Tổ Khí 先 天 真 一 祖 氣. Cái khí này, nhập vào trong Tinh Huyết, đào dung hun đúc nó thành một khối duy nhất. Vô hình rồi sinh hình, vô chất rồi sinh chất, trong thì là Ngũ Tạng, Lục Phủ, ngoài thì là Ngũ Quan, Bá Hài, biến chi, hóa chi, đều tự nhiên mà thành toàn. Ngay người phụ nữ có mang cũng không biết làm sao mà tự nhiên như vậy.

Học giả không biết lý này nên nghi rằng con người trong bào thai, nhờ cuống rốn mà thông với Mẫu Khí, nên mẹ thở vào thì con cũng thở vào, khi mẹ thở ra thì con cũng thở ra, từ từ thành hình vậy.

Thực ra không phải thế. Vì Khí Hô Hấp là Khí Hậu Thiên, mà Khí Hậu Thiên thì làm sao biến hóa tinh huyết cho thành hình được. Hơn nữa Khí Hô Hấp làm sao mà nhập vào bào thai? Có biết đâu rằng như trong bào thai của mẹ, chỉ có Tiên Thiên Nhất Điểm Tổ Khí 先 天 一 點 祖 氣, hồn hồn luân luân 渾 渾淪 淪, mới đầu thì Ngưng Thai, rồi Dưỡng Thai, cuối cùng thì Toàn Thai, từ đầu đến cuối đều nhờ Tổ Khí này mà thành tựu, không có chi khác.

Trong khi đó tuy có Nhân Hình nhưng chưa có Nhân Đạo. Thiên Địa Vạn Vật, thủy hỏa, đao binh đều không thể làm thương hại, thất tình lục dục ngũ tặc đều không tới gần. Suy đến kỳ cùng, thì chỉ có Một Hư Không mà thôi.

Cổ tiên dạy dân tu đạo, chính là dạy người trở lại cái Phụ Mẫu vị sinh thân dĩ tiền 父 母 未 生 身 以 前 đó, Diện Bạch là trở về cảnh giới Hư Không đó, cảnh giới Vô Thanh Vô Xú đó. Vô Thanh Vô Xú chính là Vô Cực. Không có Cực, tức là Vô vậy.


Hình 2. Anh Nhi diện mục 嬰 兒 面 目

(Hình này trong có Một vòng tròn trống, trên có chữ Thủy Cực, bên phải có chữ Hỗn Hỗn Độn Độn, bên trái có chữ Thanh Thanh Tĩnh Tĩnh, phía dưới có chữ Sinh Thân Chi Sơ.)

Con người từ trong bụng mẹ, 10 tháng thai viên, dưa chín rụng cuống, phá thai mà ra, chân hướng lên Trời, đầu hướng xuống đất, kêu oa một tiếng, mới tiếp hậu thiên chi Khí, từ mũi mồm xuống tới Khí Hải, hợp với Tiên Thiên Chi Khí.

Tiên Thiên là Thể; Hậu Thiên là Dụng. Hậu Thiên nhờ Tiên Thiên mà hô hấp lại qua; Tiên Thiên nhờ Hậu Thiên mà xúc dưỡng huyết mạch.

Không những thế: vừa thoạt kêu oa, thì Luân Hồi thức thần liền nhập vào Khiếu. Hợp với Tiên Thiên Nguyên Thần làm một. Nguyên thần nhờ Thức Thần mà tồn tại; Thức Thần nhờ Nguyên Thần mà Linh. Vả Anh Nhi vừa sinh, Tuy có Hậu Thiên Chi Khí, Hậu Thiên chi Thần. Và Tiên Thiên thống Hậu Thiên, Hậu Thiên thuận Tiên Thiên, hỗn thành Hỗn Hỗn Độn Độn, bất thức, bất tri, chỉ là Một Chân mà thôi.

Cổ Tiên dạy người Cùng Thủ Sinh Thân Xứ, tức là Cùng Thủ Nhân Sinh chi sơ, tức là Cùng Thủ Anh Nhi Diện Mục vậy.

Kẻ u mê không hiểu, nói bậy bạ rằng: Sinh Thân Xứ là Âm Hộ đàn bà. Không phải vậy. Sinh Nhân chi sơ là Anh Nhi Diện Mục, trắng trong không tì vết. Đó là Thánh Hiền Phôi Thai, Tiên Phật Căn Manh. Cho nên chim muông không bắt, tê hổ không làm tổn thương, vì nó Vô Tâm.

Vô Tâm nên sinh tử không ngại, như vậy thì làm gì có tai hoạn. Đó là tượng Thủy Cực. Thủy Cực là Thủy Chi Cực, chưa giao với Hậu Thiên. Tuy đã hỗn hợp với Hậu Thiên, nhưng vẫn hoàn toàn do Tiên Thiên quản sự. Nhân vì là tại Vô Chi Cực cho nên từ Vô mà bắt đầu.



Hình 3. Hài Nhi Diện Mục 孩 兒 面 目

(Hình có Ba Vòng Tròn Đồng Tâm. Phía trên có Chữ Thái Cực; phía phải có chữ Vô Tư Vô Dục; Phía trái có chữ Bất Sắc Bất Không; phía dưới có chữ Tiên Hậu Hợp Nhất.)

Con người từ đứa trẻ con (Anh Nhi) lớn lên, có thể đi, có thể chạy, có thể nói theo người chỉ dẫn, nên gọi là Hài Nhi, hay là Hài Đề Chi Đồng 孩 提 之 童. Anh Nhi thì vô thức vô tri (trẻ sơ sinh), Hài Nhi (trẻ con) thì hữu thức, hữu tri, như là một áng mây trên trời. Hữu Thức, Hữu Tri do từ Thủy Cực dần tới Thái Cực vậy.

 Thái Cực là Đại Chi Cực. Đã là Thái Cực thì cũng có khi rất nhỏ. Dương Cực thì cũng có lúc là Âm. Nhưng nhỏ chưa đến, Âm chưa sinh vậy. Nhỏ chưa đến, Âm chưa sinh, còn là lúc Tiên Thiên dụng sự, Hậu Thiên phục tàng. Tuy Hữu Thức, Hữu Tri, nhưng căn trần chưa phát, khách khí chưa sâm, đói ăn, lạnh mặc, hỉ lạc ai nộ tùy hưng tùy diệt, phú quí cùng thông bất tri bất hiểu, thuận kỳ Tự Nhiên, tuyệt nhiên không có tạp niệm.

Đó là Thánh Hiền Phôi Thai, Phật Tiên căn manh. Kẻ ngu coi Hài Nhi là Anh Nhi, thật là không phải. Anh Nhi là Xích Tử, Hài Nhi là Đồng Tử. Tuy nhiên vẫn có Thiên Chân đầy đủ, tuy hình hài cao thấp khác nhau, nhưng tri thức không có khác biệt.

Cho nên Cổ Tiên đã gọi Phản Bản Hoàn Nguyên là trở về Anh Nhi Diện Mục, chứ không phải Hài Nhi Ngoan Đồng diện mục vậy.[5]



Hình 4. Âm Dương Phân Phán 陰 陽 分 判


(Trong Hình Vẽ này, giữa là một hình tròn. Bên phải có chữ Nhị Bát Số Túc, bên trái có chữ Âm Dương Lưỡng Phân. Bên dưới có chữ: Linh Khiếu Khai, Thiện Ác Phân.)


Con người từ Hài Nhi lớn dần, và 2 khí Âm Dương túc mãn. Dương Cực Sinh Âm, sinh ra một Khiếu, Âm Dương phân chia, ở mỗi bên một phương. Trong Thực có Giả, như vậy mà Tri Thức mở mang dần, Thiện Ác phân biệt. Thế là Thái Cực phán mà Âm Dương sinh vậy.

Nói rằng Nhị Khí Túc, là như Mặt Trăng có Thượng Huyền Hạ Huyền, Lưỡng Huyền đó hợp nhau, ánh sáng tròn chĩnh, đày đủ. Nói thế nghĩa là Tiên Thiên Dương Cực là Thái Cực vậy. Dương Cực thì phải có Âm, như Thái Cực đã chia thì Âm Dương phân đôi vậy.

Người ngu không hiểu thế nào là Nhị Bát Sinh Âm, nên nghĩ rằng đến 16 tuổi là có Xuất Tinh. Không phải vậy: Cứ xem trong thế gian, có trẻ 14, 15 đã Xuất Tinh, cũng có trẻ 16, 17 tuổi mới Xuất Tinh, cũng có đứa 18,19 mới Xuất Tinh. Cho nên số có nhiều ít, nên biết vậy.

Cho nên nói Nhị Bát không phải là nói tuổi tác nào nhất định của con người, mà nói tới khi khí huyết con người sung mãn nhất vậy.


Hình 5. Ngũ Hành Phân Vị 五 行 分 位


(Hình vẽ ở giữa có Ngũ Hành phân phối như sau:

     Hỏa

Mộc  Thổ  Kim

     Thủy

Bên phải có chữ Thức Thần tiệm khởi. Bên trái có chữ Căn Trần tiệm sinh. Phía dưới có chữ Ngũ Hành tương tường [=giết])

Khi Âm Dương phân, thì Ngũ Hành cũng loạn. Ngũ Hành là Ngũ Khí Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ.

Ở Tiên Thiên thì Ngũ Hành là Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Ngũ hành bấy giờ là Nhất Khí, phát ra thành Ngũ Đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Ở Hậu Thiên thì Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Ngũ Hành tương sát lẫn nhau, phát ra thành Ngũ Tặc: Hỉ Nộ Ai Lạc Dục.

Ngũ Hành tương hợp thì Ngũ Đức bị, và Âm Dương hợp Nhất.

Ngũ hành mà phân tán thì Ngũ tặc hưng, và Âm Dương bị Bác Tạp.

Ngũ Hành phân thì Thức Thần tiệm khởi, căn trần tiệm phát. Chân giả thoái vị, Giả giả đương quyền, hài nhi diện mục cũng mất đi vậy.


Kẻ ngu cho rằng Ngũ Tạng là Ngũ Hành. Không phải vậy, vì Ngũ Tạng là Hữu Hình Hữu Chất chi trọc vật, là nơi quán xá của Hậu Thiên Ngũ Hành, chứ không phải là Đức Viên của Tiên Thiên Ngũ Hành. Nếu cho rằng Ngũ Tạng là Ngũ Hành, thì làm sao Ngũ Tạng có thể sinh, có thể hợp. Vả Ngũ Hành có Tiên Thiên, có Hậu Thiên. Tiên Thiên là khi con người chưa sinh thân thể, Hậu Thiên là sau khi con người đã có hình hài. Hai thứ Ngũ Hành tuy phân, nhưng chúng đều sống động, không có định vị, làm sao mà Ngũ Tạng là trọc vật lại có thể là Ngũ Hành được? [6]


Hình 6. Hậu Thiên dụng sự 後 天 用 事

(Hình này ở giữa có 2 vòng tròn trong đen ngoài trắng. Phía phải có chữ Khí Chất Chi Tính Phát. Phía trái có chữ Căn Tượng Chi Khí Nhập, Phía dưới có chữ Dương Trung Sinh Âm. Hình này dạy ta phải biết phân biệt rằng Con Người có 2 tính: Tính người là Khí Chất Chi Tính; Tính Trời là Thiên Địa Chi Tính hay Thiên Mệnh Chi Tính. Chúng ta phải bỏ cái Tính Khí Chất Chi Tính, nhưng phải chắt chiu, phải theo cái Thiên Địa chi Tính. Trung Dung nói Suất Tính Chi vị Đạo: Theo Tính Trời gọi là Đạo. Đạo Phật gọi Thiên Địa chi Tính là Chân Tâm, Khí Chất chi Tính là Vọng Tâm. Có hiểu vậy mới tìm ra con đường Đạo.)

Âm Dương phán, Ngũ Hành phân, là giao vào Hậu Thiên Tiên Thiên thoái vị. Lúc ấy là Khí Chất chi Tính phát sinh ra, ngoại lai tập nhiễm chi trần cũng sinh. Lục căn môn đầu cửa nào cũng chiêu địch, thất tình nghiệt chủng chủng chủng sinh tai, thuần bạch chi thể dần dần bị Âm Khí nhập vào. Âm Khí nhất nhập, Âm Khí tiệm trưởng, Dương khí tiệm tiêu. Trưởng rồi lại trưởng, tiêu rồi lại tiêu. Thuận theo lòng dục, tới đâu thì tới.

Ngu nhân vì không biết nên cho rằng Khí Chất chi Tính là Chân Tính. Đâu phải vậy. Chân Tính là Thiên Mệnh chi Tính, thuộc Tiên Thiên, hữu ích cho đời. Khí Chất chi tính là Nhân Sinh Chi Tính, thuộc Hậu Thiên, làm hại cho đời. Làm sao dám nói Hậu Thiên chi Tính là Tiên Thiên Chi Tính được.


Hình 7. Thuần Âm Vô Dương 純 陰 無 陽

(Có một Hình Tròn đen ở giữa. Bên phải viết: Dương Khí tiêu tận, phía trái viết: Âm Khí bất Thuần. Dưới cùng có chữ: Du hạc đăng diệt, Tủy Kiệt Nhân Vong.)

Đó là Hậu Thiên Dụng Sự, Âm Tiến Dương thoái. Ngày lại ngày, năm lại năm. Trong thì Vạn Niệm gây hại, ngoài thì Vạn Vật khiên dẫn. Nội ngoại Công Kích nên Dương Khí tiêu hết, nhất thân thuần Âm, tam bảo tiêu tận, hồn phách nan tồn, làm sao mà không chết cho được?

Người ngu không biết nên cho rằng Số tận, Mệnh tuyệt, và đổ cho Trời. Đâu phải vậy.

Con người sống được là nhờ Dương Khí giúp cho. Một điểm Dương Khí mà chưa tận thì chưa chết. Một điểm Âm khí mà chưa thuần hêt thì cũng chưa chết. Thuận theo Âm Khí tiêu diệt Dương Khí là tự mình tìm lấy tử lộ, đâu phải lỗi Trời.

7 đồ bản trên là Thuận Hành Tạo Hóa Sinh Nhân chi Đạo vậy.


Hình 8. Luyện Kỷ Trúc Cơ 煉 己 築 基

(Hình vẽ có một vòng tròn đen. Bên phải có chữ Trừng Phẫn Trật Dục, bên trái có chữ Khắc Kỷ Phục Lễ, phía dưới có các chữ: Điều Trần Tẩy Cấu, Nhàn Tà Tồn Thành.)

Đạo Tu Chân là Đạo Phản Hoàn. Phản là mình đã đi, nay trở lại. Hoàn là Dương đã mất, nay lại phục hồi. Đó chính là từ Thuần Âm phản hoàn về cái Bản Lai Chân Dương vậy. Con người từ Hậu Thiên dụng sự, trong người còn toàn Thuần Âm, và Tiên Thiên Dương Khí đã tiêu tận, nếu không nhờ công phu hoàn phản thì làm sao trở về với Vô được.

Muốn tìm lại được cái đã mất thì phải có công phu hoàn phản. Hoàn phản chính là Trúc Cơ Luyện Kỷ, là luyện cho sạch hết cái Lịch Kiếp Căn Trần, cái Khí Chất Thiên (thiên lệch) Tính. Nhất thiết tạp nhiễm khách khí, tức là công năng của Trừng Phẫn Trật Dục, Khắc Kỷ Phục lễ. Trừng phẫn trật Dục, Khắc Kỷ Phục Lễ, thời mới Vô Tư Vô Lự, bất động bất giao, căn bản mới kiên cố, cũng như làm nhà thì phải có nền móng vững chắc, gỗ lạt gạch ngói, do người làm ra sẽ đem đến tất cả, Luyện kỷ nằm trong Trúc cơ, Trúc Cơ cũnh không ngoài Luyện Kỷ.

Người ngu không biết lại chu rằng Luyện Kỷ là Thủ Tâm, Trúc Cơ là Bế Tinh. Không phải vậy.

Công phu luyện kỷ chỉ ngưng khi nào Âm tận, Dương thuần mà thôi. Nếu nói Thủ Tâm Bế Tinh là Luyện Kỷ Trúc Cơ, thì làm sao mà thành toàn kim đơn đại sự được, Cổ Tiên nói: Hoàn Đơn tại nhất thời, luyện kỷ tu thập nguyệt. Nói thế đủ biết Luyện Kỷ Trúc Cơ không phải là Thủ Tâm Bế Tinh vậy.[7]


Hình 9. Thiên Lương Chân Tâm 天 良 真 心

(Trong hình vẽ có 2 vòng tròn: Một trắng bên trong với 2 chữ Chân Tâm, và một đen bên ngoài. Bên phải có chữ: Trúc Cơ Thời, Tu Dụng Thác Thược. Bên trái có chữ: Luyện Kỷ Thời, Hoàn Yếu Chân Diên. Phía dưới có chữ: Hắc Trung Hữu Bạch, Thư Lý Hoài Hùng.)

Luyện Kỷ Trúc Cơ không phải là chuyện Cưỡng Chế, Cưỡng Tác. Nếu mà khổ lực dụng công, thì trước tiên phải nhận ra Thiên Lương, Chân Tâm. Nhờ Chân Tâm mà Luyện Kỷ, thì trong cảnh hắc ám đó có một điểm Dương Khí phát hiện, gọi là Chân Linh. Chân Linh đã hiện thì tà chánh phân minh, rõ ràng không bị vật dục kéo lôi, không bị trần duyên làm ô nhiễm.

Luyện kỷ rất dễ. Nếu không nhận biết Chân Tâm, thì không phân biệt được chính tà, không biết rõ thị phi. Thế là dĩ tâm chế tâm, dùng Nhân Tâm mà dụng công, cưỡng chế, cưỡng tác, cho nên nói:

Khước trừ vọng tưởng trùng tăng bệnh, Xu hướng Chân Như diệc thị sai 卻 除 妄 想 重 增 病 趨 向 真 如 亦 是 差,

làm sao tới được Vô Kỷ Chi Xứ.

Ngu nhân không biết, nhận lầm nhân tâm là Chân Tâm. Không phải vậy.

Chân Tâm là Vô Tâm. Vô Tâm chi Tâm mới là Thiên lương chi tâm. Có được Thiên Lương chi tâm ấy, thì làm sao mà con người không Phục Lễ được?

Bách Tự Bi viết: Động tĩnh tri tông tổ, vô sự cánh tầm thùy? 動 靜 知 宗 祖 無 事更 尋 誰.

Hoàng Hạc Phú viết: Ly nội thất ban Chu Sa vô chân chủng, tắc thời thời nan lưu 離 內 七 般 朱 砂 無真 種 則 時 時 難 留.

Trương Tam Phong nói: Trúc cơ thời, tu dụng thác thược, Luyện kỷ thời hoàn yếu Chân Diên 築 基 時 須 用 橐 籥, 煉 己 時 還 要 真 鉛.

Tất cả đều là biệt danh của Thiên Lương Chân Tâm.

Ôi Thiên Lương Chân Tâm đâu có dễ biết? Nếu ai mà biết thì là Đắc kỳ Nhất nhi vạn sự tất.[8]


Hình 10. Dương trưởng, Âm tiêu 陽 長 陰 消

(Giữa có 2 vòng tròn. Vòng ngoài đen vòng trong trắng. Bên phải có chữ Dương Khí nhật tiệm tăng, bên phải có chữ Âm Khí nhập tiệm giảm. Phía dưới có chữ: Chấn Phát Đạo Tâm, Tiêu Hóa Nhân Tâm.)


Nhận biết Thiên Lương Chân Tâm là Chủ Nhân Ông. Điềm nhiên ngồi ngự tại Trung Ương, vi Đạo nhật diệt, vi Công nhật trương. Dương khí ngày một tăng, Âm Khí ngày một tiêu. Lớn thì càng ngày càng lớn, nhỏ thì càng ngày càng nhỏ. cứ thế cho đến khi không còn cách nào tiêu trưởng thêm được nữa, thế mới là Cực Công.

Ngu nhân không biết tưởng cứ Tĩnh tọa vô vi, tịch diệt, ngoan không, thì Dương Khí tự nhiên sẽ trưởng, Âm Khí tự nhiên sẽ tiêu. Không phải vậy. Vả Hoàn Đơn là từ Âm Trung trở về Dương vậy, Nếu lấy Tĩnh tọa Vô Vi, tịch dệt, ngoan không, mà muốn phục Dương thì làm sao mà Dương tự lai, Âm tự thoái được?

Ngộ Chân Thiên viết:

Túng thức Chu Sa dữ Hắc Diên,

總 識朱 砂 與 黑 鉛

Bất tri Hỏa Hậu dã như nhàn.

不 知火 候 也 如 閑

Đại đô toàn tạ tu trì lực,

大 都全 藉 修 持 力

Hào phát sai thù bất kết đơn.

毫 髮差 殊 不 結 丹

Nếu biết Chu Sa với Hắc Đơn,

Hỏa hầu không biết cũng như không.

Chung qui toàn dụng tu trì lực,

Nếu sai tơ tóc, sẽ hỏng Đơn.

Như vậy, sẽ hiểu thế nào là Tiến Dương Thoái Âm vậy.[9]


Hình 11. Toản Thốc Ngũ Hành 攢 簇 五 行


(Hình vẽ này ở giữa có Ngũ Hành phân phối như sau:

     Thủy

Kim Thổ  Mộc

     Hỏa

Bên phải có chữ: Ngũ Hành Nhất Khí, Bên trái có chữ: Tứ Tượng Hòa hợp. Phía dưới có chữ: Ngũ Đức câu bị, Tam Gia Qui Nhất.)

Dương Trưởng, Âm Tiêu cốt là biết Toản Thốc Ngũ Hành. Ngũ Hành Toản Thốc, thì đại Đạo có cơ thành.

Công phu Toản Thốc, là biết từ Hậu Thiên Ngũ Hành trở về Tiên Thiên Ngũ Hành. Hậu Thiên Ngũ Hành thì cái này khắc với cái kia, Tiên Thiên Ngũ Hánh thời cái này sinh cái nọ. Phản là từ Tương Khắc trở về Tương Sinh. Ngũ Hành tương sinh hồn nhiên Thiên Lý, thế là Ngũ Hành nhất khí, Tứ tượng hòa hợp vậy.

Người ngu không biết nghĩ rằng Lấy Ý dẫn khí Tâm Thận

Cho rằng trên dưới Tương Giao; vận Can Phế chi khí cho tả hữu gặp nhau, thế là Toản Thốc Ngũ Hành. Không phải vậy. Vì Khí của Ngũ Tạng là vật hữu hình. Vật hữu hình là vật Hậu Thiên vật chất nhơ bẩn, có thành có bại, thì làm sao mà ngưng kết được Mệnh Bảo vĩnh cửu Bất Hoại được? [10]



Hình 12. Âm Dương hỗn hợp 陰 陽 混 合


(Hình vẽ trên có 3 vòng tròn đồng tâm. Hình tròn ngoài cùng, ½ trái đen, ½ phải trắng. Hình tròn giữa ½ phải đen, ½ trái trắng. Hình tròn trong cùng hoàn toàn trắng. Trên vòng tròn có chữ Thái Cực. Phải có chữ Âm Trung Hữu Dương; Trái có chữ Dương Trung hữu Âm. Phía dưới có chữ Tức Anh Nhi Diện Mục.)

Ngũ Hành từ Âm Dương phân xuất. Ngũ Hành toản thốc là Ngũ Hành hiệp nhất, tức là Âm Dương hợp nhi vi Nhất. Âm Dương hỗn hợp, là Kim Đơn thành tượng, là Hài Nhi Diện Mục. Bất quá là Hậu Thiên chi khí, chưa Hóa tận; Chưa hóa tận, nay hoàn phục về với Tiên Thiên, và Hậu Thiên thuận theo Tiên Thiên, thì cũng không gây họa. Từ đó, thêm một lần công phu nữa, thì Kim Đơn thành vậy.

Kẻ ngu không biết hoặc nghĩ là Tâm Thận tương giao, hoặc Nhâm Đốc tương hội, hoặc Nam Nữ tương giao, là Âm Dương hợp nhất. Không phải vậy.

Vả Kim Đơn là Tiên Thiên Hư Vô chi Khí ngưng kết mà thành, chứ đâu phải là Hậu Thiên hữu hình chi vật có thể ngưng kết mà thành đâu.[11]




Hình 13. Hồn nhiên nhất Khí 渾 然 一 氣

(Trong Hình, giữa có Vòng tròn trắng chia đôi. Trên có chữ Thủy Cực. Bên phải có chữ: Cương Nhu Tất Hóa. Bên trái có chữ: Vật Ngã giai Không. Bên dưới có chữ Anh Nhi Diện Mục.)

Sau khi Âm Dương đã hoàn phản về Hỗn Thành Anh Nhi, liền vận Thiên Tiên Chân Hỏa để tẩy hết Hậu Thiên Dư Âm, và trở về địa vị Bất Thức, Bất Tri, Thần Tàng Khí Tụ, như nói là Đàn Ông Mang Thai vậy.

Sự mang thai này chính là Anh Nhi Diện Mục, Chính là Sinh Thân thụ Khí, là Thủy Cực, là Thái Ất hàm Chân khí.

Ngu nhân không biết cho là hái Hồng Diên, Chân Hống, là hái Mai Tử (quả Mai), mà ăn mà nuốt, tưởng thế là Kết Thánh Thai. Không phải thế. Nếu nó là Hồng Diên, Mai Tử kết thành Thánh Thai, thì cái thai đó chỉ là Súc Khối, Nhục Đoàn, là Xúc Tử Quỉ Thai mà thôi. Còn vọng tưỡng gì khác nữa.



Hình 14. Thái không Hư Vô 太 空 虛 無


(Trong hình, chính giữa có một vòng tròn trắng. Bên trên có chữ Vô Cực. Bên phải có chữ: Hữu Vô Bất lập; bên trái có chữ: Thiên Địa qui Không; phía dưới có chữ Vị Sinh Thân Diện Mục.)

Thánh Thai ngưng kết, thêm vào 10 tháng ôn dưỡng, dùng Thiên Nhiên Chân Hỏa huân chưng phanh luyện, từ bé đến lớn, từ mềm đến cứng, bác tận quần Âm, Thai viên, Đơn thành. Như dưa chín rụng cuống, hốt nhiên đả phá hỗn độn, sinh ra Thanh Tịnh pháp thân, nhảy vào cảnh Thái Không Hư Vô, và siêu xuất ra ngoài Tam Giới, tức là Vị Sinh Thân Dĩ Tiền Diện Mục, tức là Vô Cực Diện Mục, là Đạo qui Vô Cực, hình thần câu diệu, dữ Đạo hợp Chân, thế là chí bình sinh của Đại Trượng Phu đã thực hiện được rồi vậy.

Kẻ ngu không biết, hoặc Đối Kính Diễn Thần, hoặc Mặc Tưởng Đỉnh Môn, hoặc Diện Bích vong hình, xuất Âm Thần v.v... Không phải vậy, Kim Đơn Thoát Hóa chi thần, là Dương Thần, cái gì là Thần xuất ra nhờ Tĩnh Công đều là Âm Thần. Dương Thần thời vạn tải trường tồn, bất sinh, bất diệt. Còn Ân Thần thì chưa bị Hỏa Luyện, là Phao Thân, hoặc Nhập Thân thiên môn vạn hộ, nếu không được Kim Đơn Đại Đạo điểm hóa, thì tuy Âm Thần ra vào tự tại, thì vẫn chưa thoát Luân Hồi.

Cho nên nói: Nhiêu quân Thiên vạn kiếp, chung thị lạc Không vong 饒 君 千 萬 終 是 落空 亡.

Bảy đồ Hình trên đều là Nghịch Hành Tạo Hóa Tu Tiên Chi Đạo.

14 đồ hình trên đều bàn về Thuận Hành, Nghịch Vận.

Đại khái nên hiểu rằng phần dưới đây đều là đem Tượng Ngôn mà Phân phán tà chính, chỉ xuất thật nghĩa, Học giả nên loại suy mà tìm hiểu.[12]

******************         

CHÚ THÍCH

[1] Ngộ Chân Trực Chỉ, q.2, bài thơ 27.

[2] Ngộ Chân Trực Chỉ, q. 2, bài thơ 37.

[3] Bài Hỏa Hậu của Lưu Nhất Minh luận về hỏa hầu rất sơ sài. Tôi sẽ trở lại vấn đề.

[4] Các chú thich về Hình Vẽ và lời bàn của Dịch Giả trong quyển sách này đều được đánh chữ nghiêng và đặt trong ngoặc đơn.

[5] Tam giáo coi Trời là Vô Cực, là Xích tử Chi Tâm (Mạnh Tử, Ly Lâu Chươmg Cú Hạ, câu 12), là Anh Nhi Diện Mục (Tượng Ngôn Phá Nghi), là Bản Lai Diện Mục (Phật). là Vô. Suy ra, ta thấy rằng nếu trong ta có Vô Cực, thì Trời cũng luôn ở trong ta. Tam Giáo cho thấy Căn Nguyên ta là Trời, thì Mục Đích của ta cũng là Trời. Mà Trời thì Hoàn Thiện, nên Đại Học dạy ta Chỉ ư chí Thiện (nghĩa là phải Tiến tới Hoàn Thiện. Bức tranh Trời, tức là Vũ Trụ với Thiên Biến vạn Hóa được vẽ ngay trên Vô Cực. Vì thế, xét nguyên Vô Cực, thì nó là Vô. Bức tranh đó là tuồng Ảo Hóa, nên ta phải quên nó để trở về với Bản Thể ta là Vô Cực.

Cho nên Vô Cực chính là Khuôn Mẫu con người lý tưởng của chúng ta, đó chính là Vòng Tròn trắng toàn vẹn bên trong.

Chỉ nhìn vào mấy hình trên ta đã học được biết bao là bài học, đã tìm ra dược Chân Tướng, tìm ra được Căn Nguyên và Cùng Đích chân thực của cuộc đời chúng ta, đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời chúng ta: Chúng ta sinh ra để tiến hóa. Cái học này Mạnh Tử xưa gọi là cái học Tự Đắc (Mạnh Tử Ly Lâu hạ, tiết 14), mà lạ lùng thay cái mục đích mà chúng ta muốn vươn tới, cái mẫu người mà Chúng Ta muốn thực hiện, lại đã nằm sẵn trong chúng ta. Người xưa gọi thế là Qui Nguyên Phản Bản.

[6] Sống theo Ngũ Hành Tương Sinh, tức là sống theo Chiều Thuận của muôn vật, mới là Sống Đạo. Sống theo Ngũ Hành tương khắc, theo chiều Phá Tán, là sống theo Đời.

[7] Nói Chân Đạo là Đạo Hoàn Phản thật hết sức sâu xa. Nói Hoàn Phản là Hoàn Phản về với Bản Lai Diện Mục của mình, lại còn sâu xa hơn nữa.

[8] Chân Đạo là phải biết phân biệt Chân Tâm và Nhân Tâm hay Phàm Tâm. Chân Tâm là Lòng Trời, nhân Tâm là Lòng người. Biết dùng Lòng Trời để chế ngự lòng người, biết theo Quang Minh chính Đại (Lòng Trời, phối Thiên), biết chế ngự cái gì Tư Tà Hắc Ám (lòng người) thì sẽ dễ dàng đắc Đạo. Thế là luôn sống thuận theo tiếng của Lương Tâm, Lương Tri vậy.

[9] Đạo Lão, Đạo Khổng chung qui là Đạo Tự Nhiên dạy người: Khử Âm, Thoái Âm (Khử Nhân Dục), và Tiến Dương (Tồn Thiên Lý). Như vậy là một thứ công phu suốt đời.

[10] Học Dịch thì biết Ngũ Hành có hai chiều sinh khắc. Chứ chưa biết Ngũ Hành Tương Sinh là Chiều Sinh Thánh sinh thần, là Thiên Lý hồn nhiên bất hoại. Cũng không biết Ngũ Hành tương khắc là chiều hủy diệt, sinh nhân sinh vật. Xưa nay tôi luôn theo chiều thuận, và tránh mọi nghịch cảnh, nay nhờ Lưu Nhất Minh tôi mới thấu triệt nghĩa lý của Ngũ Hành Tương Sinh.

[11] Như vậy đạo Kim Đơn là đạo Ức Âm, tiến Dương. Khi tới Thuần Dương là Đơn Thành.

[12] Càng đọc tôi càng hiểu Tam Giáo tu hành cốt là dạy người thành Trời. Lúc đứng tuổi là lo làm người cho hẳn hoi. Lúc già là lo làm Trời, treo gương cho đời, tiến tới Chân Thiện Mỹ. Tiến tới Chân Thiện Mỹ, là thành Trời, là Tìm lại được Bản Lai diện Mục của mình, tìm ra được Xích Tử Chi Tâm của mình, hay Vô Cực, Thái Cực của mình. Tìm ra được Trời trong mình là tìm ra Niết Bàn trong Mình, tìm ra được Dương Thần. Bao lâu còn lo xuất Âm Thần, bỏ thân này lìa thân nọ, còn lo phao thân, là còn ở trong vòng Luân Hồi.

Cơ nói : Học là học để làm Trời, Có đâu kiếp kiếp làm người thế gian. Làm trời tức là Hình Thần câu diệu, dữ Đạo hợp chân vậy.

Chúng ta không nên lạc vào mê đồ trận từ ngữ của Phật Lão, mà phải có óc chất sáng suốt để nhận định.

Uổng thay, xưa nay không biết bao nhiêu người uổng phí thời gian, uổng phí tuổi già, vì không tìm ra được mục đích của con người. Theo tôi, thì Làm Trời cũng chính là làm Phật, làm Thánh, làm Tiên.

******************         


TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI

象 言 破 疑

QUYỂN HẠ


Hình 15. Kim Đơn
金 丹

(Hình giữa là Hình Tròn trống giữa. Bên phải có chữ Viên đà đà, quang chước chước; bên trái có chữ Tịnh khỏa khỏa, quang chước chước; phía dưới có chữ: Sắc Không Bất Chước, Thành Minh Kiêm Cai.)

Kim là Kiên Cương Vĩnh Cửu Bất Hoại chi vật. Đơn là Viên Mãn Quang Tịnh Vô Khuy chi vật. 金 者 堅 剛 永 久 不 壞 之 物. 丹 者 圓 滿 光 淨 無虧 之 物. (Kim giả kiên cương vĩnh cửu bất hoại chi vật. Đan  giả viên mãn quang tịnh vô khuy chi vật.)

Các Tiên xưa mượn tên Kim Đơn để ví dụ cái Tính Bản Lai Viên Minh Chân Linh. Cái Tính đó Nho Gia gọi là Thái Cực, Thích gọi là Viên Giác, Đạo gọi là Kim Đơn. Tên tuy chia Ba, nhưng chỉ là Một Vật. Nho tu theo thì gọi là Thánh, Thích tu theo thì gọi là Phật, Đạo tu theo thì gọi là Tiên. Tam giáo khi thành Đạo căn bản là tu được cái Bản Lai Chân Tính đó.

Kẻ ngu không biết nên dùng ngũ kim, bát thạch để đoàn luyện thành dược mà họ gọi là Kim đơn, không phải vậy.

Chân Tính là từ trong lò Đại Tạo lớn của Trời Đất, đã qua Lửa đoàn luyện thành đơn đồng trường cửu cùng trời đất, đồng quang minh với Nhật Nguyệt, như vậy há phải là vật hữu chất trong thế gian mà thành được đâu.[1]



Hình 16. Thiên Địa chi tâm 天 地 之 心

(Trong hình vẽ này, nơi chính giữa có 2 vòng tròn đồng tâm. Vòng ngoài nửa trên trắng, có chữ Thiên. Nửa dưới đen, có chữ Địa. Vòng tròn trắng trống rỗng bên trong, có chữ Tâm. Phía phải có chữ Hắc Bạch Tương Phù. Bên phải có chữ Âm Dương tương hợp. Phía dưới có chữ Tịch Nhiên Bất Động, cảm nhi toại thông.)

Điều cần yếu nhất của Tu Chân là phải nhận ra được Thiên Địa chi Tâm. Thiên Địa chi tâm là Thiên Lương Chân Tâm đã nói trước đây.

Cái Tâm này, hoảng hốt tra minh, là một hiện tượng không nên coi thường. Nó có hiện tượng Hư Thất sinh bạch và đột nhiên sáng ra, làm lộ xuất đầu đuôi. Thiên thuộc Dương Địa thuộc Âm. Thiên Địa chi Tâm là Âm bất ly Dương, Dương bất ly Âm, là Âm Dương tương hợp chi tâm. Âm Dương hợp mới có Tâm này, Âm Dương ly không có Tâm này. Nó phi sắc phi không, tức sắc, tức không, phi Hữu, phi Vô, tức Hữu tức Vô, Sắc Không Vô Ngại, Hữu Vô Bất Lập, nó là Chân Không Trung chi diệu hữu.

Biết được Tâm này, giữ không để mất, thế là Đại Bản đã Lập, còn các chuyện khác sẽ dễ dàng.

Ngu nhân không biết, cứ tưởng cái tâm thịt ngoan không này là Thiên Địa chi Tâm, hay lấy Động Tâm hay Tĩnh Tâm là Thiên Địa chi tâm, hay coi cái Tâm ở Trung Cung là Thiên Địa chi tâm, tất cả đều không phải.

Vả Ngoan Tâm là Hậu Thiên tư dục chi tâm. Động tâm là vướng vào hữu, Tĩnh tâm là vướng vào vô, Chú Tâm là hướng vào Tượng, những cái Tâm ấy đâu phải là Thiên Địa chi Tâm.

Hai bên như Mây và Bùn, cho nên nói Thiên Địa chi tâm là cái gì Động Tĩnh như Một, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông, tịch nhiên bất động, như thế thì đâu phải là Nhục Đoàn Ngoan Tâm? [2]



Hình 17. Yển Nguyệt Lô
偃 月 爐


(Chính giữa hình vẽ là một hình tròn, hầu như đen tuyền. Phía dưới có một hình trăng lưỡi liềm ngửa mặt lên trên [Yển Nguyệt Lô]. Phía phải có chữ: Tĩnh Cực, nhi Động. phía trái có chữ Âm Lý sinh Dương; phía dưới có chữ: Đạo Tâm Phát Động.)

Yển Nguyệt là Mặt Trăng ngửa có hình Mày Tằm. Mặt trăng sau ngày 30 sáng lại. Ví như con người Tĩnh Cực hốt nhiên thấy Thiên Căn Hiện Lộ, cũng gọi là Đạo Tâm, có hình tượng mặt trăng ngửa. Lô là Lò để chứa lửa, chính vì Đạo Tâm là Dương Quang, có thể đoàn luyện tẩy trừ hết Khí Âm trong con người, chơ nên gọi là Lò. Kỳ thật Đạo Tâm chính là Thiên Địa chi tâm. Thiên Địa chi Tâm là Thể, Đạo Tâm là Dụng, hai đằng tuy hai nhưng là một.

Kẻ ngu không biết, coi phía dưới Đơn Điền, phía trên xương hông là Yển Nguyệt Lô; hoặc nhìn chữ Tâm thấy nó cong cong hướng về phía trên, nên tưởng trái Tim con người là Yển Nguyệt Lô;, còn phái Thái Chiến thì lại coi Âm Hộ đàn bà là Yển Nguyệt Lô. Tất cả đều sai.


Yển Nguyệt Lô chính là ánh sáng của Đạo Tâm. Ánh Sáng này chiếu vào đâu, thì nơi đó không còn tà ngụy. Nó có thể sinh thánh sinh tiên.

Tử Dương Ông nói:

Hưu nê Đơn Táo phí công phu, Luyện Dược tu tầm Yển Nguyệt Lô

休 泥 丹 灶 費 功 夫煉 藥 須 尋 偃 月 爐 偃 月 爐:

[3] Khỏi dựng lò đơn phí công phu, Luyện Dược tìm sao được Đạo Tâm.

Lại nói:

Yển nguyệt lô trung Ngọc Nhụy sinh. Chu Sa Đỉnh lý Thủy Ngân bình, Chỉ nhân hỏa lực điều hòa hậu, Chủng đắc hoàng nha tiệm trưởng thành

中 玉 蕊 生 朱 砂 鼎 裡 水 銀 平 只 因 火 力 調 和 後 種 得 黃 芽 漸 長 成

(Yển Nguyệt lô trung Ngọc Nhụy sinh. Trong đỉnh Chu Sa thủy ngân bình. Chỉ nhân hỏa lực điều hòa hậu, Trồng được Hoàng Nha cứ lớn dần.) [4]

Như vậy sẽ hiểu được ý của Yển Nguyệt Lô.[5]


Hình 18. Chu Sa Đỉnh 朱 砂 鼎

(Hình vẽ này là 1 vòng tròn trắng với chữ Thần ở chính giữa.Bên phải có chữ Chí Hư Chí Linh, bên trái có chữ Hữu Cảm Hữu Ứng. Phía dưới có các chữ Nguyên Thần Thường Tồn, Thức Thần bất khởi.)

Chu Sa là màu của Lửa. Vì lửa có sức đoàn luyện chư vật, khứ cựu, hoán tân, cho nên con người coi cái Đỉnh là tượng hình cho lửa. Nó là vật Tối Linh Tối Thần, biến cải vạn sự, nên ví dụ nó là Thần Minh, chiếu khắp mọi nơi, thành tựu vạn sự. Vả Thần có Nguyên Thần cũng có Thức Thần. Thức Thần có thể Bại Đạo, Nguyên Thần có thể Thành Đạo.

Thức Thần thì là Lịch Kiếp Căn Trần, nhờ Nguyên Thần linh ứng nên thành vọng, nó hoạt động cho tới khi táng khứ Tính Mệnh mới ngừng. Người tu hành Đại Pháp phải biết dùng Nguyên Thần để chế ngự Thức Thần. Thức Thần mà không khởi thì Tà Hỏa sẽ diệt, và Chân Hỏa sẽ sinh, Khí Trời hòa hợp, Sinh Cơ bất tức, Đại Đạo có hi vọng thành tựu.

Kẻ ngu không biết, nhận cái Thức Thần Chiêu Chiêu Linh Linh làm Nguyên Thần là sai. Vì Nguyên Thần là Bất Thần chi Thần, hết sức Linh Diệu, hết sức Chân Thực, nó là Thần Linh thật vậy. Tuy nhiên tronh Linh có giả, cái Linh giả tạo chính là Luân Hồi chủng tử.

Cổ tiên xưa nói: Vô lượng kiếp lai sinh tử bản, Si nhân hoán tác Bản Lai Nhân

無 量 劫 來 生 死 本 痴 人 喚 作 本 來 人

(Cái gốc Sinh Tử từ Muôn Kiếp, người Ngu lại ngỡ Gốc con người).

Đó là Thức Thần vậy.[6]


Hình 19. Nguyên (Huyền) Tẫn chi môn 玄 牝 之 門

(Hình vẽ chính giữa có 2 vòng tròn đồng tâm. Vòng ngoài chia thành 2 nửa: Nửa trắng bên phải, nửa đen bên trái. Bên phải có chữ: Âm Dương chi Môn; phía trái có chữ: Động Tĩnh chi quan. Phía dưới có chữ: Tứ đại bất chước xứ.)

Nguyên (Huyền) là Dương, là Cương, là Động. Tẫn là Âm, là Nhu là Tĩnh. Nguyên Tẫn chi Môn là Khiếu Âm Dương, là Cửa Cương Nhu, là cửa Động Tĩnh, nó vô phương, vô sở, vô hình, vô tượng, phảng phất, khúc tiếu, là một khiếu Hư Huyền, ở nơi Ngũ Hành không thể tới, tứ đại không thể vào, chí vô nhưng hàm chí hữu, đó là Âm Dương tương hợp nhất khiếu.

Kẻ ngu không biết, tưởng Mũi Mồm là Huyền Tẫn. Mũi Mồm là cửa ra vào của Hô Hấp, không phải là Cửa ra vào của Âm Dương. Âm Dương tương hợp thời sinh tiên sinh Phật, Mũi Mồm hô hấp đâu có sinh Tiên sinh Phật.

Ngộ Chân Thiên có thơ:

Huyền Tẫn chi Môn thế hãn tri,

玄 牝 之 門 世 罕 知

Mạc tương khẩu tị vọng thi vi. [7]

莫 將 口 鼻 妄 施 為

Huyền tẫn chi môn ít kẻ hay,

Phải đâu mũi miệng hít thở này.

Chính là vì vậy.[8]


Hình 20. Nguyên (Huyền) Quan Nhất Khiếu 元 關 一 竅


(Hình vẽ chính giữa có Vòng Tròn trắng chia thành Tứ Chính. Phía phải có Chữ: Thần Khí Chi Huyệt, phía trái có chữ: Khảm Ly Chi Tinh, phía dưới có chữ: Hữu Vô tương nhập xứ.)

Nguyên Quan (Huyền Quan) là quan khẩu chí Huyền, chí Diệu, cũng gọi là Sinh Tử Hộ, Sinh Sát Thất, Thiên Nhân giới, Hình Đức Môn, Hữu Vô Khiếu, Thần Khí Huyệt, Hư Thật Địa, Thập Tự Lộ v.v... Tất cả những danh từ đó cốt để hình dung cái Khiếu đó mà thôi. Nguyên quan cũng là biệt danh của Huyền Tẫn. Ví Âm Dương ở đó, cho nên gọi là Nguyên Tẫn Môn, vì nó Huyền Diệu bất trắc, nên gọi là Huyền Quan Khiếu. Kỳ thật chỉ là Khiếu này mà thôi.

Kẻ ngu không biết tưởng chỗ dưới Tim trên Thận là Huyền Quan, hoặc coi tim Rốn là Huyền Quan, hoặc coi Vĩ Lư là Huyền Quan, hoặc coi Giáp Tích Song Quan là Huyền Quan. Tất cả đều sai.

Huyền Quan thời vô định vị, có định vị thì sai. Trần Nê Hoàn gọi Huyền Quan là Niệm Đầu khởi Xứ (chỗ phát sinh ra Tư Tưởng). Tưởng là Đúng nhưng vẫn chưa phải. Niệm Đầu khởi Xứ là đã sa vào Hậu Thiên, đã là Hữu Hình chi vật thì làm sao đáng gọi là Huyền Quan.

Nay ta chỉ rõ nó cho đại chúng biết nó là ở chỗ Hoảng Hốt Tra Minh chi gian, là bờ cõi của Hữu Vô. Ngộ Chân Thiên viết:

Hoảng hốt chi trung tầm hữu tượng,

恍 惚之 中 尋 有 象

Yểu minh chi nội mịch Chân Tinh,

杳 冥 之 內 覓 真 精

Hữu Vô tòng thử tự tương nhập,

有 無 從 此 自 相 入

Vị kiến như hà tưởng đắc thành.[9]

未 見如 何 想 得 成

Linh tri phải tìm trong Hoảng Hốt.

Chân Tri phải thấy, tự Tra Minh.

Hữu Vô từ đó liền tương hợp.

Nếu không biết vậy, luyện sao thành?

Tứ Bách Tự Bi viết:

Thử Khiếu Phi phàm Khiếu,

此 竅非 凡 竅

Kiền Khôn cộng hiệp thành,

乾 坤共 合 成

Danh vi Thần Khí huyệt,

名 為神 氣 穴

Nội hữu Khảm Ly tinh.

內 有坎 離 精

Khiếu này chẳng phải Khiếu Phàm,

Kiền Khôn cộng lại mới hoàn thành nên.

Thần Khí Huyệt ấy chính tên,

Trong có Ly Khảm tinh nguyên đất trời.

Chính là để chỉ Khiếu này.[10]


Hình 21. Cốc Thần 谷 神

(Giữa hình vẽ trên, có 2 vòng tròn đồng tâm. Vòng ngoài chia thành 2 nửa: Nửa phải trắng, có chữ Cốc; nửa trái đen cũng có chữ Cốc. Hình tròn trắng giữa có chữ Thần. Phía phải có 4 chữ: Âm Dương tương hợp; phía phải có chữ: Cốc thần thường tồn; phía dưới có các chữ: Cốc đắc Nhất dĩ doanh.)

Cốc Thần là Thần ở trong Không Cốc. Hang tên là Nhai Oa Oa.

Vì 2 bên là núi cao, giữa có một hang. Người nói trong hang, phát thành tiếng vang, nên gọi là Cốc Thần.

Người tu Đạo mượn cảnh này để ví dụ thần Hư Linh trong con người.

Vì Tâm Hư thời Linh. Không Hư thì không Linh. Linh sinh ra từ Hư cho nên gọi là Cốc Thần.

Thần là Vô Hình Vô Tượng, linh không thể tưởng, cho nên nói: Tịch Nhiên Bất Động, Cảm Nhi Toại Thông, đó là Thần này. Ngưng kết Thánh Thai cũng là Thần này.

Kẻ ngu không biết, nên gọi Thần Tồn Thiên Cốc hay Thần Thủ Huỳnh Đình là Dưỡng Cốc Thần, không phải vậy.

Nói Thần Tồn Thiên Cốc hay Thần Thủ Huỳnh Đình, thì là thần bất hư, thì làm sao có thần. Bất hư là không có Thần, thì làm sao mà gọi là Cốc Thần được.

Ngộ Chân Thiên viết:

Yếu đắc Cốc Thần trường bất tử,

要 得谷 神 長 不 死

Tu bằng Huyền Tẫn lập căn ki.

須 憑元 牝 立 根 基

Chân tinh ký phản Hoàng Kim thất,

真 精既 返 黃 金 室

Nhất khỏa linh quang vĩnh bất ly.

一 顆靈 光 永 不 離

Muốn được Cốc Thần thường Bất Tử,

Huyền Tẩn phải lo lập căn ki.

Chân tinh về được Huỳnh Kim thất,

Một hạt Minh Châu chẳng hề ly.

Huyền Tẫn mà hợp thì giữa sẽ trống. Trống thì Chân Linh sẽ thường tồn, và sẽ không tối tăm. Chân Tinh, Linh Quang hay Cốc Thần đều là những tiếng ví dụ cái Chân Linh đó vậy.[11]


Hình 22. Kim Đỉnh, Ngọc Lô 金 鼎 玉 爐


(Hình này, trên có hai quẻ Kiền (đen), Khôn (trắng). Dưới quẻ Kiền có ghi: Kiền cương tác Đỉnh dược bất phi. Dưới quẻ Khôn có ghi: Khôn Nhu vi Lô hỏa bất táo.)


Kim Đỉnh là vật Cương Cường Kiên Cố. Dụ nhân chí niệm chuyên nhất, có thể Tải Đạo, lại còn gọi là Kim Đỉnh.

Ngọc Lô là Ôn Nhu Bình Tĩnh chi vật, dụ Công Phu tiệm tiến của con người, có thể Bền Xa, cũng còn gọi là Khôn Lô.

Kẻ ngu không biết, nên làm đỉnh sắt, đắp lò đất, để thiêu luyện kim thạch, mong luyên thành đơn, không phải vậy.

Vì Vạc hay Lò hữu hình thì chỉ có thể luyện hữu hinh phàm dược, chứ không luyện được Tiên dược vô hình.

Cổ Tiên nói:

Đỉnh đỉnh nguyên vô đỉnh, Lô lô diệc phi lô

鼎 鼎 原 無 鼎 爐 爐 亦 非 爐

(Đỉnh vốn không phải Đỉnh, Lô thật sự chẳng phải Lô).

Gọi là Lô Đỉnh là chỉ công phu của người Tu Đạo, biết sử dụng Cương Nhu để làm nên chuyện.

Cũng như các nhà nhiêu luyện gia nói:

Có Đỉnh không thể không có Lô, có Lô không thể không có Đỉnh. Có đủ Đỉnh Lô mới có thể thành dược vậy.

Hình 23. Ô Thố, Dược Vật 烏 兔 藥 物

(Hình vẽ này trên có 2 quẻ Ly và Khảm. Dưới chữ Ly có chữ Nhật, dười chữ Khảm có chữ Nguyệt. Các hào dương trong 2 quẻ Khảm Ly đều tô đen, các hào Âm đều tô trắng. Các Hình từ 23 đến 26 cũng theo một lối như vậy. Dưới quẻ Ly, có hàng chữ: Ký khu nhị vật qui Hoàng Đạo, dưới quẻ Khảm có hàng chữ: Trẩm đích Kim Đơn bất giải sinh.)

Trong Nhật, có Kim Ô, là Âm ở trong Dương, trong Nguyệt có Ngọc Thố, là Dương ở trong Âm. Ở nơi quẻ, thì Nhật là Ly, ngoài là Dương trong là Âm, ý muốn nói trong Cương có Nhu. Nguyệt ở quẻ là Khảm, ý muốn nói trong Nhu có Cương.

Đạo Kim Đơn chỉ cốt là lấy Nhu ở trong Cương, lấy Cương ở trong Nhu. Đó là hai vị Chân Âm Chân Dương của Đại Dược. Khi dung hóa chúng thành Nhất Khí thì gọi là Đơn.

Gọi là Dược Vật vì Chân Âm, Chân Dương có thể cải lão hoàn đồng, diên niên ích thọ vậy.

Đến như nói Qui Xà bàn kết, Thủy Hỏa tương tế, thì cũng là ý đó, thủ tượng đa đoan để nói lên Đạo Chân Âm Chân Dương hợp nhất.

Kẻ ngu không hiểu, thấy hai chữ Ô, Thố, thì dùng miệng đề húy Nhật Tinh, Nguyệt Hoa, hoặc dùng mắt để tiếp Nhật Tinh Nguyệt Hoa, như vậy là sai.


Vả Trời có Nhật Nguyệt của Trời, người có Nhật Nguyệt của người.

Chân Âm Chân Dương trong con người chính là Ô Thố, Nhật Nguyệt vậy.

Thiên biên Nhật Nguyệt Tinh Hoa, với ta rất xa, làm sao mà hái về được. Nếu như hái được thì chỉ là Ngoại Thân Tà Khí mà thôi.

Lâu ngày trong thì sẽ sinh bệnh cổ trướng, ngoài thì bị mù, không được ích lợi gì cả, chỉ bị tổn hại mà thôi.


Hình 24. Long Hổ tương hội 龍 虎 相 會

(Hình vẽ này có 2 quẻ Chấn Mộc, Đoài Kim. Dưới quẻ Chấn có hai hàng chữ: Long tòng Đông Hải lai, Hồ hướng Tây Sơn xuất. Dưới quẻ Đoài có hai hàng chữ: Lưỡng thú chiến nhất tràng, Hóa thành Thiên Địa Tủy.)


Long Tính Nhu chủ sinh Vật, thuộc Mộc, tại quẻ là Chấn, dụ là Nhu Tính con người.

Chấn vốn là Dương, nhưng lại có Tượng Nhu, vì là Dương Thiểu Âm Đa vậy.

Hổ Tính Cương chủ Sát vật, chủ Kim, ở nơi quẻ là Đoài, dụ là Cương Tình của con người.

Đòai vốn là Âm, nhưng lại có Tượng Cương, vì Âm Thiểu Dương Đa vậy.

Tính ấy, tình ấy, đôi bên xa cách nhau, đó là Khí Tính Trần Tình làm Thương Sinh. Nếu hai bên tương hợp thì là Chân Tính, Chân Tình và Ích Sinh. Long Hổ tương hội, thế là Dĩ Tính Cầu Tình, Dĩ Tình qui Tính, Tính Tình hợp nhất vậy. Đến như Đông Gia Nữ, Tây Xá Lang mà phối hợp thành phu thê, Trưởng Nam, Thiếu Nữ lưỡng gia hợp nhất, Kim Mộc tương tính, các tượng như vậy, đều là ví dụ cho cái Chân Tính Chân Tình giao hội.


Kẻ ngu không biết coi Gan là Long, coi Phổi là Hổ, vận Can Phế chi khí về tim Rốn (trung tâm của Rốn), hay về Đan Điền, hay về Huỳnh Đình, tưởng thế là Long Hổ Giao Cấu, như vậy là sai.

Có biết đâu rằng Can Phế chi khí là Hậu Thiên hữu hình chi khí, không thể đem về ngưng kết ở một nơi nào, thế là miễn cưỡng đoàn tụ, lâu ngày sẽ thành bệnh Cổ, không thuốc gì chữa nổi, làm cho mình chóng chết thật là ngu vậy.


Hình 25. Khảm Ly điên đảo 坎 離 顛 倒

(Hình vẽ này có quẻ Khảm ở trên, quẻ Ly ở Dưới (Thưỷ Hỏa Ký Tế). Bên phải có hàng chữ: Thủ tương Khảm vị Tâm Trung Thực; bên trái có hàng chữ: Điểm hóa Ly cung Phúc nội Âm; Phía dưới có chữ Thủy Hỏa tương tế.)


Quẻ Khảm Âm Ngoài, Dương trong; quẻ Ly Dương Ngoài, Âm Trong.

Dương trong là Thủy, Âm ngoài là Hỏa.

Đơn Đạo lấy hào Dương trong quẻ Khảm, thay cho hào Âm trong quẻ Ly.

Lấy nước giúp lửa, nên gọi là Thủy trên Hỏa dưới, là Thủy Hỏa Điên Đảo, hay Khảm Ly điên đảo.

Nói thế là muốn chỉ về Thần Thủy của Đạo Tâm Chân Tri, dùng để chế ngự Tà Hỏa của Nhân Tâm Linh Tri vậy.

Chân tri của ta, thì Ngoài Tối trong sáng, như quẻ Khảm ngoại Âm, nội Dương. Linh Tri của ta, thì Ngoài Sáng Trong Tối, như quẻ Ly, ngoại Dương, nội Âm. Dùng Chân Tri để chế Linh Tri, dùng Linh Tri để thuận Chân Tri, Chân Linh như nhất, ngưng kết thành Đơn, cũng y như Điên Đảo Khảm Ly, Thủy Hỏa tương tế vậy.

Đến như Anh Nhi, Xá Nữ, Hắc Diên, Hồng Cống cũng đều cốt hình dung Chân Tri, Linh Tri để cho hai bên hợp nhất vậy.

Kẻ ngu không biết, gọi Thận là Khảm, gọi Tim là Ly, vận thận khí giao lên Tâm, vận Tâm Khí giao xuống Thận, gọi thế là Điên Đảo Khảm Ly. Và còn có Thái Thủ Khuê Đơn. Gọi Nam nữ là Anh Nhi, Xá Nữ, gọi Đàn Ông nằm dưới, Đàn Bà nằm trên là Khảm Ly Điên Đảo. Các nhà Thiêu Luyện gia còn gọi là dùng Hắc Diên Chế Thủy Ngân, hoặc dưới Lò có Lửa, trong Vạc chứa nước, thế là Khảm Ly Điên Đảo, là Thủy Hỏa Tương Tế, những chuyện đó đều sai.

Phàm Đạo Tu Chân là chỉ tu những gì Chân Chính.

Cái gì là hữu hình là Vật Chất Cặn Bã đều không phải.

Cái gì là Giả là không Chân Thật thì làm sao có thể là Chân được.


Hình 26. Ngũ Hành Điên Đảo 五 行 顛 倒

(Hình này có 4 quẻ: Ly, Chấn ở phía phải, Khảm Đoài ở phía trái. Ở phía dưới bên phải có 2 hàng chữ: Ngũ Hành Bất Thuận Hành, Long tòng hỏa lý xuất; phía dưới bên trái có 2 hàng chữ: Ngũ Hành điên đảo thuật, Hổ hướng Thủy trung sinh.)

Ngũ Hành Thuận sinh là Mộc sinh Hỏa, Kim sinh Thủy.

Ngũ Hành Điên Đảo là Hỏa sinh Mộc, Thủy sinh Kim.             

Vì Gỗ mà đã sinh từ Lửa, thì là thứ gỗ không thể bị hủy hoại, như Mộc đã bị Hỏa đoàn luyện thành Khôi (tro), xuống đất thành thường tồn bất hoại.

Kim mà sinh xuất từ Nước thì sẽ thành loại Kim bất hoại. Như Tán Kim Lô Trung, hợp thành một khối, phía ngoài sáng láng.

Hỏa Sinh Mộc là ví dụ về Bản Tính Con Người, sinh ra từ lò Đại Tạo, là thứ Tính không hề bị Dao Động.

Thủy Sinh Kim là ví dụ Chân Tình Con Người, đã vượt qua bể dục, đã thoát ba đào, là thứ Tình không còn nhiễm Trần Cấu.

Cổ Tiên xưa nói:

Ngũ Hành Thuận Hành, Pháp Giới Hỏa Khanh, Ngũ Hành Điên Đảo, Đại Địa thất Bảo

五 行 順 行 法 界 火 坑 五 行 顛 倒 大 地 七 寶

chính là vì vậy.

Người ngu không biết nên vận Đông chuyển Tây, thái hạ, bổ thượng, lộn lạo trước sau, cho thế là Ngũ Hành Điên Đảo. Không phải vậy.

Có biết đâu rằng trong người ta là Thuần Âm, ngoài thì có Tâm, Can, Tì, Phế, Thận, mà Nhãn Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, cũng đều là giả vật. Khi yết hầu đứt hơi, thì con người chỉ là một đống huyệt nhục xú uế. Có cái gì là Chân đâu. Dùng những giả vật như vậy mà mơ sẽ Liễu Tính, Liễu Mệnh, thì làm sao mà được?


Hình 27. Huỳnh Bà Môi Sính 黃 婆 媒 娉

(Hình vẽ có 2 vòng tròn đồng tâm. Vòng tròn bên trong, nơi Tứ Chính có 4 chữ: Hỏa, Kim, Thủy, Mộc. Chính trung có chữ Mậu Kỷ, Phía dưới có 2 hàng chữ: Bên phải ghi: Ly Khảm hoàn vô Mậu Kỷ; bên trái ghi: Tuy hàm Tứ Tượng bất thành Đơn.)

Huỳnh Bà là trung ương thổ mẫu, có thể điều hòa Âm Dương, hòa hợp tứ tượng, cho nên gọi là Huỳnh Bà. Đơn Thư ví dụ đó là Chân Ý của Chân Tín, nó có thể hòa hợp Tính Tình, dưỡng Tinh Thần.

Chân Ý Chân Tín tức là Huỳnh Bà trong chúng ta. Gọi là Hoành Trung thông lý chính là vì thế.[12]

Kẻ ngu không biết dùng ý vận khí Ngũ Tạng, hội họp lại gọi là Huỳnh Bà Môi Sính. Lại còn có những kẻ tạo nghiệt coi một Bà Già biết nói, chuyên xui Nam Nữ hành dâm, lấy con gái trinh, lấy kinh nguyệt đầu tiên, lấy tinh huyết trai gái là Huỳnh Bà Môi Sính thật là quá sai vậy.


Chân Thổ thời Vô Vị, Chân Ý thời vô hình, Không vật nào mà không sinh, không lý nào mà không có, có thể Hội Tam Gia, hợp Ngũ Hành, nên gọi là Huỳnh Bà Môi Sính, chứ đâu phải là một Lão Phụ tác yêu, tác quái.



Hình 28. Nhị Bát Lưỡng Huyền 二 八 兩 弦


(Giữa Hình này có một vòng tròn đen trắng chia đôi: nửa phải trắng, nửa trái đen, phía phải có dòng chữ: Thượng Huyền Kim Bát Lạng, phía trái có chữ: Hạ Huyền Thủy Bán Cân; phía dưới có hai dòng chữ: Lưỡng Huyền hợp Kỳ Tinh, Kiền Khôn thể nãi thành.)


Mặt trăng giữa 2 ngày Hối Sóc thì tương giao với Mặt Trời.

Đến ngày mồng 3 thì đã hơi sáng, tới ngày mồng 8, thì Âm trung Dương bán như hình dây cung, nên gọi là Thượng Huyền.


Đến ngày 16 thì tròn đầy, có chút thai âm bên trong, Tượng có chút đen.

Đến ngày 23 thì Dương trung Âm bán, như hình dây cung. Thế là Hạ Huyền.

Thượng Huyền được Thủy Trung Chi Kim tám lạng. Hạ Huyền được Kim Trung Chi Thủy tám lạng. Hai Tám là Một Cân.

Kim Thủy cùng đình, là tượng Âm Dương tương hợp. Đơn Thư mượn thế để dụ Cương Nhu tương Đáng, bất Thiên bất Ỷ, chí Trung, chí Chính.

Kẻ ngu không hiểu cho rằng khi con trai 16 tuổi, thì nhị bát Lưỡng Huyền chi khí túc, phải lặc bế Âm tinh, hoặc cho rằng Hắc Diên bát lạng, Thủy Ngân nửa cân là Nhị Bát Lưỡng Huyền chi dược liệu, dùng để Thiêu Luyện, Phục Thực, đều không phải vậy.


Tứ Bách Tự viết:

Thượng Huyền Kim Bát lạng.

      上 弦金 八 兩

Hạ Huyền Thủy Bán Cân,

      下 弦水 半 斤

Lưỡng Huyền hợp kỳ Tinh,

      兩 弦合 其 精

Kiền Khôn Thể Nãi Thành.

      乾 坤體 乃 成

Lưỡng Huyền là Nhất Âm, Nhất Dương. Kiền Cương là Dương. Khôn Nhu là Âm. Âm Dương tương phối, Kiền Khôn Thể Thành.

Đơn Nguyên có tượng như vậy. Như vậy là hiểu được ý của Lưỡng Huyền.


Hình 29. Thử Mễ Châu 黍 米 珠

(Hình này chính giữa có một vòng tròn trắng. Chính giữa có chữ Châu, Trên dưới có hai chữ: Hồng Mông. Phía phải có chữ: Tiên Thiên, Tiên Địa; Phía trái có chữ: Bất Sắc, bất Không ; Phía dười có hàng chữ: Thái Ất hàm Chân Khí.)

Con người trước khi sinh ra, khi còn ở trong bào thai, khi còn Hỗn Hỗn, Độn Độn, hôn hôn, mê mê, chỉ có Hồn Nhiên Nhất Khí ban tòan, không có vật chi khác, nên gọi là Thái Ất hàm Chân Khí.

Khí này Chí Thần, Chí Diệu, Chí Hư Chí Linh; Chí Vô nhưng tàng Chí Hữu ; Tam Nguyên, Bát Quái, Tứ Tượng Ngũ Hành đều bao gồm ở bên trong. Nên tuy Vô Hình mà vẫn biến hóa vô cùng. Ngũ tạng,Lục Phủ, Cửu Khiếu, Bách Hài đều tự nhiên thành tựu.

Vì nó Chí Thần, Chí Diệu, Chí Hư, Chí Linh, nên còn gọi là Chân Linh, hay Bất Thần Chi Thần.

Khi còn trong lòng mẹ, một Khí Hàm Chân, gọi là Chân Khí.

Khi đã lọt lòng mẹ, thì Linh hàm Nhất khí nên gọi là Linh Khí. Một Khí làm thể, còn Chân Không, Chân Linh làm dụng, tức là Chân Khí, Chân Linh, Chân Không, Diệu Hữu. Tên tuy có khác, nhưng chỉ là Nhất Chân.

Cái Chân nàu vô hình, vô tượng, vô thanh, vô xú, không thể dùng lời mà truyền, không thể dùng bút mà vẽ. Nó phảng phất hìng dung chẳng qua chỉ nhỏ như một hạt lúa.

Cho nên Cổ Tiên xưa đều gọi cái Chân này là Thử Mễ Bảo Châu 黍 米寶 珠.  Tuy gọi là Thử Mễ, nhưng không có hình dáng của một hạt lúa. Vì nó có một điểm Linh khí ẩn tại Trung Ương, nên gọi là Thử Mễ. Vì nó có một điểm Linh Khí của một hạt lúa, nên hỗn độn hư không bao trùm tam giới, nên gọi là Thử Mễ Châu. Suy cho đến căn để, thì chỉ là Hồng Mông vị phán chi khí mà thôi.

Kẻ ngu không biết nên nghĩ rằng Nữ tử thủ Kinh trung Mai Tử là Thử Mễ Châu, còn các nhà Công Phu thì lài cho rằng tụ thần vào Ming Đường lâu sẽ thất ánh sáng tán ra là Thử Mễ Châu, tất cả đều sai.

Vả Hồng Mông vị phán chi Thử Châu là Sinh thánh, sinh Hiền, thành tiên, thành Phật chi Linh Bảo chứ đâu phải là Trọc Huyết, hay là Tồn Tưởng chi quang?

Sách Tứ Bách Tự nói: Hỗn Độn bao Hư Không, Hư Không bao Tam giới 混 沌包 虛 空 虛 空 包 三 界.


Tìm căn nguyên của Nhất Lạp Thử, Trương Tam Phong đời Tống nói:

Thùy bất tri, Thùy bất hội, Thùy bất hành, đô chỉ tại Hồng Mông vị phán nhất lạp thử mễ thượng mê

誰 不 知 誰 不 會 誰不 行 都 只 在 鴻 濛 未 判 一 粒 黍 米 上 迷

(Ai không hiểu, ai không hay, ai không hành, chỉ vì không hiểu Hồng Mông vị phán nhất lạp mễ châu mà thôi).



Hình 30. Hỏa Hầu quải tượng 火 候 卦 象

(Hình vẽ này, là một hình tròn trắng, trong có các chữ: Lục thập quải tại nội hành. Ở Tứ Chính có 4 chữ: Kiền, Khôn, Khản, Ly. Phía phải có chữ: Cương Nhu vi thể; phía trái có chữ: Hối Minh vi dụng; phía dưới có 2 dòng chữ: Dương Hỏa hữu Thời; Âm Phù hữu Hậu.)

Sách Đơn Kinh mượn 64 quẻ gọi là Dương Hỏa, Âm Phù chi pháp tượng.

Gọi Kiền Khôn là Đỉnh Lô vì coi Âm Dương Cương Nhu là Thể, gọi Khảm Ly là Dược Vật, vì chúng Cương Nhu Trung Chính nên là Dụng.

Gọi Phục Cấu là Âm Dương giao giới. Vì thấy Cương Nhu vận dụng có thời tiết.

Gọi Truân Mông là Tạo Hóa chi thủy, vì cho rằng khi đáng Tiến Dương Hỏa thì Dụng Cương, đáng Thoái Hỏa thì phải Dụng Nhu; gọi Ký Vị là Tạo Hóa chi Trung. Khi cần Dương Hỏa thí dụng Cương, nhưng không Thái Quá; Khi đáng Thoái Âm Phù thì Dụng Nhu, nhưng không được Bất Cập.

Kỳ dư còn 54 quẻ đều tùy vào các quẻ Kiền Khôn, Khảm Ly, Phục Cấu, Truân Mông, Ký Vị, mà vận dụng cho thật tự nhiên. Nói tóm lại, đều cốt sao cho Âm Dương tương đáng, hai bên hợp nhất, quay về Hỗn Thành Nhất Tượng mà thôi.

Kẻ ngu không biết, y cứ vào chuyện 64 quẻ có dính líu tới năm, tháng, ngày, giờ, mà cưỡng bách dụng công trên đó, thiệt là không phải.

Vả Âm Dương Tạo Hóa nhất khí lưu hành, chu nhi phục thủy, tuần hoàn vô đoan, chú đâu có vận hành theo 64 quẻ. 64 quẻ là do thánh nhân Quan Thiên, Tượng Địa, thể theo Âm Dương Tạo Hóa và vẽ thành 64 quẻ đề giải thích Âm Dương Tạo Hóa vậy.

Nhân Thân Tạo Hóa, với Thiên Địa Tạo Hóa tương hợp, thì tự nhiên cũng có 64 quẻ, cần gì phải nệ văn, chất tượng đâu?


Hình 31. Sinh Ngã chi Môn 生 我 之 門

(Hình vẽ này giữa có một hình tròn gần đen hết. Duy phía dưới có hình Vầng Trăng Lưỡi Liềm Yểm Nguyệt Lô. Bên phải có chữ: Dược Xuất Tây Nam thị Khôn Vị. Bên Trái có chữ: Dục tầm Khôn Vị, khởi ly nhân, phía dưới có chữ: Tây Nam Đắc Bằng.)

Mặt trăng khi đến Tây Nam thời hết sức Tối, và ánh sáng bắt đầu sinh.

Tây Nam thuộc Khôn, là Phương Thuần Âm.

Thuần Âm chi hạ, nhất Dương tiềm sinh, như vậy trên là quẻ Khôn, Dưới là quẻ Chấn, tại quẻ là Phục, tại mặt trăng là Yểm Nguyệt, đều muốn dụ rằng: Khi cực Tĩnh, thì Thiên Tâm hiện lộ, cũng gọi là Đạo Tâm, hay Thiên Lương Chân Tâm, như trước đã nói là Yển Nguyệt Lô.


 Nếu thấy được cái Tâm đó, bảo thủ nó không cho mất đi, mượn nó để Tiến Dương, thoái Âm, như mèo bắt chuột, thì Dương sẽ tiệm sinh, Âm sẽ tiệm thoái. Âm tận Dương Thuần, thế là thành Tiên. Nên gọi Tây Nam Khôn Vị là Sinh Ngã chi môn.

Kẻ ngu không biết, tưởng Âm Hộ đàn bà là Sinh Ngã chi môn.

Âm Hộ là chỗ sinh ra con người, làm sao mà sinh Tiên cho được?


Hình 32. Tử Ngã Chi hộ 死 我 之 戶

(Hình vẽ, có hình tròn, trên có Một vầng Trăng Lưỡi Liềm úp. Phía dưới là một vòng tròn gần đen tuyền. Phía Phải có chữ: Dương Khí tương Tận; Phía trái có chữ: Âm Khí tương Thuần. Phía dưới có chữ: Đông Bắc táng Bằng.)

Nguyệt từ Đông Bắc, Dương quang tận diệt.

Đông Bắc thuộc Cấn, Âm Khí tương thuần.

Dương quang còn một chút, nên có Tượng Thượng Cấn Hạ Khôn.

Ở nơi quẻ là quẻ Bác. Tại Mặt trăng thì là hình Phúc Uyển (Chén úp) đều muốn chỉ dụ Khách Khí muốn bác tiêu Khí Chân Nguyên.

Nếu có một Trượng Phu Siêu Việt, có một Dũng Mãnh Nam Tử mà biết đốn ngộ, hồi đầu, mượn vào một điểm Dư Dương đó mà phá tan được u ám bên ngoài, mà biết dụng công tu trì, thì cũng có thể Phản Bản Hoàn Nguyên.

Còn những kẻ Phàm Phu u mê không chịu giác ngộ, cứ thuận theo Âm Khí mà phá bác Dương Quang, thì Dương sẽ tận và Âm sẽ thuần, làm sao mà không chết cho được?

Dịch viết: Đông Bắc táng Bằng (Dịch Kinh Đại toàn, quẻ Khôn, Thoán truyện). Đơn kinh cũng gọi là Ngã tử chi hộ.

Kẻ ngu không biết, coi Âm Hộ đàn bà là Cửa Tử con người, đó là sai vậy.


Vả Sinh Môn, Tử Hộ đều là Vô Hình Vô tượng chi Môn Hộ. Nhân vì cho rằng Thuận Âm thời chết, Nghịch Dương thời Sinh, nên mới gọi là Sinh Môn, Tử Hộ, kỳ thật chì là Một Khiếu mà thôi. Cổ Tiên gọi nó là Sinh Tử quan. Tuy gọi là Quan, nhưng thực ra là Không Chốn, Không Nơi. Gọi cưỡng ép thôi.

Ngộ Chân Thiên nói:[13]

Tu tương Tử Hộ vi Sinh Hộ,

須 將死 戶 為 生 戶

Mạc chấp Sinh Môn hiệu Tử môn

莫 執生 門 號 死 門

Nhược hội Sát Cơ minh phản phục,

若 會殺 機 明 返 覆

Thủy tri hại lý khước sinh ân.

始 知害 裡 卻 生 恩

Phải biến Tử Hộ thành Sinh Hộ

Chớ chấp Sinh Môn gọi Tử Môn.

Gặp phải Sát Cơ, rành phản phục,

Mới hay trong Hại lại sinh Ân.


Như vậy, mới hiểu nghĩa của Sinh Môn, Tử Hộ.



Hình 33. Hữu Vi chi khiếu 有 為 之 竅

(Hình vẽ này chính giữa có 2 vòng tròn đồng tâm. Vòng tròn trong cùng được chia đôi theo chiều dọc. Vòng tròn ngoài, phía bên trong nơi Tứ Chính, có các chữ: Hỏa Thủy, Kim Mộc. Phía bên ngoài, cũng nơi Tứ Chính, có các chữ: Chu Sa, Xích Xà; Ô qui, Hắc Diên; Bạch Hổ, Kim Tinh; Thanh Long, Mộc Hống; Phía phải có hàng chữ: Nữu Chuyển Kiền Khôn; phía trái có hàng chữ: Thiết Đoạt Tạo Hóa.)

Hữu Vi chi Đạo, là công phu Hữu Dục Quan Kiếu 有 欲 觀 竅 (ĐĐK, Chương 1): Có Dục Tình thì chỉ thấy được những hình tướng vạn thù, sai biệt bên ngoài mà thôi.

Quan Kiếu là Quan Âm Dương Tạo Hóa chi Kiếu, nhờ Hậu Thiên phản Tiên Thiên, Hòa Hợp Tứ Tượng, Toản Thốc Ngũ Hành, Thái Dược từ Hoàn Đơn đến Kết Thai, công trình thứ tự đều đủ trong đó. Nếu không được Chân Sư khẩu truyền, tâm thụ, thì sẽ sai một ly, đi một dặm.

Kẻ ngu không biết, nên từ các thân Ảo Bì Nang điều động khí huyết lung tung, gọi thế là hành đạo Hữu Vi, như vậy là sai.

Đạo Kim Đơn là một học thuật Tiên Thiên, có thể xoay chuyển Âm Dương, thiết đoạt Tạo Hóa, nghịch hồi Khí Cơ, điên đảo Kiền Khôn, Đi trước Trời mà Trời không trách. Chứ đâu phải là hành hạ cái xác thân hữu hình hữu vật này mà thành Đạo ấy được?

Chính Dương Ông nói:

Thế, Thóa, Tân, Tinh, Khí, Huyết, Dịch, Thất ban Linh Vật tổng giai Âm, Nhược tương thử vật vi Đơn bản, Chẩm đắc phi thăng triêu Ngọc Kinh

涕 唾津 精 血 液 七 般 物 總 皆 陰 若 將 此 物 為 丹 本 怎 得 飛 升 朝 玉 經

(Nước mắt, rãi, bọt, tinh, khí, huyết, dịch, tất cả đều là Âm Chất, dùng những thứ ấy để luyện Đơn, thì làm sao lên chầu Ngọc Kinh được?)

Tử Dương Ông nói:[14]

Yết tinh, nạp khí thị nhân hành,

嚥 精 納 氣 是 人 行

Hữu dược phương năng tạo hóa sinh.

有 藥 方 能 造 化 生

Đỉnh trung nhược vô Chân Chủng Tử,

鼎 中 若 無 真 種 子

Do tương Thủy Hỏa chử không xanh.

猶 將 小 火 煮 空 鐺

Yết tân, nạp khí chuyện con người,

Phải có Chân Diên mới tạo thai.

Trong Đỉnh nếu không Chân Chủng Tử,

Thì là không thuốc ở trong nồi.

Ôi Kim Hà Mô, Ngọc Lão Nha, nhận ra được và làm bạn với chúng, Đạo Hữu Vi đâu có dễ biết.


Hình 34. Vô Vi chi Diệu 無 為 之 妙

(Hình vẽ này chính giữa có hình tròn trắng đề 2 chữ Thánh Thai, Bên phải có hàng chữ: Ôn Dưỡng Thập Nguyệt, Thần Đơn kết, bên trái có hàng chữ: Nam nhi hoài thai khởi đẳng nhàn; phía dưới có hàng chữ: Vô Dục dĩ quan kỳ Diệu.)

Đạo Vô Vi là công phu Vô Dục dĩ quan diệu 無 欲 以 觀 妙: Không có dục tình mới thấy được Bản Thể vi diệu của Đạo. Đó là chuyện phải làm khi Thánh Thai đã Ngưng Kết về sau. Thế là Tĩnh Quan Nhất Khí biến hóa chi diệu 靜 觀 一 氣 變 化 之 妙.

Sau khi Thánh Thai đã ngưng kết rồi, sau khi Hậu Thiên đã phản hoàn Tiên Thiên, thì chỉ còn dùng công phu Mộc Dục Ôn Dưỡng, vật vong, vật trợ (đừng có xao lãng, đừng có nong sức trưởng thành của công việc),[15] vận Thiên Nhiên Chân Hỏa để huân chưng biến hóa, thì tự nhiên vô hình sẽ sinh hình, vô chất sẽ sinh chất, Dưa chín sẽ rụng cuống, anh nhi sẽ xuất hiện, và công phu Phanh Luyện Vũ Hỏa trước kia, nay không còn phải dùng nữa.

Kẻ ngu không biết, chưa đi đến chỗ tuyệt cùng của Tính Mệnh, chưa biết Tính Mệnh là gì, chưa hiểu thế nào là Tu Đạo, học được vài điều lăng nhăng của bàng môn tả đạo, hoặc của tiểu thừa, rồi cũng vào núi tĩnh tọa, hay đóng cửa Định Thần, gọi thế là đạo Vô Vi, thật là sai vậy.

Phàm Tính Mệnh thì phải Song Tu, và công phu chia làm hai phần: Một là Hữu Vi để Liễu Tính, hai là Vô Vi để Liễu Mệnh. Chứ đâu phải là Không Không Tĩnh Tọa mà có thể Liễu Tính Mệnh được. Ngộ Chân nói:[16]

Vị luyện hoàn đơn mạc nhập sơn,

未 煉 還 丹 莫 入 山

Sơn trung nội ngoại tận phi Diên.

山 中 內 外 盡 非 鉛

Thử ban chí bảo gia gia hữu,

此 般 至 寶 家 家 有

Tự thị ngu nhân thức bất toàn.

自 是愚 人 識 不 全

Chưa luyện hoàn đơn chớ nhập sơn

Trong núi không hề có Chân Diên.

Quí ấy xưa nay ai cũng có,

Chỉ tại ngu si, hiểu chẳng toàn.

Cũng còn nói:

Thủy ư hữu tác vô nhân kiến,

始 於有 作 無 人 見

Cập chí Vô Vi chúng thủy tri.

及 至無 為 眾 始 知

Đãn kiến Vô Vi vi yếu diệu,

但 見無 為 為 要 妙

Khởi tri Hữu tác thị Căn Ki. [17]

豈 知有 作 是 根 基

Đầu tu Hữu Tác, người không biết,

Vào tới Vô Vi chúng mới hay.

Chỉ biết Vô Vi là yếu diệu,

Biết đâu Hữu Tác chính căn ki.

Như vậy có thể biết thế nào là Hữu Vi, Vô Vi. Nó có thời kỳ, và đều có tác dụng nhưng không giống nhau.


Hình 35. Hỗn tục hòa quang 混 俗 和 光


(Hình vẽ này giữa có một hình vuông, bao ngoài bằng một hình tròn trắng. Bên phải có hàng chữ: Viên dĩ ứng ngoại; Bên trái có hàng chữ: Phương dĩ trị nội. Phía dưới có hai hàng chữ: Hỗn tục nhân bất thức, Hòa quang Đạo dị thành.)

Hỗn tục hòa quang chính là phong cách: Đại Ẩn thị triền 大 隱 市 廛 (Đại Ẩn nơi chợ búa). Hỗn tục là: Sống giữa quần chúng mà người không ai hay. Hòa Quang là Hòa nhi bất đồng, tại Trần xuất trần vậy. Có thể Hỗn tục hòa quang, là ngoài thì tròn để thích ứng với mọi vật, trong thì vuông là trong thì có Chủ Tể. Theo Thế Pháp mà vẫn tu Đạo Pháp, sáng tối hay nghịch thuận không có gì trở ngại, nên hành Đạo dễ dàng.

Kẻ ngu không biết, lại tưởng rằng Hỗn Tục Hòa Quang, là ban ngày thời ứng sự, ban đêm thời tĩnh tu, không phải vậy.

Nếu đúng như vậy, thì nói Tòng Tục là đúng, nói Hỗn Tục là không đúng, nói Tế Quang (che Ánh sáng) thì đúng, chứ Hòa Quang thì không phải.


Vả cái Đạo Hỗn Tục Hòa Quang có thể đoạt Thiên Địa Tạo Hóa, ăn cắp Âm Dương Sinh Sát chi quyết, chứ nó đâu phải dễ biết dễ làm?


Hình 36. Dược qui Thổ Phủ 藥 歸 土 釜

(Hình vẽ này có một vòng tròn trắng chia đôi, nửa phải có chữ Dương, nửa trái có chữ Âm. Phía phải có 2 dòng chữ: Dòng trong là Huỳnh Đình, dòng ngoài là Bất Thiên Bất Ỷ. Phía trái cũng có 2 dòng chữ: Dòng trong là Hoàng Trung, dòng ngoài là Chí Trung Chí Chính, Phía dưới có 2 dòng chữ là: Tam Gia tương Hội, Nhất Khí Hồn Nhiên.)


Thổ Tính ôn nhu có thể Dưỡng Vật, Kim chủ Phanh Tiễn có thể Thành Vật. Phủ 釜 (Chõ) bằng đất để Dưỡng Vật, Thành Vật. Nó không phải là thứ đất tầm thường, không phải là thứ chõ tầm thường.

Dược qui thổ phủ cốt nói lên rằng đó là Âm Dương Tương Hợp, là Thánh Thai ngưng kết đã có công phu ôn dưỡng.

Ôn Dưỡng thánh thai cốt là ý không bị phát tán, bao giờ cũng Doãn Chấp Quyết Trung, Âm Dương tương đáng, bất thiên, bất ỷ 允 執 厥 中 陰 陽 相當 不 偏 不 倚. Nên cũng gọi đó là Thổ Phủ. Nó cho cùng chỉ là MỘT CHỮ TRUNG mà thôi.

Giữ được Trung này thì Âm Dương Hòa, Ngũ Hành Toản (hợp nhất), thánh Thai toàn. Đánh mất cái Trung này, thì Âm Dương thiên, ngũ hành phân, thánh thai thương. Cho nên Thủ Trung là diệu quyết để ôn dưỡng Thánh Thai vậy.

Kẻ ngu không biết nên đắp là Địa Lô để Dưỡng Chu Sa, lấy Thủy Ngân của Chu Sa, coi Địa Lô là Thổ Phủ, hoặc Nê Lô làm Khôi Trì. Thiêu Diên nhập Khôi Trì để phân Ngân, coi Khôi Trì là Thổ Phủ, tất cả đều sai.

Tử Dã nói:

 Chân Thổ vô vị, Chân Ý vô hình. Vì Thổ Phủ ở chính trung, vô hình vô tượng, vô phương vô sở, nên dùng nó để thành toàn Thánh Thai. Vì thế nên gọi là Phủ, chứ đâu phải là Chỗ Đất thật đâu.


Hình 37. Ngưng kết Thánh Thai 凝 結 聖 胎

(Hình vẽ này, chính giữa có 3 vòng tròn đồng tâm. Vòng tronh cùng trắng có 2 chữ Thánh Thai, Vòng giữa đen tuyền, vòng ngoài cùng trắng. Phía phải có 4 chữ: Hùng Lý Hoài Thư, phía trái có 4 chữ: Động cực nhi tĩnh; Phía dưới có 4 chữ: Chập thần tàng khí.)


Thánh thai là Thánh Nhân chi Thai 聖 人 之 胎.

Tức là Vô Thức, Vô Tri Anh Nhi Bản Diện 無 識無 知 嬰 兒 本 面.

Đạo mà tới chỗ Vô Thức, Vô Tri, Bách Thần Hội Tập, Vạn Duyên câu tức, hỗn hỗn độn độn, nhập vào cảnh hoảng hốt yểu minh, thế là từ Hữu Vi mà nhập vào Vô Vi vậy.

Ngu nhân không biết nên hoặc vận cho Tâm Dịch Thận Khí tương giao ư Huỳnh Đình là Thánh Thai, hoặc Thần Tồn Trung Cung là Thánh Thai, hoặc Vận Khí cho Hậu thăng tiền giáng trú ở Đan Điền là Thánh Thai, tất cả đều không phải.

Thánh thai là cái gì Vô Hình, Vô Chất. Tuy gọi là Thai, nhưng thực ra không làm gì có thai. Gọi là Thai, bất quá là muốn hình dung Chân Linh ngưng kết không tan mà thôi.

Lấy Khí Huyết cưỡng ngưng thành thai, thì là Tróc tử chi quỉ thai, chứ không phải là Trường Sinh Thánh Thai đâu!


Hình 38. Thập Nguyệt thai viên 十 月 胎 圓

(Hình vẽ này, giữa có một hình tròn trắng; Phía phải có chữ Thần Toàn, Khí túc; phía trái có chữ Âm Tận, Dương Thuần; Phía dưới có các chữ: Kim Dịch đại Hoàn Đơn.)


Thập Nguyệt Thai viên là Thần Toàn, Khí túc, căn trần khứ tận, Khách Khí tiêu hóa, Âm tận Dương thuần chi tượng. Y như đàn bà mang thai 10 tháng, mới thành Toàn Đơn.

Đơn Đạo lấy Thập Nguyệt Thai đồ, để mà chỉ dụ chuyện này.

 Lại muốn nói rằng, khi Thánh Thai đã ngưng kết, thì phải phòng nguy, lự hiểm, mộc dục, ôn dưỡng cho tới lúc viên thành, vô khuy mới được.

Không phải lấy 10 tháng làm định kỳ.

Kẻ ngu không biết cứ chấp vào hai chữ 10 tháng. Hoặc Vận Khí, hoặc Tồn Tưởng, hoặc Ngưng Thần, vọng tưởng kết thai, lấy 10 tháng làm Định Kỳ, thật không phải vậy.

 Tu chân chi đạo từ Thái Dược, đến Phanh Luyện, Kết Đơn, Kết Thai, cho đến khi Thoát Hóa phải tốn một thời gian và một Công Phu vô lượng, chứ đâu phải chỉ mất 10 tháng. Nói 10 tháng là nói bóng gió, là dùng từ ngữ cho vui mà thôi.



Hình 39. Anh Nhi xuất hiện 嬰 兒 出 現

(Hình này, chính giữa có 2 vòng tròn, Vòng trên trắng có chữ Pháp Thân, vòng dưới đen có chữ Sắc Thân. Bên phải có các chữ: Khiêu Xuất Tam Giới Ngoại. Bên trái có các chữ Bất Tại Ngũ Hành trung; phía dưới có các chữ: Thân Ngoại hữu Thân.)

Anh Nhi xuất hiện, Thánh Thai thoát hóa chính là Thánh Thai. Thánh thai là từ trong Sắc Thân con người lại có thêm một Pháp Thân vậy. Thoát hóa là từ trong Sắc Thân lại sinh ra một Pháp Thân vậy.

Nhân vì trong Sắc Thân lại sinh ra một Pháp Thân, như đàn bà sau 10 tháng thai nghén lại sinh ra một anh nhi, cho nên gọi Pháp Thân là Anh Nhi. Anh Nhi xuất hiện, là Thân Ngoại Hữu Thân, siêu xuất Tam Giới, không còn ở trong Ngũ Hành, thoát khỏi Luân Hồi, cùng Đất Trời đồng thọ, bền vững cùng Mặt Trời, Mặt Trăng.

Kẻ ngu không biết, cho rằng Khảm Trung Chân Dương 坎 中 真 陽 là Pháp Thân Anh Nhi 法 身 嬰 兒, hoặc cho rằng Thận Trung Tinh Khí 腎 中 精 氣 là Pháp Thân Anh Nhi. Không phải vậy.

Khảm Trung Anh Nhi 坎 中嬰 兒 là Âm Trung Chi Dương 陰 中 之 陽, còn Pháp Thân Anh Nhi là Âm Dương hỗn hợp chi chân. Đến như Thận Khí, đó là Thận Trung Tà Hỏa, chứ tuyệt nhiên không có nghĩa là Anh Nhi, thì làm sao mà gọi  là Hồn Luân, Hỗn Hợp được.

Ngộ Chân Thiên viết:

Anh Nhi thị Nhất hợp Chân Khí,

嬰 兒 是 一 合 真 氣

Thập nguyệt thai viên nhập Thánh Ki.[18]

十 月 胎 圓 入 聖 基

Anh Hài là Nhất hàm chân khí

Thập nguyệt hoài thai hợp Thánh Ki.

Tứ Bách Tự viết:

Phu Phụ giao hội thời,

夫 婦 交 會 時

Động phòng vân vũ tác.

洞 房雲 雨 作

Nhất tải sinh cá nhi,

一 載生 個 兒

Cá cá hội kỵ hạc.

個 個 會 騎 鶴

Vợ chồng giao hợp nhau,

Động Phòng mây mưa đổ

Mỗi năm sinh một con,

Con nào cũng cưỡi hạc.[19]

Như vậy là hiểu được thế nào là Pháp Thân Anh Nhi.[20]


Hình 40. Di Lô Hoán Đỉnh 移 爐換 鼎

(Hình vẽ này, chính giữa có Vòng Tròn trắng rỗng với Hai Chữ Hư Vô. Phía phải có dòng chữ: Hữu Vô câu bất lập. Phía trái có dòng chữ: Thiên Địa tất qui không, Phía dưới có 2 hàng chữ: Thái Hư chi Đỉnh, Vô vi chi Lô.)

Đại đạo viên thành, Thân Ngoại Hữu Thân, Hình Thần câu diệu. Khi đã đạt tới địa vị của Đại Thánh Nhân, thì Lô Đỉnh không còn công dụng nữa, thì làm gì còn có chuyện Di Lô Hoán Đỉnh nữa?

Sở dĩ còn phải Di Lô Hoán Đỉnh là cốt tiềm tàng mật dưỡng Pháp Thân nói trên. Phải Di cái Lô nào? phải Hoán cái Đỉnh nào? Phải lấy Thái Hư làm Đỉnh, lấy Vô Vi làm Lô, còn những Kiền Đỉnh, Khôn Lô, Chu Sa Đỉnh và Yểm Nguyệt lô, tất cả những dược vật đó đều không dùng nữa.

Chỉ còn dùng là Pháp Thân mà thôi. Pháp Thân đó tại Hư Vô chi Trung, sẽ tự biến, tự hóa, và sẽ dũ Hư, dũ Thần, dũ Vô, dũ Diệu, thần diệu bất trắc, biến hóa vô cùng.

Cho nên nói: Tử hựu sinh Tôn, Tôn hựu Chi.

Tới địa vị này lúc là lúc ngưng mọi công việc, và đã phá hư không, vượt lên trên Thiên La chi cảnh, như vậy mới đáng.

Kẻ hậu học nếu không gặp sư truyền, mà nghĩ Thân Ngoại Hữu Thân là tiến tới chỗ tận cùng của Đạo là sai vậy.

Sao Hào Ca 敲 爻歌 nói:

Nhất vật vô tùy hiển Đạo, Ngũ phương thấu xuất chân nhân mạo, tiên đồng tiên nữ thái vân nghinh, ngũ minh cung lý truyền Chân Cáo

一 物無 隨 顯 道 五 方 透 出 真 人 貌 仙 童 仙 女 彩 雲 迎 五 明 宮 裡 傳 真 誥

(Vật chi cũng truyền Đạo, năm phương hiện rõ Chân Nhân mạo, Tiên đồng, tiên nữ cưỡi mây chờ, Trong cung Ngũ Minh truyền Chân Cáo.) [21]

Xem thế, mới biết Pháp Thân thiên biến vạn hóa, như thế mới là cực điểm công phu vậy.

******************         


CHÚ THÍCH


[1] Kim Đơn như vậy là tìm lại được Tính Trời trong ta. Tính Trời đó chính Thiên Địa chi Tính, hay Bản Lai Viên Minh Chân Linh chi Tính, hay Thái Cực, hay Viên Giác, hay Kim Đơn. Đó chính là cái gốc cho mọi hoạt động chúng ta qui hướng về.

[2] Thiên Địa chi tâm chính là Lòng Trời, là Thái Cực, vì Thái Cực là Âm Dương tương hợp, là Hắc Bạch Tương Phù. Nói nôm na hơn thì đó chính la Lương Tâm con người (Thiên Lương Chân Tâm). Nếu ai cũng thấy được mình có Thiên Tâm có Lương Tri, thì thế gian n ày sẽ thành bồng lai lạc cảnh.

[3] Ngộ Chân Trực Chỉ, q. 2, thơ 3.

[4] Ngộ Chân Thiên, quyển 2, bài thơ 4.

[5] Yển Nguyệt Lô là Đạo Tâm là Thiên Tâm cũng là quẻ Phục. Vì nơi quẻ Phục có nói: Phục Kỳ Kiến Thiên Địa chi tâm hồ?

[6] Thức Thần là Thần con người, Nguyên Thần là Thần Trời.

[7] Ngộ Chân Thiên, q. 2, bài thơ 40.

[8] Huyền Tẫn chi Môn chính là Nê Hoàn Cung, chính là Cửa Trời, nơi Âm Dương Xuất Nhập.

[9] Ngộ Chân Thiên, q. 2, bài thơ 44.

[10] Ta nên nhớ vì vua Khang Hi (1662- 1723) tên là Tiểu Huyền Tử, nên dể tránh tên Húy của vua các chữ Huyền phải sửa lại thành Nguyên. Cho nên sách này viết Nguyên Tẫn chi Môn, Nguyên Quan Nhất Khiếu, nay ta đọc lại là Huyền Tẫn chi môn, Huyền Quan nhất Khiếu.

Huyền Quan Nhất Khiếu còn gọi là Thiên Nhân Giới, hay Hữu Vô Tương Nhập xứ thật là hết sức đẹp. Thiên Nhân giới là bờ cõi giữa Trời Người, giữa Hữu Vô.Thế là ở ngay trong đầu não ta, đã có biên giới giữa Trời Người. Điều đó đáng cho ta suy nghĩ kỹ.

[11] Trong ta có Cốc Thần tức là trong ta có thần Trời Đất. Nếu vậy Ta phải tìm về với Thần Trời Đất đó.

[12] Xem Văn Ngôn, Hào Lục Ngũ quẻ Khôn.

[13] Ngộ Chân Thiên, q. 2, bài thơ 62.

[14] Ngộ Chân Trực Chỉ, q.:, bài thơ 5.

[15] Mạnh Tử, Công Tôn Sửu thượng, tiết 2.

[16] Ngộ Chân trực Chỉ, q. 2, bài thơ 7.

[17] Ngộ Chân trực chỉ, q. 2, bài 42.

[18] Ngộ Chân Trực Chỉ, q. 1, bài thơ 14.

[19] Xem Tứ Bách Tự Bi của Trương Bá Đoan, Trung Quốc Khí Công Đại Thành, q. 2, tr. 605.

[20] Tin rằng mình có Tính Trời, Tính Phật là bước vào con đường Đạo; thấy rằng mình có Thiên Địa chi Tâm, là Giác Ngộ, là chính thức Thuận Thiên, là giác Ngộ, là đi vào quẻ Phục. Làm cho Thiên Địa chi tâm càng ngày càng trở nên hoàn hảo, là Anh Nhi xuất hiện, là Pháp Thân xuất hiện. Thế là trở về với Thể Tánh Chân Tâm thường trụ của Phật, và cũng là đạt Thập Trụ, Thập Hạnh trong kinh Lăng Nghiêm và Kinh Hoa Nghiêm.

Ngài Ôn Lăng nói: từ Phát Tâm Trụ cho đến Sinh quí Trụ gọi là Nhập Thánh Thai. Từ Phương Tiện Trụ cho đến Đồng Chơn Trụ thì gọi là nuôi lớn Thánh Thai. Công phu nuôi lớn đã thành tựu gọi là ra khỏi Thánh Thai.

... Trong kinh Hoa Nghiêm hàng Thập Trụ đầy đủ cùng với hàng Thập Địa thầm phù hợp (Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ trọn bộ, thiền sư Hàm Thị giải, Dịch giả Thích Phước Hảo, tr. 694.

[21] Xem Sao hào Ca, của Lữ Động Tân, Trung Quốc Khí Công Đại Thành, chủ biên: Trương Xuân Dương, q. 2, tr. 558.


******************         

PHÁ NGHI THI


破 疑 詩



Thất ngôn Tuyệt Cú Ngũ Thập thủ


七 言 絕 句 五 十 首


Bài 1: Ly thế 離 世


Thế sự thiên ban câu bất chân,

世 事 千 般 俱 不 真

Tục duyên ân ái tối thương thân.

俗 緣 恩 愛 最 傷 身

Nhất đao lưỡng đoạn vô khiên xả,

一 刀 兩 斷 無 牽 扯

Giải thoát tràng trung tác cá nhân.

解 脫 場 中 作 個 人



Thế gian muôn chuyện đều sai lạc

Tục duyên ân ái rất hại người,

Một dao chém đứt không luyến tiếc

Thành người giải thoát giữa cảnh đời

---------------------

Bài 2: Luyện Thụy 煉 睡


Thiểu thụy nguyên phi luyện Thụy Ma,

少 睡 原 非 煉 睡 魔

Vong sôn, phế tẩm trảm đằng la.

忘 飧 廢 寢 斬 藤 羅

Chư duyên tảo khứ tâm thanh tĩnh,

諸 緣 掃 去 心 清 靜

Trú dạ trường miên, phạ thậm ma?

晝 夜 長 眠 怕 甚 麼


Ít ngủ phải đâu luyện Thụy Ma,

Quên ăn, bỏ ngủ trảm đằng la.

Trong dạ khinh thanh vô nhất vật,

Đêm sẽ ngủ say, sợ chi mà.


******************         


Bài 3: Công hành 功 行

Tu hành tích đức, tối vi tiên,

修 行 積 德 最 為 先

Công đại hành thâm, cảm động Thiên.

功 大 行 深 感 動 天

Khả tiếu ngu nhân duy lợi kỷ,

可 笑 愚 人 惟 利 己

Vô công, thiểu hạnh, tưởng thành tiên.

無 功 少 行 想 成 仙



Tu hành: tích đức việc đầu tiên,

Công quả càng nhiều sẽ động Thiên

Nực cười kẻ dốt chuyên lợi kỷ

Không công, thiểu hạnh tưởng thành tiên.



Bài 4: Kim đơn 金 丹

Tiên Thiên bản tính hiệu vi Đơn,

先 天 本 性 號 為 丹

Bát quái lô trung luyện tác đoàn.

八 卦 爐 中 煉 作 團

Cử thế mê đồ tầm ngoại dược,

舉 世 迷 徒 尋 外 藥

Thôn san, vọng tưởng thượng vân đoan.

吞 飧 妄 想 上 雲 端



Tiên Thiên Bản Tính ấy Kim Đơn,

Mượn lò thân thể luyện thành toàn.

Những kẽ u mê tìm ngoại dược,

Ăn vào, mơ tưởng cưỡi mây ngàn.



Bài 5: Nguyên quan 元 關

Nguyên quan nhất khiếu thiểu nhân tri,

元 關 一 竅 少 人 知

Hoảng hốt yểu minh hàm Lưỡng Nghi.

恍 惚 杳 冥 含 兩 儀

Thuận khứ lưu qui phiền não lộ,

順 去 流 歸 煩 惱 路

Nghịch lai tiện thị thánh hiền ki.

逆 來 便 是 聖 賢 基



Một khiếu Huyền Quan ít kẻ hay,

Hoảng hốt tra minh, đủ Lưỡng Nghi.

Nếu theo chiều thuận là phiền não,

Còn như đi ngược: Thánh Hiền ki.



Bài 6: Thức Thần 識 神

Tư lự tinh linh hiệu Thức Thần,

思 慮 精 靈 號 識 神

Luân hồi chủng tử đới căn trần.

輪 迴 種 子 帶 根 塵

Ngu mê câu bả Du Hồn lộng,

愚 迷 俱 把 游 魂 弄

Đáo để thùy năng kiến chủ nhân.

到 底 誰 能 見 主 人



Tư lự hay ho, chính Thức Thần,

Ấy giống Luân Hồi nặng Căn Trần,

Kẻ ngu đều bị Du Hồn gạt,

Biết đến bao giờ thấy Chủ Nhân.[1]


******************         


Bài 7: Dương Tinh 陽 精

Dương Tinh nhất điểm bí hình sơn,

陽 精 一 點 秘 形 山

Nhận đắc Chân thời khả Trú Nhan.

認 得 真 時 可 駐 顏

Phi tại Tâm trung, phi tại Thận,

非 在 心 中 非 在 腎

Bất không bất sắc ẩn Nguyên Quan.

不 空 不 色 隱 元 關



Dương tinh một điểm dấu nơi đầu,

Nhận được điều này sẽ Sống Lâu.

Không ở nơi Tim không nơi Thận

Không phải Sắc Không, chính Huyền Quan.[2]



Bài 8: Tiên Thiên Khí 先 天 氣

Tiên Thiên Nhất Khí tại Hồng Mông,

先 天 一 氣 在 鴻 濛

Vô tượng vô hình bất lạc không.

無 象 無 形 不 落 空

Nhận đắc Sinh Sơ Chân Diện Mục,

認 得 生 初 真 面 目

Phương tri Ngã hữu Chủ Nhân Ông.

方 知 我 有 主 人 翁



Tiên Thiên Nhất Khí tại Hồng Mông,

Không tượng không hình, chẳng phải Không,

Ấy chính Bản Lai Chân Diện Mục,

Thế là biết được Chủ Nhân Ông.[3]



Bài 9: Tiên Hậu Thiên先 後 天

Vị sinh thân xứ hiệu Tiên Thiên,

未 生 身 處 號 先 天

Nhất xuất đầu lai Khí Chất liên.

一 出 頭 來 氣 質 連

Tiên Thánh Hậu Nhân phân lưỡng lộ,

先 聖 後 人 分 兩 路

Tu đương tử tế biện thiên toàn.

須 當 仔 細 辨 偏 全



Khi chửa Sinh Người gọi Tiên Thiên,

Vừa ló đầu ra: Khí Chất liền,

Tiên thánh Hậu Nhân chia hai nẻo,

Hãy suy cho kỹ thấy được liền.[4]



Bài 10: Thủ Kinh 首 經

Thủ Kinh bản thị Tiên Thiên bảo,

首 經 本 是 先 天 寶

Hoảng Hốt, Yểu Minh Chân Nhất Tinh.

恍 惚 杳 冥 真 一 精

Thuần bạch vô tì thanh tịnh vật,

純 白 無 疵 清 淨 物

Hưu tương trọc huyết mạo an danh.

休 將 濁 血 冒 安 名



Thủ Kinh ấy chính Tiên Thiên bảo.

Cũng còn gọi là Chân Nhất Tinh,

Nó vốn trong veo không tì vết,

Đừng nên coi là vật hữu tình.[5]

******************         


Bài 11: Tam Dược 三 藥

Đại dược Tam Ban: Tinh, Khí, Thần,

大 藥 三 般 精 氣 神

Hữu Hình bất thị bản lai chân.

有 形 不 是 本 來 真

Chí Thanh, Chí Túy, Hư Linh Vật,

至 清 至 粹 虛 靈 物

Luyện tựu Kim Cương Đại Pháp Thân.

煉 就 金 剛 大 法 身



Đại dược có ba: Tinh, Khí, Thần,

Hữu hình đâu phải Bản Lai Chân.

Chí Thanh, Chí Túy, Hư Linh Vật,

Luyện hóa Kim Cương Đại Pháp Thân.[6]



Bài 12: Tính Mệnh 性 命

Tính Mệnh nguyên phân Tiên Hậu Thiên,

性 命 原 分 先 後 天

Sinh thân, lạc địa định Thiên Toàn.

生 身 落 地 定 偏 全

Hậu Thiên Tính Mệnh tùy Thiên Vận,

後 天 性 命 隨 天 運

Tróc trú Tiên Thiên Ngã thao quyền.

捉 住 先 天 我 操 權



Tính Mệnh phân chia Tiên Hậu Thiên,

Ta dở, ta hay nó khiến nên

Hậu Thiên Tính Mệnh tùy Thiên Vận,

Nắm được Thiên Tiên, Ta nắm quyền.[7]



Bài 13: Thiên Địa Tâm 天 地 心

Thiên Địa chi Tâm thậm xứ tàng,

天 地 之 心 甚 處 藏

Âm Dương cảm kích hiện viên quang.

陰 陽 感 激 現 圓 光

Hư Vô đỉnh lý phanh tiễn thục,

虛 無 鼎 裡 烹 煎 熟

Vạn cổ thiên thu bất tổn thương.

萬 古 千 秋 不 損 傷



Thiên Địa chi tâm ẩn thật sâu,

Âm Dương cảm kích hiện viên quang.

Hư Vô đỉnh lý phanh tiễn thục,

Vạn cổ Thiên Thu chẳng tổn thương.[8]



Bài 14: Đạo Tâm, Nhân Tâm  道 心 人 心

Nhân Tâm tự Thiết, Đạo Tâm Kim (Câm),

人 心 似 鐵 道 心 金

Khả hướng Vi, Nguy tế chước châm.

可 向 微 危 細 酌 斟

Biến Hóa Linh Thông vô thượng hạ,

變 化 靈 通 無 上 下

Nguyên đầu hoạt thủy biệt Âm Dương.

源 頭 活 水 別 陰 陽



Nhân Tâm như Sắt, Đạo Tâm Kim,

Vi Nguy phân biệt cũng không cần.

Biến Hóa Linh Thông vô thượng hạ,

Lên tới ngọn nguồn biệt Âm Dương.[9]



Bài 15: Vị sinh thời 未 生 時

Vị sinh thân xứ hữu thùy tri,

未 生 身 處 有 誰 知

Tĩnh tĩnh, tiêu tiêu, hỗn độn thì.

靜 靜 悄 悄 混 沌 時

Tứ tượng, ngũ hành giai vị đáo,

四 象 五 行 皆 未 到

Hồn nhiên nhất khí một hùng thư.

渾 然 一 氣 沒 雄 雌



Vị Sinh Thân Xứ ít ai hay,

Ấy lúc hồn nhiên, hỗn độn thì.

Tứ Tượng Ngũ hành chưa phân biệt,

Nhất Khí hồn nhiên chừa phân kì.[10]


******************         


Bài 16: Sơ sinh thời 初 生 時

Sơ sinh diện mục sự như hà?

初 生 面 目 事 如 何

Tiên Hậu nhị Thiên Nhất Khí hòa.

先 後 二 天 一 氣 和

Vô thức, vô tri, vô điểm nhiễm,

無 識 無 知 無 點 染

Phật Tiên chủng tử thánh hiền oa!

佛 仙 種 子 聖 賢 窩



Sơ sinh diện mục thế nào đây?

Tiên Hậu Nhị Thiên một khí hòa.

Vô thức, vô tri, vô điểm nhiễm,

Phật tiên chủng tử, thánh hiền oa.[11]



Bài 17: Tha gia 他 家

Tha gia bất thị biệt nhân gia,

他 家 不 是 別 人 家

Ngộ nhận nhân gia tảo đại soa (sai).

誤 認 人 家 早 大 差

Ngã đích hài nhi mê thất ngoại,

我 的 孩 兒 迷 失 外

Nhất hô kiến diện tử tùy gia.

一 呼 見 面 子 隨 家



Tha gia cũng chẳng phải Nhà Người,

Không biết nhà mình thật quá sai.

Con cái vì mê nên thất ngoại,

Ta hô một tiếng chúng về ngay.



Bài 18: Bỉ Ngã 彼 我

Kinh ngôn Bỉ Ngã biệt Âm Dương,

經 言 彼 我 別 陰 陽

Phi sắc, phi không thanh tịnh hương.

非 色 非 空 清 淨 鄉

Thái Chiến Khuê Đơn tà thuật bối,

採 戰 閨 丹 邪 術 輩

Yên hoa trại lý hoại Thiên Lương.

煙 花 寨 裡 壞 天 良



Kinh dùng bỉ ngã biệt Âm Dương,

Phi sắc, phi không thanh tịnh hương.

Thái Chiến Khuê Đơn là tà thuật,

Mê thú yên hoa hại Thiên Lương.



Bài 19: Lữ Bạn 侶 伴

Lữ bạn tu phân nội ngoại nhân,

侶 伴 須 分 內 外 因

Thân trung lữ bạn lưỡng tam nhân.

身 中 侶 伴 兩 三 人

Ngoại biên Lữ Bạn đồng phù tá,

外 邊 侶 伴 同 扶 佐

Thoát tận Luân Hồi lịch kiếp trần.

脫 盡 輪 迴 歷 劫 塵

Bè bạn nên chia hai hạng người,

Bạn trong chỉ có một đôi người.

Bạn ngoài ai nấy đều giúp dập,

Giúp đỡ cho ta thoát Luân Hồi.



Bài 20: Ngoại hộ 外 護

Giai tầm ngoại hộ vọng thành công,

皆 尋 外 護 望 成 功

Mãi đỉnh, phanh diên, loạn tróc phong.

買 鼎 烹 鉛 亂 捉 風

Chẩm hiểu Thiên Cơ siêu tục pháp,

怎 曉 天 機 超 俗 法

Tá tha đại lực trấn ngu mông.

借 他 大 力 鎮 愚 幪


Chỉ cầu ngoại viện để thành công,

Mãi Đỉnh, phanh Lô loạn tróc phong.

Phải hiểu Thiên Cơ siêu tục pháp,

Nhờ công lực nó trấn ngu ông.


******************         


Bài 21: Cửu Đỉnh 九 鼎

Kiền Nguyên cửu số hiệu Thuần Dương,

乾 元 九 數 號 純 陽

Cửu Đỉnh hoàn đơn đoàn luyện phương.

九 鼎 還 丹 煆 煉 方

Tạo nghiệt mê đồ sai nữ đỉnh,

造 孽 迷 徒 猜 女 鼎

Quyết nhiên đả nhập thiết vi hương.

決 然 打 入 鐵 圍 鄉

Kiền Nguyên số 9 hiệu Thuần Dương,

Lập ra Cửu Đỉnh đoàn luyện phương.

Tạo Nghiệt mê đồ bày nữ đỉnh,

Dốc lòng nhập phá Thiết Vi Hương.



Bài 22: Chiêu Nhiếp 招 攝

Chiêu nhiếp Tiên Thiên hữu bí phương,

招 攝 先 天 有 秘 方

Cổ Cầm, xao trúc kiến Hư Hoàng.

鼓 琴 敲 竹 見 虛 皇

Sắc Thanh náo xứ vô phương ngại,

色 聲 鬧 處 無 妨 礙

Tùy thủ nữu hồi Bắc Đẩu quang.

隨 手 扭 回 北 斗 光

Chiêu nhiếp Tiên Thiên chẳng khó khăn,

Hư Tâm sẽ thấy được Hi Hoàng.

Sống giữa Sắc Thanh không hề hấn,

Tùy tiện thu hồi Bắc Đẩu quang.



Bài 23: Điên Đảo 顛 倒

Điên đảo Âm Dương hữu thậm nan,

顛 倒 陰 陽 有 甚 難

Đương ư tĩnh lý vận thần quan.

當 於 靜 裡 運 神 觀

Đạo Tâm bất muội, Nhân Tâm diệt,

道 心 不 昧 人 心 滅

Lập địa trực đăng bách xích can.

立 地 直 登 百 尺 竿

Điên đảo Âm Dương chẳng khó khăn,

Chỉ cần yên tĩnh vận thần quan.

Đạo Tâm sáng suốt, Nhân Tâm diệt,

Lập tức vượt lên Bách Xích Can.



Bài 24: Hỏa hậu 火 候

Vận hỏa công phu bản một thời (thì),

運 火 工 夫 本 沒 時

Triêu Kiền, tịch Dịch trảm Tam Thi.

朝 乾 夕 惕 斬 三 尸

Phòng nguy lự hiểm thường thanh Tĩnh,

防 危 慮 險 常 清 静

Ứng vật bất mê, tổn ích chi.

應 物 不 迷 損 益 之

Vận hỏa công phu, phải liên miên,

Lo diệt Tam Thi, sáng lẫn đêm.

Phòng nguy lự hiểm tâm thanh tĩnh,

Ưng vật không mê tồn ích chi?



Bài 25: Quải tượng 卦 象

Hỏa Hậu Kinh ngôn Chu Dịch quải,

火 候 經 言 周 易 卦

Thôi Hào, Chấp Tượng câu giai phi.

推 爻 執 象 俱 皆 非

Đại đô yếu hội Âm Dương lý,

大 都 要 會 陰 陽 理

Tiến thoái tùy thời nhiệm chỉ huy.

進 退 隨 時 任 指 揮


Kinh dạy: Hỏa Hầu dùng quẻ Dịch,

Thôi Hào, Chấp Tượng tổng giai phi.

Đại khái phải rành Âm Dương lý,

Tiến thoái tùy thời mặc sức thi.

******************         


Bài 26: Kiền Khôn Lô Đỉnh 乾 坤 爐 鼎

Kiền Đỉnh, Khôn Lô tại ngã thân,

乾 鼎 坤 爐 在 我 身

Hưu tòng ngoại diện vấn nguyên nhân.

休 從 外 面 問 原 因

Cương Nhu nhị sự vô gián cách,

剛 柔 二 事 無 間 隔

Đoàn xuất Tiên Thiên Nhất Khí chân.

煆 出 先 天 一 氣 真

Kiền Đỉnh, Khôn Lô tại ngã thân,

Khỏi tìm duyên cớ ở xa gần.

Cương Nhu đừng để cho xa cách,

Luyện được Tên Thiên Nhất Khí chân.



Bài 27: Yển Nguyệt Lô 偃 月 爐

Vấn Đạo hà vi Yển Nguyệt Lô,

問 道 何 為 偃 月 爐

Hắc trung hữu bạch, Hối nhi Tô.

黑 中 有 白 晦 而 蘇

Phân minh chỉ xuất Hoàn Đơn Mẫu,

分 明 指 出 還 丹 母

Khiếu tỉnh thời nhân thức dã vô.

叫 醒 時 人 識 也 無

Vấn Đạo chi là Yển Nguyệt Lô,

Trong đen có trắng Hối lại Tô.

Phân minh chỉ rõ Hoàn Đơn mẫu,

Đánh thức người đời hiểu chữ Vô.



Bài 28: Chu Sa Đỉnh 朱 砂 鼎

Tu Chân tạ lại Chu Sa Đỉnh,

修 真 藉 賴 朱 砂 鼎

Phi Thiết, phi Kim, phi thị Ngân.

非 鐵 非 金 非 是 銀

Nhận đắc Linh Minh tha tử vật,

認 得 靈 明 他 子 物

Thủ tân, Cách cố kiến Nguyên Nhân.

取 新 革 故 見 元 仁

Tu Chân vốn cậy Chu Sa Đỉnh,

Chẳng sắt, chẳng Vàng, chẳng Thủy Ngân.

Linh Minh chí Bảo mà biết được,

Đổi cũ, thay tân thấy nguyên nhân.



Bài 29: Thổ Phủ 土 釜

Thổ Phủ khởi do thổ tác thành,

土 釜 起 由 土 作 成

Trung Ương chính vị thị Chân danh.

中 央 正 位 是 真 名

Mộc Kim Thủy Hỏa giai toàn thử,

木金 水 火 皆 全 此

Dưỡng khỏa nguyên châu triệt dạ minh.

養 顆 元 珠 徹 夜 明

Thổ Phủ đâu do Đất tạo thành,

Trung Ương chính vị ấy Chân Danh.

Mộc Kim Thủy Hỏa luôn gom đủ,

Một hạt minh châu sáng liên canh.



Bài 30: Đẩu Bính 斗 柄

Nhân quan Đẩu Bính vận Chu Thiên,

因 觀 斗 柄 運 周 天

Thủy ngộ Sinh Cơ tại na biên.

始 悟 生 機 在 那 邊

Nữu chuyển cước căn phiên quá diện,

扭 轉 腳 根 翻 過 面

Đương thời Hỏa Lý hiện Kim Liên.

當 時 火 裡 現 金 蓮

Nhìn chuôi Bắc Đẩu vận Chu Thiên,

Mới biết Sinh Cơ tại na biên.

Níu kéo cước căn phiên quá diện,

Trong lửa nhìn vào thấy Kim Liên.

******************         


Bài 31: Lưỡng Huyền 兩 弦

Hạ Huyền thị Thủy, Thượng Huyền Kim (Câm),

下 弦 是 水 上 弦 金

Chỉ thị điều đình Dương dữ Âm.

止 是 調 停 陽 與 陰

Quả nhược Cương Nhu hòa hợp liễu,

果 若 剛 柔 和 合 了

Đương trung lộ xuất Niết Bàn tâm.

當 中 露 出 涅 槃 心

Hạ Huyền là Thủy, Thượng Huyền Câm (Kim),

Chỉ cốt điều đình Âm dữ Dương.

Nếu thấy Cương Nhu hòa hợp lại,

Bên trong sẽ lộ Niết Bàn Tâm.



Bài 32: Nhâm Quí 壬 癸

Nhâm thủy Dương hề Quí thủy Âm,

壬 水 陽 兮 癸 水 陰

Học nhân kỷ cá tế truy tầm.

學 人 幾 個 細 追 尋

Khu cơ động xứ phân chân giả,

樞 機 動 處 分 真 假

Khử trọc lưu thanh sản bạch câm (kim).

去 濁 留 清 產 白 金

Nhâm thủy là Dương, Quí Thủy Âm,

Học nhân ít kẻ chịu truy tầm.

Khu Cơ Động Xứ phân Chân Giả,

Khứ trọc lưu thanh, sản Bạch Câm (Kim).



Bài 33: Luyện Kỷ 煉 己

Tu hành luyện kỷ tối vi tiên,

修 行 煉 己 最 為 先

Tuyệt dục, vong tình, khước vạn duyên.

絕 欲 忘 情 卻 萬 緣

Lục tặc, Tam Bành giai tiễn diệt,

六 賊 三 彭 皆 剪 滅

Kiền Kiền, tịnh tịnh nhất Đơn Điền.

乾 乾 淨 淨 一 丹 田

Tu hành Luyện Kỷ chiếm ưu tiên,

Tuyệt dục, Vong Tình, xả Vạn Duyên.

Lục Tặc, Tam Bành trừ diệt hết,

Trong veo còn lại một Đơn Điền.



Bài 34: Trúc Cơ 築 基

Chí niệm kiên lao thị Trúc Ki (Cơ)

志 念 堅 牢 是 築 基

Thân Tâm bất động tối vi kỳ.

身 心 不 動 最 為 奇

Bằng tha họa hoạn dữ tai ách,

憑 他 禍 患 與 災 厄

Chỉ Thủy vô ba vạn hữu ly.

止 水 無 波 萬 有 離

Trí niệm kiên lao ấy trúc ki,

Thân Tâm Bất Động thật ly kỳ.

Xa rời họa hoạn cùng tai ách,

Nước yên, sóng lặng chẳng lo chi.



Bài 35: Diên Hống 鉛 汞

Chân Hống nguyên phi trần thế Hống,

真 汞 原 非 塵 世 汞

Chân Diên bất thị xuất sơn Diên.

真 鉛 不 是 出 山 鉛

Nhất Tình, Nhất Tính Tiên Thiên dược,

一 情 一 性 先 天 藥

Đoàn luyện qui căn liễu đại hoàn,

煆 煉 歸 根 了 大 還

Chân Hống phải đâu trần thế Hống,

Chân Diên chẳng phải Xuất Sơn Diên.

Một Tình, Một Tính là tiên dược,

Đoàn luyện qui căn được Đại Hoàn.

******************         


Bài 36: Anh Xá 嬰 奼

Xá Nữ tàng Ly bản bất chân,

奼 女 藏 離 本 不 真

Anh Nhi tại Khảm diệc nan tuân.

嬰 兒 在 坎 亦 難 遵

Nhi kim thuyết phá Âm Dương khiếu,

而 今 說 破 陰 陽 竅

Năng thực, năng hư sản Pháp Thân.

能 實 能 虛 產 法 身

Xá Nữ tàng Ly chẳng phải Chân,

Anh Nhi ở Khảm cũng khó tuân.

Nay ta nói rõ Âm Dương Khiếu

Có thể Thực Hư sản Pháp Thân.



Bài 37: Khảm Ly 坎 離

Khảm Ly mạc hướng Bắc Nam cầu,

坎 離 莫 向 北 南 求

Hỏa tính phi đằng, Thủy hạ lưu.

火 性 飛 騰 水 下 流

Nhị vật như năng điên đảo quá,

二 物 如 能 顛 倒 過

Thủy thăng Hỏa giáng kết đơn đầu.

水 升 火 降 結 丹 頭

Khảm Ly đừng hướng Bắc Nam cầu,

Hỏa tính bay cao, Nước hạ lưu.

Thủy Hỏa biết đường điên đảo lại,

Nước trên Lửa dưới kết Đơn Đầu.



Bài 38: Chấn Đoài 震 兌

Đoài phi Tây địa, Chấn phi Đông,

兌 非 西 地 震 非 東

Tính loạn tình mê Khí bất đồng.

性 亂 情 迷 氣 不 同

Hội đắc Tình lai qui Tính Pháp,

會 得 情 來 歸 性 法

Siếp thời kiến Ngã Chủ Nhân Ông.

霎 時 見 我 主 人 翁

Đoài chẳng ở Tây, Chấn chẳng Đông,

Tính loạn, Tình mê khí chẳng đồng.

Nếu được Tình lai qui Tính Pháp,

Tức thời biết được Chủ Nhân Ông.



Bài 39: Tí Ngọ 子 午

Tí Ngọ hưu tòng Nhật Dạ tầm,

子 午 休 從 日 夜 尋

Thân trung biệt hữu Chỉ Nam Châm.

身 中 別 有 指 南 針

Âm Dương Động Tĩnh tùy thời hữu,

陰 陽 動 靜 隨 時 有

Định lý thường thinh Thái Cổ Âm.

定 裡 常 聽 太 古 音

Tí Ngọ khỏi tìm nơi Nhật dạ,

Trong thân đã sẵn Chỉ Nam Châm.

Âm Dương động tĩnh luôn luôn có,

Ngồi lặng sẽ nghe Thái Cổ Âm.



Bài 40: Mão Dậu 卯 酉

Mộc Dục Kinh ngôn Mão Dậu thời,

沐 浴 經 言 卯 酉 時

Hình dung nhị khí một thiên tì.

形 容 二 氣 沒 偏 疵

Ngu Nhân bất hiểu Âm Dương Hội,

愚 人 不 曉 音 陽 會

Triêu tịch nhị phân tĩnh tọa chi.

朝 夕 二 分 靜 坐 之

Mộc Dục theo Kinh: Mão Dậu thời,

Mộc Dục là khi tẩy trần ai.

Người ngu không hiểu Âm Dương hội,

Sáng chiều tĩnh tọa sống lần hồi.

******************         


Bài 41: Huỳnh Bà 黃 婆

Thư Hùng thất phối yếu Huỳnh Bà,

雌 雄 匹 配 要 黃 婆

Mậu Kỷ thành Khuê tạo hóa oa.

戊 己 成 圭 造 化 窩

Nhược vấn Huỳnh Bà chân tín tức,

若 問 黃 婆 真 信 息

Nhất Thành cảm cách, Ngũ Hành hòa.

一 誠 感 格 五 行 和

Chồng Vợ nên đôi cậy Huỳnh Bà,

Huỳnh Bà: Mậu Kỷ, Tạo Hóa oa.

Muốn biết Huỳnh Bà là chi đó,

Chí Thành, Chí Thánh: Ngũ Hành Hòa.



Bài 42: Hoàn Đơn 還 丹

Tu Đơn vi thậm hiệu Hoàn Đơn,

修 丹 為 甚 號 還 丹

Ngũ Khí phân ly câu các đơn.

五 氣 分 離 俱 各 單

Minh Thiện phục sơ giai tụ hội,

明 善 復 初 皆 聚 會

Thân Tâm bất động đả thành đoàn.

身 心 不 動 打 成 團

Tu Đơn cốt để luyện Hoàn Đơn,

Chưa tu: Ngũ khí tán các phương.

Nay hiểu lẽ Trời qui tụ lại,

Thân Tâm bất động. kết thành Đoàn.



Bài 43: Đơn thục 丹 熟

Đơn dĩ hoàn thời, biệt hữu phương,

丹 已 還 時 別 有 方

Bất tu gia giảm tái tăng dương.

不 須 加 減 再 增 陽

Tự Nhiên Thần Hỏa, Lô trung luyện,

自 然 神 火 爐 中 煉

Bính xuất thông thiên nhất lạp quang.

迸 出 通 天 一 粒 光

Đơn đã luyện xong, rất huy hoàng,

Hết cần gia giảm, hết tăng Dương.

Thần Hỏa lò trung âm ỉ luyện,

Phóng lên trời thẳm một vừng quang.



Bài 44: Thánh Thai 聖 胎

Thánh Thai phi thị Hữu Hình Thai,

聖 胎 非 是 有 形 胎

Khí tụ Thần ngưng chân chủng tài.

氣 聚 神 凝 真 種 栽

Lự Hiểm Phòng Nguy thường cẩn thận,

慮 險 防 危 常 謹 慎

Nhược hoàn đại ý tất sinh tai.

若 還 大 意 必 生 災


Thánh thai không phải Hữu Hình Thai,

Khí Tụ Thần NgưngChân Chủng Tài.

Lự hiểm phòng nguy luôn cẩn thận,

Nếu như sơ sẩy sẽ sinh tai.



Bài 45: Thoát thai 脫 胎

Thánh Thai thoát hóa thủy toàn chân,

聖 胎 脫 化 始 全 真

Thập nguyệt công phu dưỡng Cốc Thần.

十 月 工 夫 養 谷 神

Dương Khí Cực Thuần, Âm Khí tận,

陽 氣 極 純 陰 氣 盡

Hư không khiêu xuất nhất Tiên Nhân.

虛 空 跳 出 一 仙 人


Thánh thai thoát hóa mới toàn Chân,

Mười tháng công phu dưỡng Cốc Thần.

Dương khí Cực Thuần, Âm Khí tận,

Từ chốn Hư Không hiện Tiên Nhân.

******************         


Bài 46: Hữu Vi 有 為

Hữu Vi khởi thị lộng bì nang,

有 為 豈 是 弄 皮 囊

Tố tác thiên ban tổng thụ thương.

做 作 千 般 總 受 傷

Chẩm hiểu Tâm Truyền Chân Diệu Quyết,

怎 曉 心 傳 真 妙 訣

Quỉ thần mạc trắc nữu Âm Dương.

鬼 神 莫 測 扭 陰 陽

Hữu Vi há phải khổ thân đâu?

Biến thiên bày vẽ chuyện thương đau.

Nếu hiểu Tâm Truyền Chân Diệu Quyết,

Sẽ biết Âm Dương hợp nhất mau.



Bài 47: Vô Vi 無 為

Vô Vi bất thị chước Ngoan Không,

無 為 不 是 著 頑 空

Hoàn đắc Vật Vong, Vật Trợ công.

還 得 勿 忘 勿 助 功

Bạt khứ Luân Hồi sinh tử chủng,

拔 去 輪 迴 生 死 種

Đương trung chỉ hữu nhất Thần Đồng.

當 中 只 有 一 神 童

Vô Vi đâu phải chước Ngoan Không,

Vật trợ, Vật Vong hãy ung dung.

Bỏ được Luân Hồi, Sinh Tử Chủng,

Trong Không chỉ có một Thần Đồng.



Hình 48: Phục Cấu 復 姤

Âm Cực Phục Dương tu tiến hỏa,

陰 極 復 陽 須 進 火

Dương thuần, tương Cấu vận Âm Phù.

陽 純 將 姤 運 陰 符

Âm Phù, Dương Hỏa vô sai thác,

陰 符 陽 火 無 差 錯

Đoàn xuất Tiên Thiên Thái Cực Đồ.

煆 出 先 天 太 極 圖

Âm Cực Phục Dương nên tiến hỏa,

Dương thuần, tới Cấu vận Âm Phù.

Âm Phù, Dương Hỏa không sai lỗi,

Đoàn xuất Tiên Thiên Thái Cực Đồ.



Bài 49: Văn Vũ 文 武

Mãnh lực hàng Ma vi Võ Luyện,

猛 力 降 魔 為 武 煉

Hư tâm dưỡng Khí thị Văn Phanh.

虛 心 養 氣 是 文 烹

Tri Hung hiểu Cát tùy thời biến,

知 凶 曉 吉 隨 時 變

Biến địa hoàng kim diệu nhỡn minh.

遍 地 黃 金 耀 眼 明

Mãnh lực Hàng Ma là Võ Luyện,

Hư Tâm dưỡng Khí ấy Văn Phanh.

Tri hung, hiểu cát tùy thời biến,

Khắp đất HoàngKim, diệu nhỡn minh.



Bài 50: Hòa quang 和 光

Hòa Quang Hỗn Tục bí Thiên Cơ,

和 光 混 俗 秘 天 機

Đại dụng Thần Công chân cá hi.

大 用 神 功 真 個 稀

Thường ứng, thường thanh thường tự tại,

常 應 常 清 常 自 在

Tùy thời thoát cựu hoán tân y.

隨 時 脫 舊 換 新 衣

Hòa Quang hỗn tục: Bí thiên cơ,

Đại dụng Thần Công rất hiếm khi.

Thường ứng, thường thanh, thường tự tại,

Tùy thời bỏ cũ mặc tân y.

-----------------
*****************         


CHÚ THÍCH

[1] Thức Thần là Chủng Tử luân hồi. Nguyên Thần mới là nguồn gốc trường sinh.

[2] Dương Tinh là Huyền quan khiếu, là Nê Hoàn Cung nơi đầu não chúng ta.

[3] Cốt lõi con người chúng ta là Tiên Thiên Khí, nó hoàn mỹ như Trời cao. Ấy là Bản Lai Chân Diện mục của chúng ta. Biết vậy sẽ tìm ra được Chủ Nhân Ông trong ta.

Đạo Nho gọi gió là Xích Tử Chi Tâm. Mạnh Tử nói: «Đại Nhân giả, bất thất kỳ Xích tử chi tâm giả dã» chính là vì vậy. (Mạnh Tử, Ly Lâu chương cú hạ, câu 12. Xem James Legge, The Four Books, p.322 and note 12).

Mạnh tử cũng gọi Tiên Thiên khí là Khí Hạo Nhiên. (Xem Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Chương Cú Thượng, câu 2.)

[4] Khi chưa sinh thì là Tiên Thiên, khí vừa ló đầu sinh ra là Hậu Thiên. Hậu Thiên là Hữu Vi là đường lối của phàm phu. Tiên Thiên là Vô Vi, là Đường lối của Thánh Hiền. Suy ra thì sẽ thấy.

[5] Hai chữ Thủ Kinh là một tiếng ít thông dụng. Nó cũng có nghĩa như Tiên Thiên Khí.

[6] Tinh, Khí, Thần là bửu bối của Đạo Gia. Người Tu Luyện dùng nó để luyện cho Thành Thần, hoàn hư, phục qui Vô Cực.

[7] Đạo Lão chủ trương Tính Mệnh Song Tu. Tu Mệnh là tu Hữu Vi, là học làm người. Tu Tính là tu Vô Vi là học làm Trời.

[8] Thiên Địa chi tâm là cái gì quí báu nhất trong con người. Chúng ta có thể có may mắn thấy được Thiên Địa Chi Tâm trong Ta, khi chúng ta khoảng 37 tuổi. Dịch Kinh nơi quẻ Phục viết: «Phục kỳ kiến Thiên Địa chi Tâm hồ!» Thấy được Thiên Địa chi Tâm là lúc con người vừa Hồi Phục, khi vừa mới có: Nhất Dương sơ động xứ. Sau đó theo đà thời gian sẽ tiến mãi lên cho tới Chí Dương, Thuần Dương.

[9] Trong con người có Nhân Tâm và Đạo Tâm. Nhân Tâm như Chì, như Sắt; Đạo Tâm như Vàng. Kinh Thư viết: «Nhân tâm duy Nguy, Đạo tâm duy vi, Duy Tinh Duy Nhất, Doãn chấp quyết Trung.» (Lòng của Trời siêu vi Huyền ảo, lòng con người điên đảo ngả nghiêng. Tinh ròng, Chuyên Nhất ngày đêm, Ra công ra sức giữ nguyên Lòng Trời.) Và công phu tu luyện là dùng Đạo Tâm để chế Nhân Tâm, dùng Nhân Tâm để dưỡng Đạo Tâm. Cuối cùng sẽ đạt được Tâm Tử, Thần Hoạt, sẽ Phối Thiên.

[10] Lúc con người chưa sinh là lúc còn Hồn Nhiên Nhất Khí, chưa có thư hùng, chưa có Âm Dương, chưa có Tứ Tượng Ngũ Hành.

[11] Trời sinh ra con người, thật ly kỳ. Cái mẫu người lý tưởng, cái Bản Lai Chân Diện Mục, cái Tâm Xích Tử của con người lại phải tìm cho ra khi con người vừa mới sinh.
------------------
******************         

PHỤ LỤC 1

HUYỀN TẪN CHÂN KHIẾU THUYẾT


玄 牝 真 竅 說

Kẻ học đạo muốn tu Đại Đạo, muốn liễu Tính Mệnh, thì trước hết phải biết Huyền Tẫn chi môn. Huyền Tẫn chi Môn chính là Huyền Quan Nhất Khiếu. Khiếu này có hai cánh cửa, một đóng một mở cao chín thước, rộng 3 thước, ngoài có Linh Quan bả trì, trong có Long Hổ hộ vệ.

Gian Trung đường ở chính giữa thì Tứ Thông Bát Đạt, Trong đó có Chân Nhân. Đầu bù, Chân đỏ, mặc áo ngũ sắc, lưng thắt dây tơ vàng, tay cầm Kim Quang như ý, ngồi rất tự nhiên. Phía sau giường không treo ảnh tượng.

Tường có treo đèn pha lê. Yên lặng, buông rèm, ngồi không nhúc nhích, con ngươi không động đậy, không mở miệng nói bừa, tả có Kim Đồng, Hữu có Ngọc Nữ. Cũng có lúc mắt sáng rực càn khôn, dù là Âm Ti tăm tối cũng chiếu sáng.

 Cũng có khi mở miệng nói thì khí sung vũ trụ, quỉ quái tà ma đều lo xa lánh. Nắm quyền Tạo Hóa, giữ máy Âm Dương, giữ sổ Sinh Tử, nắm giữ cán cân Tính Mệnh.

Nếu ai biết mà thành tâm lễ bái, sáng chiều phụng trì, không hề rời xa. Chân Nhân đó có Diên Mệnh Tửu, có Trường Thọ Đơn, Người nào đã nếm qua, sẽ thoát thai, hoán cốt, xuất tử, nhập sinh.

Nhưng thế gian này, ít trượng phu, ít liệt sĩ, không dám chịu vất vả, không chịu kiên tâm, lại không chịu nghiên cứu Căn Thể, Chính Lý, chỉ sống với cái thân hữu hình hữu tượng này mà thôi.

Giảng Huyền Quan, luận Huyền Tẫn, cứ chước không chấp tướng, theo bọn tiểu thừa, mà mong thành đạo. Buồn thay. Nếu quả là hào kiệt chân chính, thì phải Triệt Nhiên phóng hạ, vạn duyên giai không, phải chịu cầu Chân Sư, chịu kết giao với Lương Hữu.

Chết cũng không thay lòng đổi dạ, thì cuối cùng sẽ hiểu thế nào là Huyền Quan, sẽ thấy được Huyền Tẫn, sẽ liễu đạt Tính Mệnh. Học giả nên cố gắng.

******************         


TU CHÂN YẾU QUYẾT

修 真 要 訣



Đại đạo vô vi bản tự nhiên,

大 道 無 為 本 自 然

Công phu bất đáo, bất phương viên.

工 夫 不 到 不 方 圓

Tam xoa lộ khẩu, tầm Chân Chủng,

三 岔 路 口 尋 真 種

Bát quái Lô Trung luyện Tính Thiên.

八 卦 爐 中 煉 性 天

Một để pháp thuyền năng độ hải,

沒 底 法 船 能 渡 海

Tùy thân dược liệu khả diên niên.

隨 身 藥 料 可 延 年

Hình trung tàng Đức nhân nan trắc,

形 中 藏 德 人 難 測

Hại lý sinh Ân tâm yếu chuyên.

害 裡 生 恩 心 要 專

Tứ tượng điều hòa qui Bản Diện,

四 象 調 和 歸 本 面

Ngũ Hành toản thốc trưởng Kim Liên.

五 行 攢 簇 長 金 蓮

Hữu tăng hữu giảm phương vi diệu,

有 增 有 減 方 為 妙

Tri Cát, tri Hung thủy nhập huyền.

知 吉 知 凶 始 入 玄

Thoát tận khiên triền trần cấu vật,

脫 盡 牽 纏 塵 垢 物

Toàn thành phụ mẫu vị sinh tiền.

全 成 父 母 未 生 前

Tu tiên tác Phật giai do thử,

修 仙 作 佛 皆 由 此

Dư nhị Hư Huyền câu tẩu thiên.

餘 二 虛 懸 俱 走 偏

 *Dịch :-

Đại đạo Vô Vi vốn tự nhiên,

Công phu không đủ, khó phương viên.

Đứng giữa ngã ba, tìm nẻo chính,

Trong lò Bát Quái luyện Tính Thiên.

Pháp Thuyền không đáy năng vượt biển,

Đại Dược tùy thân khá diên niên.

Hình trung tàng Đức người khó biết,

Hại lý sinh Ân, tâm phải chuyên.

Tứ tượng điều hòa qui Bản Diện,

Ngũ Hành toản thốc, mọc Kim Liên.

Có tăng có giảm nên kỳ diệu,

Biết Cát, biết Hung mới nhập huyền.

Thoát hết phược triền trần cấu vật,

Hoàn thành phụ mẫu Vị Sinh Tiền.

Tu Tiên tác Phật đều do đó,

Ngoài ra tất cả: tổng Hư Huyền.


(xin xem Phần chính văn chữ Hán của TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI)

******************         

QUYỂN THƯỢNG

象言破疑

象言破疑序
 
    丹經萬卷皆象言也。象言者,非直言,非明言,非空言,非異言,乃有物有則,有指有證,取象演真之言。後人不究其意,止執其象,在儒者讀之,以為怪誕不經; 在道者讀之,以為包皮外象,甚至有執象猜疑,百般做作,流於曲徑邪行,自傷性命者,不可枚舉。咦!是豈古聖先賢取象立言之意乎?易曰:法象莫大乎天地,變 通莫大乎四時,懸象著明莫大乎日月。丹經皆本週易而作,其藥物火候,俱借天地、日月、四時以發揮其奧妙,若以丹經象言為怪誕,為包皮,易有風雲、雷電、龍 虎、牛馬、鹿羊、龜雉之象,與夫眇能視,跛能履,乘其墉,朋盍簮,噬膚滅鼻,困於株木,載鬼一車,刲羊無血等象,亦將以為怪誕包皮乎?悲夫!正道失傳已 久,不自今始。余自遇真師之後,取諸家丹經,彼此參看,實有得乎象言之意,因將所得於師者,盡洩於參、悟、闡真、原旨等書之內,猶恐學者難於貫通,又著象 言破疑一書,繪圖畫像,細分是非,掃旁門而指正道,息邪說而辯真宗,此則余之本願。見是書者,當思死人亦能說生術,勿以糟粕笑棄。為幸甚。
    時  嘉慶十六年,歲次辛未,春,王正月,棲雲山素樸老叟悟元子劉一明自敘於洗心亭。
 
象言破疑捲上
 
棲雲山悟元老人著 

門人魏陽誠刊梓  後學劉卜雲重刊

象言說
 
    修真之學,古經多言無為之道,而於有為之道罕言之,但無為之道,惟上智者頓悟圓通,一了百當,立躋聖域,其次中下之人,性質愚鈍,根塵深,識見小,若行無 為之道,力量不及,決不能萬緣俱空,直登彼岸。後漢魏伯陽仙翁,准易道而作參同契,度引中下之流,以有像譬無象,以有形喻無形,始有金丹之名,鉛汞、砂 銀、烏兔、龍虎、嬰姹、藥物、爐鼎、烹煉等等法象之說。自後成道群真皆祖參同而作丹經,以演妙理,其意皆欲後之學者,因此以參彼,借彼以證此耳。無如後之 學者,不究寓言之意,不推取象之理,見金丹鉛汞爐鼎之說,疑為服食,而遂流於爐火;見烏兔龍虎之說,疑為臟腑,而遂流於存想;見他家我家陰陽男女之說,疑 為閨丹,而遂流於採取;見逆順顛倒之說,疑為強作,而遂流於運轉;見修性無為之說,疑為寂滅,而遂流於頑空;見修命有為之說,疑為擺弄,而遂流於執相;等 等門戶,皆是以鹿為馬,以鳥作鸞,不但無益於性命,而且有害於性命,是豈祖師當年取象喻言之意乎?
    夫象者,像也。言其此物而像彼物,彼事而像此事也。試以眼前人人共見共知之事物論之,譬如烹煎飲食,鍋即鼎也,灶即爐也,鍋中貯水,灶底燒火,火本上焰,水本下流,今鍋中之水在上,灶底之火在下,水火顛倒,彼此相濟,而飲食熟成,此凡水凡火相濟之象也。
    人之剛性躁,多動,動則屬火,柔性緩,多靜,靜則屬水;用柔以養剛,以剛而就柔,剛柔相當,不躁不緩,歸於中正,大道易成,此神水神火相濟之理也。取凡水 凡火相濟之象,以喻神水神火相濟之理,而其理顯然矣。又如有人本來家業豐富,不守本分,化費財產將盡,忽然自知悔過,苦心勞力,重務生活,漸次積聚,財物 由少而多,終必家業復舊,此還元返本之象也。人身精神靈氣,本來充足圓滿,交於後天,順其造化,費精勞神,元氣衰敗,原本消耗殆盡,若知改頭換面,懲忿窒 慾,閒邪存誠,漸次用功,終有歸根覆命之時,此還元返本之理也。取世人還元返本之象,以喻修道還元返本之理,而其理顯然矣。又如世間男女相配,兩而合一, 即能生子生孫,此人道生生不已之象也。人身陰陽相當,兩而合一,即能生仙生佛,此丹道生生不已之理也。借人道生生之象,以喻丹道生生之理,而其理顯然矣。 丹經皆是借象以喻理,教人從象上辨別所行之理,非是教人背乎理而於象上做作也。
    今人不窮其理,只認其象,悲哉!丹經象言極多,學者須宜由象以窮理,得像忘言,得意忘象,其庶幾乎?

順逆說
 
    舉世之人,皆知順行之道,而不知逆運之道。何為順?順其造化也;何為逆?逆其造化也。順造化則生人生物,生老病死,輪迴不息;逆造化則成仙成佛,不生不滅,壽同天地。
    凡人自父母成胎,生身以後,二八數足,交於後天,內而七性六慾迷其真,外而萬緣萬事勞其形,認假為真,以邪為正,以苦為樂,順其所欲,無所不至,將本來精 氣神三寶,消化殆盡,將原有圓明真性,全然昧卻,不到咽喉氣斷之時,不肯休歇,以故生生死死,萬劫沉淪,所謂閻王不呌,自投其死也。若是大智慧人,逆運造 化,不為造化所拘束,不為陰陽所陶鎔,不為萬物所牽引,不為萬緣所牽移,在大火裡栽蓮,泥水中拖船,借世法而修道法,依人道而全天道,將歷劫根塵盡皆拔 去,把後起客氣一概掃無,命由自主,不由天主,復還當年乾元面目,躲去輪迴,超出三界,為金剛不壞之物矣。
    但這個順中逆運天機,有口傳心授之秘,必須真師指點,非可私猜而知。世間學人,恃自己螢火之明,管窺之見,記下幾句話頭,看過幾宗公案,自謂知道,再不求人,人前賣弄,滿口亂談,以己盲而引人盲,罪過罪過。
    又有一等糊塗漢,認不得真師,朝王暮李,學此小乘工夫,亦負有道,即有明人在前,不肯低心下氣,亂作亂為,或心氣下降,腎氣上升為逆行,或運氣後升前降為 逆行,或還精補腦為逆行,或閉氣定神為逆行,或採陰補陽為逆行,或男下女上為逆行,如此等類,千門萬戶,皆是背逆聖道,非是逆運造化;儘是取死之道,非是 至生之道。殊不知逆者,逆回於父母生身之初也,如人離家遠出,而又逆回於家之謂。
    雖雲逆行,其實是順理而行,乃逆中之大順,因其與常人所行相反,故謂是逆。旁門曲徑,惑於逆之一字,而遂在肉皮囊上萬般作為,到底落空,豈不愚哉!

藥物說
 
    丹經子書,所言採取藥物,烹煉金丹,皆是先天無形無質之真,非世間有形有質之藥,亦非人身有形有質之物,因其人自有生以後,認假失真,將本來圓成之寶,消化殆盡,一身純陰,滿腔邪氣,如大病臨身,待時而死,不有真正靈藥療治,如何返陰為陽,保全性命也?
    真正靈藥是何藥?先天真一之氣也,先天精氣神三寶也。先天真一之氣又名真種子,此氣不落於色象,至無而含至有,至虛而含至實,真空妙有,統攝精氣神三寶, 三寶亦非有形之物,乃無形之真。玉蟾翁云:其精不是交感精,乃是玉皇口中涎;其氣即非呼吸氣,乃知卻是太素煙;其神即非思慮神,可與元始相比肩。雖分三 家,總歸於先天一氣,三家合而成一氣,一氣分而為三家。採藥者,即采此一氣三寶,運真火煆煉成丹,點化一身萬般陰氣,歸於純陽清靜無垢無塵之原物,如人有 病,用藥醫治而成好人矣。所謂藥物者,譬象也;後世學者見丹經藥物之說,誤為有形有質之物,而遂採取山中草藥,配合服食,妄冀長生,或採五金八石,煆煉丹 藥服食,妄想飛昇,殊不知有形之藥,僅能治有形之病,而不能治無形之病,若欲治無形之病,非采先天真一之氣,余無他術矣。參同云:同類易施功兮,非種難為 巧。悟真云:竹破須將竹補宜,抱雞當用卵為之;萬般非類徒勞力,爭似真鉛合聖機。真鉛即先天真一之氣也。觀此一切,認凡藥為仙藥可以悟矣。

火候說
 
    丹經子書所言火候,乃喻其修持工夫次序之準則也。蓋修持功力有先後,有急緩,有進退之時候,不得宜先者而後,宜後者而先;不得宜急者而緩,宜緩者而急;不 得宜進者而退,宜退者而進;亦如爐火燒藥,有文武進退止足之時候,故修真用功次序,取象為火候也。但用功火候,不拘年月日時,刻刻行之,宜先而即先,宜後 而即後,宜急而即急,宜緩而即緩,宜進而即進,宜退而即退,隨時變通,毫髮不得有差。
    所謂宜先者,先嚴於內也;宜後者,後御其外也;宜急者,急於用功也;宜緩者,緩於溫養也;宜進者,陽未足而須進陽;宜退者,陰方生而須退陰;此即火候之實 理,非工家子時進陽火,午時退陰符,卯酉二時宜沐浴之說;亦非冬至進陽火,夏至進(當為退)陰符,春分秋分宜沐浴之說。夫天有天之子午卯酉,人有人之子午 卯酉,豈可以天之子午卯酉而即是人之子午卯酉乎?人身子午卯酉,刻刻皆有,古經云:不必天邊尋子午,身中自有一陽生。蓋以陽生即子,陰生即午,陽與陰合即 卯,陰與陽合即酉,所謂活子午卯酉也,豈是天邊死子午卯酉乎?金丹四百字云:火候不須時,冬至不在子,及其沐浴法,卯酉亦虛比。悟真篇云:縱識硃砂與黑 鉛,不知火候也如閒,大都全藉修持力,毫髮差殊不結丹。曰冬至不在子,曰卯酉亦虛比,曰毫髮差殊不結丹,可知非天邊子午卯酉矣。如雲是天邊子午卯酉,是十 二時只有四時修持,所餘八時棄之不用,豈能毫髮無差乎?入藥鏡云:一日內,十二時,意所到,皆可為。可見年月日時,刻刻用功修持,防危慮險,毫髮不容有 差;至於六十四卦火候之說,亦是指示陰陽進退之法,教人隨時加減,變通用功耳,豈是教人依六十四卦次序而行乎?悟真云:卦中設象本儀形,得像忘言意自明, 舉世迷徒惟執象,卻行卦氣望飛昇。讀書須要會的古人取象立言之意,意已得而像可忘矣。
    修真之道,千經萬典皆象言也,雖取象不一,總以發明陰陽順逆、藥物真假、火候準則而已,其外再無別說。予自得師指示,實悟的象中之意,不敢自私,願公諸知音之士,因將丹經緊要之條拈出,繪圖傳真,分析是非,以破學者之疑,其餘可類推而知。
 

胎中面目
 
    人當父母未生身以前,男女陰陽二氣交感之時,杳冥之中有一點生機自虛無中來,所謂先天真一祖氣者是也。此氣入於精血之內,陶鎔精血,混而為一,無形而即生 形,無質而即生質,內而五臟六腑,外而五官百骸,變之化之,皆自然而成全,雖懷胎之婦,亦莫知其所以然也。後學不知此理,或疑人在胎中,臍帶通於母氣,母 呼亦呼,母吸亦吸,漸次變化成形者,非也。夫呼吸之氣,乃後天之氣,後天之氣,焉能變化精血而成形?況呼吸之氣,焉能入於胞胎之中?殊不知母胎中,只有先 天一點祖氣,渾渾淪淪,始而凝胎,既而養胎,終而全胎,始之終之,皆此祖氣成就之,別無加雜。當斯時也,雖有人形而無人道,天地萬物,水火刀兵,俱不能 傷;七情六慾,五賊四相,俱不能近,究到實處,只一虛空而已。古仙教人修道,返於父母未生身以前面目者,即返於虛空之境,而無聲無臭也。無聲無臭,即是無 極,無極者,無之極,即是一無而已。

嬰兒面目
 
    人在母腹之中,十月胎圓,瓜熟蒂落,破胞而出,足向天,頭向地,"哇"的一聲,方接後天之氣,自口鼻而入,下於氣海,與先天元氣相合,先天為體,後天為 用,後天借先天而呼吸往來,先天借後天而蓄養血脈。不但此也,當"哇"的一聲時,歷劫輪迴識神,亦入於竅,而與先天元神混而為一,元神借識神而存,識神借 元神而靈,但嬰兒初生,雖有後天之氣,後天之神,而先天統後天,後天順先天,先後混成,混混沌沌,無識無知,一真而已。古仙教人窮取生身處,即窮取生身之 初,即窮取嬰兒面目也。迷人不知,妄言生身處是婦人產門者,非也。夫生身之初,嬰兒面目,純白無玷,是聖賢胚胎,仙佛根芽,故飛鳥不搏,虎兕不傷。蓋不搏 不傷者,以其無心也,無心而生死不礙,何災何患?此即始極之象。始極者,始之極,未交於後天,雖與後天相混,純是先天管事,因其在始之極,由無而方始也。

孩兒面目
 
    人自嬰兒漸長,能行能走,能言能語,隨人指引,名曰孩兒,又名孩提之童。嬰兒無識無知,孩兒已有識有知,未免浮雲點太空矣。能識有知,是由始極漸至太極 矣。太極者,大之極,大極則必小,陽極則必陰之時,但小未來,陰未生耳。小未來,陰未生,尚是先天用事,後天伏藏,雖有識有知,根塵尚未發,客氣尚未侵, 飲只食,寒只衣,喜怒哀樂,隨興隨滅;富貴窮通,不知不曉;順其自然,絕無雜念,亦是聖賢胚胎,仙佛根芽。愚人不知,以孩兒為嬰兒者,非也,嬰兒是赤子, 孩兒是童子,雖然皆俱天真,而身份高低不一,知識有無各別,故古仙皆以返本還元為嬰兒本來面目,不取孩兒頑童面目也。

陰陽分判
 
    人自孩兒漸長,二八氣足,陽極生陰,日鑿一竅,陰陽兩分,各居一方,真中有假,於是知識漸開,善惡分別,是太極判而陰陽分矣。所謂二八氣足者,如月上弦下 弦,兩弦合一,光渾圓滿之象;喻其先天陽極,如太極也,陽極必陰,如太極一判,而陰陽兩離矣。愚人不知,以二八生陰之說,疑為男子十六歲而陰精洩者,非 也,試觀世間男子,有十四五歲而洩精者,有十六七歲而洩精者,更有十八九歲而洩精者,歲精多寡不等;可知二八之數,不論人之年歲,乃言氣之盈滿也。

五行分位
 
    陰陽一分,於是五行亦亂矣。五行者,金木水火土之五氣也。五行在先天,則是土生金,金生水,水生木,木生火,火生土,五行一氣,發而為仁義禮智信之五德; 在後天則土克水,水克火,火克金,金克木,木克土,五行相戕,發而為喜怒哀樂欲之五賊。五行相合,則五德備而陰陽混一;五行分散,則五賊興而陰陽駁雜。五 行一分,識神漸起,根塵漸發,真者退位,假者當權,孩兒面目亦失矣。愚人不知,以五臟分五行者,非也。夫五臟者,有形有質之濁物,為後天五行之旅寓,非先 天五行之德園,若以五臟即是五行,五臟如何能分能合?且五行有先天后天之別,先天本於生身以前,後天出於生身以後;先天生聖,後天生人;兩個五行,雖分先 後,皆是活的,非有定位,豈可以五臟之濁物為五行乎?

後天用事
 
    陰陽判,五行分,後天一交,先天退位,於是秉受氣質之性發,外來習染之塵生。六根門頭,門門招賊;七情孽種,種種生災。純白之體,漸漸陰氣入內矣。陰氣一 入,陰氣漸長,陽氣漸消,長而又長,消而又消,順其所欲,無所不至矣。愚人不知,以氣質之性為真性者,非也。真性者,天命之性,屬於先天,有益於人;氣質 之性者,人生之性,出於後天,有損於人。豈可以後天之性即先天之性乎?

純陰無陽
 
    後天用事,陰進陽退,日復一日,年復一年,內而萬唸作殃,外而萬物牽引,內外加攻,陽氣消盡,一身純陰,三寶耗滅,魂魄難存,不死豈能之乎?愚人不知,以 數盡命絕,委之於天者,非也。夫人生所依賴者,陽氣也。一點陽氣,不盡不死,一點陰氣,不純亦不死。順其陰氣,消滅陽氣,自尋死路,與天何涉也?以上七 圖,皆順行造化,生人之道也。

煉己築基
 
    修真之道,返還之道也。返者,我已去而又來之謂;還者,陽已失而復得之義。是於純陰之內,而返還其本來真陽也。人自後天用事,一身純陰,先天陽氣消化殆 盡,不有返還之功,何能無者而復有,失者而仍得耶?返還之功莫先於煉己築基。煉己者,煉其歷劫根塵、氣質偏性,與夫一切習染客氣,即懲忿窒慾,克己復禮之 功。能懲忿窒慾,克己復禮,則無思無慮,不動不搖,根本堅固。即如起屋必先築基,基地堅固,木料磚瓦由人做作,無不負載也。煉己即在築基之中,築基不在煉 己之外。愚人不知,以煉己為守心,築基為閉精者,非也。夫煉己之功,為丹道始終之要著,直至陰盡陽純之後,而煉己之功方畢。若未到陰盡陽純之時,而煉己之 功不可歇。若謂守心閉精即是煉己築基,豈能全金丹之大事乎?古仙云:還丹在一時,煉己須十月。於此可知,非守心閉精矣。

天良真心
 
    煉己築基,非是強制強作、苦力用功,必要認的天良真心,借此真心以煉己。則黑暗之中,即有一點陽光發現,號曰真靈。真靈若現,是非邪正,判然分明,不為物 慾所牽,不為塵緣所染,煉己甚易。倘認不得真心,則邪正不分,是非罔辨,是以心制心,終是人心用事,強制強作。所謂卻除妄想重增病,趨向真如亦是差。如何 到無己之處?愚人不知,誤認人心為真心者,非也。夫真心無心,無心之心,方是天良之心。有此天良之心,何難於己之不能克去乎?百字碑云:動靜知宗祖,無事 更尋誰。黃鶴賦云:離內七般硃砂,無真種則時刻難留。三丰云:築基時須用槖籥,煉己時還要真鉛。祖宗真種、槖籥真鉛,皆天良真心之別名。噫!天良真心,豈 易知哉?若有知之者,則得其一,而萬事畢矣。

陽長陰消
 
    認的天良真心,主人公穩坐中央,為道日減,為功日增;陽氣漸長,陰氣漸消;長而又長,消而又消,直到無可長消處,方為極功。愚人不知,以靜坐無為、寂滅頑 空,妄想陽氣自長,陰氣自消者,非也。夫還丹者,陰中復陽也。若以靜坐無為、寂滅頑空而欲復陽,陽豈能自來,陰豈能自退?《悟真》云:"總識硃砂與黑鉛, 不知火候也如閒;大都全藉修持力,毫髮差殊不結丹。"於此可知進陽退陰之道矣。

攢簇五行
 
    陽長陰消,還要知的攢簇五行。五行攢簇,大道可望。攢簇之功是在後天五行中返出先天五行也。後天五行,彼此相剋也;先天五行,彼此相生也。返者,於相剋之 中而致相生也。五行相生,渾然天理,是五行一氣,四象和合也。愚人不知,以意引心腎之氣,上下相交,運肝肺之氣,左右相會為攢簇五行者,非也。夫五臟之 氣,皆有形之物,後天滓質,有成亦有壞,如何凝結永久不壞之命寶哉?

陰陽混合
 
    五行從陰陽中分出,五行攢簇,合而為一,即是陰陽合而為一。陰陽混合,金丹有像,仍是孩兒面目,但不過後天之氣,猶未化去耳。然雖是未化去,先天返還,後 天即順,亦是不能為禍,從此再下一重功夫,金丹可成矣。愚人不知,或心腎相交,或任督相會,或男女相交,為陰陽混合者,非也。夫金丹先天虛無之氣凝結而成 者,豈後天氣血有形之物所能凝結哉?

渾然一氣
 
    陰陽返還於混成,孩兒面目已復,從此運天然真火,鍛去後天余陰,歸於無識無知地位,神藏氣聚,所謂男兒有孕者是也。這個胎孕,即是嬰兒面目,即是生身受氣 處,亦即始極,亦即太一含真氣。愚人不知,采紅鉛,摘梅子,服食吞飡,相結聖胎者,非也。若謂紅鉛梅子能結聖胎,不過所結者血塊肉團,促死之鬼胎而已,其 他何望乎?

太空虛無
 
    聖胎凝結,再加十月溫養之功,運天然真火,熏烝烹煉,由微而著,由嫩而堅,群陰剝盡,胎圓丹成,瓜熟蒂落,忽的打破混沌,迸出清淨法身,跳入太空虛無之 境,超出乎三界之外矣。此即未生身以前面目,亦即無極面目。道歸無極,形神俱妙,與道合真,大丈夫之能事畢矣。愚人不知,或對鏡演神,或默想頂門,或面壁 忘形,出陰神之類者,非也。金丹脫化之神,乃為陽神,其一切靜功所出之神,乃為陰神;陽神萬載長在,不生而不滅;陰神未經火煉,拋身又入身。千門萬戶,若 不得金丹大道點化,雖能陰神出入自便,知前曉後,難逃輪迴,所謂饒君千萬劫,終是落空亡也。
 
以上七圖,皆逆行造化,修仙之道也。
 
十四圖中,順行逆運二事,大略可知,以下拈出緊要像言,分判邪正,指出實義,以示學者,諸如此類,可以意會矣。
------------------------------  
******************         


QUYỂN HẠ

象言破疑


卷下
 

金丹
 
    金者,堅剛永久不壞之物;丹者,圓滿光淨無虧之物。古仙借金丹之名,以喻本來圓明真靈之性也。此性在儒則名太極,在釋則名圓覺,在道則名金丹。名雖分三, 其實一物。儒修之則為聖,釋修之則為佛,道修之則為仙。三教聖人皆以本來真性為成道之本也。愚人不知,或用五金八石鍛鍊成藥為金丹者,非也;真性在大造爐 中,經火鍛鍊成熟,與天地同長久,與日月同光明,豈凡世有質之物能成哉?

天地之心
 
    修真第一要著,須要認得天地之心。天地之心即前所云天良真心也。此心恍惚杳冥,不輕現象,因有虛室生白,暗中忽明之時,方露端倪。天屬陽,地屬陰,天地之 心,乃陰不離陽,陽不離陰,陰陽相合之心。陰陽合,有此心,陰陽分,無此心;非色非空,即色即空,非有非無,即有即無,色空無礙,有無不立,乃真空中之妙 有也。識得此心,守而不失,則大本已立,其餘易事耳。愚人不知,皆在肉團頑心上揣摩,或以動心為天地之心,或以靜心為天地之心,或心住中宮為天地之心者, 皆非也。夫頑心者,後天私慾之人心,動心則著於有,靜心則著於無,住心又著於象,此等之心與天地之心雲泥相隔。蓋以天地之心,動靜如一,寂然不動,感而遂 通,感而遂通,寂然不動,豈肉團頑心之謂乎?

偃月爐
 
    偃月者,偃仰蛾眉之月。月晦極,下又生明,喻人至靜之中,忽有天根現露,號曰道心,有如偃月之象。爐者,運火之器,以其道心陽光,能以鍛鍊一身之陰氣,故 又喻之為爐,其實道心即天地之心。以體言,為天地之心;以用言,為道心。一物而二名也。愚人不知,以丹田之下橫骨上仰為偃月爐,或認心字一彎上仰,誤以肉 團心為偃月爐,又采戰家以婦女產門為偃月爐者,皆非也。夫偃月爐,乃道心之光輝,此光照處,諸邪皆滅,能以作聖,能以作仙。紫陽翁云:"休泥丹灶費工夫, 煉藥須尋偃月爐。"又云:"偃月爐中玉蕊生,硃砂鼎裡水銀平;只因火力調和後,種得黃芽漸長生。"於此可知偃月之義矣。

硃砂鼎
 
    硃砂者,火之色,因其火能鍛鍊諸物,去舊換新,故人以鼎象之。火之為物,最靈最神,無物不化,喻其神明無處不照,無事不成之義。但神有元神有識神,識神能 以敗道,元神能以成道。蓋識神帶有歷劫根塵,借元神之靈而生妄,不至喪去性命而不止。修行大法,須要以元神而制識神,識神不起,則邪火滅,邪火滅而真火 生,真火生而和氣氤氳,生機不息,大道可望。愚人不知,誤認昭昭靈靈之識神以為元神者,非也。夫元神者,不神之神,靈而最真,真而最靈;昭昭靈靈之神,乃 神而神者,雖靈有假,假中之靈為輪迴之種子。古仙云:"無量劫來生死本,痴人喚作本來人。"生死本,即識神之謂也。

元牝之門
 
    元為陽、為剛、為動,牝為陰、為柔、為靜,元牝之門乃陰陽之竅、剛柔之門、動靜之關,無方無所,無形無象,彷彿曲肖,虛懸一竅,在五行不到之處,四大不著 之境,至無而含至有,至虛而含至實,乃陰陽相合之中一竅。愚人不知,以口鼻為元牝者,非也。夫口鼻是呼吸出入之門,非陰陽出入之門,陰陽相合,生仙生佛, 口鼻呼吸之氣,豈能生仙生佛乎?悟真云:"元牝之門世罕知,莫將口鼻妄施為"者是也。

元關一竅
 
    元關者,至元至妙之關口,又名生死戶、生殺室、天人界、刑德門、有無竅、神氣穴、虛實地、十字路等等異名,無非形容此一竅耳。元關即元牝之別名,因其陰陽 在此,故謂元牝門;因其元妙不測,故謂元關竅,其實皆此一竅耳。愚人不知,或以心下腎上處為元關,或以臍心為元關,或以尾閭為元關,或以夾脊雙關為元關, 凡此皆非也。蓋元關無定位,若有定位即非元關。陳虛白以念頭起處為元關,似是而實非也。念頭起處已落於後天有形之物,如何稱為元關?吾今與大眾分明指出: 在恍惚杳冥之間,有無相入之際,悟真篇曰:"恍惚之中尋有像,杳冥之內覓真精,有無從此自相入,未見如何想得成?"又四百字云:"此竅非凡竅,乾坤共合 成,名為神氣穴,內有坎離精。"此實指元關一竅而言也。

穀神
 
    穀神者,空谷之神,俗名崖娃娃。因其兩山高聳,中間一谷,人聲喊叫,谷中傳聲,故名穀神。修道借此以喻人身虛靈之神。蓋心虛則靈,不虛不靈,靈出於虛,亦 名穀神。神者,無形無象,靈而不可測度之義。所謂寂然不動,感而遂通者,此神也;所謂凝結聖胎者,亦此神也。愚人不知,以神存天谷謂穀神,或神守黃庭謂穀 神者,皆非也。若神存於天谷,神守於黃庭,則是不虛,不虛焉得有神?不虛無神,何得名穀神?悟真云:"要得穀神長不死,須憑元牝立根基。真精既返黃金室, 一顆靈光永不離。"元牝合而中即虛,虛則真靈常存而不昧矣。真精靈光穀神,皆喻真靈之一物耳。

金鼎 玉爐
 
    金鼎者,剛強堅固之物,喻人志念專一,能以載道之義,又名乾鼎;玉爐者,溫柔平靜之物,喻人工夫漸進,能以久遠之義,又名坤爐。愚人不知,鑄造鐵鼎,做作 泥灶,燒煉金石,妄想成丹者,非也。蓋有形之爐鼎只能煉有形之凡藥,而不能煉無形之仙藥。古仙云:鼎鼎原無鼎,爐爐亦非爐。其所謂爐鼎者,以其修道之功, 剛柔兩用方能濟事,亦如燒煉家,有鼎不可無爐,有爐不可無鼎,鼎爐俱備,方能成藥也。

烏兔 藥物
 
    日中有金烏,為陽中之陰;月中有玉兔,為陰中之陽。日在卦為離,外陽內陰,喻其剛中有柔之義;月在卦為坎,坎外陰內陽,喻其柔中有剛之義。金丹之道,惟取 剛中之柔,柔中之剛,兩味真陰真陽大藥,熔化一氣而成丹。曰藥物者,以其真陰真陽能以返老還童,延年益壽也。至於龜蛇盤結,水火相濟,亦是此理,不過隨便 取象,以證真陰真陽合一之道耳。愚人不知,疑為烏兔二字,或口吸日精月華,或眼接日精月華者,非也。夫天有天之日月,人有人之日月,人身真陰真陽,即人之 烏兔日月也。天邊日月精華,與我相遠,怎能采來?如曰能采,則改採者身外邪氣,久必內得臌脹,外則失明,無益有損矣。

龍虎相會
 
    龍性柔,主生物,屬木,在卦為震,喻人之柔性。震本陽而取柔象者,陽少陰多也。虎性剛,主殺物,屬金,在卦為兌,喻人之剛情。兌本陰而取剛象者,陰少陽多 也。此性此情,彼此隔礙,則為氣性塵情而傷生;彼此和合,則為真性真情而益生。龍虎相會,是以性求情,以情歸性,性情合一之義。至於東家女、西舍郎,配為 夫妻,長男少女,兩家合一,金木相併等象,無非喻此真性真情交會之意。愚人不知,以肝為龍,肺為虎,運肝肺之氣於臍心,或於丹田,或於黃庭,以為龍虎交媾 者,非也。殊不知肝肺之氣皆後天有形之氣,不但不能凝結一處,即強團聚,積久成蠱,無法醫治,自促其死,豈不愚哉!

坎離顛倒
 
    坎卦外陰而內陽,離卦外陽而內陰。內陽為水,內陰為火。丹道取坎中之陽,以填離中之陰,以水濟火,是謂水上火下,水火顛倒,又名坎離顛倒,以喻道心真知之 神水,去制人心靈知之邪火也。吾之真知,外暗內明,如坎卦外陰內陽;吾之靈知,外明內暗,如離卦外陽內陰。以真知而制靈知,以靈知而順真知,真靈如一,凝 結成丹,亦如顛倒坎離,水火相濟也。至於嬰兒、姹女、黑鉛、紅汞之象,亦無非形容真知靈知兩而合一耳。愚人不知,指腎為坎,心為離,運腎氣上交於心,心氣 下降於腎為顛倒坎離;又有採取閨丹,以男女作嬰兒姹女,男下女上為坎離顛倒;又燒煉家以黑鉛制水銀,或爐下煨火,鼎上貯水,為坎離顛倒、水火相濟者。凡此 皆非也。夫修真之道,修其真也,一切有形滓質,邪行醜事之類,假而不真,何能成真哉!

五行顛倒
 
    五行順生,木生火,金生水;五行顛倒,火生木,水生金。蓋火生出之木,永為不朽之木,如木遇火,鍛鍊成炭,入地常存之類;水生出之金,永為不壞之金,如散 金爐中熔汁成塊,分外生明之類。火生木,喻人之本性在大造爐中,鍛鍊出來,永為不動不搖之性矣;水生金,喻人之真情在慾海波中,親渡過去,永為無塵無垢之 情矣。古仙所謂,五行順行,法界火坑,五行顛倒,大地七寶者是也。愚人不知,搬東弄西、採下補上、推前運後為五行顛倒者,非也。殊不知一身純陰,內而心肝 脾肺腎,外而眼耳鼻舌身,儘是假物,咽喉氣一斷,一堆臭穢骨肉,哪有一件是真?若以此假物妄想了性了命,烏乎能之?

黃婆媒娉
 
    黃婆者,中央土母,以其能調陰陽,能和四象,故名黃婆,丹書借此以喻人之真意中真信,能以和性情,養精神之義。真意真信即吾身中之黃婆,所謂黃中通理者是 也。愚人不知,以意運五臟之氣會合,為黃婆媒娉,又有造孽之輩,用能言老婦調戲男女行淫,取處女首經梅子,為黃婆媒娉者,大非也。夫真土無位,真意無形, 無物不生,無理不具,能以會三家、攢五行,故名黃婆媒娉,豈意念之意,作妖老婦之謂乎!

二八兩弦
 
    月自晦朔之間,與日相交,初三微光現象,至初八陰中陽半,有如弓弦,是為上弦,十六圓滿,一陰胎內微黑現象,二十三陽中陰半,有如弓弦,是為下弦;上弦得 水中之金八兩,下弦得金中之水八兩,二八一斤,金水相停,陰陽相合之象,丹書借此以喻剛柔相當,不偏不倚,至中至正之義。愚人不知,或以男子十六歲為二 八,兩弦之氣足,而遂勒閉陰精,或以黑鉛八兩,水銀半斤為二八兩弦之藥料,而燒煉服食者,皆非也。《四百字》云:上弦金八兩,下弦水半斤,兩弦合其精,乾 坤體乃成。兩弦者,一陰一陽也。乾剛為陽,坤柔為陰,陰陽相配,乾坤體成,丹元有像,於此可知兩弦之意矣。

黍米珠
 
    人當未生身之前,在胞胚之中,混混沌沌,昏昏迷迷,只有渾然一氣盤旋,別無他物,所謂太乙含真氣者是也。此氣至神至妙,至虛至靈,至無而藏至有,三元、八 卦、四象、五行皆包於內,故無形而能變化,所以變化無窮,五臟六腑、九竅百骸俱皆自然成就,因其至神至妙,至虛至靈,又名真靈,又名不神之神。當其在母腹 之中,一氣含真,名曰真氣,及其出母腹,靈含一氣,名曰靈氣,一氣為體,即是真空;真靈為用,即是妙有。真氣真靈,真空妙有,名雖有異,只是一真。此真無 形無象,無聲無臭,不可以言傳,不可以筆肖,仿彿形容,不過一黍米之微,故古仙皆稱此真為黍米寶珠。雖雲黍米,而實無黍米之形,因其有一點靈氣,隱於中 央,故名黍米;因其有一點黍米之靈,而混沌虛空,三界無一不包,故名黍米珠;究到實處,總是鴻濛未判之始氣也。愚人不知,以女子首經中梅子為黍米珠,又工 夫家神存明堂,久而眼光散外,為黍米珠,皆非也。夫鴻濛未判之黍珠,為生聖生賢,成仙成佛之靈寶,豈濁血之物、存想之光所可能哉!《四百字》云:混沌包虛 空,虛空包三界,及尋其根源,一粒黍米大。三丰翁云:誰不知,誰不會,誰不行,都只在鴻濛未判一粒黍米上迷。

火候卦象
 
    丹經皆借六十四卦為陽火陰符之法象,以乾坤二卦為鼎爐者,取其陽剛陰柔為體也;以坎離二卦為藥物者,取其剛柔中正為用也;復姤二卦為陰陽之交界,取其剛柔 運用各有時節也;屯蒙二卦為造化之始,取其當進火而須用剛,當退火而須用柔也;既未為造化之終,取其陽火而用剛,不可太過,陰符而用柔,不可不及也。其餘 五十四卦,皆隨乾坤坎離復姤屯蒙既未十卦運用,自然而然。約而言之,總以陰陽相當,兩而合一,歸於混成之象而後已。愚人不知,按六十四卦,在年月日時上強 做作用功者,非也。夫天地陰陽造化一氣流行,週而復始,循環無端,豈從六十四卦行哉?六十四卦是聖人觀天象地,體陰陽造化而作,六十四卦乃陰陽造化之解注 耳。人身造化與天地造化相合,自有六十四卦,豈可泥文執象哉!

生我之門
 
    月至西南,晦極而生明,西南屬坤,純陰之方。純陰之下,一陽潛生,有上坤下震之象,在卦為復,在月為偃月,皆喻其靜極之中,忽有天心現露之義;又名道心, 又名天良真心,即前所謂偃月爐。若見此心,保守不失,借之進陽退陰,如貓捕鼠,必至陽漸生,陰漸退,陰盡陽純,則仙矣。故以西南坤位為生我之門。愚人不 知,以婦人產門為生我之門者,非也。產門乃生人之處,何以能生仙哉?

死我之戶
 
    月至東北,陽光將滅,東北屬艮,陰氣將純,陽光些微,有上艮下坤之象,在卦為剝,在月為覆碗,皆喻其客氣剝消真元之義。若有出世丈夫,勇猛男子,頓悟回 頭,借此一點余陽,以明破暗,用功修持,亦不難於返本還元。一切凡夫,迷而不悟,順其陰氣剝陽,陽盡陰純,不死豈能之乎?易曰:東北喪朋,丹書又號死我之 戶。愚人不知,以婦女產門為死我之戶者,非也。夫生門死戶,皆無形無象之門戶,因其順陰則死,逆陽則生,故以生門死戶名之,其實只一竅耳。古仙號曰生死 關。雖名為關,亦無方無所,乃強名也。悟真云:須將死戶為生戶,莫執生門號死門。若會殺機明返覆,始知害裡卻生恩。於此可知生門死戶之義矣。

有為之竅
 
    有為之道即有欲觀竅之功。觀竅者,觀陰陽造化之竅,借後天返先天,和四象、攢五行、採藥進火,自還丹以至結胎,工程次序,皆在其內。若非真師口傳心授,毫 髮之差,千里之失。愚人不知,在後天幻皮囊上擺弄氣血,以為有為之道者,非也。夫金丹之道,先天之學,能以扭轉陰陽,竊奪造化,逆回氣機,顛倒乾坤,先天 而天弗違之道,豈做作後天一身有形有質之物所能成乎?正陽翁云:涕唾津精氣血液,七般靈物總皆陰。若將此物為丹本,怎得飛昇朝玉京。紫陽翁云:嚥精納氣是 人行,有藥方能造化生。鼎中若無真種子,猶將水火煮空鐺。噫!金蝦蟇,玉老鴉,認得真的是作家。有為之道豈易知哉!

無為之妙
 
    無為之道,即無慾觀妙之功,乃聖胎凝結以後之事,是靜觀一氣變化之妙。當聖胎凝結之後,後天已返為先天,只用沐浴溫養之功,勿忘勿助,運天然真火熏烝,變 化自然,無形生形,無質生質,瓜熟蒂落,嬰兒出現,而前之烹煉武火之功,皆棄而不用也。愚人不知未窮性命是何物,修道是何事,學些旁門曲徑小法乘,而便入 山靜坐,或閉關定神,以為無為者,非也。夫性命必須雙修,功夫還要兩段,兩段者,一有為而先了命,一無為而後了性,豈空空靜坐定神而能了性命哉?悟真云: 未煉還丹莫入山,山中內外盡非鉛,此般至寶家家有,自是愚人識不全。又云:始於有作無人見,及至無為眾始知。但見無為為要妙,豈知有作是根基。於此可知有 為無為,各有時節,各有作用,大不同也。

混俗和光
 
    混俗和光,及乃大隱市朝之作用。混俗者,混於俗中,使人不識也;和光者,和而不同,在塵出塵也。能混俗和光,外圓而能應物,內方而有主宰,依世法而修道 法,顯晦逆順,無阻無擋,行道至易。愚人不知,或疑混俗和光是日間應事,夜間修靜者,非也。果如是言,謂之從俗則可,謂之混俗則不可;謂之蔽光則可,謂之 和光則不可。蓋混俗和光之道,有奪天地造化之能,竊陰陽生殺之訣,豈容易而知,容易而行哉?

藥歸土釜
 
    土性溫柔,能以養物;釜主烹煎,能以成物。釜以土名,為養物成物之器,非尋常之土,非尋常之釜可比。藥歸土釜,是喻其陰陽相合,聖胎凝結溫養之功。溫養聖 胎,全在一意不散,允執厥中,陰陽相當,不偏不倚,故亦以土釜名之。究到實處,只一中字耳。守此中,則陰陽和,五行攢,聖胎全;失此中,則陰陽偏,五行 分,聖胎傷。然則守中為溫養聖胎之妙訣也。愚人不知,或挖地爐,養硃砂,取硃砂中水銀,以地爐為土釜;或泥爐作灰池,燒鉛入灰池分銀,以灰池為土釜者,皆 非也。子野云:真土無位,真意無形,特以中之土釜,無形無象,無方無所,因其能成全聖胎,故以釜名之,豈泥土之釜之謂乎?



凝結聖胎
 
    聖胎者,聖人之胎。即無識無知,嬰兒本面。道至無識無知,百神會集,萬緣俱息,混混沌沌,入於恍惚杳冥之境,自有為而入無為矣。愚人不知,或運心液腎氣相 交於黃庭為聖胎,或神存中宮為聖胎,或運氣後升前降,住於丹田為聖胎者,皆非也。聖胎無形無質,雖名為胎,而實無胎可見,所云胎者,不過形容真靈凝結不散 耳。若以氣血強凝成胎,是乃促死之鬼胎,非長生之聖胎也。

十月胎圓
 
    十月胎圓,乃神全氣足,根塵拔去,客氣消化,陰盡陽純之象;猶如婦人懷胎,十月方能成全。丹道以十月胎圓喻之者,取其聖胎凝結之後,必須防危慮險,沐浴溫 養,期必至於圓成無虧而後已,非以十月為定期也。愚人不知,疑於十月二字,或運氣,或存想,或凝神,妄想結胎,以十月為定期者,非也。修真之道,自採藥烹 煉結丹結胎,以至道成脫胎換化,要費無限功力,豈可以十月為期?可知十月乃象言耳。

嬰兒出現
 
    嬰兒出現,聖胎脫化之謂。聖胎者,色身中又懷一法身也;脫化者,色身中又生出一法身也。因其色身中又生出一法身,如凡婦十月懷胎生出一嬰兒,故以法身名嬰 兒。嬰兒出現,身外有身,跳出三界之外,不在五行之中,躲過輪迴,與天地同壽,與日月同庚矣。愚人不知,以坎中真陽為法身嬰兒,或以腎中精氣為法身嬰兒 者,非也。夫坎中嬰兒,乃陰中之陽,法身嬰兒,乃陰陽混化之真;至於腎氣,乃腎中之邪火,絕無嬰兒之義,豈得混論哉?悟真篇云:嬰兒是一含真氣,十月胎圓 入聖基。四百字云:夫婦交會時,洞房雲雨作,一載生個兒,個個會騎鶴。於此可知法身嬰兒之說矣。

移爐換鼎
 
    大道圓成,身外有身,形神俱妙,已到大聖人地位,而爐鼎無所用,更何有移換爐鼎之事乎?其所以移換爐鼎者,仍將此法身潛藏密養,變化神通耳。所移者何爐, 所換者何鼎?以太虛為鼎,無為為爐,而前之乾鼎坤爐、硃砂鼎、偃月爐,一概藥物,俱皆不用矣。只所用者,法身耳。法身在虛無之中,自變自化,愈虛愈神,愈 無愈妙,神妙不測,變化無窮,所謂子又孫孫又枝,到此地位,休歇罷功,打破虛空,跳上大羅之境,方為了當也。後之學人,未得真傳,或疑身外有身,已抵道之 盡頭路者,非也。敲爻歌云:一物無,隨顯道,五方透出真人貌,仙童仙女彩雲迎,五明宮裡傳真誥。觀此而知法身千變萬化,方為極功也。
 
 
破疑詩

七言絕句五十首

離世

世事千般俱不真,俗緣恩愛最傷身,一刀兩斷無牽扯,解脫場中作個人。


煉睡

少睡原非煉睡魔,忘飱廢寢斬藤蘿。諸緣掃去心清靜,晝夜長眠怕甚麼。


功行

修行積德最為先,功大行深感動天。可笑愚人惟利己,無功少行想成仙。

金丹

先天本性號為丹,八卦爐中煉作團。舉世迷徒尋外藥,吞飱妄想上雲端。


元關

元關一竅少人知,恍惚杳冥含兩儀。順去流歸煩惱路,逆來便是聖賢基。


識神

思慮精靈號識神,輪迴種子帶根塵。愚迷俱把遊魂弄,到底誰能見主人。


陽精

陽精一點秘形山,認得真時可駐顏。非在心中非在腎,不空不色隱元關。


先天氣

先天一氣在鴻蒙,無象無形不落空。認得生初真面目,方知我有主人公。


先後天

未生身處號先天,一出頭來氣質連,先聖後人分兩路,須當仔細辨偏全。


首經

首經本是先天寶,恍惚杳冥真一精。純白無疵清淨物,休將濁血冒安名。


三藥

大藥三般精氣神,有形不是本來真。至精至粹虛靈物,煉就金剛大法身。


性命

性命原分先後天,生身落地定偏全。後天性命後隨天運,捉住先天我操權。


天地心

天地之心甚處藏,陰陽感激現圓光。虛無鼎裡烹煎熟,萬古千秋不損傷。


道心人心

人心似鐵道心金,可向微危細酌斟。變化靈通無上下,源頭活水別陽陰。


未生時

未生身處有誰知,靜靜悄悄混沌時。四象五行皆未到,混然一氣沒雄雌。


初生時

初生面目事如何,先後二天一氣和。無識無知無點染,佛仙種子聖賢窩。


他家

他家不是別人家,誤認人家早大差。我的孩兒迷失外,一呼見面子隨爺。


彼我

經言彼我辨陰陽,非色非空清淨鄉,采戰閨丹邪術輩,煙花寨裡壞天良。


侶伴

侶伴須分內外因,身中侶伴兩三人,外邊侶伴同扶佐,脫盡輪迴歷劫塵。


外護

皆尋外護望成功,買鼎烹鉛亂捉風,怎曉天機超俗法,借它大力鎮愚慒。


九鼎

乾元九數號純陽,九鼎還丹鍛鍊方,造孽迷徒猜女鼎,決然打入鐵圍鄉。


招攝

招攝先天有秘方,鼓琴敲竹見虛皇。色聲鬧處無妨礙,隨手扭回北斗光。


顛倒

顛倒陰陽有甚難,當於靜裡運神觀。道心不昧人心滅,立地直登百尺竿。


火候

運火工夫本沒時,朝乾夕惕斬三屍。防危慮險常清靜,應物不迷損益之。


卦象

火候經言周易卦,推爻執象俱皆非。大都要會陰陽理,進退隨時任指揮。


乾坤爐鼎

乾鼎坤爐在我身,休從外面問原因,剛柔二事無間隔,鍛出先天一氣真。


偃月爐

問道何謂偃月爐,黑中有白晦而蘇。分明指出還丹母,叫醒時人識也無。


硃砂鼎

修真藉賴硃砂鼎,非鐵非金非是銀,認得靈明些子物,取新革故見元仁。


土釜

土釜豈由土作成,中央正位是真名。木金水火皆攢此,養顆元珠徹夜明。


斗柄

因觀鬥柄運周天,始悟生機在那邊。扭轉腳根翻過面,當時火裡現金蓮。


兩弦

下弦是水上弦金,止是調停陽與陰。果若剛柔和合了,當中露出涅槃心。


壬癸

壬水陽兮癸水陰,學人幾個細追尋。樞機動處分真假,去濁留清產白金。


煉己

修行煉己最為先,絕欲忘情卻萬緣。六賊三彭皆剪滅,乾乾淨淨一丹田。


築基

志念堅牢是築基,身心不動最為奇。憑它禍患與災厄,止水無波萬有離。


鉛汞

真汞原非塵世汞,真鉛不是出山鉛,一情一性先天藥,鍛鍊歸根了大還。


嬰姹

姹女藏離本不真,嬰兒在坎亦難遵,而今說破陰陽竅,能實能虛產法身。


坎離

坎離莫向北南求,火性飛騰水下流,二物如能顛倒過,水升火降結丹頭。


震兌

兌非西地震非東,性亂情迷氣不同。會得情來歸性法,霎時見我主人翁。


子午

子午休從日夜尋,身中別有指南針。陰陽動靜隨時有,定裡常聽太古音。


卯酉

沐浴經言卯酉時,形容二氣沒偏疵,愚人不曉陰陽會,朝夕二分靜坐之。


黃婆

雌雄匹配要黃婆,戊己成圭造化窩。若問黃婆真信息,一誠感格五行和。


還丹

修丹為甚號還丹,五氣分離俱各單,明善復初皆聚會,身心不動打成團。


丹熟

丹已還時別有方,不須加減再增陽,自然神火爐中煉,迸出通天一粒光。


聖胎

聖胎非是有形胎,氣聚神凝真種栽,慮險防危常謹慎,若還大意必生災。


脫胎

聖胎脫化始全真,十月功夫養穀神。陽氣極純陰氣盡,虛空跳出一仙人。


有為

有為豈是弄皮囊,做作千般總受傷,怎曉心傳真妙訣,鬼神莫測扭陰陽。


無為

無為不是著頑空,還得勿忘勿助功。拔去輪迴生死種,當中只有一神童。


復姤

陰極復陽須進火。陽純將姤運陰符。陰符陽火無差錯,鍛出先天太極圖。


文武

猛力降魔為武煉,虛心養氣是文烹。知凶曉吉隨時變,遍地黃金耀眼明。


和光

和光混俗秘天機,大用神功真個希,常應常清常自在,隨時脫舊換新衣。

-----------------
PHỤ LỤC

元牝真竅說
 

    學人欲修大道,了性命,莫先於認元牝之門。元牝之門,即元關一竅,此竅有門兩扇,一開一合,高九尺,闊五尺,門外有靈官把守,門內有龍虎護衛;中堂一間, 四通八達,有真人居焉,蓬頭赤足,身穿五色納衣,腰繫黃綠長絛,手執金光如意,穩坐自然床,後靠無影壁,前懸玻璃燈,塞兌垂簾,不動不搖,等閒眼不輕睜, 口不妄開,左有金童,右有玉女,有時睜眼,光滿天地,黑暗陰司,無處不明;有時開口,氣充宇宙,鬼怪邪魔,盡皆遠避;掌造化之權,把陰陽之機,握生死之 簿,操性命之柄。人能見之,誠心禮拜,朝夕奉侍,須臾不離;真人有延命酒、長壽丹,得嘗之者,脫胎換骨,出死入生。但世間少大丈夫,真烈士,下不得苦力, 耐不得長久,又不窮究根本正理,專在一身上下有形有像處講元關,論元牝,做些著空執相小法乘,妄想成道,悲哉!果是個真正豪傑,截然放下,萬緣皆空,在切 身大事上留心,拜訪真師,結交良友,存至死不變念頭,元關終必知,元牝終必見,性命終能了,學者其勉之。
 
 
修真要訣

大道無為本自然,功夫不到不方圓。
三岔路口尋真種,八卦爐中煉性天。
沒底法船能渡海,隨身藥料可延年。
刑中藏德人難測,害裡生恩心要專。
四象調和歸本面,五行攢簇長金蓮。
有增有減方為妙,知吉知凶始入玄。
脫盡牽纏塵垢物,全成父母未生前。
修仙作佛皆由此,余二虛玄俱走偏。

-------------------


HẾT













Feature Post Co Thuoc

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are just exactly some cold or flu influenza) Smart Curing Therapy Treatment _ Toa Thuoc dieu tri benh Corona hieu qua nhat hien nay

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are j...

Popular post Co Thuoc: