Saturday, November 28, 2020

Ngọc Lịch Bửu Kinh _ Kinh Hồi Dương Nhân Quả

Kinh Hồi Dương Nhân Quả _ Ngọc Lịch Bửu Kinh



Kinh Hồi Dương Nhân Quả _ Ngoc Lich Buu Kinh 




HUỆ ĐỨC THẮNG HƠN PHƯỚC ĐỨC
Lúc năm Thuận Trị thời nhà Thanh, tại huyện Thuận Nghĩa, Bắc
Kinh có một đại gia đình họ Cung, nhà có ruộng đất cả trăm mẫu, lừa
ngựa cả đàn. Lúc trung niên, họ sanh được một cậu con trai, đặt tên
cúng cơm là Khánh Hữu. Trong lúc này, ông Lý làm quản gia quản lý
việc tá điền cho nhà họ Cung cũng sanh được một thằng con trai, đặt
tên là Lý Phúc. Đợi Cung Khánh được 7 tuổi, Cung đại gia mời một gia
sư đến dạy học cho con trai. Lý quản gia thấy con trai của Cung đại gia
được học sách, nên cầu xin ông Cung đại gia cho con mình học cùng với
Cung Khánh, được Cung đại gia đồng ý. Tháng ngày qua mau, lúc Lý
Phúc đến 14 tuổi thì cùng Cung Khánh tá túc tại học viện, tức ngày thì
học chung, đêm thì ngủ chung. Có một đêm, Lý Phúc đang ngủ ngon,
mơ thấy trên trời mở một cổng lớn, từ trên trời hạ xuống hai ông thần,
hạ đúng trong học viện, có một ông thần chỉ ngón tay đến Cung Khánh
Hữu, còn ông thần kia nói: “Anh ta ra sao?” Ông thần kia nói: “Anh ta
là người toàn phước, năm 17 tuổi đậu tú tài, 1 tuổi đậu cử nhân, tương
lai sẽ thăng quan đến cấp nhị phẩm, suốt đời hưởng vinh hoa phú quý.”
Ông thần nọ lại chỉ vào Lý Phúc, hỏi ông thần kia: “Còn anh kia?” Ông
thần kia nói: “Người này thuộc mạng khổ vô công danh, vô phận nghèo
suốt đời.” Nói xong, hai ông thần bay về trời. Sau khi hai ông thần đi
vào cửa trời, cửa trời đóng lại như trước. Lý Phúc tỉnh dậy, cảm thấy
kỳ lạ liền kể hết chuyện trong mơ cho cha mẹ và những người khác
nghe.
Đợi đến khi Khánh Hữu năm 17 tuổi, quả nhiên thi đậu tú tài, lúc
này Lý Phúc không còn học nữa. Nhà có ruộng đất, Lý Phúc tuy canh
tác nhưng luôn để ý đến hành vi của Khánh Hữu, anh ta thấy Khánh
Hữu có tính độc đoán, luôn làm chuyện ác, tàn nhẫn bạo hành, không
thức nào tốt. Sau khi Khánh Hữu thi đậu tú tài và tiếp tục thăng tiến,
đúng là thăng chức đến làm đại quan nhị phẩm. Nhưng Khánh Hữu
làm quan thì tham nhũng, tàn độc với bá tánh, đánh người trung lương.
Hành vi của Khánh Hữu, trong lòng của Lý Phúc xem đó là tội ác, cảm
thấy Khánh Hữu sau này phải chịu quả báo. Ai ngờ, Khánh Hữu sống
thọ đến năm 71 tuổi vẫn, nhân tài song vượng, con cháu đầy nhà.
Không chỉ có vậy, Khánh Hữu còn có thể biết được mình lúc nào chết,
lúc ông chưa chết, ông nói với con trai làm sao lo hậu sự cho ông. Nhưng
hành vi của Lý Phúc lại khác biệt hoàn toàn so với Khánh Hựu, Lý
Phúc sống rất cần kiệm, đối xử với người dân rất kỹ lưỡng, hướng thiện
mà đi, không làm chuyện độc ác. Đối với loại người ác độc như Khánh
Hữu lại được hưởng phước trọn đời, còn biết trước ngày mình mất.
Trong lòng ông ta cảm thấy bất bình, cảm thấy dưới âm phủ cũng có
chuyện mua chuộc hối lộ, quyết tâm cùng Khánh Hữu đến Diêm Phủ
hỏi cho ra lẽ. Nên ông nói với con trai của ông là sẽ chết vào ngày tháng
đó, chuẩn bị lo cho hậu sự của ông. Ông Lý Phúc muốn đi cùng Khánh
Hữu đến âm phủ xem như thế nào, nhất thiết phải xem rõ ràng cho
bằng được. Lý Phúc nói với con trai là mình chết vào lúc nào, không
phải vì ông ta tự biết ngày giờ chết mà là ông ta mua sẵn một gói thuốc
độc. Nếu như Khánh Hữu thật sự chết vào ngày ông ta nói thì ông sẽ
uống thuốc độc để chết theo Khánh Hữu đi xuống âm phủ gặp Diêm
Vương. Không ngờ, Khánh Hữu đến ngày đó thật sự chết đi, ông Lý
Phúc cũng uống thuốc độc chết theo để đi xuống âm phủ mới kịp nhìn
thấy Diêm Vương đi ra đón Khánh Hữu. Diêm Vương xử lý xong công
việc của Khánh Hữu mới ra gặp Lý Phúc, nói: “Sao ngươi cũng đến
vậy?” Lý Phúc trả lời: “Tôi vì Khánh Hữu mà đi xuống đây. Trên trần
gian, người người sợ quyền thế, kính chủ tài, tại sao Diêm Vương dưới
âm phủ cũng phải sợ quyền thế và chủ tài sao? Tôi nghĩ ông Khánh
Hữu sống trên trần gian, tàn nhẫn độc ác, làm việc ác vạn lần, ông ta
lúc trên trần gian không phải chịu ác báo, đến âm phủ, chắc phải chịu
hình phạt, không ngờ trần gian với âm phủ cũng như nhau.”
Diêm Vương nói: “Ông ráng chờ một lát thì sẽ hiểu.” Diêm
Vương ra lệnh cho phán quan mở ra cuốn sổ sanh tử thiện ác để xem,
trên tên của Cung Khánh Hữu có một hàng chữ. Diêm Vương nói: “Vì
kiếp trước Khánh Hữu làm rất nhiều việc thiện to lớn, kiếp này tuy làm
ác, đã tiêu hao không ít công thiện của kiếp trước nhưng vẫn còn dư
rất nhiều việc thiện to lớn, chuyển đến kiếp sau vẫn được hưởng phước,
nhưng không có lớn như kiếp trước rồi. Với những chuyện ác mà ông
ta đã làm, vẫn chưa đến thời kỳ thuần thục, Lý Phúc nhà ngươi vì kiếp
trước không có làm việc thiện nên kiếp này phải chịu khổ. Nhưng vì do
ông giác ngộ, một lòng làm việc tốt, cho nên ông sống trên đời tuy không
hưởng phước nhưng ăn mặc không thiếu thốn gì, khi ông chuyển kiếp
sau, ông sẽ hưởng phước thật là lớn.” Lý Phúc cầu xin Diêm Vương lúc
chuyển kiếp đừng cho ông ta uống nước mê hồn, để kiếp sau có thể xem
được kết quả hành vi của Khánh Hữu. Diêm Vương đồng ý lời cầu xin
của Lý Phúc.
Lý Phúc lại đi theo Khánh Hữu đi chuyển kiếp luân hồi. Vì ông
ta chưa uống nước mê hồn, biết hết sự việc, biết được Khánh Hữu lại
đầu thai đến một gia đình phú quý. Ông thì đầu thai đến một gia đình
trung bình, vẫn tu hành giữ thiện. Khánh Hữu sau này trưởng thành,
làm quan huyện trưởng, vẫn tàn ác với bá tánh, hoàn toàn không có
một chút buồn tủi, dựa vào quyền thế tham nhũng, vu lương thành
cướp. Vì ép buộc khẩu cung, đã móc đi hai con mắt của người ta; vì
một vụ án, chém mất đôi chân của người khác, Khánh Hữu sống thọ
đến tuổi thọ bảy mươi mấy, bị bệnh và qua đời. Lý Phúc do có trí tu
hành từ bi, đã tu đến ưu hồn có thể đi xuống âm phủ. Lý Phúc ngồi
thiền, lúc này, ông ta nhìn thấy Khánh Hữu sau khi chết, linh hồn đi
theo Khánh Hữu xuống gặp Diêm Vương. Lúc này khác với lúc trước,
Diêm Vương tiếp đến Lý Phúc trước rồi mới xử Khánh Hữu sau. Khi
thấy dưới tên của Khánh Hữu trong sổ, phước thiện đã hoàn toàn tiêu
hao hết. Lúc làm quan, móc mắt người ta, chém đôi chân người khác,
hai sự việc này, chỉ có thể lấy thân mà trả nợ, phán quyết Khánh Hữu
kiếp sau đầu thai đến một gia đình nghèo khổ, đôi mắt mù lòa, tàn tật
hai chân, mỗi ngày ra mặt đường ăn xin, khổ hết biết. Khi Lý Phúc
nhìn thấy Khánh Hữu có quả báo của ba kiếp, trong lòng sợ mất đi bản
tính mà phải tọa lạc sự luân hồi, nên kiên trì tu hành, độ kỷ độ nhân,
cuối cùng công quả thành tựu, đạt được chánh quả, vĩnh viễn thoát
khỏi khổ đau của sự luân hồi.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu



-------------
TỪ ÂN NGỌC LỊCH MINH KINH
LỜI TỪA CỦA TÔ LAN TỰ NHƠN THU
Kinh Ngọc Lịch nầy, gốc thầy tu hiệu Đạm - Si, gặp thần Phật truyền bổn nầy, về giảng cho đời hiểu. Sau truyền lại cho đệ tử là Vật Mê đạo nhơn (thầy tu để tóc) lưu truyền đã lậu, giảng điều quả báo minh bạch. 
Ngặt người đời, kẻ tỉnh ăn năn thì ít, mê mà không tin thì nhiều. Chê lành nhỏ mà chẳng làm, làm dữ nhỏ không sợ. Cũng có người: đã biết tội xưa, muốn chừa lỗi cũ. Chưa làm lành bao nhiêu, mà mong đặng phước gặp sẵn dịp dễ lắm liền cải lương tâm! Trách chi ông thánh nói: 'Người khác hơn cầm thú có bao nhiêu! ' Thiệt là phải lắm. Coi các vị giàu sang trên đời, đều có căn lành theo Ngọc Lịch. Còn kẻ khó hèn, tuy tại tội kiếp trước, song cũng phạm trong Ngọc Lịch. Người sống bao lâu, ăn năn sao kịp! Kinh Diệc nói: 'Coi làm việc lành, xảy gặp phước tốt '. Kinh thơ nói: ' Làm dữ cầu may ví như đạp nhằm đuôi cọp, hoặc đi trên giá mùa xuân, có khi tan ra nước mà sụp '. Lại nói: ' Làm lành, trời cho phước xuống, làm dữ, trời cho hoạ xuống '. Phàm làm người việc nào đã thấy trước con mắt chẳng sai, thì chớ lôi thôi lây lất. Tôi chưa dám chắc mình là không quê, song cầu cho khỏi tội nghiệp mà thôi. 
Niên hiệu vua Gia Khánh, năm Kĩ Mão thánh 11. 
lỜI TỰA CỦA KIM - DẦN Ở HUYỆN TIỀN ĐƯỜNG
Người quân tử lập thân, làm việc nào mà không lành. 
Miễn giữ theo lương tâm trời phú, cho khỏi tội với trời đất quỉ thần mà thôi. Nếu muốn làm gì thì làm, không sợ phép trời, chẳng tin báo ứng, thì càng ngày càng tệ, còn dạy nỗi gì? Tuy ông thánh nói: ' Làm lành trời trả phước, làm dữ trời trả hoạ. ' Họ nói: ' Lành không chắc phước, dữ không chắc hoạ '. Như vậy các án trốn khỏi lưới dương gian, chẳng là bỏ qua sao? Đời tệ như vậy, người quân tử mới giảng làm sao? Nay có kinh Ngoc-Lịch truyền ra, khắc bản tới lần thứ tư, dạy dự phòng nghiêm nhặt, giảng quả báo rõ ràng, ai đọc tới cũng giựt mình sợ tội. Làm lành tuy không cần phước mà có phước, làm dữ sợ hoạ cũng không khỏi. Nếu không biết kiêng có trời soi xét, thì làm dữ luôn luôn. Xem kinh nầy mỗi việc coi như có thần biên tội phước, ở phải thì ngó trời đất, mình cũng không hổ thẹn là đủ rồi. 
Niên hiệu Đạo -quang, năm Nhâm ngũ, tháng 9. 
LỜI DẶN CŨNG CỦA ÔNG KIM -DẦN
Kinh Ngọc -Lịch này, ghi xét công quả, phân biệt ngay gian,
linh hiển rõ ràng, quả báo trước mắt. Ai làm lành thì đặng phước, ai làm dữ thì mắc hoạ. Kẻ dữ mà ăn năn cải ác tùng thiện, lâu ngày cũng đổi hoạ ra phước. Lời dạy rẽ ròi, dẫu đàn bà con nít, nghe cũng hiểu mà giữ theo. Nếu ai không tin, gọi chuyện đặt điều, như phụ chiếc thuyền lành với mình cơn té sông, không chịu leo lên, thì phải bị chìm nơi biển khổ, sa Địa ngục đã lành rồi. Tôi ước ao cho các vị quân tử, để cuốn kinh này trên bàn, dựa đầu nằm, hằng ngày xem đọc, mắt thấy lòng ghê, thì răn mình không dám làm quấy. Như vậy thì hiệp theo lời thánh dạy, lành gặp phước, dữ mang tai. Nếu chừa lỗi làm phải cho trọn lành, tôi mừng giùm lắm. 
PHỤ TRẠ NIÊM HIỆU KINH NGỌC LỊCH
Thầy Đạm -Si là Hồ -Tăng sãi nước Hồ, nước Liêu. 
Tên Kinh -Ngô, năm canh ngũ, nước Liêu, niên hiệu Thái Bình thứ mười. Nhằm trào Tổng, vua Nhơn- Tông, niên hiệu Tiên -Thánh thứ tám, năm canh ngũ, ngày trùng cửu. Đạm -Si đi núi gặp kinh Ngọc -Lịch. 
KINH NGỌC LỊCH
ÔNG TỬ HOÀNG LÀ THẦN ĐÔNG NHẠC DẠY: 
Trời đất không tư vị, thần minh hay xét soi. Chẳng vị cúng tế mà cho lành, không trách thiếu lễ mà cho hoạ. Có quyền đừng
ỷ thế lắm, giàu sang đừng xài phí lắm, nghèo khó đừng dối trá lường gạt tham gian. Bởi vì ba bực ấy, trời sẽ cho luân phiên xây vần, giáp vòng trở lại banđầu như đồng hồ vậy. (Nếu có quyền mà ỷ thế quá, thì mau hết thế, tới thất thế sẽ bị báo cừu. Giàu xài phí quá thì hưởng mau hết phước, trở nên nghèo mà chịu khổ. Còn kẻ nghèo nếu biết kiếp trước tội nặng, nay chịu trả quả, phải ăn năn thủ phận không dám làm quấy, hết vận bỉ, tới vận thới, trời cho trở nên khá nếu liều mạng gian tham,
trí trá lường gạt giựt của chúng, là buộc thêm tội, trời phạt chồng án tới già, e để hoạ dư cho con cháu khổ nữa, vì phạt dời mình chưa hết). Cho nên mới làm lành một ngày, tuy phước chưa tới, mà hoạ đã lánh xa (như tai qua nạn khỏi). Hoặc mới làm dữ một ngày, tuy hoạ chưa tới, mà phước đã lánh xa (như sẽ gặp) sự may, mà khiến ăn trược). Người làm lành như vườn cỏ mùa mưa, tuy chẳng thấy lớn, mà càng ngày tốt tươi. Người làm dữ như đá mài dao, tuy chẳng hao, mà càng ngày mòn mổi. Phải nhớ mà răn lòng điều nầy, đừng làm những việc tốn của người cho đặng lợi mình, phải cữ kiêng cho lắm. Thà làm một mảy lành, tìm phương giúp cho tiện sự người cơn bất tiện. Khuyên người chớ làm một mảy dữ. Ăn mặc tuỳ theo bổn phận, độ cho vừa sức mình tự nhiên vui vẽ, lựa là còn số mạng làm chi? Xin xăm sủ quẻ bói khoa, mà hỏi hoạ phước làm chi? Ta nói sự hoạ phước, chắc cho đời rõ như vậy ; khinh khi gạt người thì mắc hoạ, độ lượng rộng và hay dung người thì đặng
phước. Nếu nghe lời ta mà ở theo, quỉ thần kính phục, thiên hạ kiêng vì. 
BÀI BỬU CÁO DẠY BÁO ÂN
của Huyền Thiên Thượng Đế
Nếu đọc tụng, chừa các điều dữ, làm các điều lành thì khỏi hoạ. 
Lạy ba lạy rồi tụng, hết rồi cũng lạy ba lạy. Huyền nguơn ứng hoá. Võ khúc phân chơn, Thuỳ niệm ngã đẳng chúng sanh, hữu tướng thoát sanh phụ mẫu. Hoài đam thập ngoạt, nhủ bộ tam niêm, Tân khổ bá thiên, ân cần khốn niệm. Liên ngã phụ mẫu, nhựt tiệm suy hủ. Ngã kim trị niệm bình đẳng, tất diệt hiểm tuấn tham sâu, kỳ ân báo bổn. Nguyện ngã, hiện tại phụ mẫu, phước thọ tăng diên. Quá khứ phụ mẫu, tảo đắc siêu sanh. Đại thánh đại từ, đại nhơn, đại hiếu. Bát thập nhị hoá, báo ân giáo chủ hưu thành chơn với trị thế phước thần, ngọc hư sư tướng, Huyền thiên thượng đế kim huyết hoá thân, chung kiếp tế khổ thân tôn. Giải nghĩa kinh Báo ân của Huyền thiên thượng đế. 
Đức Huyền thiên thượng đế, thương chúng tôi có cha mẹ ơn mang mển mười tháng, cho bú ba năm cay đắng trăm bề tấc lòng lo lắng nuôi con. Nay thương cha mẹ tôi càng ngày càng già yếu tôi nguyện tụng kinh này, thì lòng ở công bình ngay thẳng bỏ lòng độc hiểm, tham lam, giận hờn. Thờ Đức Huyền thiên thượng đế làm thầy: lại tụng cầu cho cha mẹ mà báo ân cội rễ. Nếu cha mẹ tôi còn sức khoẻ thì đặng sống lâu, nhờ trời thêm tuổi: còn như có mãn phần rồi thì được siêu thăng. 
(từ ấy sắp sau là phước ngài dài lắm).
----------

MƯỜI ĐIỀU CẤM CỦA ĐỨC VĂN - XƯƠNG ĐẾ - QUÂN
1.___ Cấm chẳng ngay chúa (chủ), chẳng thảo cha mẹ bất nhơn, phi
nghĩa. Phải ngay chúa, thảo cha mẹ, ở thiệt tình với người. 
2.___Cấm không đặng tính mưu kế lấy của người cho lợi mình. Phải
làm âm chất (âm đức) mà cứu giúp thiên hạ. 
3.___ Cấm đừng sát sanh mạng vật mà ăn, nếu trùng kiến vô cớ cũng đừng sát hại, là lòng nhơn với vật mọn. 
4.___ Cấm tà dâm hoa nguyệt, giữ giới kỳ, là kỉnh
vía thần. 
5.___ Cấm không đặng phá việc tốt của người, cho thất công người. 
Đừng làm cho rời rã ruột thịt của người. Phải giúp bà con mình, anh chi em cho hoà thuận với nhau. 
6.___ Cấm nói dèm siểm, chê bực tài hiền. Không đặng kiêu ngạo
khoe mình, phải khen tài năng sự phải của người. Còn mình có công lao không khoe, dùng xưng mình (giỏi khiem).
7.___ Cấm say rượu, phải cữ thịt trâu, thịt chó. Phải ăn đồ hiền kiêng đồ độc, theo cách vệ sanh cho khỏi bịnh. 
8.___ Cấm tham lam không nhàm, bỏ đãy buộc chặt không bố thí. 
Phải giữ chữ cần kiệm, có dư mà giúp kẻ nghèo. 
9.___ Cấm kết bạn với kẻ quấy, hoặc ở xóm tiểu nhơn, gần kẻ nết xấu, phải thân với người tài đức mà bắt chước. 
10.___ Cấm không đặng bạ nói bạ cười, làm điều trái lẽ. Phải giữ mình ít nói, giữ theo đạo nghĩa đức hạnh mà ở. 



-----------


ĐỨC VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN DẠY RẰNG: 
Loạn luân là bà con lấy nhau, phạt đoạ ngục Vô gián bị hành bào lạc
1.5OO lần, vì tội loạn luân nặng hơn tội tà dâm với người ngoài. (Bào lạc là cột đồng trống ruột cao 20 thước, đổ lửa than trong ruột cột đồng đốt cho đỏ, rồi quỉ sứ xiềng hồn tội cho ôm cột đồng mà đẩy lên, cháy tiêu thành than rớt xuống lại
huờn nguyên hình như trước mà hành nữa cho đủ 1.500 lần). Nếu ai biết ăn năn trước, thì chừa lỗi, làm công mà chuộc tội, đừng phạm tội loạn luân dâm ác nữa. 
Còn kẻ văn học đặt tuồng hoa nguyệt cho hát bộ hát, bài ca dâm, thơ dâm vẽ hình
tục tĩu, hoặc in mà bán, làm cho ngươi tập thói dâm, hại hư phong hoá, hoặc
mướn hát tuồn dâm, đều bị tội nặng, thác cầm vào ngục Vô gián (Vô gián nghĩa là
không hở). Giã, rồi xay, rồi bào lạc, rồi nấu dầu, hàng xây vần hoài không hở. 
Gái trai hành nhu8 nhau. 
Thầy Liên Trí hoà thượng nói: ' Ai thấy tuổng dâm truyện dâm, hoặc đọc lời hoa nguyệt, xem hình ảnh tục tỉu, đều động tâm sanh ra dâm loạn. Những tuồng dâm như truyện Tây sương ký, đặt chuyện Trương quân Thoại với Thôi -Oanh -Oanh mà hát cho đời mê mẫn, thiệt không phải người tài tử với giai nhân mà làm nết xấu nguyệt hoa như vậy. Nếu các viên quan có quyền thế, đốt tuồng truyện
ấy, hoặc huỷ diệt đi, thì được phước lớn vô cùng. Còn con người ai cũng muốn sống, vật nào cùng sợ chết, nỡ nào giết nó ăn thịt cho bố mình, đành đoạn chặt đầu lột da, thọc huyết cắt cổ, nhổ lông đánh vảy, bằm xắt luộc nướng, đau rát khó kêu oan! Làm tội ác mà gây oan báo muôn đời, đến thác bị hành tội rồi còn phải đầu thai mà thường mạng nhiều kiếp. Sau đặng làm người, tật bịnh chết yểu, hoặc bị hùm tha rắn cắn đau bịnh hành hình thuốc độc, vân vân, đều bởi hay sát sanh mà khổ đó. Nay ta khuyên đời, chẳng phải biểu ăn chay trường hết, song khuyên trước cữ sát sanh. Nhà nào cữ sát sanh thì thần phật phò hộ, khỏi tai hoạ, ít bịnh, sống lâu, con thảo cháu hiền, đặng các điều may phước lớn, kể chẳng xiết. Nếu có của dư phóng sanh. thả rùa trạch chim cá, tụng kinh niệm Phật chẳng những hưởng phước thọ mà thôi, thác hồn được lên thiên -đường, hoặc về Tây - phương, khỏi luân hồi nữa, có đâu sa Địa ngục mà chịu hành hình. Ai có phước thấy lời ta khuyên, mau hồi tâm chừa dữ làm lành cho sớm, đừng để gần thác ăn năn không kịp Nếu làm chẳng đặng, cũng rán khuyên người '.


-----------

LỜI BỬU - HUẤN
của Ông Lữ Tổ (Lữ - đồng - Tân) giáng cơ: 
Con người linh hơn muôn vật. Sao người đời không biết thân mạng. Cứ biết một sự dâm ác. Sự dâm ác dầu vua chúa quan dân xưa
nay đều bị hư hại, vì dâm ác mà quên nước, quên nhà, quên danh, quên mạng, không kể gươm đao nước lửa mà theo dâm ác, không cần thể diện, tội phước hại đến chừng nào! Đức Văn -đế chỉ dụ: ' muôn tội
dữ, án tà dâm, đứng đầu! ' Lạy dạy rằng: ' Nếu có dâm ác thì hư trăm việc '. Hai câu ấy thật hay lắm, quả lắm? Người đời thái quá tới loạn luân không cần lớn nhỏ cũng vì thói tà dâm! Không kể thân mạng, thể diện, danh giá, tiền của cũng vì tà dâm! Không rõ vì cớ nào thói tà dâm
truyền nhiễm khắp thế gian như vậy! Song bọn ấy có kẻ mắc hoạ, có kẻ tuyệt tự, xuống âm ti còn bị ngục hình, Các người giữ lòng tự nhiên sạch, mới là đáng bực anh hào. Chẳng nói làm chi đến bực thượng sĩ là
khó đặng, miễn các người chừa lỗi cũ, thì thờ thần cầu vái mới linh, khỏi thác yểu cho trọn danh con thảo, và dạy con cháu em út tập theo gương
tốt của mình. Lời ngay phái chịu nghe, thuốc đắng phải lo uống. Các đệ tử khá nhớ đừng quên! Nếu mình ngay khỏi phạm thì biên lời ta khuyên đây mà dán trên vách cho em út con cháucoi, kẻ khác cũng thấy mà sửa nết. 
Thương mạng vật thì sống lâu. Tiếc cơm gạo mà giàu được. Trọng
giấy chữ thì làm quan. Dè lời nói thì đặng phước. Làm gương tốt cho cháu con. Đừng phạm tội nơi trời đất. 
LỜI DẠY CỦA CỬU - THIÊN TƯ -MẠNG TÁO -QUÂN
Ta tuy coi sổ cái tại Cửu thiên, mỗi năm 24 tháng chạp tâu một kỳ. Song mỗi nhà điều có Táo quân thay mặt cho ta, mỗi tháng chạy tờ công quá mỗi người cho ta gài vào sổ chánh. Ta chẳng nỡ cho đời phạm tội vì lầm lỗi, nên dạy sau đây: Cấm đốt giấy chữ trong bếp, vì sợ tro ấy nữa đổ nhằm chỗ dơ. Cấm ca, khóc, hoặc chửi rủa, mắng nhiếc trong bếp. Chẳng nên đâm hành tỏi trong bếp, hoặc bửa củi trước bếp. Cấm bỏ lông gà, xương thú, củi dơ trong bếp (ngồi chồm hổm ngay bếp), hoặc quét động vô bếp. Cữ ăn thịt trâu, thịt chó, thì trong nhà bình an. Nếu ai loã lồ trong bếp, thì phạt nặng. Nhứt là cấm gõ gạc trên bếp, cạo dẫy chảo nồi trên bết. 
TÍCH ĐÔI LIỄN ÔNG QUAN - ĐẾ
Tại phủ Hàng châu, tỉnh Chiết giang, có người Tú tài
Trương đại Mỹ, ở phía tả núi Ngô san, thuật chuyện rằng: Hồi ta tắt hơi, hồn đến ngoài thành Phong đô vào lạy Quan đế mà khóc. Quan đế hỏi: ' Tới số thì thác, lạy khóc ích chi? Ta bèn tâu: ' Tôi cũng biết thác rồi không lẽ sống lại song thương mẹ già không ai nuôi, nên đau lòng mà khóc. Quan đế nói: ' Như vậy để ta tâu cho ". Giây phút kêu ta mà nói: ' Ta đã tâu rồi, Thượng đế khen ngươi có hiếu, cho sống thêm một kỷ (12 tuổi).' Liền cho ta uống một chén nước trà dạy rằng: ' Chùa ta khắp trong thiên hạ treo liễn rất nhiều, song không vừa ý ta, nên ta đặt một đôi liễn như vầy đây, ngươi coi cho nhớ, về mà truyền thiên hạ '. Ta coi thấy: 
Số định tam phân, phò Diêm hán, tiễu Ngô phạt Ngụy, tân khổ dị thường, vị liễu bình sanh sự ngiệp ;
Chí tôn nhứt thống, tá Hi triền, phục ma đảng khấu oai linh phi chấn, chỉ huờn đương nhựt tinh trung. 


-----------

Thích nôm: 
Số trời định ba phân phò Diêm hán, đánh Ngô dẹp Nguy, cay đắng nếm đều, sự nghiệp bấy lâu chưa dứt. 
Lòng ta thâu một mối, giúp Hi triều, trừ yêu dẹp loạn, oai linh dậy khắp,
tình trung thuở ấy vừa xuôi. 
Ta đọc thuộc rồi, lạy tạ ơn Quan đế cho hồng ta về nhập xác, sống lại biết đã liệm rồi. Ta liền kêu lớn, bảo giở nắp săng cho ta ra. Ra rồi thuật chuyện vân vân, té ra quên hết nửa câu liễm trước! Cặp con mắt lại không thấy đường! Giây phút nghe gõ cửa, mẹ ta chạy ra trước thấy người bận áo xanh, đưa phong thơ mà nói rằng: ' Xin trao thơ nầy cho con bà xem '. Mẹ ta nói: ' Con tôi bịnh con mắt, coi thơ sao đặng? '
Người áo xanh nói: ' Ấy là toa thuốc, bà trao cho mau '. Mẹ ta đem vào trao liền. Ta xé thơ ra xem thử thấy chăng? Té ra mắt sáng như xưa, coi rõ là nửa câu liễn trước? Kẻ xa người gần, đều lấy làm lạ! Hứa triệu Đình ở Nhơn hoà nghe ta đọc liền biên đôi liễn ấy, khắc treo tại chùa Ông núi Ngô san, lại có khắc một tấm bảng thuật chuyện sự tình đôi liễn, mà treo trước cửa chùa, cho kẻ có hiếu xem, kẻ bất hiếu biết chừa lỗi. Xin rán lưu truyền. 
KINH NGỌC - LỊCH của Thập ư Vương dọn kiểu, Thượng đế có phê, cho truyền trung giới, cải ác tùng thiện. 
Nguyên ngày ba mươi tháng bảy. Địa Tạng vương bồ tát ăn vía sanh, bởi ngài làm chức U minh giáo chủ cai trị mười vua thập điện. Nên bữa vía ngài, thập vương với các vị thần đều đến chầu mừng. Địa Tạng vương phán rằng: ' Ta muốn siêu độ chúng xanh, nên mỗi năm ngày vía nầy, ta truyền ân xá các phạm tội nhẹ được đầu thai, tội nặng thì giảm bớt. Ngặt người đời làm lành có ít, làm dữ rất nhiều, ta thấy thập vương các ngục hành hình thảm thiết! Vậy phải tra xét cho kỹ, những ai tại dương thế biết ăn năn chừa lỗi, có khuyên đời làm một hai điều lành, thì trừ bớt tội cho nó '. Thập vương tâu: ' Chúng tôi y luật hội nghị '. Nếu ai làm lành tự nhỏ đến già, thì đưa lên cõi thần tiên. Còn kẻ nào công quả bằng nhau, khỏi hành tội, đặng đầu thai kiếp khác như thường. Nếu công ít, quả nhiều, thì hành tội tuỳ theo dư quá nhiều ít, rồi cho đầu thai kẻ khó hèn. Nếu biết chừa lỗi làm lành kiếp sau sẽ cho đầu thai hưởng phước. Nếu còn làm dữ nữa, sẽ bắt xuống hành hình, rồi cho đầu thai cùng khổ đáo để, sống chịu hoạ tai, đến thác sẽ giam vào Địa ngục không đặng luân hồi nữa. Còn kẻ quá ít, công nhiều, trừ còn dư công, thì đặng đầu thai hưởng phước giàu sang trường thọ. Trừ ra tội bất trung là phản chủ, bất hiếu với ông bà cha mẹ, hoặc là liều mình (tự vận), hoặc sát sanh thái quá không tin luân hồi báo ứng. Cứ nói theo tục ngữ: ' Người thác thì hồn phách tiêu tan hết, bỏ xác thúi rồi, còn hồn đâu mà bị hành tội nơi âm phủ. Thường thấy người sống bị tội, nào thấy ma chết mang gông, chết rồi thì thôi, còn biết sự gì nữa! '.
Mấy lời ấy quê lắm! Tuy thác thời bỏ xác, chớ linh hồn con hoài, sống làm dữ bao nhiêu, thì thác bị hành tội bấy nhiêu. Mấy kẻ bày đặt nói trước, cho người không tin âm phủ, thì đã bị Vô gián địa ngục, không đặng đầu thai. Người đời tuy thấy kinh sách tam giáo giảng dạy, song không tin, rất uổng công tiên Phật thánh thần dạy bảo. Trăm người không có một người tin mà cải ác tùng thiện, nên phải lập thêm địa ngục mà hành hình mới đủ. Nay Bồ tát thấy vậy mà thương, truyền chỉ thế giảm. Chúng tôi cũng vưng lời, cho các người dữ chịu hồi tâm, ngày vía Bồ -tát với các ngày vía chúng tôi, ăn chay thệ nguyện thiệt tình ăn năn, cải ác tùng thiện, không dám làm dữ nữa, rán sức làm một điều lành chi đó, sau thác xuống hồn khỏi bị hành tội. Trừ ra tội tôi chẳng ngay, con chẳng thảo, hoặc giết mình, hoặc làm mưu mà gạt người lương thiện đến nỗi phải bị trời đánh, chết trôi, chết thiêu, cọp ăn, rắn cắn, thì hồn xuống âm phủ phải chịu hành phạt, song cũng chế giảm một bực vì sự ăn năn chừa lỗi. Nay chúng tôi truyền các phán quan biên hết các sự tội phước, sống làm điều lành nào, mà được phước chi, làm điều dữ nào, thác bị hành ngục chi, ai ai nghe qua cũng hiểu, để dưng cho Bồ -tát xem. Đợi gặp ai cho đức hồi dương, sẽ lưu truyền cho thiên hạ '.
Khi ấy phán quan điện nào, biên theo điện nấy, thành ra bổn Ngọc -lịch, dưng cho Địa -tạng vương xem, Ngài khen hay. 
Qua mùng ba tháng tám, Người với thập vương chư thần đồng dưng Ngọc -lịch cho Thượng -đế ngự duyện Thượng -đế phán rằng: ' Hay lắm! Từ nầy chư thần rán xem xét, người đời nguyện chừa lỗi không phạm nữa, làm một sự phước thì cho trừ hai tội cũ, năm điều phước cho trừ hết tội xưa, lại đặng ghét làm siêu độ cho thân quyến nữa, trai đặng đầu thai phú quí, gái đặng đầu thai làm trai Thành hoàng Táo thần tuân chỉ '.


-----------

VUA TẦN QUẢNG NGỰ ĐIỀN THỨ NHỨT
Làm điều lành nào, được thưởng phước,kể ra sau đây: 
1. Lượm giấy chữ nho, đốt trong trả, đổ tro xuống sông, thì được con thảo cháu hiền. Nếu đốt trong bếp thì có tội. 
2. Đốt các thơ truyện hoa nguyệt, cho khỏi hư phong tục, hoặc làm lành làm phước, đều hưởng phước và sống lâu. 
Làm điều dữ chi, phạt tội gì, kể ra sau đây: 
1__ Liều mạng giết mình, cho người mắc hoạ phạt làm ngạ quỉ (ma đói).
2__ Các sãi ăn của thập phương mà tụng kinh thiếu, hoặc chịu của người công đức mà tụng kinh thiếu, đều phải tụng bổ lại. 
Tần quảng vương cầm sổ sống thác, trị việc âm phủ. Đền ở tại dưới biển lớn, chánh hướng tây theo đường Hắc đạo suối vàng. Phàm người lành mãn phần, thì cho người tiếp dẫn lên Thiên đường, hoặc về Tây phương. Còn ai công quả bằng nhau, thì qua cửa thứ mười cho đầu thai hoặc gái làm trai, hoặc trai làm gái, mắc nợ nần thì trả quả cho nhau. Nếu công ít quả nhiều, thì dẫn ra phía hữu cái đền, lên đài Nghiệt Cảnh mà soi. Đài cao 11 thước mộc, treo kiếng lớn mười ôm, day mặt qua hướng đông, trên đề bảy chữ rằng: ' Nhiệt cảnh đài tiền vô hảo nhơn '. Các hồn soi thấy bình sanh việc chi, đều ứng đủ lớp lang như hát bóng,
nên chối không được. Tới đó mới hay rằng. ' Muôn lượng vàng ròng đem chẳng đặng, cả đời bản có tội theo mình '. Soi kiếng làm án rồi, sai quỉ giải hồn qua cửa thứ nhì, cầm ngục hành tội. Người không kể cha mẹ sanh thân vì sự tức mà tự vận thắt họng, trầm mình, uống thuốc độc, hoặc kiếm cớ chi mà liều mình, không đợi tới số đòi hồn mà chết về nghiệp giết mình (trừ ra vì trung hiếu tiết nghĩa mà giận lẫy, hoặc bị phạm tội sợ hành, tội chẳng đến chết, hoặc muốn liều mạng mà hại người mắc hoạ: làm như chơi mà ra chết thiệt cho người mắc hoạ: các hồn chết về nghiệp ấy, Táo quân với chư thần, bắt hồn giải đến cửa đền nầy, giam vào ngục ngạ quỉ, gặp ngày tuất ngày hợi, thì phải làm cách
liều mình ấy, cầm 70 ngày, hoặc một hai năm, rồi dẫn hồn về ở chỗ liều
mình gia quyến có cúng thì được về ăn, đốt vàng bạc giấy áo thì đặng
lãnh. Nếu biết lỗi không hiện hình nhát người, hoặc không bắt ai mà thế, đợi mấy người trên Dương gian bị làm nhơn mạng đặng khỏi hoạ, thì chư thần giải hồn ấy đến đây, sẽ giải qua cửa thứ nhì tra công quả, nếu trừ rồi dư quá bao nhiêu thì hành tội và giải qua cửa khác hành nữa. 
Còn khi sống mà lòng mong liều mạng đặng hại người, hoạc hăm làm nhơn mạng cho ai, tuy liều mình mà chưa chết, cũng ghi lòng tội hành hình, tu có làm lành cũng trừ tội ấy không đặng. Lúc hồn còn ở chỗ liều
mình, mà hiện hình làm ma nhát cho chúng sợ mà chết, thì sai quỉ mặt xanh nanh vút bắt hồn xuống hành tội cho đến kiếp, rồi cầm ngục mãi không cho đầu thai. 
Còn các thầy chùa, thầy pháp, thầy tu, người ta mướn tụng kinh mà tụng thiếu sót, chừng hồn xuống đây phải ở sở bở kinh, chỗ ấy có đủ thứ kinh, cho đèn lưu ly mờ mờ, mà tụng cho đủ các chỗ thiếu hồi đó. 
Dầu thầy chơn tu cho mấy cũng phải bổ cho đủ vì tiền người. Nếu kẻ tu tại gia tụng cho mình, có sái chữ đọc thiếu cũng không chấp, trọng tại có lòng thì đặng phước khỏi tụng bổ. 
Ngày vía vua Nhứt điện là ngày mồng một tháng hai, nếu ngày ấy ai ăn chay, đặt bàn trở về mặt hướng bắc, nguyện không làm các điều dữ, đọc trải qua bài này một bận, hoặc in Ngọc lịch mà cho thiên hạ, cải ác tùng thiện, đến mãn phần trăm sai thanh y đồng tử rước hồn đem về Tây phương. 


-----------

VUA SỞ GIANG NGỰ TẠI ĐIỆN THỨ NHÌ
Các điều lành đặng phước, kể ra sau nầy: 
1. Bố thí cơm cháo, được hưởng phước giàu có
2. Thí thuốc cứu người, đời đời giàu sang. 
Các điều dữ bị hành tội, kể ra sau nầy: 
1.Ban đêm tính việc quấy, phạt vào ngục Hắc vân sa cho mây đen đè mình, vùng không đặng. 
2. Các viên quan ăn hối lộ, đánh ép kẻ ngay, bắt chịu án oan, phạt
giam hoài trong tù xa, ló cổ ra mà chịu. 
3. Dỗ dành con nít làm quấy, bị cầm ao giá lạnh. Sở giang vương ở dưới đáy biển nam, địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, gồm 16 cái
ngục nhỏ, kể ra đây: 
1. Ngục Hắc vân sa
2. Ngục Phẩn thỉ nê, Phẩn
3. Ngục Ngũ xa, đâm
4. Ngục Cơ ngạ, đói
5. Ngục Tiêu Khát, khát nuớc
6. Ngục Nung huyết, máu
7. Ngục Nhứt đồng phủ, 1 chảo đồng
8. Ngục Đa đồng phủ, nhiều chảo đồng
9. Ngục Thiết đối, cối xay sắt
10.Ngục Bân lương, đong lường
11. Ngục Kê trác, gà mổ
12. Ngục Khôi hà, ao tro
13. Ngục chước triệt, chặt khúc
14. Ngục Kiếm diệp, gươm lá
15. Ngục Hồ lang, cáo, chó sói
16. Nguc Hàng băng trì, ao giá
Nếu phạm tội dụ dỗ trẽ nhỏ, cạo đầu vô chùa làm sãi, làm cô vải ;
hoặc còn nhỏ tự ý cạo đầu vô chùa đi tu bỏ cha mẹ, mang tội bất hiếu ;
hoặc ai gởi thơ (kinh sách) hoặc đồ đạc, cố ý nói làm mất mà làm của
mình hoặc làm hại tai mắt tay chưn người ; không biết coi mạch làm thuốc bướng hại người mà lấy tiền: hoặc nhà giàu bất nhơn mua mọi gái, sau người chuộc lại mà không cho: hay là làm mai ham ăn của mướn giáu tuổi, tráo tuổi, rõ biết gái trai có tật bịnh, gian giảo, mà nói
gạt người sau chúng nó bị tức tối: các tội kể trên đó, tuỳ theo nặng nhẹ, giam vào 16 ngục hành cho đáng kiếp, rồi giải qua cửa thứ ba hành nữa. 
Nếu ai giảng Ngọc lịch, hoặc in cho thiên hạ, hoặc thấy kẻ bịnh nghèo mà cứu giúp, hoặc bố thí cơm cháo gạo tiền, hoặc biết ăn năn chừa lỗi, thì cho trừ tội trước khỏi tính trước khỏi tính, được qua cửa thứ
mười đi đầu thai làm người. 
Nếu cữ sát sanh, cấm con cháu không giết trùng dế và đến mồng
một tháng ba là ngày vía trẫm ăn chay nguyện phóng sanh, sau khỏi bị
đoạ địa ngục được qua cửa thứ mười đầu thai hưởng phước. 
Xưa nay lượm giấy chữ thì sống lâu, ai cũng rõ biết. Nếu đạp giấy chữ,
chẳng hề hưởng giàu sang phước thọ bao giờ. Như việc buôn bán đồ thiệt tốt giá vừa phải thì nhiều người mua,lựa phải dán lời rạo, vậy cho chúng tin miếng giấy áp tới mua nhiều sao? Huống chi dán nơi vách tường, mặt chợ mới, coi tử tế, lâu gió mưa rớt xuống bùn lấm ướt nhẹp,
kẻ muốn lượm cũng không thể lượm được. Cho đến chỗ dơ, thấy đầy những cán dù, cán viết, miểng sành, giầy guốc, đều cũng có chữ trong đó, kẻ trong chữ nghĩa, cũng không thế lượm cho hết. Nên ta khuyên đời phải xét cho kỹ, mà khuyên nhau rằng: ' Giàu nghèo có phần số mạng, không phải tham mà đặng nhiều. Muốn đặng phước thì trước đừng làm tội. Nếu làm tội như vậy sao đặng nên giàu có? Nếu tin lời ta,
thì đừng dán lời rao chữ nho. Các món vật dụng đừng viết nho in chữ nho vào đó. Tự nhiên không cầu lợi mà lợi nhiều, chẳng cầu phước mà phước đến, là vì trọng chữ nho, không đụng đâu để đó. 

-----------

VUA TỐNG ĐẾ NGỰ ĐIỆN CỬA THỨ BA
Làm lành được phước: 
Làm cầu, sửa cho thiên hạ đi, thần thường phò hộ. 
Làm dữ phạt tội: 
1. Giết người mà cướp của, bị cọp nhai
2. Đoạt thơ của người không đem tới, bị bắn. 
3. Làm mưu giết chồng, hại chồng bị phân thây xẻ thịt. 
4. Đốt nhà hoặc săn bắn bị bào lạc. 
Tống đế vương, đến tại đáy biển đông nam. Địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, chia ra 16 ngục nhỏ, kể ra sau nầy: 
1.___ Ngục hàm lỗ nước mặn. 
2.___ Ngục mà huờn dà nu, gông xiềng. 
3.___ Ngục xuyên lặt, đục sườn. 
4.___ Ngục đồng thiết, quát hiểm, nạo mắt. 
5.___ Ngục quát chỉ, nạo mỡ. 
6.___ Ngục kiềm sài tâm cang, móc gan tim. 
7.___ Ngục khối nhãn, móc mắt. 
8.___ Ngục sản bì, lột da, căng da. 
9.___ Ngục nguyệt túc, cưa cẳng. 
10.___ Ngục bát thủ cước giáp, rút móng. 
11.___ Ngục hấp huyết, hút huyết. 
12.___ Ngục đảo điêu, treo ngược. 
13.___ Ngục phân ngung, sả vai. 
14.___ Ngục thơ hoa, ăn giòi tửa. 
15.___ Ngục kích tất, đập đầu gối. 
16.___ Ngục ba lâm, mổ trái tim. 
Làm quan không biết ơn vua, không đạo tôi: dân không lo sưu thuế cho nhà nước: vợ phụ bạc chồng, lộn chồng bỏ chồng, trốn chồng hỗn với chồng, hồi nhỏ cha mẹ đã chịu cho người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi mà cãi họ lại, đầy tớ phản chủ thơ -kỳ quân lính ở bạc với người làm đầu (quan thầy của mình): kẻ làm công ăn gian chủ tiệm ; tù vượt ngục, bị đày mà trốn, hại người bảo lãnh và quan cai trị trong sở, hoặc làm cho người thân bị khổ ; không biết ăn năn chừa lỗi, trừ công còn dư quá thì hành ; cứ theo địa lý để quân lâu, hoặc cữ không cho làm mả, hoặc bày cải táng đào mả lấy cốt tồi tàn, hoặc không đắp mả ông bà cha mẹ để loạn lạc (xiêu mồ lạc mả): dụ người làm phạm luật ; xúi chúng kiện cáo làm thơ rơi giấu tên, hoặc dán lời kiêu ngạo mà giấu tên, hoặc dán lời nói xấu tiết cho con gái, phá đám hôn nhơn (cưới hỏi) mà giấu tên ; hoặc viết thơ hồi, tờ để: làm giấy tờ giả mạo ; đòi tiền bán chịu rồi mà chẳng dỉ sổ, hoặc trả nợ rồi mà không cho giấy không xé giấy: tập ký tên giả, khắc con dấu giả ; sửa số bạc tiền trong giấy tờ, đều làm hại người, các tội kể ra đó, tra ra nhẹ nạng, sai quỉ Đại lực giam vào khám lớn, tùy theo tội, dẫn vào các ngục nhỏ hành cho đủ số rồi giải qua cửa thứ tư mà hành theo các ngục khác. 
Nếu ai nhớ ngày vía trẫm, là mồng 8 tháng 2 hay ăn chay nguyện vái không phạm các tội kể trên đó nữa lo việc làm lành mà trừ, sau thác xuống khỏi bị ngục nầy. 
Thầy Nguơn Hiền thiền sư đặt bài khuyên đừng ủ con gái. Mạng người là trọng, nên phép nước nghiêm trị việc án mạng (nhơn mạng). Nếu làm mưu làm hại oan, dẫu trốn khỏi tội Dương gian trời cũng hại mau lắm. Bởi cái mưu giết người, là lòng độc ác, mang tội nghịch thiên là trái lòng ưa sống của trời. Kíp chầy cũng trả chẳng tha. Người đời làm cho loại chí một hồi, sau an8 năn không kịp. Nay nhiều kẻ phạm tội dương gian âm phủ, nhứt là tội ủ con gái! hoặc ủ con chửa hoang! Tuy việc ấy là kẻ ngu hay làm, song quen thói rồi, nhiều nơi bắt chước. Bởi cớ ấy trời bớt số giảm kỷ, hoặc phạt cùng mạt tuyệt tự (không con trai). Nói chi đầu thai kiếp khác thường mạng là luật chung. Nghĩ thử nó đầu thai làm con, mà đền ơn cho mình, nỡ nào mà giết con cho đành đoạn? Huống chi kẻ vô hậu, cầu có chút gái còn khó thay, như vậy đủ biết phước nhiều thì có trai, phước ít mới có gái, còn vô phước thì không có con chi hết. Mình phải răn lòng sát hại làm phước mà cầu trời cho sanh trai, vì muốn kế tự, thì phải tu nhơn tích đức. Độc ác con gái chửa hoang, sanh ra thì quyết giết! Sao không biết xét, rất đỗi kẻ vô hậu còn nuôi con nuôi thay! Huống chi máu thịt của mình trong bụng sanh ra, cũng lập thế mà nuôi như kẻ nuôi quá phòng vậy, thì khỏi mắc oan nghiệp. Nếu không chừa lỗi độc, thì bị tuyệt tự, trông chi sanh đặng con trai. Người quân tử có nhơn, rán khuyên đời mà cứu nhiều mạng, thì âm đức lớn lắm. 


-----------

VUA NGŨ QUAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TƯ
Làm lành hưởng phước: 
Thí quan tài và đồ liệm, thì nhà có thần phò hộ. 
(Phong Sắc xin thích nghĩa khoảng nầy: bởi kinh Ngọc lịch tàu có in hình, khoảng nầy có vẽ cái trại thí hòm, có chất hòm, nhiều người đến khiêng những hòm thí. Các sãi dốt không biết, bổn đạo thấy vẽ hình như thế, thì hỏi hòm gì nhiều vậy? Sãi dốt nói bướng rằng: Ai chết rồi hồn phải đem cái hòm của mình mà nạp cho vua Tứ điện. Nên chôn hòm nhẹ, dễ nạp, nếu hòm lớn khổ cho vong hồn đẩy không nổi! Bó bảy tấm vạc nhẹ nhàng dễ vác! Ôi, bổn đạo quê cũng nghe theo lời ấy, mà trối với con cháu, sợ chôn hòm lớn! Lưu truyền lời phi lý tới nay! Vì sãi dốt bày nói sàm một chút, để hại kẻ dốt muôn đời! Sao không biết xét cho kỹ vua thứ tư thâu hòm ấy mà làm chi? Mấy muôn triệu hòm chỗ đâu mà để? Vả lại hồn ma mà chuyển vận đồ hữu hình sao đặng, gọi đẩy hòm nạp quách là nghĩa gì? Nếu cực khổ như vầy sau còn gọi kẻ thí hòm được phước có thần lành phò hộ? như vậy một lời nói bậy, tổn đức biết chừng nào? Làm cho kẻ dốt nghe lầm, chôn cất tức tưởi không ấm cúng! Muốn cho kẻ dốt khỏi lầm, nên tôi phải giải cho rành, may người dốt tỉnh lại. Nếu nạp hòm hết, sao lại lấy cốt còn hòm??? )
Làm các điều dữ mắc những tội, kể ra sau đây: 
1. Giạ già giạ non, đong nhẹ đong nặng, lòn thăng tráo đấu gian lận, hoặc bán lúa tưới nước, đều bị cối đạp giã, cho chó ăn. 
2. Cân lận, bị móc lưng treo hoài. Đo lận cũng phạt vậy. 
3. Không kính người lớn tuổi, già cả, lường gạt giựt của người, vay mượn chẳng trả, du thủ du thực hoang đàng, không giữ bổn phận, háo sắc tà dâm, lấy vợ người, ngoại tình huê nguyện, ngã mặn và tội ăn vụng, say rượu, bài bạc, trùm đĩ nhà chứa điếm, rủa chửi, trù ếm du đãng, chọc ghẹo phá hại người hiền, đổ đồ dơ uế xuống sông, phơi quần áo dơ giọt bóng tam quan là mặt nhựt mặt nguyện, yến sao, hoặc dơ uế mà lên chỗ thờ phượng hoặc vào bếp núc: Các tội kể trên đó đều xô xuống Tát trì là (huyết ô trì) ao huyết dơ mà lặn hụp, tuỳ theo tội nhiều ít, phạt ở lâu mau. 
(Ấy là chánh kinh Ngọc lịch như vậy, kẻ sau muốn răn phụ nữ, bày ra kinh huyết hồn, mà cấm sự nhơ uế nơi tam quan, hoặc giặt dưới sông, hoặc vào trong bếp mà dạy đờn bà con gái. Kẻ dốt tin thiệt có tụng thì khỏi đoạ huyết ô trì. Kẻ dốt nữa thích nghĩa rằng: con gái đàn bà có đường kinh, hoặc chửa đẻ, đều bị xuống huyết ô trì hết thảy, nên có kẻ quê tụng kinh huyết hồn cầu mẹ khỏi tội! Lưu truyền lâu đời, đàn ông ít học cũng tụng nữa! Sao không thông lý, tại trời sanh phụ nữ phải có sự ấy, mà còn bị tội là nghĩa gì? Thầy chùa xưa có học, thông hiểu chỗ đó, bày đặt thơ Hứa sử nói nhờ Hứa sử xin vua Tử điện tha tội ấy. Nói vậy trời đất còn lầm sao? Thua Hứa sử sao? )
Ngũ quan vương ở dưới đáy biển đông, nội cõi ấy rộng năm trăm dặm do tuần 1 dặm do tuần tròn giáp vòng 240 dặm, bề ngang mặt băng gian, là ngang giữa trung tâm 80 dặm. Còn mỗi dặm là 360 bộ, bộ là bước đôi, mỗi chưn một bước, nên một bộ là 5 thước mộc, như vậy 1 dặm là 1800 thước mộc. Còn 1 dặm do tuần bề ngang xuyên tâm đo 80 dặm là 144.080 thước mộc. Như vậy 580 dặm do tuần giáp vòng đo ra 72.000.000 thước mộc bề ngang mặt xuyên tâm 24.000.000 thước mộc. Lập 16 ngục nhỏ: 
1. Ngục Tát trì là huyết ô trì. 
2. Ngục Vụ liêng trước tim, xiềng, với tâm để xăm. 
3. Ngục Phi thanh kiên thủ, xối nước sôi
4. Ngục Chưởng trướng lưu dịch, vả mặt sưng. 
5. Ngục Đoạn cân tích cốt, chặt gân xương
6. Ngục Yễn kiên sát bì, khứa vai lột da. 
7. Ngục Đoan phu, khoan da thịt
8. Ngục Tổn phong núi chim trĩ mổ. 
9. Ngục Thiết y, bận áo sắt
10. Ngục Mộng thạch thổ ngoa yễm, cây, lá dẳn. 
11. Ngục Lục nhãn, khoét mắt. 
12. Ngục Phi khôi tắc khẩu, tro vô lấp miệng. 
13. Ngục Quán dược, đổ thuốc độc. 
14. Ngục Du đậu hượt diệt, trợt nhớt té,
15. Ngục Thích chỉ, xâm miệng. 
16. Ngục Tốt thạch mai thân, chôn đá vụn. 
Những tội trốn xâu lậu thuế; nói ngược lúa ruộng, nói ngược nợ, cân ăn gian; bán thuốc giả; bán gạo mắc nước; làm bạc giả, ăn gian ăn bớt bạc vàng; bán hàng lụa nhiễu; bán vải mỏng mà hồ gọi dày, đi đường không nhường tránh kẻ tật nguyền, hoặc người già, trẻ nhỏ nhít; lập mưu thần mà đoạt nghề kẻ buôn gánh bán bưng, cho mất sở làm ăn kẻ cùng khổ mà thủ lợi; lãnh thơ không đưa cho sớm, để trễ hư việc người; ăn cắp cạy gạch lề lộ, hoặc rót trộm dầu đèn ngoài đường; nghèo không giữ bổn phận, sanh ra gian giảo, giàu bất nhơn, không thương kẻ nghèo, hứa cho mượn cho vay, đến kỳ không cho, hại hư việc người; thấy người nghèo bịnh, trong nhà có thuốc hay mà không cho; giấu phương thuốc hay, sắc ra bán thuốc nước không cho thấy xác, không chịu truyền cho ai; quăng miểng sành miểng chai, gai chông ra đường đi; thả súc vật ỉa dơ đường sá; để bụi gai góc sầm uất cho hư vách rào của người; trù rủa ếm đối, hăm hoạ chúng; các tội ấy đều tuỳ nặng nhẹ hành tội các ngục, giải qua Ngũ điện. 
Ngày vía trẫm 18 tháng hai, nếu ai ăn năn ngày ấy ăn chay thề nguyền không dám phạm các tội ấy nữa, lo làm lành tu bỉ sau khỏi hành các ngục nầy, nếu thêm việc nhơn quả kể sau Ngọc lịch để cho người coi mà cải ác tùng thiện, người ăn năn chừa lỗi khỏi tội thì có công có phước. 
Nếu thấy ai bị tai nạn ngặt nghèo, mình có thể cứu mà làm hiểm bỏ qua, hoặc quên ơn bạc nghĩa hoặc cố oán quyết hại cho đặng, đều là lòng độc ác: tuy tụng kinh làm lành bố thí thác rồi khỏi hành các ngục mà thôi, chớ không đặng đầu thai hưởng phước phạt làm quỉ mị yêu tinh, như hồ ly mãng xà, mấy năm, tuỳ theo lòng độc nhẹ nặng. Nếu biết lỗi không dám sanh sự hại đời, thì thâu hồn về cho đầu thai phú quý. Như hiện hình nhát chúng khuấy đời, đáng tội thì bị Thiên lôi đánh hoá ra con Tích, thì hết đầu thai lâu tiêu hồn mất. 
Phàm các quân binh đánh giặc, kể từ ngày đi đánh, hết lòng hết sức vì nước, không hãm hiếp ai, không đốt nhà dân giả; dầu tử trận hồn xuống điện này, dẫu có các tội xưa cũng bỏ qua hết, vì đặng chữ trung lương mà trừ, giải đến cửa thứ mười, cho đầu thai hưởng phước. Nếu đánh lộn sanh tử mà chết, hoặc theo kẻ làm phản, đều bị tội gia bội hành hình theo các lỗi bấy lâu. 


-----------

VUA DIÊM-LA NGỰ ĐIỆN THỨ NĂM
Làm các điều lành được phước: 
1. Nhiều năm bố thí dân nghèo, con cháu nối đời, giàu có
2. Thí lúa gạo, cơm cháo, con cháu thi đậu làm quan lớn. 
Làm các điều dữ mắc hành tội: 
1. Tội bất hiếu với ông bà cha mẹ, bị chém ngang lưng đứt hai.
2. Đổ cơm cháo đồ ăn, bỏ cơm cháy, đạp cơm cháo, đổ huỷ lúa gạo, đều mang gông, cho ăn cơm thiu hóa giòi lửa. 
3. Mỗi người có tội, cho lên đài vọng hương, ngó về xứ sở nhà cửa, thương nhớ mà về không đặng, khóc than thảm thiết. 
Vua Diêm-la phán rằng: "Khi trước trẫm ở Nhứt -điện, bởi thương những kẻ thác oan, hay thả hồn về sống lại để kêu oan. Thượng -đế đổi trẫm về Ngũ -điện tại đáy biển đông bắc, cai trị 16 cửa ngục tru tâm làm mổ trái tim. Phàm các phạm hồn giải đến đây, thì đã bị hành các ngục mấy điện kia lâu ngày, dầu tội nhẹ khỏi hành, song cứ giải bảy ngày mới tới một cửa điện tới đây cũng đã 35 ngày rồi, thây thúi hết, không thể nào sống lại đặng. Nhiều phạm hồn muốn sống lại, kiếm
tâu rằng: "Tôi làm chưa rồi lời vái hoặc cất chùa làm cầu đắp lộ, khai kinh đào
giếng thí chưa rồi, hoặc đặt lời khuyến thiện chưa đủ, hoặc lời nguyện phóng sanh
chưa đủ số, hoặc nuôi ông bà cha mẹ chưa rồi, sắm sửa hàn rương chưa đủ, hoặc trả ơn chưa đặng xin cho sống lại thề làm duyên làm phước. Trẫm than rằng: Xưa người làm dữ quỉ thần hay, nay thuyền đã ra khơi xảm muộn quá! Bởi vậy Địa -Tạng -Vương ban ơn truyền chỉ, khuyên các cửa điện chung làm Ngọc -lịch cho đời tu mà chuộc tội. Thập vương làm rồi, dâng cho Địa -Tạng -Vương ngự xem, xem đủ liền đem thập vương với chư thần lên thiên đình dưng Ngọc -lịch xin sắc chỉ của Thượng -đế, nhờ ơn Thượng -đế ngự duyệt bằng lòng ban chỉ cho truyền đời tu chuộc tội. Từ Phong Đô đại đế với Thập vương lãnh Ngọc lịch có chiếu chỉ Thượng -đế phê đến nay đã lâu năm, mà chưa gặp người nào có đức hạnh xuống âm phủ, mà trao cuốn Ngọc -lịch đặng lưu truyền cho đời, chớ hồn mà hồi đương đem kinh có hình về sao đặng? Nếu truyền đặng cho đời biết ăn năn chừa lỗi, thì dưới âm phủ sẽ ít hồn tù tội, tại dương gian ít kẻ thán oán. Như vậy đủ biết trên đời không kẻ tu luyện cho đặng nhục thân (xác phàm) xuống âm phủ. (Trừ ra thân ngoại hữu thân thì đi mới đặng).
Từ đó đến nay các hồn soi Nghiệt cảnh đều là người dữ mới giải lần đến cửa này, đừng kiếm cớ chữa mình nhiều chuyện. Quỉ đầu trâu mặt ngựa dẫn chúng nó lên đài Vọng hương cho mau." Cái đài Vọng hương nhiều cửa vòng nguyệt, hình đài ấy như cái cung lên thẳng dây, giáp vòng 81 dậm, bề dài về hướng bắc, ngay như dây cung, còn đông, tây, nam, ba hướng trước với hai bên đều vòng tròn như cái cung, cao 490 thước, gươm giáo dựng làm chông xung quanh mặt thành, 63 từng rộng rãi. Kẻ hiền lành không lên đài ấy. Kẻ tầm thường công qúa bằng nhau, cũng khỏi lên, được đầu thai. Trừ ra phạm tội nhiều, trừ hết công, còn dư quá, mới cho lên đó. Nghĩa vọng hương là ngó mong về thấy nhà cửa quê hương mình, cho thấy cho nghe đặng biết việc ra thể nào. Các hồn ngó thấy những là người nàh không y theo lời mình trối, cãi các lời dạy, hoặc chuyên vận hết của mình, hoặc chồng cưới vợ khác, vợ lấy chồng khác, hoặc con cháu kiện chia gia sản ruộng đất, sổ sách giấy tờ bấy lâu, bây giờ xé hết. 
Giấy tờ thiếu nợ họ đòi không đúng. Còn kẻ thiếu mình mượn mình, không giấy, hoặc người nhà kiếm không đặng giấy thì bị chúng nói ngược hết, cãi lẩy với nhau, đều đổ thừa trả rồi cho mình (người chết)! Bà con hờn giận rầy rà, con cái giấu đút, bằng hữu nói tước. Có kẻ nghĩ tình khóc một tiếng, rồi cười bằng hai! Lại còn mấy kẻ tội dữ, thấy con trai bị tù tội, vợ bịnh hoạn, con gái bị chúng hãm hiếp, hoặc sự nghiệp tiêu điều, hoặc cháy nhà, hoặc hết của! Các hồn thấy việc như vậy tức tối mà khóc nhào! Quỉ sứ dẫn xuống, giam vào khám lớn, tra coi phạm tội gì thì dẫn vào 16 ngục tru tâm mà mổ ruột. Mỗi cái ngục đều trồng một cây trụ, rắn bằng đồng làm lòi tói, chó hình bằng sắt làm ghế đôn. Trói hết tay chưn vào trụ, rồi lấy dao nhỏ mổ bụng kéo tim, xẻ lần cắt bỏ cho rắn ăn. Rồi rút ruột cắt bỏ cho chó ăn, hành đủ ngày giờ mãn tội rồi, huờn hình như thường, giải qua Lục điện. Mười sáu ngục kể ra: 
1. Ngục mổ tim không tin báo ứng. 
2. Ngục mổ tim sát sanh hại mạng. 
3. Ngục mổ tim bỏ phải mà làm quấy. 
4. Nguc mổ tim làm dữ tập phép trường sanh
5. Ngục mổ tim khi lành muốn người mau chết. 
6. Ngục mổ tim toan mưu vu vạ (hoạ).
7. Ngục mổ tim trai gian dâm, gái ngoại tình. 
8. Ngục mổ tim tốn của người lợi cho mình. 
9. Ngục mổ tim gắt gao không kể ai chết. 
10. Ngục mổ tim trộm cắp nói ngược. 
11. Ngục mổ tim quên ơn báo thù quá. 
12. Ngục mổ tim độc ác xui hại người. 
13. Ngục mổ tim lường gạt dỗ dành. 
14. Ngục mổ tim háo thắng, ham đánh lộn. 
15. Ngục mổ tim ganh hiền ghét ngõ. 
16. Ngục mổ tim ngu mê không tỉnh kiêu ngạo. 
Những tội không tin Thiên đường Địa ngục luân hồi, quả báo ; ngăn trở kẻ làm sự lành ; mượn tiếng đi chùa dòm hành sự lỗi của người mà nói: đốt hủy kinh sách ; ăn mặn mà tụng kinh niệm Phật ; thấy người ăn chay tụng kinh niệm chú mà chê: chê bai tiên Phật ; kẻ hay chữ coi kinh sách mà không giảng cho kẻ dốt phụ nữ nghe: cuốc phá mã hoang, làm cho loạn lạc ; vô cớ đốt rừng: để người nhà lơ đểnh làm cháy nhà, hại lây cả xóm ; hay bắn cầm thú ; vật kẻ yếu bịnh ; quăng liệng phá người: đăng dò bắt cá ; chày lưới các cuộc bắt cá ; gát chim. (Lấy mủ cây làm cho dính giò bẫy, các đồ lề bất chim, hoặc đổ thuốc độc dưới đất) ; những mèo chết, rắn độc chết không chôn cho sâu, hại người đào nhằm móc nhằm trúng độc khí bịnh chết: trời lạnh run mà bắt dân đào đất dầm nước đặng làm vách đắp lò bếp mới ; lấy thế cất dinh quan, lấn ranh chiếm đoạt ruộng đất dân, lấp giếng bí ngọn rạch (thuộc về ỷ thế) ; các tội kể trên đó, những kẻ phạm tội ấy, cho lên Vọng hương coi rồi, giam vào khám lớn, tùy theo tội mà mổ tim, mới giải qua Luc -điện tra tội khác. Nếu cơn còn sống không phạm các tội ấy, hoặc đã phạm lỡ, ngày vía trẫm là ngày mùng tám tháng giêng, mà ăn chay thề nguyền không tái phạm các tội ấy nữa, sau trẫm tha hỏi hành, lại tư tờ qua Lục -điện giải tội nữa. Trừ ra tội sát nhơn, hoặc theo tà thuật, xưng đặng trường sanh: hoặc hãm hiếp phụ nữ ; hoặc đàn bà tham dâm ghen độc: hoặc vu oan cho hư danh tiết người ; hoặc trộm cướp nói ngược ; hoặc trộm cướp nói ngược ; hoặc quên ơn bạc ngãi, báo oán quá lẽ ; nhứt là nghe kinh khuyên giảng mà không ăn năn chừa lỗi! Các tội ấy chẳng hề châm chế. 
Còn người đời, gọi tài thần giữ của cho người, tưởng vậy là sái lắm! Ấy là mấy người chôn tiền bạc của cải hoặc các quan chôn của báu, đến thác phần hồn còn mê mà tiếc của, sợ chúng đào, nên hồn ma ở đó giữ mãi, ai tới thì hiện hồn ma mà nhát. Thần thánh nghĩ nó vô tội, nên bỏ qua cho ma giữ của. Chừng nào nghe câu kinh Phật dạy: ' Cái thân cũng không phải của mình, ngũ uẫn (năm mối) là tham. sân, si, ái dục, đều không '. Hồn ma giữ của mới tỉnh lại rằng: 'Cái thân là xác còn bỏ, không phải của mình mà dùng được, huống chi là của tiền '. Mới chịu bỏ của mà xin đầu thai kiếp khác. Còn mấy kẻ vô phước lại gần chỗ đó bị ma nhát mà hết hồn sanh bịnh. Như thế -gian ai nghe chỗ nào có ma quỉ hiện hình hay nhát, biết là chỗ ma giữ của, thì van vái thề nguyền, xin đào đặng của ấy thì chia ra như vầy: 10 phần xuất ra ba phần mà làm siêu độ tụng kinh cho hồn ấy đầu thai hưởng phước, ba phần nữa phóng sanh cho vong ấy, một phần bố thí cho bần nhơn thì hết 7 phần rồi, còn ba phần thì mình hưởng. Vái nguyện như vậy rồi đào, thì có thánh thần làm chứng, lấy làm như vậy không hệ gì,

-----------


VUA BIỆN THÀNH NGỰ CỬA ĐỀN THỨ SÁU
Làm lành được phước: 
Cất chùa, tu bổ am tự con cháu thi đậu làm quan. 
Làm các điều dữ mắc tội: 
1. Vừa lúa đợi giá cao, nhà nghèo mua ít không bán ; quá phòng người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi, mà theo họ cũ ; hoặc cạo vàng trong mình Phật cốt mà bán, cũng như bán Phật ; các tội ấy đều bị đóng đinh căng lút vô bàn chông đứng. 
2. Ăn cắp kinh sách, hoặc mua mà xé, bị treo mà lột da. 
3. Kêu trời van đất, không cung kính thánh thần, bị cưa ngược. 
4. Ăn trộm, ăn cắp, bị quì trên chông sắt luôn luôn. 
Biện thành vương, điện tại đáy biển chánh bắc, khám lớn gọi là Đại hiến đoán, địa ngục rông 500 dặm do tuần, 16 ngục nhỏ: 
1. Ngục thường quị thiết sa, quì chông. 
2. Ngục chi nê tẩm thân, hầm phẩn. 
3. Ngục mạ tồi lưu huyết, xay bột. 
4. Ngục kiềm chỉ hàm châm, ngậm kim. 
5. Ngục cát hận thử giảo, thiến dái cho chuột ăn
6. Ngục cực võng hoàn toàn, đĩa cắn trong lưới gan
7. Ngục ngối đão nhục tương quết nem. 
8. Ngục liệt bì khí lôi, nghiến rách da. 
9. Ngục hàm hỏa bế hầu, ngậm lửa. 
10. Ngục tang hỏa bại hông, thổi lửa đốt (lửa giân).
11. Ngục phẩn tự, rạch phẩn. 
12. Ngục ngưu điêu mả táo, trâu báng ngựa đạp. 
13. Ngục phỉ khiếu, khoan lỗ (xoi).
14. Ngục trát đầu thoát xác, bửa sọ. 
15. Ngục yêu trảm, xắt ngang lưng. 
16. Ngục bác bì, tuyên thảo, lột da, đóng chông đứng. 
Phàm giận trời trách đất, ghét gió sấm lạnh nực nắng mưa ; day mặt về hướng bắc mà tiểu tiêu, hĩ mũi, khạc phun, khoét, cạo vàng hình Phật, móc tiền dằn tâm ông Tiêu ; kêu tên tộc Tiên Phật thánh thần ; không kỉnh giấy chữ kinh sách ; để đồ dơ uế gần chùa đình, bàn thờ: hương đăng trà quả, đồ cúng không, tinh khiết ; dơ dáy trong bếp, không cữ thịt trâu, thịt chó, học sách tà dâm (thể chiến), tà đạo, để sách ấy trong nhà mà không đốt, sách ếm hại người cũng vậy, bôi xé kinh sách, đồ khí dụng. vẽ hình Thái -cực (mặt trăng lộn âm dương), hoặc vẽ nhựt nguyệt sao bắc đẩu, hoặc hai hình hoà hiệp (nguyệt hiệp lão nhơn), hoặc hình Tây-vương-mẫu (Diêu trì), hình Phước Lộc Thọ, hoặc hình Bát -tiên, mà làm nhãn gói đồ, hoặc thêu chữ (Vạn) vô hàng giẻ vải cờ, giường, ghế, bàn tơ và đồ khí dụng, hoặc dùng làm chữ hiệu, phạm thượng bận quần áo có hình rồng phụng, vựa lúa chờ giá cao không bán ít cho nhà nghèo: các tội kể trên đó, đều giam vào khám Đại -kiếu -hoán. Tra tội nào đáng hành 16 ngục nhỏ, đủ ngày giải qua Thất -điện, tra tội khác hành nữa. 
Nếu ai ở dương thế, ăn chay ngày mồng tám, tháng ba là vía trẫm, thề nguyền tự hậu không dám phạm tội nói trên đó, và 14 rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng 10 tháng mười, trong bốn ngày ấy ăn chay, cấm phòng, (vợ chồng không ăn nằm với nhau) cũng như các ngày vía lớn vậy, lo cầu khẩn ăn năn chừa lỗi thường năm giữ được năm ngày ấy như vậy, sau khỏi hành các ngục nầy. 
Thế tục lưu truyền nói: 'Thập bát tằng địa ngục '. Dưới Âm -phủ có 18 từng địa ngục, ấy là nói sái, chánh là: ' Nhập bát tằng địa ngục '. Vào tám cửa địa ngục lớn. Kể tám ngục lớn ra sau đây: Nhị điện có khám lớn gọi là Huợt đại địa ngục. Tam điện có Hắc thằng đại địa ngục. Tứ điện có Hiệp đại địa ngục. Ngũ điện có Kiếu -hoán đại địa ngục. Tại Lục điện đây có Đại Kiếu hoán đại địa ngục. Thất điện có Nhiệt não đại địa ngục. Bát điện có Đại Nhiệt não đại địa ngục. Cửu điện A tì đại địa ngục. Cộng tám cái khám lớn, mỗi khám lớn đều có 16 địa ngục nhỏ để hành tội và Huyết ô trì, Uổng tử thành, cộng vừa lớn vừa nhỏ 138 địa ngục ; lại còn bào lạc rằng khác. Phàm các phạm bị hành rồi, tuy cháy da nát thịt, đứt gân, dập xương, không còn lông tóc, chừng giải qua điện khác huờn hình lại như khi mới chết mà hành hình nữa, rồi giải qua cửa khác cũng như vậy. Trẩm thích nghĩa cho rành, kẻo tưởng có 18 địa ngục. Nhứt là tội đặt bài ca huê nguyệt, tuồng truyện tà dâm, hoặc vẽ hình tục tĩu, hoặc làm thuốc phá thai, hoặc thuốc mê, hay là khắc bản in ra, hoặc sao tả lưu truyền các bài các hình ấy, nếu bản ấy còn, bổn còn không tuyệt đồ đó, thì người bày đặt còn bị hành tội hoài, dẫu muôn ngàn đời cũng không khỏi hình phạt nơi địa ngục vì bày tà dâm dục lòng người cho hư phong hoá. 

-----------

VUA THÁI -SAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ BẢY
Làm lành hưởng phước: 
Phàm con có hiếu, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, kính yêu mười phần. Khi nuôi đau càng hầu hạ thức thối cần mẫn hơn nữa, đến nỗi cha mẹ bịnh liệt, ăn không được có khi đặt bàn cầu trời, mình lóc chút thịt cánh tay, mà nấu ra nước cho cha mẹ uống cầm hơi. Ấy là lời nói thí dụ tỏ lòng thương hết sức chạy lo như vậy. Có hiếu thì động lòng trời. 
Làm các điều dữ mắc tội: 
1. Ăn trộm đồ trong hòm, hoặc bày thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa. 
2. Sang đoạt, hoặc dỗ dành gạt chúng, bị ngục trảm thủ (chặt tay).
3. Lấy xương người mà làm thuốc, bị nấu dầu. 
Đền thái -san vương tại đáy biển tây-bắc, khám Nhiệt -não đại địa ngục giáp vòng 500 dậm do tuần, có 16 ngục nhỏ. 
1. Ngục chày nục tự thôn, đánh sặc máu bắt nuốt! 
2. Ngục thềm thối hỏa bức khanh, hầm lửa. 
3. Ngục liệt hung, bửa ngực. 
4. Ngục nha xa ngoạn phát, cột tóc trên nạng. 
5. Ngục khuyển giảo kinh cốt, chó cắn cẳng. 
6. Ngục đảnh thạch tồn thân đội đá. 
7. Ngục lả đảnh khai ngạch, đập óc xả trán. 
8. Ngục úc thống khốc cẩu đôn, chó cắn. 
9. Ngục lê bì trư tha (trư đà), lột da, heo cắn mà trì. 
10. Ngục đoạn hảo thượng hạ trác giảo, trên chim
lắc nước mổ, dưới heo rừng xé. 
11. Ngục điếu đạp túc, treo cẳng. 
12. Ngục bạt thiệt xuyên tai, kéo lưỡi xỏ má. 
13. Ngục sưu trường, rút ruột. 
14. Ngục loa đạp hoa trước, la đạp, heo rừng cẳn. 
15. Ngục lạc thủ chỉ, đốt ngón tay. 
16. Ngục du phủ cổn phanh, nấu dấu. 
Nếu ai có uống hồng diên (kinh nguyệt lần vỏ da, thứ nhứt)
tử hà xa nhau (nhau) ; hoặc uống rượu phí dụng thái quá ; mua đồ trong hòm người chết ; hoặc lấy xương cốt người mà làm thuốc: phân rẽ vợ chồng, thân thích người ; gả dâu làm thiếp, hoặc đợ ; để cho vợ trấn nước con gái: hoặc chửa hoang đẻ ra liền ủ ; bài bạc đánh môn đánh cặp chia tiền của, hoặc gian lận ; thầy không cần dạy để đệ -tử hư: không cần tội nặng nhẹ, cứ chửi tôi đánh tớ tới bị thương tích: hà hiếp xóm diềng: không kính người lớn hơn mình, dạy phải chẳng vâng lời: khua môi uốn lưỡi, xúi rầy đánh lộn ; các tội ấy tùy nhẹ nặng hành hình đủ 16 ngục. Hành đủ rồi, giải qua Bát điện tra tội khác nữa. 
Trong đời thiếu chi vị thuốc, nỡ nào giết vật sống mà làm thuốc, trị bịnh thiệt ở bất nhơn. Còn như uống hồng diên, nhau rún đồ dơ trong mình đàn bà, như ăn thịt người, thì cái miệng cũng như một thứ uế trược kia dẫu có làm lành tụng kinh niệm chú đã không linh, mà càng thêm tội, nên án ấy không dung. Nếu ai nghe khuyên nầy, mau mau chừa lỗi, nguyện cữ sát sanh, lại phóng sanh được một trăm vạn mạng mỗi ban mai súc miệng niệm Phật cho nhiều, đến khi mãn phần, Phật sai Tịnh nghiệt sứ giả đem đèn soi cho tiêu hơi uế mới đặng. 
Nếu ai lấy xương cốt kẻ chết thiêu, hoặc thây con nít chết mà làm thuốc, hoặc lấy sọ người bán mà làm vị thuốc có kẻ ác kiếm xương người tới cả gánh, chắc thì làm đồ khí dụng, mục thì tán ra bột pha đồ. Hầm các vật dụng thì dầu có công gì, trừ cũng không đặng, thà hành tội ấy công nọ để trừ tội khác, dư sẽ cho hưởng kiếp sau. Còn bây giờ hành các ngục rồi, rốt giải qua vua thứ mười đặng cắt tay khoét mắt, chặt tay chưn, hớt môi miệng mũi, đầu thai làm kẻ tật nguyền, thậm chí hai tật mà trừ tội ấy. Nếu ai còn sống biết tội, phải thề nguyền ăn năn, không dám phạm nữa, hoặc phải thí hòm mà đi liệm thí nhiều xác, sau chết đeo đính bài, trên đính bài ông Táo có chấm một điểm mực làm dấu, xuống đây mới khỏi hành hình. 
Có năm thất mùa đói lắm, tới nỗi kẻ sống đói quá ăn thịt thây ma. Nếu ai ngất ngư hấp hối còn chút hơi thở mà nỡ lòng cắt thịt nấu ăn, hoặc làm nhưn bánh bao, bánh in mà bán cho người ăn, ở lòng độc như vậy bị hành xây vần 16 cửa ngục nầy đủ 49 ngày, thì cho Thập -điện ghi vào sổ, rồi chạy tờ cho Nhứt điện đem tên vào bộ nữa, cho đầu thai lên làm súc vật chết đói, cho thấy đồ đổ trước mắt mà nuốt không vô, phải chịu đói tới chết. Tội này không phước nào trừ được, cũng không đặng đầu thai làm người mà trả quả. Còn kẻ ăn lầm, biết rồi mà còn ăn nữa, phạt đầu thai làm súc vật sưng họng đói lắm mà ăn không đặng, nhịn cho tới chết. Nếu biết lầm mà không ăn nữa, thì chế cho bố thí năm đói mà trừ (như thí lúa gạo tiền bạc cơm cháo hoặc nước gừng, nước trà), được như vậy đã tiêu hết tội trước, lại trả phước nhãn tiền và kiếp sau. 
Ba điều trên ấy là quan văn, quan võ với các phán quan điện nầy hội nghị hai điều, còn Địa -ngục thứ tư (chúa ngục) nghị một điều, là ba điều, trẫm cũng cho viết theo sau, dưng Thượng đế, nhờ ân chỉ phê cho và thăng thưởng các viên hội nghị. 
Lại truyền chỉ dụ: Thế gian làm điều dữ, chư thần đã nghị tội hành phạt rồi. 
Hỡi còn việc quân lính, việc công vụ, lễ nghị, chế riêng điều lệ nhỏ, các khoảng ấy điều y thao luật của nước nào chế, thì trị theo luật nước nấy. Nếu chúng nó chối mà đổ tội cho kẻ khác, tức thì phải tra minh mà trị tội y luật. Các cửa âm ti y chỉ dụ '.
27 tháng ba nhằm ngày vía trẫm, ai ăn chay day mặt lạy về phía bắc, thề nguyền ăn năn chừa lỗi, làm lành in cuốn Ngọc -lịch cho đời coi mà cải ác, sau khỏi hành các ngục nầy '.

-----------

VUA BÌNH -ĐẲNG NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TÁM
Làm lành hưởng phước: 
Kẻ giàu có trai tăng bố thí cho thầy tu, được phước lộc. 
Làm các điều dữ mắc tội: 
1. Bất hiếu, cha mẹ sống không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc hồi cha mẹ còn sống làm cho cha mẹ ưu phiền bất bình, hoặc làm điều phạm phép, cho cha mẹ kinh hãi, đều bị xe cán. 
2. Ở quấy với người ơn của mình, hoặc chắp cây chiết chi, đem nhánh nầy chắp qua gốc cây kia, đều bị xắt ngang lưng. 
3. Nói tục -tĩu về việc phụ nữ, bị kéo lưỡi mà cắt. 
4. Khi người nghèo, dua bợ giàu sang bị mổ bụng móc tim. 
Ngục nầy có thành Uổng tử để giam hồn tự tận (giết mình).
Bình Đẳng vương đền tại đáy biển chánh tây, khám lớn là Đại Nhiệt não đại địa ngục, rộng 500 dặm do tuần, có 16 ngục nhỏ: 
1. Ngục xa băng, xe cán. 
2. Ngục mộng hoa, chảo đậy ngột. 
3. Ngục tối quả, lóc thịt tận xương. 
4. Ngục lao khổng, bóp mũi, bóp họng. 
5. Ngục tiển thiệp, hớt chót lưỡi. 
6. Ngục thường thinh, nhà tiêu. 
7. Ngục đoạn chi, chặt tay chơn. 
8. Ngục tiền tạng, nấu đồ lòng. 
9. Ngục chích tủy, nướng mỡ xương. 
10. Ngục bát trường, móc ruột. 
11. Ngục phần tiêu, đốt trái thận. 
12. Ngục khai đường, mổ ức. 
13. Ngục hoạch hung, sả ngực. 
14. Ngục phá đảnh náo xỉ, bửa đầu xeo răng. 
15. Ngục phê cát, bằm xắt. 
16. Ngục cang xa, chĩa sắt đâm. 
Những con bất hiếu, cha mẹ còn không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc làm cho cha mẹ hay là cha mẹ chồng hết hồn, giựt mình, phiền hờn, rầu buồn, nếu không ăn năn chừa lỗi, ông Táo ghi vào sổ tội thứ nhứt tâu Thiên -tào cho bớt lộc bớt tuổi, cho tà quỉ làm điên khùng, thác rồi còn bị hành hình các ngục khác, giải đến cửa nầy ngưu đầu mã diện xách giò quăng vô khám lớn, rồi dẫn lại các ngục nhỏ hành hình cho đến kiếp, mới giải qua cửa thứ mười cho đầu thai làm súc vật. Nếu ai thấy Ngọc lịch mà tin, mỗi năm vía trẫm là ngày mồng một tháng tư, ăn chay thề nguyền chừa tội lỗi, sớm tối nguyện với ông Táo, xin ăn năn chừa lỗi, đến mãn phần ông Táo đề chữ Tuân trên trán, hoặc chữ Thuận, chữ Cải dầu hồn xuống từ Nhứt điện đến Thất điện có tội chi khác đều giảm phân nửa và khỏi phải giải qua điện nầy, đi luôn qua Cửa điện tra có đốt nhà, hoặc tính mưu thầm hay không. Rồi giải qua Thập điện cho đầu thai làm người tử tế. 
Thượng đế có chỉ dụ: "Nếu ai ăn năn chừa lỗi, in Ngọc lịch cho thiên hạ coi mà hồi tâm, thì sau thác xuống đi luôn từ Nhứt điện thẳng tới Bát điện khỏi hành các ngục. Tới cửa điện tra tội phước nếu không tội thì giao qua Thập điện cho đầu thai nhà giàu sang mà hưởng phước lâu dài. "
Còn Huyết ô trì phía sau điện, mé bên tả. Sãi vãi tại thế gian giảng sái rằng: "Đàn bà sanh đẻ có tội, sau bị sa Huyết ô trì". Ấy là nói sai lắm! Sự đó tại trời sanh còn làm tội là nghĩa gì, dầu đàn bà đẻ mà thác, cũng không tội nhơ uế chi hết. Tội là vầy: Đẻ chưa đầy tháng mà xách nước, lội sông, vô bếp, giặt quần áo dơ, phơi hứng tam quang, các tội ấy về chủ nhà (người lớn trong nhà) chịu ba phần còn bảy phần đích thân nàng ấy chịu. Ao Huyết ô để phạt gái dâm dục sau bàn Phật, trước chỗ thờ thần, hoặc không cữ giao hiệp bốn ngày kị nhụt thần trong mỗi năm, là 14, rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng mười tháng mười, nội bốn ngày đêm ấy, mà ăn nằm thì tại dương thế đã mang bịnh, hoặc chết rắp, hồn xuống đây còn bị lăn lội dưới ao ấy lâu ngày. Hoặc sát sanh vấy máu trong bếp, hoặc bàn thờ, hoặc vấy máu vô kinh sách, hoặc đồ đựng cúng tế, cũng bị sa Huyết ô trì. Trừ ra có người thân nguyện cữ sát sanh lại phóng sanh cho vong hồn, lạy Phật tụng kinh cầu mới khỏi. 


-----------

VUA ĐÔ THỊ NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ CHÍN
Làm các điều lành được hưởng phước: 
1- Mùa đông thì nước gừng, mùa hè thì trà nước, có phước. 
2- Đưa đò thí, con cháu thi đỗ hiễn vinh.
Làm các điều dữ mắc tội: 
1- Đi tới tiền làm chùa sửa chùa quan thếp Phật, mà ăn gian, hoặc rủ người đậu tiền khắc bản kinh, hoặc in kinh, ăn gian, hoặc bán mà thủ lợi, đều bị quăng trên núi cao. 
2- Bắt ếch, nhái, lươn cá, thuốc cá, bắt chim, ăn thịt trâu chó ngựa, hay sát sanh bắt rùa rắn, vô cớ mà hại vật, đều bị quạ xé thây ăn gan tim, rắn đục tai, niệng mũi. 
3- Phân vợ rẽ chồng người, nói đâm thọc cho ruột thịt xa nhạu Vẽ hình tục tĩu, làm thuốc tráng cho tà dậm. Hoặc đặt đồ huê tình, hoa-nguyệt cho sanh thói dâm. Hoặc đập chó. Các tội ấy đều bị chó vật chết, xé thây ăn thịt tim phổi. 
Đô thị vương đền tại đáy biển tây nam, khám lớn là A tì đại địa ngục, rông 8 trăm dặm do tuần đều bao lưới sắt, lập riêng 16 địa ngục nhỏ: 
1- Ngục xao cốt chước thân, đập xương đốt mình. 
2- Ngục sưn cân lôi cốt, rút gân nghiền xương. 
3- Ngục nha thực tâm can, quạ ăn tim gan.
4- Ngục cẩu thực trường phế, chó ăn ruột phổi. 
5- Ngục thân tiện nhiệt du, mình, tưới dầu sôi. 
6- Ngục não cô bạt thiệt, bạt xỉ, nỏ đầu, kéo lưỡi, nhổ răng.
7- Ngục thủ não vị điền, con nhím khoét sọ ăn óc. 
8- Ngục chưng đầu, quái não, nấu dầu, nạo óc. 
9- Ngục dương súc thành hải, dê cụng bấu. 
10- Ngục mộc hiệp đảnh, ta nỏ nát sọ. 
11- Ngục mạ tâm, móc tim mà xay.
12- Ngục phị thang tâm thân, trấn nước sôi.
13- Ngục huỳnh phong, ong vò vẽ đánh. 
14- Ngục nghị chú ngao thầm, kiến đục tóp (thắng mỡ ra tóp cho kiến ăn.)
15- Ngục yết câu, bồ cạp chích. 
16- Ngục tử xích độc xà toàn khổng, rắn đỏ độc chun cửu khiếu. 
Phàm vua thế gian chế luật hình phạt, như tội nặng lắm xử lăng trì (chém rồi xả tư), xử trảm (chém), xử giảo (thắt họng), hồn xuống chịu các ngục trước hành rồi, giải đến điện nầy, hoặc kẻ đốt nhà, nuôi xâu ngải, thuốc độc, phá thai, hút hơi rún cho bổ, nút tinh trai, hoặc vẽ hình tục tỉu, đặt thơ truyện ca huê nguyệt (thơ ân tình) hay là bài thuốc mê, thuốc phá thai. Ai có phạm đều, thấy Ngọc -lịch thì ăn năn, thề chừa lỗi, không dám phạm nữa, nếu dâm thơ thì xé não, in rồi thì hủy bản, đốt sách, không truyền phương thuốc tà vạy nữa (thuốc tráng) thì sau xuống đây tha hành các ngục, giao qua Thập điện cho đầu thai làm người. Nếu nghe Ngọc - lịch mà còn làm các tội ấy, thì sau hành từ Nhị điện cho tới đây, đây trước hành bào lạc (xiềng tay chân vô ống cột đồng đốt đỏ, đẩy lên cháy thành than), huờn hồn lại giam vào ngục A tì mà hành theo 16 ngục nhỏ, rồi huờn hồn nữa, đâm gươm vô họng thấu tim phổi, giam hoài đợi các nhà bị hại trên thế gian khá lại, kẻ chết đầu thai hết, hoặc não bổn dâm thơ hết lưu truyền nữa, hoặc phương thuốc độc hết truyền, hoặc kiểu hình tục tĩu tuyệt hết, thì hồn phạm mới khỏi giam đặng đi đầu thai. 
Nếu ai phạm các tội ấy, đến ngày vía trẩm là mồng tám tháng tư, ăn chay, day mặt về hướng bắc, vái nguyện chùa lỗi, mua thâu dâm thơ mà đốt, hoặc in Ngọc -lịch cho người, hết sức khuyên đời cải ác tùng thiện, đến mãn phần, ông Táo đề hai chữ ' Phụng hành trên trán, thì từ Nhị điện đến đây, tra công mà trừ các tội khác. (Nếu kẻ giàu sang có quyền thế cho bắt kẻ hung hoang hay đốt nhà chúng, hoặc cấm dâm thơ, hủy bản đốt sách dán yết thị cấm các việc hại đời ấy, thì cho con cháu nối đời thi đỗ làm quan. Nếu kẻ nghèo, dốt, phụ in Ngọc lịch khuyên đời sau đầu thai hưởng phước. 
Vua Phong đô đại đế phán rằng: ' Tay Bát điện có thành Uổng tử, ở phía hữu điện nầy (vì 2 đền gần nhau). Thế tục nói sái rằng: ' Ai bị thác oan, thì hồn bị cầm thành Uổng tử '. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không xét cho đủ lý, người đã thác oan, cầm ngục nghĩa là gì? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan trước cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai Còn thành nẩyđể giam những kẻ vô cớ giận lẩy mà giết mình, trầm mình thắt họng, uống thuốc độc vân vân, giam đỡ đây đợi hành tội chưa đặng đầu thai chớ không phải các hồn bị người giết Uổng -tử. Nếu kẻ liều mình vì sự trung hiếu tiết nghĩa, hoặc quân lính vì nước mà tử trận, các bực ấy kẻ đáng thành thần thì hiển thánh, kẻ còn tội lỗi, không đặng thành thần, thì đã cho nguyên hình mà đi đầu thai, có đâu giam cầm thành nầy mà chịu bó buộc thảm khổ hay sao? 

-----------

VUA CHUYỂN -LUÂN NGỰ ĐIỆN THỨ MƯỜI
Làm các điều lành được phước: 
1. Nhà giàu sang thí kinh lành, hoặc thí Ngọc -lịch phước lớn. 
2. Tụng kinh, tụng cảm -ứng tu hành niệm Phật, giàu sang sống lâu. 
Làm các điều dữ mắc tội: 
1. Hãm hiếp, dụ trẻ thơ mà ăn của, đều bị xay ra bột
2. Không kỉnh giấy chữ, rủ ăn trâu, chó, phát làm hành khất
3. Không kính người lớn, dạy khuyên điều phải mà chẳng vưng lời, hoặc thầy bảo học trò trọng giấy chữ, đều bị đá đè. 
4. Không phải cúng ông bà, nuôi cha mẹ mà sát sanh. Hoặc mưu kế lường gạt ăn gian. Bày kiện thưa báo đời. Hoặc nghề võ đánh độc cho người chết. Các tội ấy đi ngang cầu Nại -hà bị té xuống sông cho rắn mãn xà cua đinh ăn thịt. 
Chuyển -Luận -Vương đền tại đáy biển đông, ngay rún trái đất, có làm cầu bằng vàng, cầu bằng bạc, cầu ngọc, cầu bằng đá, cầu cây (cầu ván) và cầu Nại -hà, cộng sáu cái cầu. Các điện giải hồn đến, xét tội phước cho đầu thai các phương thế gian, định giàu sang hèn khó, sống lâu thác yểu, đều ghi sở rõ ràng mỗi tháng chạy tờ về Nhất điện ghi sổ rồi nạp cho vua Phong đô đại đế. 
Luật Âm phủ, phàm tứ sanh là loài đẻ con, loài đẻ trứng, loài dưới nước, loài biến hoá lộn kiếp, những loài không chân cẳng, hoặc hai giò, 4 chân, nhiều cẳng, các vật ấy chết rồi hoá ra con tích (mà chết một kiếp nữa) xoay vần như cối xay, hoặc số một năm nửa năm, hoặc sớm mai sanh chiều chết, đổi dời biến hoá mạt kiếp, không định số, là loài phải bị giết cho hết kiếp, cho đầu thai các nơi mà trả quả. Mãn năm cũng phải trình sổ ấy cho vua Phong đô đại đế xem. 
Phàm kẻ học nho có đọc kinh Diệc, các sãi, mấy thầy tu có tụng kinh niệm chú, mà phạm tội nhiều quá, tuỳ bắt hồn đến các điện, cũng chưa hành đặng, phải giải đến đền trẫm vẽ hình và biên tên vào sổ Đoạ lạc danh sách. Rồi giao cho Mạnh bà ở đài Ứ Vong, đổ thuốc mê, cho đầu thai chết trong bụng, hoặc sanh ra một đôi ngày mà chết hoặc hơn
trăm ngày mà chết, hoặc một hai năm rồi chết, đặng cho quên hết kinh chú, rồi Nhứt điện bắt hồn tra tội mà hành Nếu ai công quả bằng nhau, hoặc dư quá chút đỉnh, thì định cho đầu thai làm trai, làm gái, xấu tốt, khoẻ cực, giàu nghèo, đều giao Mạnh bà cho uống nước mê (lú) rồi mới đầu thai. 
Trẫm hằng kêu tên mà cho đầu thai làm người, nhiều kẻ phụ nữ khóc lạy rằng: ' Còn thù lớn chưa trả đặng, nên không muốn đầu thai, thà chịu làm ma đói (ngạ quỉ), Trẫm hỏi rỡ, thì chúng nó kể ra: hoặc con gái đồng trinh hoặc con tiết phụ, bị các trò tốt trai háo sắc, hoặc tham của các nàng ấy, lập kế dỗ dành, làm mặt nhơn nghĩa, nói tiếng ân hậu, mà tư tình cho được ; kẻ nói dối chưa vợ, thề sẽ cậy mai đến cưới, hoặc gạt tớ gái, hứa sẽ lập làm thiếp mà lấy chơi phá trinh rồi bỏ, hoặc hứa nuôi mẹ già trọn đời, hoặc hứa nuôi con ghẻ. Các phụ nữ vì tin mà mắc, té ra hết của, thất tiết, mà chẳng đặng chồng! Sao lại bán rao cho cha mẹ anh chị hành hà, xóm giềng đàm tiếu, tức mình hổ thẹn mà liều mình, hoặc tức tối thất tình phát bịnh mà chết! Nay nghe đứa phụ tình đi thi khoa nầy chắc đậu, nên xin ở lại đợi tới khoa mà báo oán đòi mạng, ngặt nó chưa tới số, hoặc phước đức tổ phụ nó còn nhiều, xin cho lên phá nó hồn mê, thi chẳng đậu, hoặc cáo với Văn Xương đế quân phạt nó phải rớt (mới ra sự đổi tên có đứa khác đậu thế) đợi tới số sẽ xin lên vật hồn báo oán, các vụ ấy trẩm tra rõ oan ức, thì cho tờ nó tới Nhứt điện cáo. Nếu ai ăn chay ngày vía trẫm la 17 tháng tư, thề nguyền tin Ngọc lịch mà ở, và đem bài này mà giảng cho các trò nghe mà đặng giữ mình, thì người giảng ấy trọn đời khỏi thủy tai hoả hoạn, khỏi việc qua quan hình phạt. 
Còn sở luân hồi rộng bảy trăm dặm do tuần, trên dưới xung quanh đều có rào sắt và bao lưới phép, chia ra 81 chỗ, mỗi chỗ đều có nhà mát, các phán quan thơ lại, để bàn ghế biên chép. Ngoài rào sắt có 108.000 đường dương trường (nhỏ như ruột con dế) quanh co đi thông lên các nước. Chia ra sáu ngã (lục đạo) luân hồi, loài người có hai: 1. giàu sang, 2. khó hèn, trong ngoài đều sáng. Còn bốn ngã tứ sanh, là: Thai sanh, loài đẻ con (thú bốn cẳng). Noãn sanh, loài đẻ trứng có hai cánh. Thấp sanh, loài ở dưới nước, như cá, tôm cua ốc, rùa, trạnh, lươn, chạch, ếch nhái vân vân. Hoá sanh là loài tằm hóa nhộng, sâu lộn bướm, sùng hoá bồ xè, đuông hóa kiến dương, quăng hoá muỗi, kiến mốc mọc cánh, vân vân. Bốn loài ấy đường ở trong tối đen như sơn, ngó ra ngoài sáng như thủy tinh, như hai ngã loài người vậy. Các phán quan thơ lại kêu tên nhìn mặt rõ ràng cho luân hồi sáu ngã, một mảy không sai. Các phán quan thơ lại, đều là người hiếu đễ, cữ sát sanh, phóng sanh, tu hành, nên phong chức thần, mà coi sở luân hồi ấy. Coi năm năm công bình không sai thì đặng lên chức, nếu trể nải, hoặc lộng quyền, hoặc để tội trốn, thì bị phạt giáng chức, nhỏ thì bị đày. 
Phàm kẻ bất hiếu, hoặc sát sanh nhiều quá, bị các ngục hành rồi, giải đến đây, sai quỉ sứ lấy nhánh đào đập chết, hoá ra con tích, cho đội lốt tứ sanh đi đầu thai trả quả. 
Phàm cầm thú: cá, loài trùng (tứ sanh), đầu thai muôn ngàn kiếp đã mãn tội, thì loài hóa sanh được làm thấp sanh, thấp sanh trở lại noãn sanh, noãn sanh trở lại thai sanh, ba đời mà không giết hại mạng vật, thì được đầu thai làm người. Tại đây cũng làm sổ, gởi qua Nhứt điện phê, rồi cho uống thuốc mê nơi Mạnh bà, rồi đầu thai lên thế gian các nước. 


-----------


MẠNH -BÀ NƯƠNG CON BÀ Ứ -VONG
Thần Mạnh Bà sanh đời tiền Hán, hồi nhỏ học sách nho
lớn tụng kinh Phật. Không nhớ sự đã qua, chẳng mơ việc sẽ đến. Cứ lo khuyên người cữ sát sanh và ăn chay như mình. Không chồng tới 81 tuổi, tóc bạc mà mặt còn tơ. Bởi họ Mạnh nên kêu là Mạnh -Bà (bà họ Mạnh). Sau bà lên núi tu tới thành. Qua đời hậu Hán nhiều người biết kiếp trước, nhớ mạy đi nhìn bà con xưa, lại trí hóa nhiều, nói lậu sự Âm -phủ. Bởi cớ ấy, Thượng -đế phong Mạng -Bà lên chức Ứ -vong nương nương, là bà thần cho uống nước mê (tục kêu cháo lú), ở đài Ứ -vong nơi âm -phủ, trước đền Thập -điện ; đài ầy mới lập rộng lắm, cấp thơ lại quỷ sứ cho bà sai. Lấy vị thuốc của thế tục, chế ra như rượu, có đủ mùi ngọt đắng cay chua mặn, cho các hồn sẽ đầu thai đều uống, cho lú quên các việc kiếp trước, lại cho mỗi hồn có vài ba phần tật, như nhớ cười lo giận sợ, nhểu nước miếng, đổ mồ hôi, sổ mũi, khóc, khạc nhổ. Người lương thiện, cho thêm thông minh, tỏ tai sáng mắt, mạnh khoẻ ; kẻ làm dữ cho tới tinh thần, trở ra bịnh yếu phạt lần, làm cho người biết cải ác tùng thiện. 
Đài Ứ -vong ở trước đền Thập -điện, ngoài sáu cái cầu, cao lớn như nhà khách trong chùa (phương trượng) xung quanh 108 căn, phía đông có đường rộng một thước bốn tấc. Trong các căn đều để bình chén mà đãi các hồn uống nước rồi đi đầu thai. Miễn có uống bao nhiêu cũng đặng. Hồn nào nghịch mạng không uống, quỉ sứ trói giò lại, thọc ống đồng vô miệng mà đổ nhiều nước mê, ực rồi mới mở trói đỡ ra ngoài đường, xô lên cầu tre nổi, dưới sông nước suối chảy đỏ lòm, ngó thấy bên mé có gành đỏ núi gie mé sông đề bốn hàng chữ phấn trắng, nét lớn lắm, bốn hàng chữ như vầy: 
Vì nhơn dung dị tác nhơn nan,
Tài yếu vi nhơn khũng cánh nan! 
Dục sanh phước địa vô nan xứ: 
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan. 
Thích nôm: 
Xưa dễ làm người, nay khó bì,
Mong làm người nữa khó nhiều khi,
Muốn sang phú quí không chi lạ: 
Lòng miệng như nhau chẳng khó gì. 
Các hồn coi rồi, hoặc đọc rồi, có hai con quỉ cao lớn ở mé biển nhảy ra tới mặt nước: một quỉ đội mão đẹn, bận áo gấm, tay cầm giấy viết,vai mang gươm trường lưng đeo còng xiềng, trơn cạp mắt tròn vo cười ngất, ấy là quỉ Huợt vô Thường ; còn quỉ kia mặt dơ chảy máu, mình bận áo cổ giữa trắng, tay xách bàn toán, vai vác túi gạo đeo đính bài trước ngực, châu mày nhăn mặt thở ra than dài, ấy là quỉ Sanh hữu Phận Hai quỉ xô các hồn nhào xuống khe nước đỏ mà đầu thai. Kẻ có tội nhiều mừng đặng đầu thai làm người. Kẻ có công chưa đủ siêu thăng, thì tức và khóc rằng. Tu chưa đúng bực nên phải luân hồi cõi trần nữa! Các hồn như say như mê, nhập vào xác con nít trong bụng, hai chơn đạp cái nhao, chung ra khỏi mình mẹ. Lâu ngày tham mùi ngon, không thương mạng vật, xa cách tánh lành, phụ ơn trời phật rộng thương, chẳng lo thác hiền chết dữ, thân sau thể nào, thì cũng làm hồn ma mang thây nữa! 
Bài nầy là thơ lại ở đài Ứng -vong, viết rõ dưng Thượng đế xin cho để sau Ngọc lịch cho đời hiểu (Nhậm tấu).
Vì Thập vương làm não rồi, giao cho các phán quan chép lại vẽ hình kỹ càng, có đề họ tên thuật tích, dưng cho Địa tạng vương xem lại ngày 30 tháng bảy. Qua mồng ba tháng tám Địa tạng với Phong đô Thập điện chư thần đồng dưng cho Thượng -đế phê chuẩn rồi, song chưa có ai xác phàm xuống Am -phủ mà trao Ngọc lịch đem về truyền lại thế giạn. 
Qua cuối đời Tống Nhân - tôn (nước Liêu niên hiệu vua Thái Bình) nhằm năm Canh ngũ, ngày mồng chín tháng chín (trùng cửu trùng dương), Đạm Si đạo nhơn (Kinh Ngô là thầy tu nước Liêu,Hồ tăng) ở gần núi, ngày trùng cửu, lên đỉnh núi dạo chơi, xảy thấy một tấm bia đá, chạm 32 chữ cổ tự như vầy: 
Vô vi đại đạo, thiên tri nhơn tình. 
Vô vi yển minh, quỉ kiến nhơn hình. 
Tâm ngôn ý ngữ, quỉ văn nhơn thinh. 
Phạm cấm mãn dinh, địa thâu nhơn hồn. 
Thích nôm: 
Đạo cả thinh không trời biết lòng,
U minh thần quỉ thấy người ròng. 
Nói thầm, suy nghĩ, thần nghe hiểu. 
Tội nặng thâu hồn, đất bắt vong. 
Xảy thấy phía trong thắp đèn vàng, trước cửa điện có treo tấm biển 4 chữ: ' Xuất sanh nhập tử ' (nghĩa là: đầu thai thì đi ra, thác rồi hồn trở về đó). Đạm Si đương coi, xảy thấy đồng tử áo xanh kéo vào đơn trì (sân sơn son đỏ) quì lạy, rồi thối lui đứng trước thềm. Xảy thấy Thập vương kéo vào, đọc lời chúc ngày vía Phong đô đại đế và dưng bổn Ngọc lịch. Phong đô đại đế xem rồi, truyền văn võ các phán quán, đòi các quỉ sứ ngưu đầu mã diện mang lông đội sừng đều đến chầu, đứng tám hướng. Truyền phán quan đọc bổn Ngọc -lịch một bận. Các quỉ sứ lạy tạ ơn tâu rằng: ' Nếu ngày sau chúng tôi được đầu thai, hễ thấy Ngọc lịch nầy thì thề nguyện y theo cho đặng siêu độ '. Xảy thấy hào quang chiếu sáng, các phán quan cai trị thành Uổng tử và ao Huyến Ô, đều đem bổn sổ đến dưng và tâu rằng: ' Từ năm Thượng đế phê chỉ, cho ban phát Ngoc -lịch đến nay, bởi chưa có dịp đem lên Dương gian, nên chúng tôi, tra kỹ những phạm dư trăm ngục, có nhiều hồn khi còn sống hay giảng nhơn quả trong chốn đông người, hoặc giữa chợ đông, hoặc ngả ba ngả bảy, có người nghe tội phước mà hồi tâm. Chiếu theo luật Ngọc - lịch, cũng là khuyên người chừa lỗi, đáng ân xá tội nhỏ, cộng 50.480 hồn khuyến thiện, giảng quả báo. Nên thập vương hội nghị ân xá bọn ấy, định vào sổ đầu thai, tùy theo tội ít tội nhiều cho vào đường phú quí nhỏ, hoặc tầm thường. Kẻ tội nhiều cho làm người khó hèn, hoặc quan quả cô độc (quan là không vợ, goá vợ ; quả là goá chồng ; cô là mồ côi ; độc vô hậu không con, độc mộc đến già), đáng cho uống nước mê mà đầu thai, khỏi hành hình nữa, nên dưng sổ cho Đại đế xem '. Phong đô đại đế xem qua khen phải. 
Xảy nghe báo rằng: ' Có Phật Quan -Âm Bồ -Tát giáng hạ '. Phong đô đại đế với Thập vương đồng ra chào mừng. Quan -Âm mới xuống thì hình phụ nữ, có Thiện tài theo hầu, Long -nữ cầm phướng. Đến khi Đại -đế Thập -vương ra chào mừng thì Quan -âm hoá ra hình ông Tiêu Diện đại sĩ (mặt xanh lưỡi đỏ), mình cao mười sáu thước mộc, truyền chỉ rằng: Ta phụng chỉ Thượng -đế, y lời tâu của Địa Tạng với Thập vương chư thần, xin ban Ngọc - lịch năm đó, cho thế gian ăn năn, nguyện tu chuộc tội, khỏi hành địa ngục: nay cho hồn phạm đầu thai, trẫm rất vui lòng. Lại nghe vời đặng Đam Si mà trao Ngọc lịch, về dạy thế gian cải ác tùng thiện. Trẫm ao ước có người tin Ngọc lịch, truyền giảng mà khuyên đời, chừa lỗi làm lành như mình, được đông người sửa lòng như vậy, thì núi đạo ao huyết cũng bỏ không, các địa ngục càng ngày càng trống, thì người khuyến thiện thành chức: Trí huệ dẫn thiện diễn kiếp Phật ' (vì Phật Trí huệ đem lành khỏi tội).
Đại đế Thập vương với các thần thành hoàng (thần trong đình) đồng chắp tay nói theo rằng: ' Vị khuyến thiện đáng thành chức Phật ấy '.

-----------

Quan âm nói: ' Nếu người tu ở thế thấy Ngọc lịch mà diễn dịch ra cho người dốt đàn bà con nít dễ hiểu, người ấy thành công đức nhơn thứ pháp thắng Phật ', (Phật công đức nhơn xét tài năng).
Các vị ấy cũng chắp tay nói theo rằng: ' Đáng thành Phật '.
Quan âm nói: ' Nếu ai thấy Ngọc lịch đi đứng nằm ngồi cũng cám mến ơn trời, rèn lòng thanh tịnh, khuyên giảng độ người ăn năn làm lành đặng năm điều thiện, sẽ được làm bạt tiến cho vong hồn tiên nhơn thân quyến. Lòng công bình muốn cho người đặng phước như mình, quyết khuyên dạy nhiều người tu hành, làm bạt tiến cho phạm hồn được đầu thai, địa ngục phải trống, thì người ấy thành: Cứu khổ tiêu huệ Phật '. (Phật Cứu khổ nạn, ơn khắp nơi).
Các vị hết thảy đều chắp tay nói theo rằng: ' Đáng thành
Phật '.
Khi ấy Phong đô đại đế phán rằng: ' Bởi Địa tạng vương muốn siêu độ các phạm hồn nên truyền xét hồn nào hồi ở thế có biết ăn năn chừa lỗi, thì ân xá khỏi hành các ngục. Chư thần đã vưng chỉ, Ngài lại truyền Thập vương hội làm Ngọc lịch, dưng xin phê nơi Thượng đế. Nhờ ơn Thượng đế phê cho và có chỉ dụ sửa các khoản. .. rồi đây Trẫm sẽ dạy. Bởi bấy lâu chưa gặp ai đức hạnh, nhục thân đến cõi U-minh, mà trao Ngọc lịch, đem về Dương gian khuyến thế. Nay Đạm -Si đến dưới thềm, xứng đáng truyền kinh Ngọc lịch. Như vậy nay đã có người rồi các phán quan thơ lại đem cuốn Ngọc lịch, viết thêm lời Quan âm phụng chỉ mới truyền, với chư thần truyền dạy, biên thêm đủ điều và bảo Đam -Si ghi sự tích mình gặp truyền Ngọc lịch vân vân, cho đời hiểu cội rễ. Còn khi trước có chiếu Thượng đế chỉ dụ sửa các khoản: 
1. Các văn biểu tâu xin phê chuẩn, đều bỏ đừng biên vì rộn ràng e đời khó hiểu. 
2. Các vị thần với Thập vương đề tên họ thiệt, và thuật lý lịch tích mình vì làm sao mà thành, khoản ấy cũng bỏ, không cho đời biết sự tích làm chi, cứ đề nội tước (chức) như mỗ Bồ tát mỗ đế, mỗ điện mỗ vương, phán quan, thơ lại, để trống mà thôi, không cho đời biết tên họ. Ví dụ: Phong đô đại đế viết Diêm la vương viết. Đề chữ viết, bỏ họ tên, như phán quan viết vân vân, phải chấm câu vòng câu theo lời nói, cho đời dễ hiểu, e ít học khó phân câu. Cứ y chỉ như vậy, các phán quan viết lại, không nên làm sái. Còn mấy bài trẫm bảo thích nghĩa, Dương gian nói sái nói lầm như Huyết ô trì. Uổng tử thành, thập bát tằng địa ngục vân vân, ngày giáp thìn tháng ba, năm nhâm ngũ, trẫm có dưng sớ, Thượng đế cho biên thêm vào Ngọc lịch. Thôi cứ vậy bôi sửa đi '.
Khi ấy Thập vương cầm viết, điện nào sửa theo điện nấy, rồi đưa cho phán quan thơ ký chép tinh lại. Khi ấy Đạm Si quỳ dựa bàn án mà xem các phán quan chép tinh lại. Xảy thấy Tiêu diện đại sĩ, hiện lại hình bà Quan -âm, cầm nhành dương liễu châm bình nước cam lồ rải xuống ba lần, rồi đằng vân bay lên cao hết thấy. 
Còn Thập vương cũng từ tạ lui về các điện. Phong đô đại đế bãi chầu, ngự vào trong. 
Lúc này các phán quan chép các lời Quan âm, sao Ngọc lịch, biên các lời chư thần và đọc cho tôi viết từ chữ: ' Thời thiên hạ thái bình canh ngũ niên. .. tới chữ chúc tất ', cộng 129 chữ. Rồi giao cho các vị viết thêm đủ điều, mới trao cho tôi mà dặn rằng: ' Người biết mặt với họ tên chư thần đã nhiều, nay trở về Dương gian, xin đừng nói lậu tên họ anh em chúng ta, e người đời biết có tổ tiên thân thích làm phán quan thơ lại dưới âm phủ, cơn nào nó có bịnh trọng, không lo làm phước cho mau mạnh, nó lại làm nhăng sát sanh cúng tế, đốt sớ điệp, cầu tổ tiên phò hộ cho thêm tội với chúng ta. Vả lại Thượng đế chỉ dụ cho Đại đế tại điện này với Thập vương chư thần, còn phải bôi hết ên họ lý lịch, quê hương sự tích thay! Huống chi chúng ta là phán quan, thơ lại? Bởi lòng người đời khó lường (khó độ) lắm, e khi mượn kế sanh sự nữa, thì người với chúng ta khó mà khỏi tội lỗi, Xin nhớ lời dặn đừng quên? ' Tôi thích huyết thề nguyền, không dám nói lậu, lại ghi thêm các lời phán quan thơ lại dặn cho đời hiểu. Nếu tôi đặt điều mà giả mạo lời thần phật, trời đất thánh thần há dung sao? 
Nội đêm trùng cữu ấy, Đạm Si đạo nhơn ghi lời bạt. 

-----------

LỜI BẠT CỦA VẬT -MÊ ĐẠO -NHƠN
Tôi hiệu là Vật -Mê đạo nhơn (người tu, thầy tu tiên), tháng sáu, năm Mậu Thân, đi dạo qua tỉnh Tứ -xuyên, huyện Song -lưu, dọc đường gặp thầy tôi là Đạm Si tôn giả (Hồ tăng sãi nước Liêu. Tôi hỏi thăm thầy ở đâu? Thầy tôi trả lời rằng: Ta ở đất Luân hồi sanh tử (sống thác xây vần) ải Nhơn quỉ khứ lai (người ma qua lại) nghĩa là đi lạc xuống Âm phủ mà về đây. Ta nói cho ngươi rõ: những kẻ ở thế gian được phép đến mấy ngày vía Thập Vương, ăn chay cầu nguyện chừa lỗi cũ, cải ác tùng thiện, cứ lạy hướng bắc (chỗ Ngọc đế), nguyện chừa lỗi cũ, không dám phạm nữa, làm lành mà chuộc tội, sau thác hồn khỏi hành hình nơi các địa ngục ; ấy là ân xá giảm tội. Tại thế gian nhiều án chạy khỏi chối được chớ xuống âm phủ không lọt một mảy lông, không than cũng chẳng phép chuộc tội. Quí tại còn sống ăn năn làm lành mà trừ tội mới đặng. Ngặt người đời chẳng xét, tại cái thiện thì làm người, tâm ác thời làm vật. Song kẻ phụ nữ trăm người còn biết ăn năn làm lành một hai người. Chớ đàn ông ngàn người, may có một người cải ác! Có nhiều khi gần chết mà chưa biết ăn năn, thì phải chịu hành nơi địa ngục! 
Nay nhờ ơn Địa tạng vương bồ tát truyền Thập vương dọn Ngọc lịch, xin chỉ Thượng đế phê cho thế gian, biết ngày ăn năn nguyện làm lành chuộc tội, lại truyền bổn Ngọc lịch cho ta. Ta khuyên đời phải biết: có phước mới đặng làm người, còn sống, rán ăn năn lành lành kẻo muộn. Ngươi có lòng khuyến thiện, nay ta trao Ngọc lịch cho ngươi sao ra truyền cho đời biết '. Ta quì lạy lãnh cuốn Ngọc lịch thầy ta lần lần bay lên cao. Nên ta sao ra cho đời, ai khắc in ra lưu truyền cho đời khỏi tội thì mình được phước. Khuyên ai phạm tội mau chừa, không phạm thì rán mà giữ. Đừng đợi thác rồi, mới muốn sống lại mà tu không đặng. 
VẬT MÊ ĐẠO NHƠN (ghi ký)
Mười ngày vía Thập vương, đều lạy hướng bắc: 
Nhứt điện Tần quảng vương mồng 1 tháng 2
Nhị điện Sở giang vương mồng 1 tháng 3.
Tam điện Tống đế vương mồng 8 tháng 2.
Tứ điện Ngũ -quan-vương 18 tháng 2.
Ngũ điện Diêm-la-vương mồng 8 tháng giêng. 
Lục điện Biên-thanh-vương mồng 8 tháng 3.
Thất điện Thái -san-vương 27 tháng 3.
Bát điện Bình -Đẳng -vương mồng 1 tháng 4.
Cửu điện Đô-thị -vương mồng 8 tháng 4.
Thập điện Chuyển -luân-vương 17 tháng 4.
Và 14, rằm, 16 tháng 5, mồng 3 tháng 8, mồng 10 tháng 10
ăn chay ngủ riêng như trên. Vía 10 vua, nội 4 tháng 1, 2, 3, 4.


-----------

THÁNH ĐÀN TRAI KỲ GIỚI KỲ
(cấm phòng)
Các vía lớn, ăn chay, hoặc ngủ riêng, khỏi tội đặng phước. Tuy không ăn chay mà ngủ riêng cũng quí hơn. Tháng nào nhuần thì theo tháng trước: Tháng giêng: Mồng 1 vía Di Lặc, Thiên-Lập, ngày cúng trời. Mồng 3 vía Tôn chơn -nhơn, tổ thuốc và Hát chơn nhơn, ông tiên. Mồng 6 vía Định -chơn -Phật. Mồng 8 ngũ điện, Giang- đông thần. Mồng 9 vía Ngọc -hoàng thượng đế. 13 Lưu -mãnh tướng quân. Rằm vía Thượng -nguơn, Thiên -quan đại đế. Hựu -thành Tịnh -ứng chơn quân. Từ mồng 8 đến rằm, các vị ấy đi dẹp yêu quái, ai ăn chay, ngủ riêng, tụng kinh, có phước hơn mấy ngày thường thập bội, 19 Khưu -trường Xuân, ông tiên, cũng tổ thuốc ông đặt chuyện Tây-du. Tháng hai: Mồng 1 vía Nhị - điện, Thái dương, Câu-trận. Mồng 2 vía Thổ địa chánh, Tử -đông Văn -xương (Tụng Bổn nguyện, Bảo sanh). Mồng 4 Táo tướng quân. Mồng 6 Đông-Huê đế quân. Mồng 8, Trương đại -đế, Tam điện, Thích -Ca xuất gia (tụng Kim cang) 13 vía Các -chơn -quan, tổ thuốc, Rằm vía Thái, thượng lão -quân (tụng Cảm ứng). Tinh -trung Nhạc nguơn-soái -17 vía Đỗ -tướng -quân. 18 Tứ -điện. 19 Quan -âm (tụng Phổ -môn, Cứu -khổ). 21 vía Phổ -hiền bồ tát, Thủy -long Thánh -mẫu nương -nương. 25 vía Huyền -thiên thượng -đế thánh -phụ Minh chơn -đế. 
Tháng ba: Mồng 1 vía Nhị điện. Mộng 3 vía Huyền thiên thượng đế (tụng kinh Báo ân cho cha mẹ). Mồng 6 vía Thượng lão tướng công, Nhạng hương. Mồng 8 Lục điện, 13 Trung ương ngũ đạo. Rằm Hạo thiên, Huyền đàn, Lôi đình, 16 vía Chuẩn đề Sơn thần, 18 Hậu thổ nương nương, Trung nhạc. 20 vía Tử tôn nương nương (bà chúa thai sanh). 23 Thiên hậu nương nương 27 vía Thất điện, 28 vía Đông nhạc đại đế, Khương hiệt (ông thánh chế chữ).
Thánh tư: Mồng 1 Bát -điện. Mồng 4 Văn thù bồ tát. Mồng 8 Thích -ca Phật tổ, Cửu điện, Doãn -chơn -nhơn. 14 Lữ -tổ, Thuần dương, Rằm Thích -Ca thành (tụng Kim -cang). 17 vía Thập -điện. .. 18 Tử -vi đại -đế. 20 Nhãn -quang thánh -mẫu. 26 vía Chung -san tướng công. 28 vía Dược -vương cổ Phật. 
Tháng năm: Mồng 1 Nam -cực đại -đế. Mồng 5 Địa -lạp (cúng đất). Ôn -ngươn-soái, Đặng -thiên quân. Mồng 7 vía Châu -thái -úy. Mồng 8 Nam phương ngũ -đạo 11 vía Đỗ -thành -hoàng (cai trị các thành -hoàng). 12 Bỉnh -linh -công. 13 vía Quan thái tử. 14 rằm, 16, ba ngày kị thần (cấm phòng). 17 Trương -thiên-sư. 20 Phùng chơn -nhơn. 29 Hứa oai hiển vương. 
Tháng sáu: Mồng 4 chư Phật giáng. Mồng 6 Thôi -phủ -quân. Mồng 10 Lưu -hải -thềm đế quân. 13 Tỉnh -tuyền Long -vương. 19 Quan -âm thành đạo 23 vía Quan -đế, Vương linh-quan. Hỏa -thần. 24 Lôi -tổ. 26 Nhị -lang 27 Thiên -xu tả tướng (châu tử).
Tháng bảy: Mồng 7 Đạo -đức -lạp (cúng thần tiên), Ngưu -lang Chức -nữ. 12 Trường -chơn, Đàm chơn -nhơn. 13 Đại -thế chí bồ tát. Rằm Trung -nguơn, Địa quan đại đế. Linh -tế chơn quân. 18 Diêu -trì Tây -vương -mẫu nương nương. 19 Trị -niên thái -tuế (An giao). 21 Phổ -am tổ sư, Thượng nguơn đạo hoá. Đường chơn -quán. 22 Tăng phước tài thần, 23 Thiên -xu thượng -tướng chơn -quân (Gia -cát). 24 Long -thọ -vương bồ tát. 30 Địa -tạng -vương bồ -tát (U -Minh giáo chủ). Tháng tám: Mồng 1 Thần -công Diệu -tế Hứa -chơn -quân. Mồng 3 vía Táo -quân (mồng 3 với 27 Bắc -đẩu giáng hạ phải cữ)
Mồng 5 Lôi -thinh đại -đế. Mồng 10 Bắc -nhạc đại -đế. 12 Tây -phương ngũ đạo Rằm thái -âm triều nguơn (tụng Thái -âm), 18 Tửu -tiên (Lý -thái -Bạch). 22 Nhiên Đăng Cổ Phật. 23 Phục -ma phó -tướng Trương -hiên -vương (ông Trương). 24 Táo -Mẫu (bà Táo. )
Tháng chín: Mồng 1 Nam đẩu giáng hạ (Từ mồng 1 đến mồng 9, 9 sao). Mùng 3 Ngũ ôn. Mùng chín Cữu thiên huyền nữ. Phong đô đại -đế. 16 Cơ thần. 17 Kim Long tự đại lương, Hồng ân chơn quân. 23 Tát chơn nhơn. 26 Ngũ hiển linh quan. 30 Dược Sư Phật. 
Tháng mười: Mồng 1 Dân tuế lạp, Đồng hoàng. Châu chơn quân. Mồng 3 Tam mao ứng hoá chơn quân. Mồng 5 Đạt ma sư tổ. Mồng 6 Thiên tào chư tư, Ngũ nhạc Ngũ đế giáng hạ. Mồng 8 vía chư Phật hội niết bàn, phóng sanh có phước thập bội. (Nếu ngày mồng 8 tháng 10, làm một tội nặng bá bội ngày thường). Rằm Hạ nguơn Thủy quan đại đế, Đậu thần: Lưu sứ giả. 20 Trường hư Tịnh thiền sư. 27 Bắc cực Tử vi đại đế. 
Tháng mười một: Mồng 4 Đại thánh chí thánh Văn tuyên vương (Khổng tử). Mồng 6 Tây nhạc đại đế. 11 Thái Ất Cứu khổ thiên tôn. 17 A di đà Phật (tụng Di đà). 19 Nhựt quang thiên tử, Cữu liên bồ tát. 23 Nam đẩu giáng hạ, Trương tiên, 26 Bắc phương ngũ đạo. 
Tháng chạp: Mồng 1 Tiên phật giáng hạ (tụng kinh phước hơn nhiều). Mồng 8 Vương hầu lạp, Trương anh Đế, Thích Ca thành Phật (tụng Kim cang). 16 Nam nhạc đại -đế. 20 Lỗ ban. 21 Thiên du thượng đế. 24 Tư mạng Táo quân chầu trời (tối 23 cúng đưa trước). 29 Hoa nghiêm bồ tát. 30 Chư Phật giáng thế xét lành dữ. 
Mỗi tháng mồng 8, 14 ; rằm, 23,29, 30 Bắc đẩu giáng hạ, ăn chay tụng kinh. 
Tùng nhiên hòa thượng ở chùa Thiên thai đặt bài khuyên thế. 
Người đời chẳng tin nhơn quả báo ứng, nên có kẻ số thọ mà yểu, số giàu mà nghèo, tướng làm quan mà thi rớt! Sách Bửu giám nói: ' Lành thì trả lành, dữ thì trả dữ: nếu chưa trả, tại ngày chưa đến '. Lại có bài thơ rằng: 
Trời sanh khó dối bởi không tây (tư -vị).
Mới tính thần hay nạp sổ nầy. 
Lành dữ rốt rồi đều trả quả. 
Chẳng qua đều kíp với đều chầy. 
Kinh Nhơn quả nói ;' Phỏng kiếp trước dữ lành, coi đời nầy hoạ phước. Độ kiếp sau hoạ phước, tại đời nầy dữ lành '. Lại nói rằng: ' Dầu làm dữ mấy kiếp, cũng trả cho mình '. Kinh Niết -bàn nói: ' Quả báo có ba cắch! 10 Hiện báo, làm lành dữ đời nầy, trả phước họa cũng nội đời nầy ; 20 Sanh báo: kiếp trước làm, trả kiếp nầy, đời nầy làm, trả đời sau ; 30 Tốc báo: mới làm lành dữ, trả phước hoạ nhãn tiền, trước mắt tức thì '. Phải biết trời đất không tư vị ai, tại mình làm lành dữ nặng nhẹ, nên trả mau chậm khác nhau. Người đời khó hèn, điếc câm đi nhót, gãy tay, tật nguyền bịnh trời cho, đói lạnh, đều tại kiếp trước hưởng xài quá lẽ, làm dữ phạt nội đời ấy chưa hết kế tới số chết, nên đầu thai kiếp nầy phải phạt thêm cho đủ tội, Như vậy mà không tin nhơn quả báo ứng làm sao? 
Người đời những kẻ không tin địa ngục, đến gần chết hay thấy ma quỉ, hoặc nghe tiếng binh khí, xiềng tỏa mới tin có quỉ thần địa ngục, liền van vái cầu thần. Té ra đèn giữa gió, gần tắt, ăn năn muộn sao kịp, khó trốn quỉ Vô thường. Quí tại ăn năn cho sớm, tỉnh lại mà tu, gần chết mới sợ vô ích. 
Đời Tùy vua Khai hoàng, có quan tự thừa Triệu văn Xương chết đi sống lại nói rằng: ' Hồn xuống âm phủ thấy Châu Võ đế bị xiềng ba lớp tại phòng, kêu Xương lại mà nhắn rằng: ' Khanh về tâu với Tùy hoàng đế rằng: các tội trẫm cãi lẽ xuôi hết, còn một tội hủy Phật nặng lắm, mau làm phước bố thí, tụng kinh mà cầu cho trẫm khỏi tội, ' Xương ra ngoài thấy một người dưới hầm phẩn ló đầu lên, hỏi ai đó? Người ấy đáp rằng: ' Ta là Bạch -Khởi, tướng mạnh đời Tần '.
Sách Danh thần ghi: ' Kinh Công có tên con Phương dữ lắm, xúi Kinh Công làm nhiều điều trái lẽ. Đến Phương thác, Kinh Công mơ màng thấy Phương mang gông đứng dựa cửa. Kinh Công sửa nhà làm ra kiểng chùa, bố thí tụng kinh cầu Phương khỏi tội '. Lấy sách nho đó làm chứng, đủ tin Ngọc lịch, thì khỏi khổ phần hồn, Ông Tư mã Ôn công nói: ' Trên có Thiên đường. Người quân tử thác rồi, lên Thiên đường, dưới có Địa ngục, tiểu nhân thác rồi hồn sa Địa ngục. ' Sao gọi không Thiên đường Địa ngục? 


-----------

Đoan sơn đại tiên là ông Vương chương, đặt kinh thế lục rằng: ' Thiệt quả có Địa ngục. Bởi người tính lành, thì thuộc dương sáng, nên khí thanh lên thiên đường. Còn lòng tính dữ, thuộc âm tối nên khí trược xuống Địa ngục. Diêm quân tra hỏi, hành tội mổ bụng rút ruột, đốt cháy nấu dầu là tại lòng chứa dữ '.
Người đời không tin thác rồi đầu thai. Như kẻ không con, cưới vợ bé nhiều cũng vô ích, vì không thai nghén hoặc có nghén bị tử phúc trung, hoặc chết theo mẹ, không thì nuôi lớn chưa kịp có con mà chết yểu, thì cũng vô hậu, những kẻ ấy thiệt là vô phước lắm. Nếu vợ chồng có con sum hiệp đến già, tuy khó hèn cũng là có phước nhiều ít mới đặng vậy. 
Sách danh thần nói: ' Mẹ ông Phạm -tổ -Võ, lúc gần sanh ổng, chiêm bao thấy người cao lớn xưng mình là Đặng -Võ tướng quân đời Hán, thức dậy sanh con trai mới đặt tên Tổ -Võ. Đến lớn ở thuần lắm, nên đặt tự Thuần -Phu '.
Còn sách Tự -Loại, sách Mông -Cầu, có ghi tích Dương Hộ sanh ra, mà nhớ chiếc vòng kiếp trước. Bảo Tịnh nhớ cái giếng kiếp trước. Con gái Hướng Tịnh chết non. rồi đầu thai lại nữa, nàng nói chuyện kiếp trước không sai. (Con ranh con lộn mà nuôi được). Ngươi Văn Thẩm sống lại nhập vào xác khác. Những tích ấy đều tại sách Nho, sao không tin luân hồi đầu thai kiếp khác. 
Phàn người lành, đầu thai nhà giầu sang có đức mà hưởng phước. Công quả bằng nhau đầu thai nhà tầm thường. Công ít quả nhiều, đầu thai nhà rủi ro, hèn khó mà trả quả. Như trong Ngọc lịch nói: ' Thử lòng kẻ ấy, còn làm dữ nữa, không biết ăn năn mà làm lành, Thác Địa ngục làm con Tích, đầu thai làm thú vật, nếu về hoá sanh lộn mãi, hết trông làm người '.
Bà Diệu Huệ chơn nhơn (bà thân ông Văn Xương) nói: ' Con người ở đời, sống thác không nhứt định, ở tạm rồi đi, như trăng tròn khuyết, như hoa nở tàn. Ngày nay mới sanh là hồn chết kiếp trước lộn lại. Nếu thân trước chưa thác, thì hồn ấy có lộn vào xác nầy mà sanh ra đâu. Nếu ngày nay đến chết mà biết mình tội nhiều, thì trông chi đầu thai tử tế. 
Người đời chẳng tin thác rồi đầu thai làm thú vật. Sách Nho biên sự đầu thai ấy rất nhiều, chẳng phải một tích. Sử Tùy thơ, Lý sĩ Khiêm nói: ' Ông Cổn là cha Địa Võ, hoá làm con cua đinh ba cẳng, gọi là con ba ba, Ngươi Đỗ Võ hóa làm đề Quyên là con quốc. (Nên chim quốc tên là Đỗ Võ Đỗ Quyên). Bao Quân hóa rồng. Ngưu Ai hóa cọp, Bành Sanh hóa heo rừng. Như Y hóa chó. Huỳnh Mẫu hóa vịt, như càng thay lớn lắm. Tuyên Võ hóa trạch (cua đinh, tục kêu là cá giải). Đặng Văn hóa trâu. Từ Bá hóa cá. Kim Hạ hóa quạ, Thơ Sanh hóa rắn '. Các điều đó biên nơi sách Nho, sao mà không tin? 
Đức Thánh Khổng -tử nói: ' Sanh ra đến già phải thác, làm người chẳng sống đời, nếu theo dữ bỏ lành, sao khỏi làm loài khác '. Kinh Lăng Nghiêm nói: ' Người thác làm dê, dê thác làm người '. Phổ Am tổ sư đặt bài kệ rặng: ' Súc sanh bổn thị nhân lai tác, nhân xuất luân hồi cổ đáo câm, Bất yếu phi mao tinh đái giác, khuyến quân hưu sử súc sanh tâm '. Nghĩa là: người lộn súc sanh cũng tại tâm, xưa nay người vật chuyển luân thầm. Muốn không đội gạc mang lòng xấu, khuyên chớ làm theo dạ thú cầm. 
Ông Tịnh Trai học sĩ nói. ' Thông minh bất năng địch nghiệp, phú quý, khởi miễn luân hồi '. Nghĩa là: Khôn lanh khó chữa tội, phú quý cũng luân hồi. 
Ông Hồng Mai nói: ' Hay coi thọc huyết heo, làm thịt dê, sau gần chết la như tiếng heo dê kêu vậy, có khi chết rồi đầu thai làm chim, cho người mua mà thả. Nếu đàn bà hay coi sát sanh dê heo lắm, có khi đẻ ra đầu dê, hoặc mình rắn, hoặc trứng như trái cầu (đẻ bọc) '. Cứ theo lời ấy, người ta còn đẻ súc vật côn trùng, hoặc đẻ trứng, huống chi thác rồi đầu thai làm súc vật, mà gọi không lẽ. Bởi luân hồi mà trả nợ thường mạng, là nhơn quả xoay vần. Khuyên đời đừng gọi mắt chưa thấy nên chẳng tin, cứ làm dữ mãi (tin tại phải lý, lựa chờ mắt thấy, đợi mắt thấy đà chết rồi còn gì! ).
Xưa có kẻ hỏi thầy Trình -tử rằng: ' Phật nói chết rồi đi đầu thai nữa, sự ấy thấy thiệt chăng? Thấy Trình -tử nói: ' Sử ấy nói có nói không cũng khó hiểu. Song xét lời đức thánh Khổng -tử dạy rằng: ' Vị tri sanh, yên trí tử ' (chưa biết sự mới sanh đâu biết sự thác rồi), do một câu ấy thì đủ hiểu rồi '. Coi Trình -tử và ông thánh đời Tống ; mà chưa dám gọi không luân hồi đầu thai. Còn xét lời nói đức thánh Khổng -tử, đâu biết việc thác, thì sự luân hồi đầu thai không phải huyễn. 
Ông Châu -liêm -Khuê tự Mậu -thức, là thầy hai ông Trình -tử, Trình -Hi, Trình -Hạo, (Y Xuyên với Minh Đạo). Khi ấy ông Châu -liêm -Khuê hỏi thầy Huỳnh -Long-Nam thiền -sư rằng: ' Chẳng hay đạo Phật có dạy sự nhiệm mầu riêng hơn đạo nho chăng? ' Huỳnh -Long Nam thiền -sư nói: ' Thầy hãy xét các câu sách nhà nho của thầy như đức Khổng -tử nói: ' Triêu văn đạo, tịch tử khá hỉ ' Nghĩa là 'Sớm mai nghe thấu mùi đạo, chiều thác cũng đành '. Xét đạo ấy nghĩa là chi? Còn ông nhan -tử không đổi sự vui, là vui việc gì? Xét ra lý hai câu ấy, lâu lâu mới biết hiệp cái nhiệm mầu của đạo Phật, chớ không chi lạ mà hỏi '.
(Đạo là thông hiểu sự phải, chắc ý mà làm, chẳng hồ nghi chi hết, vì biết số mạng trời định, cứ phải mà làm, tố nào theo tố nấy, chẳng phải rán cượng cầu mà đặng, nên đức Khổng -tử nói: ' Nếu cầu đặng sự giàu, tuy ra sức mệt nhọc, làm việt hèn hạ như kẻ đánh xe, mà đặng giàu ta cũng rán chịu cực chịu nhục mà làm cho giàu. Nếu tại số trời định, có cượng cầu cũng vô ích, thì thà an phận mà theo tố, là chỗ ưa của ta '. Nên ông Nhan -tử thông mùi đạo, cứ giữ đức hạnh học hành sửa mình gọi là vui theo tố bần tiện, chớ không rầu buồn sự nghèo khó, nên sau ngày mãn phần làm chức Tu -văn -Lang tại Âm phủ cũng đồng liêu với thầy Tử -Hạ. Đức thánh Khổng -tử cũng nói: ' Thực sơ phạn, ẫm thủy, khúc hoăng nhi chẩm chi, lạc tại kỳ trung hỉ. Ăn cơm rau, uống nước lã, co tay làm gối nằm, ngài cũng vui vậy, là tại biết đạo, biết mạng, tố nào theo tố nấy. ' Quân tử vô nhập, nhi bất tự đắc '. Người quân tử không gặp cảnh nào mà chẳng vui, bởi vậy ngài mới thành thánh. Người đời không biết đạo, lòng tham vọng tưởng, cượng cầu cực khổ, không lợi lại bị hại, mau chết mà mắc tội nhiều, hại tới thân kiếp sau và để họa cho con cháu. 
Người đời xem Ngọc -lịch mà nửa tin nửa nghi, chưa dám đoán chắc là tại học chưa đủ lý ; té ra gặp phước mà bỏ qua. Nếu hiểu nhơn quả đời trước làm lành dữ, đời nay chịu phước họa. Đời nay làm lành dữ, thì kiếp sau chịu phước họa mà còn nghi chi nữa? Nay nhờ ơn trời, nhậm lời Thập vương chư thần, cho truyền Ngọc lịch đủ bằng chứng khỏi nghi, cũng như tích Lâm -tự -Kỳ sống lại, ghi lại cuốn Hồi -dương nhơn -quả thì mau ăn năn làm phước chuộc tội nếu đợi gần chết ăn năn sao kịp? 

-----------

TÍCH TRUYỀN NGỌC LỊCH MÀ CỨU HỒN MẸ
Tỉnh Tứ Xuyên, thân Dậu đường, ông Viện- cẩn- An mãn phần, để một trai lại, tên là Dức- Sơ mới bảy tuổi. Vợ Cẩn An là Thiệu- thị thương con ốm yếu, nghe lời họ bày phép bổ nguơn, mỗi ngày dùng gà mập, nấu lấy nước thịt gà làm canh cho con ăn cơm. Nên mua gà nhiều lắm, đào trùng dế, nuôi cho mập đặng nấu cho con ăn. Dức-Sơ 15 tuổi Thiệu- thị bịnh ghẻ đau nhức cùng mình, như dế
cắn gà mổ, mà cũng còn nhắc đầy tớ gái, làm gà cho con ăn. Đức-Sơ hiểu ý liền
cản cấm không cho làm gà nữa. Thiệu thị đau bảy năm, gần chết làm gà gáy, dế kêu, cào rách mình mà chết! Đức-Sơ khóc kể vì mẹ thương mình, nên sát sanh mới bị quả báo, liền thề cữ sát sanh Cách một năm có nàng Ning-Cô là chị con nhà bác, gả cho Tiền bị đẻ mà chết. Hồn xuống Nhựt-điện, vua xem bộ phán rằng: ' Nàng nầy tội nhiều, đáng bị sản nạn, giao qua Nhị-điện hành hình '. Phán quan tâu rằng: ' Viện-ninh-Cô có khuyên cha mẹ chồng đừng đốt cây khô nhiều kiến, đã ba lần. Lại khuyên chồng khắc in van giới sát
cho người 5000 tờ và phụ in kinh Quan-âm phóng sanh văn 3000 tờ. Táo quân tâu Thượng-đế cho sống thêm 30 năm nữa. Vua Nhứt-điện đứng dậy phán rằng: ' Lành thay! ' Liền sai kẻ áo xanh cầm phướng đưa hồn về. Ra tới cửa ngõ đỏ, có thắp đèn vàng, nghe tiếng kêu rằng: ' Ninh-Cô cứu ta với! ' Ninh-Cô ngỏ thấy thiếm là Thiệu-Thị đầu tóc chôm bôm, mình máu lội bộ, chạy theo khóc rằng: ' Cháu sống lại nói cho con ta hay, rằng ta bị khổ dưới âm-phủ bảo làm phước mà chuộc tội cho ta, nếu khỏi tội, ta về cho chiêm bao mách bảo trả lời. Xảy thấy quỷ tóc đỏ cầm chĩa đâm họng Thiệu thị mà dẫn đi, Ninh cô sống lại, thuật chuyện... Đức sơ hay, liền lạy Phật làm chay, tụng kinh tới 19 năm mà không thấy chiêm bao. Cưới vợ là Thi thị, cũng cữ sát sanh. Sau thấy kinh Ngọc Lịch, Đức Sơ nguyện sao tả cho người đặng chuộc tội mẹ. Mới tả được 120 bổn lẻ, cho mới được 108 cuốn. Nhằm niên hiệu vua Càn-long trào Thanh, là năm canh ngũ, đêm rằm tháng giêng, chiêm bao thấy Thiệu thị về vỗ lưng con mà khen rằng: ' Con thiệt có hiếu. mẹ ra khỏi ngục, nhờ phát Ngọc lịch 49 người hồi tâm, vua đà tha tội, lại cho về mách bảo con hay, hồn mẹ được về ở tại mã, giờ tý ngày 18 nầy, sẽ đi đầu thai hưởng phước. Còn con cũng đặng sống lâu nữa '.
Đức Sơ hỏi: ' Cha tôi bây giờ ở đâu? ' Thiệu thị nói: ' Đầu thai đã lâu, lại chú giải kinh Nhơn quả với Thiệu thơ, nên thi đậu làm quan và mạnh khoẻ '. Đức Sơ hỏi: ' Ở tại xứ nào? ' Thiệu thị không nói, xơ Đức Sơ thức dậy. Đức Sơ thuật chuyện cho vợ nghe...Thi thị nói: ' Tại mình mơ tưởng sao tả Ngọc lịch nên chiêm bao thấy vậy '. Sáng Đức Sơ dọn đồ ăn bưng tế mã mẹ và đốt giấy áo, vàng bạc, vái rằng: 'Nếu mẹ cho con thấy chiêm bao nữa, thì con mới tin chắc '. Đêm ấy, Đức Sơ thấy Thiệu-thị về điểm mặt Thi-thị mà mắng rằng: ' Mầy ghét chồng sao Ngọc-lịch nên mầy xé năm cuốn, thiếu chút nữa mà hại ta! Lại nói cho chồng không tin điềm thiệt, mầy sẽ mắc họa bây giờ '. Đức-Sơ giựt mình dậy hỏi vợ, sao mình xé 5 cuốn Ngọc lịch. Thi thị nói: "Đừng có nói yêu nói ma, có ba điều không đáng tin lắm: 1. Cữ sát sanh, không cho đồ sống vô nhà, như sãi vãi một thứ; 2. Đêm nào ngày nấy, thầy sãi tụng kinh hơn hai mươi năm mà cũng còn mắc tội dưới âm phủ! Giá gì sao mấy bổn kinh mà phước nhiều vậy? Còn tin là nghĩa gì? 3. Nói tôi xé 5 cuốn, sao mình không nghĩ? Mình viết rồi cất vô tủ khóa lại, tôi làm sao mở đặng mà xé, còn tin nỗi gì? Chẳng phải thiệt hồn mẹ về mách bảo đâu! Ấy là mình vọng tưởng mà thấy bậy, e không bao lâu, sẽ điên cuồng mà chớ! " Đức Sơ nghe nói lưỡng lự, vì cũng phải lý dễ nghe. Đêm 17 qua ứng mộng bên nhà em
Thi thị và ứng mộng nhà cháu là Ninh-Cô, rồi ứng mộng dâu con mà mắng rằng: ' Mồng sáu tháng bảy năm ngoái Châu-phụng-Cô là gái xóm nầy vào nhà ngồi chung với mầy mà thêu giày, mầy có lấy một cuốn Ngọc lịch để trong rổ may. Đêm sau mầy giận chồng mầy không cho Phụng-Cô vô nữa, nên
mầy xé 5 bổn Ngọc lịch. Bữa sau em mầy là Thị-Phúc đến thăm, thấy kinh rách, năn nỉ xin về đóng lại dán lại viết vô mà cho người, Âm phủ đã ghi phước cho Thị-Phúc. May sao con ta để vô tủ mà khóa, phải không thì mầy cũng xé nữa! Nay lại chối lức đặt chuyện ba điều không đáng tin, tội già làm nặng lắm. Táo thần với Thổ địa đã chịu cho tà quỉ vô nhà hành mầy chạy đâu
cho khỏi họa! ' Nói rồi xô đổ bàn để đồ trang điểm một cái rầm! Vợ chồng giựt mình thức dậy! Đức -Sơ hỏi vợ tin không! Thị-thị nói: Ai tin thì gọi có, ai không tin thì gọi không '. Xảy thấy một đống khói đen bay vô cửa phòng! Thị thị rùng mình, ngó chồng mà nói rằng: ' Mình tả thêm ít cuốn nữa, thà tin là có, chớ gọi là không '. Đức Sơ biết vợ có xé kinh thiệt, nên mới nói như vậy. May mẹ đã đầu thai, nên tin chắc, thôi cậy sãi tụng kinh nữa, quyết lòng tả Ngọc lịch làm phước.
Đêm ấy Thi-thị phát óng, lưng vai đau nhức như đánh như dần. Rước thầy thuốc coi mạch. Thầy thuốc nói: ' Ấy là âm độc làm ghẻ ác, phần thím có thai, nên không dùng thuốc nóng mà trị, thế phải chịu phép! ' Đức Sơ rầu lắm. Kế em vợ là Thị Phúc ghé. Ninh-Cô cũng đến thăm, đồng thuật chuyện chiêm bao, bảo Dức-Sơ van vái. Đức Sơ vào bếp, vái ông Táo, nguyện tả một trăm bổn Ngọc lịch mà cầu cho vợ mạnh. Thi thị đương nóng mê, vùng dậy quì dưới đất, lạy khan mà nói rằng: ' Từ rày sắp lên, tôi tin Ngọc lịch, tình nguyện bán hết đồ nữ trang mướn tả Ngọc lịch, cho người mà chuộc tội '. Xảy thấy ông đội mão thất tinh, bận áo đen, đuổi đống khói đen dưới giường lăn ra bay ra mất. Thi-thị bớt nóng hết sưng lưng vai (chứng phát-bối). Bữa sau sanh con trai, mẹ con mạnh khoẻ. Nội trong hai tháng, vợ chồng mướn nhiều người tả đủ một trăm bổn Ngọc-lịch cho người. Bởi vợ chồng cám ơn thần, nên biên sự tích vào đây mà khuyên đời, không dám giấu sự lỗi.

-----------

BỞI CHÊ NGỌC LỊCH BỊ PHẠT NHÃN TIỀN
Phan ngưỡng Chí là học nho, không tin Ngoc lịch, viết bậy vô mà kiêu ngạo. Phê tại câu: ' Đâu thấy hồn ma mang gông '. Đề ba chữ son rằng: ' Thị chi chỉ '. (rất phải lắm). Bởi mực mấy bài từ Nhứt điện tới thắt điện. Tại Ngũ điện lấy son gạt tréo. Trên câu nói: ' Uống rượu lảng phí, ' nó đề hai chữ son lởn. ' Khả tiếu ' (Tức cười quá! ). Chỗ Thập điện nói câu: ' Đàn bà con gái bị học trò gật nên thuận theo thất tiết... ' Nó đề II chữ mực: ' Phụ nữ tự kỉ tầm tử, dữ nam tử hà thiệp?' (Tại phụ nữ liều mình, đàn ông có can cớ gì? ' Chỗ nói đầu thai, nó đề hai chữ son: ' Loạn họa! ' (nói bậy! ) Chỗ Mạnh bà, mấy câu ấy, nó chấm mực vài hàng. Trên bốn chữ ' Khổ căn nan đoạn ' (còn đầu thai cõi trần cực khổ) nó khuyên son trết! Tới câu: ' Làm hồn ma mang thây nữa,' nó khuyên son 9 khuyên. Từ ấy sắp sau, chỗ bôi chỗ gạt tréo, cho tới chỗ câu: ' Hào quang chiếu sáng, Quan âm giáng hạ,' nó vùng phát điên. Nửa đêm nó mở cửa chạy ra phố chợ, hai tay chống đất, bò càng, lật phao tay đổ máu, trầy đầu gối lả giò, bò một hồi làm như bị trói cẳng, mọp đó la lớn rằng: ' Bớ con ơi!! Mau đem cuốn kinh Ngọc lịch ra đây, đặng đưa cho lối xóm, đem cúng trong chùa Tây Nhạc đại đế '. Con nó về lấy kinh trao cho xóm, trở vô thấy nhà phát hỏa, cóng cẳng chạy ra không kịp nên bị chết thiêu! Nó nóng họng chạy về chữa lửa, thấy vợ nó là Hoăng thị lõa thể (trần truồng) chạy ra, Ngưỡng Chí mắc cở nói với xóm rằng: ' Người đời đừng bắt chước tôi ở độc nhiều năm, nay thấy Ngọc lịch, còn không tin mà chừa lỗi, lại phê ngạo nhiều câu, nên bị trời phạt nhãn tiền độc quá! ' Nói rồi lửa cháy tới, cứng cẳng chạy không đặng, phải bị chết thiêu. Bầy chó nhảy vô kéo thây ra, xé ăn tới xương cốt! Xóm coi thấy phê trong Ngọc lịch như vậy, ai cũng rùng mình! Mới biết tại tội nặng quá, nên trả lẹ lắm!!! Còn vợ nó mắc cở trốn xứ nào bặt tin không biết! 


-----------

GANH GHÉT MUỐN DẸP NGỌC LỊCH BỊ BÁO NHÃN TIỀN
Tại xứ Tây hương, chùa Thổ cốc (ông Trương), có một sãi, tên Đạt Viễn, đặng cuốn ngọc lịch, cầm qua am Thuần dương mà coi với đạo -sĩ (thầy pháp) tên Quán-Tiên. Hai thầy coi tới chỗ thầy chùa thầy pháp ăn tiền tụng mướn mà tụng sót, thác sau phải vào sổ Bổ kinh mà tụng bổ, vân vân. Lại coi tới chỗ luân hồi, nói thầy chùa thầy pháp có tội nhiều, các ngục hành hình không đặng, phải cho uống thuốc mê, đầu thai tử phúc trung, hoặc chết yểu nhiều kiếp, cho lú quên hết kinh chú, rồi mới hành hình, vân vân. Đạt -Viễn nói: ' Chúng ta nhờ cậy tụng kinh mướn mà khá, nếu Ngọc lịch lưu truyền nhiều chỗ, thì nghề làm ăn chúng ta phải ế! Dầu xé đốt Ngọc-lịch cũng không hết đặng, biết tính làm sao? Quán-Tiên nói: ' Tôi biết cầm cơ thỉnh tiên. Thầy sẽ bảo các sãi rủ người ngoài, hoặc bổn đạo đến coi thỉnh tiên. Tôi làm bộ cơ lên, viết chữ nói phá Ngọc-lịch thì chúng hết tin '. Đạt -Viễn đi khoe cùng nói tại am Thuần-dương (Lữ-đồng -Tân) thỉnh tiên linh lắm, ai cầu hỏi việc gì, thì đến mà hỏi, hoặc xin toa thuốc xin bùa, thần tiên cũng cho '. Thiên hạ nghe nói lưu truyền lần ra, nên ngày nọ nhiều người đến am Thuần-dương coi đạo -sĩ thỉnh tiên tới dưng hương chật trong chật ngoài. Quán-Tiên làm bộ lập bàn xông cơ, lúc đỏ đèn niệm chú, phun nước đốt bùa... Một lát cơ lên, đồng bưng cơ, thầy lại coi, viết chữ trên mâm cây vuông đổ cát. Quán-Tiên kêu ai biết chữ lên coi chữ tiên viết, Người biết chữ lên đàn, coi thấy trong mâm cát có bảy chữ lớn rằng: ' Ngô Thuần-dương tổ-sư chí hỉ ' và chín chữ nhỏ: ' Phàm nhơn khấu vấn giả, tốc tốc lai vấn '. (Nghĩa là: Ta là Thuần-dương tổ-sư đến rồi. Ai hỏi sự chi, mau lên mà hỏi). Ai nấy nghe đọc như vậy, thì rùng rùng lên đàn. Quán-Tiên nói: ' Đừng lại đông lắm, hỏi rộn không nên, vô từ người mà hỏi tử tế '. Đạt -Viễn quì lạy vái lớn rằng: ' Chẳng hay trong đời việc chi quí hơn hết, xin tổ-sư chỉ dạy Cơ viết nhiều chữ nhỏ như vầy: 
' Thứ nhứt kính đạo -sĩ (thầy pháp) thứ nhì trọng thầy chùa, Đạo -sĩ dâng sớ, cầu đặng sống lâu. Hòa-thượng tụng kinh siêu-độ, đưa vong hồn về Tây-phương. Duy có một chuyện không nên nghe, là thứ Ngọc-lịch bảo ăn năn chừa lỗi làm lành mà trừ tội! Có đâu dễ như vậy! Nhiều người tin khắc bản lưu truyền mà gạt kẻ dốt phải lầm! Nếu ai gặp Ngọc-lịch thì xé mà đốt đi, thì đặng phước lớn '.
Người coi đọc rồi, lấy giấy chép ra chưa rồi bài ấy. Xảy thấy hào quang xanh lét chiếu vô đàn, Quán Tiên rùng mình té xuống đất, Đạt Viễn cũng nhào theo. Người chép bài ấy, đứng dựa bàn Lữ tổ, trợn mắt hét lớn rằng: ' Ta là Liễu tiên đây! Vưng lịnh tổ sư truyền dạy cho đời rõ: Bởi vì người đời vô phước làm dữ không ăn năn. May nhờ trời nhậm lời Thập vương các thần tâu, ban phát Ngọc Lịch cho Đạm Si đem về, truyền người đời xem mà chừa lỗi, không dám phạm nữa, lời thần tiếng Phật tiên thánh khuyên răn. Thượng đế truyền chỉ Đô thành hoàng mỗi ngày canh phân phiên các du thần ngày đêm soi xét nhơn gian lành dữ. Nay có thầy chùa là Đạt Viễn, thầy pháp là Quán Tiến, dám ganh ghét Ngọc lịch, lên cơ mà giả nói gạt đời. Tội hai đứa ấy đáng đọa địa ngục hành tội cho đến kiếp rồi giam ngoài ngục A tì, không đặng đầu thai. Nếu ai ghét Ngọc lịch, mà không tin, cũng phạt như Quán Tiên Đạt Viễn vậy '. Nói rồi, ngó thấy cơ tự nhiên không ai vịn mà lên, viết 33 chữ như vầy: 
Tâm bịnh tư tương tâm dược y.
Huyến nhục huân tính thiểu ngật ta.
Thơ trung tự hữu ba la mật.
Năng sử oan khiên tận thoát ly.
Ngô Liễu Tiên khứ dã
Thích nôm: 
Bịnh tâm, thời trị thuốc bằng tâm.
Huyết thịt ít ăn đặng phước thầm.
Ngọc lịch thánh thần tiên Phật dạy.
Độ đời khỏi đọa, hết mê lầm,
Ta là Liễu Tiên đi rồi
Người coi chữ sao chép rồi, bước xuống nói rằng: ' Hồi nãy tôi chép còn một ít chữ thì hết bài trước. Xảy thấy một ông mặt xanh môi đỏ, lên đàn, bảo tôi truyền lời Lữ-tổ dạy, rồi đằng vân bay mất! '. Ai nấy hãi kinh về hết. Không biết Quán Tiên với Đạt Viễn đâu mất! Cách vài bữa nghe nói Quán Tiên với Đạt Viễn hai người bầm mình la hoài cho tới chết, mới biết quả báo nhãn tiền lẹ quá! Ghê thay!! 

-----------


ĐỊA -TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT GIÁNG BÚT
(Tựa Công-quá-cách)
Người đời không cho con học chữ nho, nên không thông đạo lý. Cứ tưởng cúng chùa dưng hương là lành, rước sãi thầy tu tụng kinh làm chay thì siêu độ vong hồn đặng! Các điều ấy có phải làm lành làm phước đâu? Làm lành là làm phải lý, lại khuyên người làm phải, thì trời xuống phước. Ta thấy người đời ở với cha mẹ không hiếu gì, cha mẹ mãn phần thì nói: ' Sa địa ngục rồi! Phải rước sãi làm siêu độ! ' Các sãi bày ra làm mị, như gởi kho vàng bạc, phá ngục, bong đầu phướng đặng tiếp dẫn vong hồn lên Tây phương. Có lẽ gì thọc cây tre mà phá đặng địa ngục? Nếu quả như vậy, thì kẻ giàu sang làm dữ, thác rồi con cháu rước đông sãi tụng kinh niệm Phật thì vong ra khỏi ngục sao? Người hiền lành mà nghèo, không tiền rước sãi làm như vậy, thì không ra khỏi ngục sao? Như vậy trời đất cũng vị nhà giàu mà hà hiếp nhà khó hay sao? 
Còn như Phật ở Tây phương, công đâu mà vị nhà có tiền phải cứu vớt? Tâm là Phật, tâm là thiên đường, lòng lành thuận lòng trời thì cầu vong khỏi tội, lòng chẳng lành nghịch lòng trời thì cầu không đặng. Nếu không làm phước cứ mỗi ngày rước thầy tụng kinh cầu siêu hoài, Phật muốn cứu cũng không lẽ cứu được. Ta cũng là Phật lẽ đâu không hiểu phép. Làm lành tuy không cầu Phật mà Phật cũng phò hộ. Nếu làm dữ, có lạy Phật cho đến sói đầu, cầu cũng không đặng. Ta khuyên đời nghe lời ta, cứ ở theo luật Công quá cách, đừng làm các điều dị đoan trái lẽ, tuy chẳng cầu ta cũng độ vọng, không cần rước sãi.
VĂN-ĐẾ BÁ-TỰ-MINH (GHI TRĂM CHỮ DẠY ĐỜI)
Quả dục tinh thần sảng Dục ít tinh thần khoẻ.
Đa tư huyết khí suy, Lo nhiều khí huyết phai.
Thiểu bôi bất loạn tánh. Vài chung khôn loạn tánh.
Nhẫn khí miễn thương tài. Một nhịn khỏi hao tài.
Quí tự tân cần đắc. Sang tại siêng năng, đổ.
Phú tùng kiệm ước lai. Giàu nhờ tiện tặn dai.
On nhu chung hữu ích. Dịu mềm sau có ích.
Cường bạo tất chiêu tai, Hung dữ sẽ mang tai.
Thuận xử chơn quân tử.
Khiêu toa thị họa tại.
Am trung hưu sử tiễn.
Qai lý Phóng ta ngai.
Dưỡng tánh nghi tu thiện
Khi tâm mạt ngật trai,
Nha môn hưu xuất nhập
Hương đảng yếu hòa hài.
An phận thân vô nhục.
Nhàn phi khẩu vật khai.
Thế nhơn y thử khuyến.
Nạn thối phước tin hồi.
Khéo xử nên quân tử,
Xui mưu rấm họa thai.
Chốn thầm đừng bắn lén
Cảnh nghịch giả ngây hoài.
Tánh tốt gìn tam thiện.
Lòng gian uổng thập trai.
Nha môn đừng kiện cáo
Làng xóm chớ chê bai.
Bổn phận nương cơ tạo.
Thị phi lấp lỗ tai.
Lời nầy ai giữ đặng.
Nạn khỏi phước lâu dài.
ĐƯƠNG -THỦ TRAI -KỲ
(một năm ăn chay 61 ngày vía lớn)
Bốn ngày tháng giêng: mồng 1, lệ tế trời và vía Phật Di -Lạc, (vái...) Mồng 8 vía Ngũ -điện Diêm La Vương (vía ăn năn làm lành như mồng 1). Mồng 9 vía Ngọc-hoàng thượng đế (bái cải quá...) Rằm Thiên quan đại đế.
Sáu ngày tháng hai: Mồng 1 vía Nhứt điện Tân -quáng vương (nguyên y Ngọc lịch). Mồng 2 vía Thổ địa chánh-thần. Mồng 3 vía Tử -đồng Văn -xương đế quân. Mồng 8 vía Tam điện Tống đế vương (vái...). Rằm vía Thái thượng Nhạc nguyên soái (tụng Cảm ứng). 19 Quan-âm, (tụng Phổ môn Cứu khổ, Cao-vương).
Sáu ngày tháng ba: Mồng 1 vía Nhị -điện Sở-giang-vương (vía...). Mồng 2 Chơn -Võ Huyền thiên thượng đế (nguyện tụng kinh Báo ân). Mồng 8 vía Lục điện Biện -thành -vương (vái...). Rằm Lôi -đình đại tướng. 16 vía Chuẩn -đề Bồ -tát. 27 Thất điện: Thái sơn vương, 28 Đông -nhạc đại -đế.
Năm ngày tháng tư: Mồng 1 Bát đẳng vương (vái...) Mồng 8 Cửu điện Đô thị vương (vái...) 14 Lữ Tổ Rằm Thích -ca Như -lai (tụng Kim -cang). 17 Thập -điện Chuyển -luân xương (vái...)
Sáu ngày tháng năm: Mồng 1 Nam-cực tiên ông. Mồng 5
Lôi đình Đặng thiên quân, 11 Đô-thành - hoàng. 13 Quan Thái tử, (14, rằm 2 ngày cấm phòng).
Bốn ngày tháng sáu: Mồng 1 Rằm 19 Quan-âm thành. 23 Quan đế Linh quan. 
Bốn ngày tháng bảy ; Mồng 1 ngày sóc. Rằm Địa -quang đại đế. 18 Diêu-trì Tây vương mẫu. 30 Địa tạng vương (vái. ..).
Bốn ngày tháng tám: Mồng 1 Diệu -tế chơn-quân, Mồng 3 Táo -quân (tụng kinh. ..) Rằm Thái âm hoàng hậu (tụng thái -âm). 24 Táo mẫu (bà Táo) tụng kinh ông Táo).
Bốn ngày tháng chín: Mồng 1 Nam-đẩu. Mồng 9 Phong đô đại đế, 13 vía Mạnh -bà. Rằm ngày vọng. 
Năm ngày tháng mười: Mồng 1 Đông-hoàng đại -đế. Mồng 8 Niết bàn (phóng sanh). Mồng 10 ngày cấm phòng. Rằm Thủy quan đại đế. 30 Châu tướng quân (ông Châu).
Bảy ngày tháng mười một: Mồng 1 ngày sóc. Mồng 4 Khổng tử thánh nhơn. Mồng 6 Tây nhạc đại đế. Rằm ngày vọng. 17 A Di Đà Phật (tụng Di Đà). 19 Thái dương (tụng kinh Thái dương), 23 Trương tiên (Phàm vía này, vía Linh quan Thái tử, ông Châu, vía ông Quan đế, đều tụng kinh ông ; Minh thánh Vĩnh Mạng).
Sáu ngày tháng chạp: Mồng 1 ngày sóc. Mồng 8 Thích ca. Rằm ngày vọng, 23 đưa ông Táo chánh vía 24, 30 chư Phật giáng thế. 
Tháng nào thiếu, 29 thế 30. Tháng nhuần tính theo tháng trước. 
Nếu ai ăn chay vía trước nhiều không nổi, thì giữ chay nầy. 
BÀI SÁM HỐI QUÁ, TIÊU TỘI NHỰT KỲ
Trần -huyền -Trang là thầy Tam-Tạng thỉnh kinh Tây-phương về, có dưng sớ cho vua Đường Thái -Tôn, mỗi tháng có một ngày nhằm giờ lay sám hối cho nhằm hướng chư Phật hội nghị. Vái nguyện ăn năn chừa lỗi cữ và nguyện làm phước mới cho tiêu tội. Chẳng phải lạy không mà trừ tội đặng. Phật cho hối quá tùng thiện. 
Tháng giêng, tảng sáng ngày mùng 1, lạy hướng nam 4 lạy, vái. ' 2, mùng 9, 5 giờ sáng, lạy hướng nam 4 lạy, nguyện. ' 3, ' 7, tối 10 giờ, lạy hướng tây 4 lạy, tháng 4, mùng 8, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng đông 4 lạy, nguyện '
' 5, ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 6, ' 7, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng nam 4 lạy, '
' 7, ' 6, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 8, ' 8, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 9, ' 9, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 10, ' 1, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 11, ' 3, đỏ đền, lạy hướng tây 9 lạy, '
' chạp ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng tây 9 lạy, '
Ngày ấy ăn chay niệm thầm: Nam mô A-di-đà Phật, đặng lấy câu lạy mấy câu. Chừng lạy, thắp nhang ba cây, căm trên hương, nhắc ghế (bàn) để ngay hướng đó, có đèn cũng đủ, à quả tự ý, không ngơ cũng được. Bận áo dài, đứng chắp tay iệm 6 chữ Di-đà 100 câu, ít nữa 10 câu. Rồi vái tên họn mình gày nay nguyện cải ác tùng thiện. Ở theo Công-quá -cách, cầu êu tội cũ, mà nhờ phước trời Phật thánh thần cho, rồi lạy y số. ân hương, dẹp bàn ghế, niệm Phật. Làm được như vậy ba ăm, thì cảm động bề trên, trong nhà bình an, tai qua nạn khỏi, làm hoài chung thân, sống được phước, thác khỏi tội. Cũng như lặt bàn lạy vía Thập -vương, lạy Thập -vương cứ hướng bắc. 
VĂN-XƯƠNG ĐẾ QUÂN GIÁNG CƠ DẠY CẦN GẤP
Ta đã thấy chiếu chỉ Thượng -đế ban cho Bắc -đế (Huyền hiên Thượng -đế) nội tháng chạp, dẫn âm binh đi tra xét tội bất hiếu mà phạt, có hiếu thưởng phước, là xét các mồ mả tử tế, thì là coi con cháu là tên họ gì mà lo cho cha mẹ ông bà, thì hưởng phước lộc thọ gọi là thưởng thiện (hiếu). Nếu mả nào hoang lạnh, tồi tệ, bỏ bê thì tra ra con cháu bất hiếu, thì phạt tai hoạ, bịnh hoạn, nghèo khổ thác yểu. Tùy theo hư nhiều ít ; mà hạt nặng nhẹ. Tại con cháu không biết cội rễ, nên phạt gia đạo hông an. Vì Huyền -thiên thượng -đế là giáo chủ việc báo ân, nên in thưởng có hiếu và phạt bất hiếu. Nên ta cho đời hay trước là giữ. 

-----------

KHẮC BẢN NGỌC -LỊCH, THỈNH TIÊN CHO TỰA
Lữ Tổ giáng bút: 
Người đời làm dữ thái quá, nhờ ơn Địa -tạng truyền chỉ Phong-đô, Thập -vương dọn Ngọc -lịch, xin chỉ Thượng -đế, ban phát trung giới cho người ăn năn chừa lỗi, làm phước đền tội. Lúc đời Tống, nhằm nước Liêu niên hiệu Thái -bình năm Canh-ngũ, sãi nước Liêu là Đạm Si lãnh về, giao cho Phạm nhứt Chơn là Vật Mê đạo -nhơn truyền cho đời. Sau ta đã dọn 20 khoảng xin chỉ ân -xá, giáng bút đem vào sau Ngọc -lịch. Thượng -đế truyền chỉ các thành hoàng mỗi ngày Canh-thân sai du thần đi xét những người tin Ngọc -lịch ăn năn chừa lỗi làm lành, thì cho tiêu tội, ai khắc bản in thí thì cho phước, có bịnh hứa in mà cầu tiêu bịnh lượng theo số mà cho. Bất luận cầu việc chi, cũng cho nguyện in thứ Ngọc -lịch cho nhiều thì đặng. Nay khắc bản thêm, xin ta cho tựa ta nói thêm ít lời. Sự thiên -đường địa -ngục rõ ràng, đừng nghi không có, cứ làm dữ mà mang khổ. Y theo Ngọc -lịch, ăn năn chừa lỗi, làm lành làm phước chuộc tội, công lớn thì theo tiên Phật thánh thần, dư phước đức con cháu được hiển vinh miên viễn. Lành ít sau khỏi sa địa -ngục, đầu thai hưởng phước. Khuyên đời chớ hồ nghi. 
LIỄU -TIÊN GIÁNG CƠ TỰA CHÓT
Thượng -đế cho tựa kinh nầy là Từ -ân Ngọc -lịch, nghĩa là như lịch ngọc thường ngày xem, ban ân xá, tha tội kẻ ăn năn. Nếu làm một phước cho trừ hai tội cũ. Làm dư phước thì Táo -quân tâu thưởng nhiều sự may, vân vân. 

-----------


MƯỜI -CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT
* Một là, những tội lỗi đã tao từ trước, nhe thì được tiêu từ. nàng thì chuyền thành nhe. 
* Hai là, thường được các thiên thần ùng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù,
* Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này. 
* Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hảm hại. 
Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộnh. Diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt. 
* Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ gia đình hoà thuận, phước lộc đời đời. 
* Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen. 
* Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khoẻ, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhâm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân. 
* Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy. 
* Mười là, hay vỉ tất cả chúng sanh trồng các cân lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Phép, phước huệ rông lớn, chúng đạt lục thông, sớm thành Phật quả. 
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: 
Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tặt bịnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc. 
ẤN TỐNG KINH
Chúng con góp lòng thành Tâm Ấn Tống 1000 cuốn Kinh Nhơn Quả, Nghiệp và Luân Hồi để cầu an và cầu siêu.
Nam Mô bổn sư thích ca Mâu Ni Phật
Nam Mô a Di đà Phật. 
Nam Mô đương lai hạ sanh di lặc Tôn Phật. 
Nam Mô Quang Thế Âm Bồ Tát. 
Cầu An
Nguyện cầu hồng ân tam bảo. Thế giới Hoà Bình an lạc thịch vượng và Gia Hộ toàn thể thân bằng quyến thuộc Nội Ngoại, Ông Bà Cha Mẹ, Cô Chú Dì Dượng, Anh Chị Em con cháu Thân Tầm thường an lạc, Bồ đề tâm tân trưởng, Tu hành kinh tiến. 
Cầu Siêu
Cầu nguyện Hồi hướng công đức đến bảy đời phụ mẫu và tất cả Chư Vong Linh đồng bào tử nạn khắp cõi hoàn cầu được siêu sanh tịnh độ. 
Nam Mô đại nguyện địa Tạn Vương bồ tát Ma Ha Tát. 
CÁC NGÀY KỶ NIỆM
(Tính theo Âm-lịch)
THÁNG GIÊNG
Ngày 1.- Vía đức Di-Lặc. 
22.- Tổ Thập -Tháp (Phước -Huệ,chứng -minh Đạo sư Hội
Phật -giáo Trung-Phần) viên tích. 
23.- Tổ Khánh -Anh (Thượng -thủ Giáo -hội Tăng-Già toàn
quốc V.N. niên khóa II. Pháp -chủ Gióa -hội Tăng -già
V.N. niên khóa II) viên tịch 30.
THÁNG HAI: 
Ngày 8.- Vía Phật Thích -Ca xuất -gia. 
15.- Vía Phật Thích -Ca nhập - diệt. 
19.- Vía Phật Quán -Thế -Âm Bồ -Tát. 
20.- Vía Đức Phổ -Hiền Bồ -Tát. 
THÁNG BA: 
Ngày 16.- Vía Đức Chuẩn -Đề Bồ -Tát. 
THÁNG TƯ: 
Ngày 3.- Tổ Tuệ -Tạng (Thượng -thủ Giáo -hội Tâng già toàn
quốc V.N. niên khóa I) viên tịch. 
04.- Vía Đức Vân -Thù Bồ Tát. 
15.- Vía Phật Thích -Ca Giáng -sanh. 
20.- Bồ Tát Thích Quảng -Đức vị pháp thiêu thân
(nhằm 11-6-1963). 20.-
THÁNG SÁU: 
Ngày 15.- Đại -Thích -Nguyên-Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 4-8-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát. 
19.- Tổ Khánh -Hòa (Sơ-tổ Phong-trào Chấn -hưng
Phật giáo miền Nam) viên tịch. 
24.- Đại -đức Thích -Thanh-Tuệ vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
26.- Thích -nử Diệu -Quang vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
27.- Đại -đức Thích -Tiêu -Diêu vị pháp thiêu thân
(nhằm 16-8-1963).
THÁNG BẢY: 
Ngày 13.- Vía Đức Đại -Thế -Chí Bồ -tát. 
15.- Lễ Vu -Lan Bồn. 
30.- Vía Đức Địa -Tạng Bồ -tát. 
THÁNG CHÍN: 
Ngày 02.- Đại đức Thích -Quãng -Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 5-10-1963).
11.- Đại đức Thích -Thiện -Mỹ vị pháp thiêu thân
(nhằm ngày 27-10-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -tát. 
30.- Vía Phật Dược -Sư. 
THÁNG MƯỜI MỘT: 
Ngày 01.- Tổ Huệ -Quang (pháp chủ G.H.T.G.N.V. niên khóa I)
viên tịch. 
07.- Vía Phật -A-Di-Đà. 
THÁNG CHẠP: 
Ngày 08.- Vía Phật Thích -Ca thành đạo. 
08.- Tổ Vĩnh -Nghiêm (Thiên-gia Pháp -chủ Giáo hội Tăng -
già BV) viên tịch. 
NHỮNG NGÀY TRAI
Thập trai: Mổi tháng mười ngày: 
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30. 
(nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
Lục trai: Mổi tháng sáu ngày: 
Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30. 
Tứ trai: Mỗi tháng bốn ngày: 
Mồng 1, 14, 15, 30. 
Nhị trai: Mỗi tháng hai ngày: 
Mồng 1, 15. 
Tam ngoạt trai: Một năm ba tháng: 
Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười. 
*** Những ngày trai không nên dùng các món
gia-vị như: hành, hẹ, nên, tỏi, tổi tây v.v...
*** Người tu hành ăn các món này thì tụng kinh
trì chú không linh nghiệm và khiêu gợi dục tình,
sanh thêm các tánh hung dữ. 

-----------

NHỮNG QUẢ BÁO THIỆN ÁC VỀ CÂN GIAN ĐONG THIẾU
Sự kiện này phát sinh vào cuối năm Thanh Triều trong hộ Long
Cảnh tại Kinh Đông, có ông lão viên ngoại tên gọi Thôi Đức Phương,
ngày qua ngày sống rất sung sướng, nhân vượng tài vượng, đầy đủ sung
túc, ông có ba người con trai, đều đã cưới vợ.
Lúc ngày đại thọ 60 tuổi của ông lão viên ngoại, ông kêu ba người
con trai đến trước mặt mình, nói: “Con à, các con hãy nghe, lúc trước
ta xuất thân nhờ tay trắng mà khởi nghiệp, để giành được gia nghiệp
như hiện nay. Ta thành gia lập nghiệp chỉ nhờ một cái cân không tim,
cân này trong ruột có đong thủy ngân, lúc nhà ta thu mua, có thể mua
20 lạng tính thành một cân (Chú thích: Trung Quốc thời này tính 16
lạng là 1 cân), lúc nhà ta bán, có thể tính 14 lạng thành 1 cân. Hai mươi
năm trước, ta mua được mấy ngàn cân bông gòn, mỗi cân hơn 4 lạng,
người bán bông gòn lỗ nặng, tức giận lên phát bệnh thương hàn mà
chết. Đối với chuyện này, trong lòng ta rất hối hận và cũng có một ông
bán thuốc bắc, cũng bị chuyện tính toán của ta mà tức chết đi. Hiện giờ,
ta không chỉ có được phần gia sản, vả lại còn có con cháu đầy nhà, khi
các con đứng trước mặt ta, ta sẻ hủy cái cân này, từ nay về sau cải ác
hành thiện.”
Ba người con trai nghe được đều nói: “Cha đáng lẽ phải làm như
thế mà.”
Sau khi ông lão viên ngoại hủy bỏ cái cân không tim đó, từ đó về
sau ông cải ác hành thiện, ưa thích việc làm bố thí. Không ngờ, ông lão
viên ngoại từ khi hủy cái cân rồi hay làm việc thiện, gia đình lại xảy ra
nhiều chuyện không may. Không đến một tháng, con trai lớn của ông
bị bệnh nặng mà qua đời, con dâu lớn đi lấy chồng khác; sau khi lão
viên ngoại lo xong chuyện hậu sự của con trai lớn, con trai thứ cũng đột
nhiên phát bệnh và qua đời, con dâu thứ cũng đi lấy chồng khác; ông
lão viên ngoại vừa lo xong chuyện hậu sự của con trai thứ, lại đến con
trai thứ ba cũng tựa như vậy luôn, dâu thứ ba vì đang mang thai nên
không có bước thêm bước nữa. Gia đình gặp chuyện tang tóc liên tục
làm cho Thôi Đức Phương rất đau buồn, ông nói với người ta: “Tôi cân
lớn biến thành cân nhỏ, gian lận lại có được con cháu đầy nhà, gia đình
phát tài phát lộc. Nay tôi tích đức hành thiện lại mang đến cho gia đình
sự tang tóc, vậy chuyện nhân quả báo thật sự có hay không?”, hàng
xóm nghe được cũng nói là trời không có mắt.
Vào ngày này, con dâu thứ ba sắp lâm bồn, không hiểu sao suốt 3
ngày 3 đêm vẫn chưa sanh con được. Mời biết bao nhiêu bà mụ đỡ đẻ
cũng vô hiệu. Có người nói, nên giữ mẹ rồi bỏ con, người nói giữ con
mà mất mẹ, ông Thôi nghĩ gia đình mình lúc này toàn chuyện không
may, trong lòng càng buồn phiền hơn.
Trong lúc đang bối rối, có một vị hòa thượng đi đến trước cửa
hóa duyên. Lão quản gia từ trong nhà bước ra nói: “Đại pháp sư, ông
muốn hóa duyên thì xin đến nơi khác cho, cô Ba nhà tôi lâm bồn ba
ngày ba đêm rồi mà vẫn chưa sanh được con, lão gia nhà tôi đang buồn
phiền, không có tâm trí tiếp ông đâu, đạo tăng vô duyên rồi, không bố
thí đâu.” Hòa thượng nói: “Không sao cả, ông vô trình báo với lão gia
nhà ông, tôi có linh thuốc giục sanh, uống vào là sanh liền.”
Ông quản gia nghe được, không dám chậm trễ, vội đi trình báo
với chủ gia, sau khi nghe được, ông vội mời vị hòa thượng vào nhà.
Ông mời hòa thượng vào phòng sách, rồi hỏi thăm đại sư cư trú
tại đâu. Hòa thượng nói: “Tôi là người giao du, không nơi cố định, nơi
nào có duyên là tôi đi đến nơi đó.”
Sau đó, vị hòa thượng lấy thuốc ra. Thôi viên ngoại liền kêu người
mang xuống phòng sanh, tiếp tục nói chuyện với vị hòa thượng. Đang
nói chuyện có người đến báo, nói con dâu thứ ba sau khi uống thuốc
của hòa thượng thì sanh ra được thằng con trai. Thôi Đức Phương sau
khi nghe được mình đã có cháu nội, mừng lắm, nói với hòa thượng:
“Tăng thánh đúng là thần tiên.” Nói xong, ông lập tức ra lệnh cho
người hầu làm tiệc ăn mừng.
Sau khi làm tiệc xong, ông Thôi viên ngoại mời vị hòa thượng
tham gia nhập tiệc. Trong tiệc, lão viên ngoại nói: “Tăng thánh, tôi có
một việc không rõ, muốn hỏi Tăng thánh.”
Thôi Phương Đức nói: “Tôi có một cái cân không tim làm ác mà
khởi nghiệp, mấy tháng trước, tôi hủy bỏ cái cân đó, quyết tâm cải ác
hành thiện nhưng không hiểu tại sao thời gian chưa đến nửa năm, ba
người con trai của tôi đều qua đời, hai người con dâu đã tái hôn với
người khác, con dâu thứ ba này sanh được thằng cháu nội cho tôi, cũng
may là tôi chưa tuyệt giống nối dòng. Tôi không hiểu, tôi hành thiện tại
sao lại phải chịu ác báo đến thế?”
Vị hòa thượng cười lên và nói: “Ông không cần suy nghĩ nhiều,
tôi nói với ông, con trai lớn của ông là người thương nhân bán thuốc
bắc, ông hại ông ta mất thì ông ấy đầu thai làm con trai ông, đến đòi nợ
ông đó; con trai thứ hai là đến bại gia cho ông, con trai thứ ba là đến
gây tai họa động trời cho ông, ông đến tuổi già phải bị bệnh đau đớn và
đói khát chết đi nhưng vì ông đã cải ác hành thiện, ông trời có mắt, đã
thu hồi 3 người con trai bại gia của ông, ông được xem là người thiện
thứ nhất.”
Thôi Đức Phương nghe rồi, người như từ mộng thức tỉnh, nói: “
Đa tạ thánh tăng chỉ bảo, bây giờ tôi đã có một cháu nội, có thể nuôi
thành không?” Hòa thượng nói: “Cháu nội này của ông sẽ mang cho
gia đình và tổ tiên vinh quang, thay đổi môn đình.” Thôi Đức Phương
nghe được, rất vui mừng. Hòa thượng lại nói: “Thôi viên ngoại, ông
biết tại sao cân phải dùng là 16 lạng?” Thôi Đức Phương nói: “Nguyện
nghe thánh tăng chỉ bảo”. Hòa thượng nói: “16 lạng này đại diện cho
Bắc Đẩu Thất Tinh, Nam Đẩu Lục Tinh, ngoài tăng phước lộc thọ Ba
Tinh. Cho nên, ông đưa thiếu cho người ta một lạng thì hao phước,
thiếu 2 lạng thì hao lộc, thiếu 3 lạng thì hao thọ, ông càng đưa cho người
ta càng ít thì càng tổn hại cho mình càng nhiều. Ông nghĩ xem, một cái
cân ác tâm đã gây ra biết bao nhiêu nghiệp?”
Ông Thôi Đức Phương nghe được, cảm thấy người toát mồ hôi
lạnh, lại thêm lần nữa đa tạ sự chỉ bảo của hòa thượng. Từ đó, ông tin
vào tính phân minh của quả báo thiện và ác, không một chút do dự.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 8.14>
ghi chú: hình ảnh chi mang tính chất minh họa

-----------

PHÓNG SANH HÓA GIẢI DỊCH BỆNH, CẢ NHÀ BÌNH AN
Những nông dân trên đảo Thái Hồ, chuyên làm nghề bắt cá, làm
lò mổ giết thú vật. Chỉ có Thẩm Văn Bửu không làm nghề này, cả nhà
hay làm việc thiện, khi thấy những người bắt được những con cá và
chim hay mua lại để phóng sanh. Rất nhiều người chê cười ông ta làm
những chuyện này là không thích hợp với thời đại nhưng ông Thẩm
Văn Bửu vẫn không sợ gian khó đi làm chuyện này. Sau này, làng thôn
này phát lên dịch bệnh. Người trong làng mơ thấy “Thần ôn dịch” tay
cầm một cây cờ, nói với lũ ma quỷ: “Ngoại trừ nhà họ Thẩm chuyên
làm việc phóng sanh hành thiện, tất cả các nhà đều phải lui tới, đều
phải cầm cờ dịch bệnh”. Không đầy mấy ngày, một làng 300 mấy gia
đình, bị nhiễm bệnh dịch chết hết khoảng một nửa số người, chỉ có gia
đình họ Thẩm là không ai bị nhiễm bệnh.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu


-----------

**************************** 

-----------


ĐIỆN THỨ NHẤT: TẦN QUẢNG VƯƠNG
Chức trách của Tần Quảng Vương là chuyên cai quản trường thọ
và chết yểu trong dân gian, những danh sách hộ tịch về ngày ra đời và
ngày thiệt mạng; thống nhất quản lý các phán quỷ và cát tường. Bổn
điện (tức chỗ làm việc) có vị trí dưới lòng biển, chỗ đá ngầm, có một
đường tối trong suối vàng bên chánh tây.
Tất cả người thiện sau khi mãn thọ sẽ có số được dẫn lên thiên
đàng, có số được dẫn đến thế giới Tây Phương cực lạc.
Nếu như là nam hoặc nữ có công đức và tội lỗi, mỗi thứ đều nhau
thì sau khi chết sẽ giao họ đến điện thứ mười, vẫn để cho họ được đầu
thai lên trần gian. Có người nam chuyển hóa thành nữ, có người nữ
chuyển hóa thành nam tùy theo các hành vi lúc họ đã làm khi còn sống
trên trần gian, do nhân duyên nên có sự phân biệt khác nhau về việc
nhận quả báo trên trần gian.
Tất cả những người lúc sống trên trần gian, lúc sống làm việc ác
nhiều, việc thiện ít sẽ được dẫn vô một đài cao bên trái, ở trong điện,
đài đó có tên là đài Kính Nghiệp. Đài cao một trượng, có chiếc kính lớn
bằng mười người quay vòng lại ôm, kính treo bên hướng đông. Trên
kính viết một hàng ngang bảy chữ: “Trước mặt kính nghiệp, không
người tốt”.
Những ma quỷ bị áp giải lên đài, soi vào kính, tự nhiên như đang
xem lại bộ phim cuộc đời mình, quay lại những cảnh gian hiểm hung
tàn cùng tất cả việc xấu đã làm của chính mình lúc sống trên trần gian
và sau khi chết đi phải chịu những thảm cảnh trong địa ngục. Đến lúc
này mới biết được: vạn lượng thỏi vàng và các thứ tiền tài châu báu, và
các phước lợi danh tiếng, hưởng thụ đều không thể đem xuống đây, chỉ
có những nghiệp tội của chính mình đi theo đến địa ngục.
Sau khi soi kiếng xong, bị áp giải đến điện thứ hai, bắt đầu phân
giải phạm nhân đến các địa ngục; dùng các dụng cụ cực hình để những
người làm việc ác phải chịu các loại hình phạt đau khổ. Việc kết tội chịu
phạt chi tiết như sau:
(1): TỘI HÌNH CỦA NHỮNG KẺ TỰ SÁT
Nếu như có những người trên trần gian, không nghĩ về thiên địa
sinh ra con người và ân dưỡng dục của mẹ cha mà được một thân thể
là trân trọng biết bao, ân trọng như núi; ân cha mẹ; ân chúng sanh, ân
quốc vương, ân Tam Bảo và các loại ân tình chưa báo đáp, chưa nhận
được lời kêu gọi dưới địa đạo âm phủ thì tự nguyện quyên sinh, sử
dụng các phương pháp như treo cổ, nhảy lầu, uống thuốc độc, nhảy
sông... để tự tử. Ngoại trừ ra những người mà vì trung hiếu tiết nghĩa
mà hy sinh tính mạng, sau khi chết có thể làm Thần, nếu như chỉ vì
một oán hận nhỏ hoặc do làm những việc xấu mà phạm tội và bị phát
giác ra mà đi tự tử, thì xem xét các tội hình của họ đã vi phạm, chưa
dẫn đến phải kết tội chết; hoặc những kẻ muốn hãm hại và gây họa cho
người khác dẫn đến từ giả ra thật mà chết đi. Những tình huống như
trên, Thần Môn, Thần Táo Quân sẽ áp giải họ đến bổn điện, giam giải
đến tù đói khát.
Những ma quỷ tự sát này, mỗi khi đến ngày Tuất, Hợi hoàn toàn
đau khổ giống như lúc chết, tất cả các cảnh tượng đau khổ, căn cứ như
lúc chết ban đầu, tái xuất hiện lần nữa. Có một số là sau 70 ngày, có
một số sau một đến hai năm, hồn phách của họ bị áp giải quay lại địa
phương nơi họ tự sát, chịu sự hối hận tra tấn rất khổ sở. Tuy nhiên, họ
không được nhận các đồ cúng bái như cơm canh, giấy tiền và vàng bạc.
Nếu như những hồn ma tự sát mà biết sám hối, cam tâm ẩn dấu,
không xuất hiện hình ma để hù dọa người, cũng không tìm người thế
thân loạn xạ. Như vậy, chờ đến lúc người mà do họ gây ra bị liên lụy đã
thoát khỏi liên lụy, đau khổ thì Thần Môn, Thần Táo Quân sẽ áp giải
những tội phạm ma đến bổn điện, rồi sẽ chuyển tiếp đến điện thứ hai,
sau đó kiểm tra lại quá khứ và công đức của họ, gia tăng hình phạt,
chuyển đến các điện kế tiếp, đưa đi các địa ngục chịu hình phạt.
Nếu như hồn ma đã hiện hồn ma quỷ hù dọa người và có tâm tư
muốn tìm người thế thân hoặc dùng các ngôn ngữ hù dọa hoặc lừa gạt
người, tuy chưa dẫn đến thiệt mạng người, cho dù trước đấy có làm
việc thiện, nhưng địa ngục vẫn không cho phép miễn hoặc giảm các
hình phạt cho họ nữa.
Nếu như sau khi tự tử chết đi, không ẩn dấu, lại hiện hình ma
quỷ, hù dọa người dẫn đến thiệt mạng thì hồn ma đó lập tức bị lính quỷ
nhe nanh mặt xanh móc đi đến các địa ngục chịu hình phạt đau khổ.
Sau khi đủ 100 ngày, đưa đến A Tỳ đại địa ngục, vĩnh viễn bị dây xích
xiềng và treo lên, không được siêu thoát.
(2): TỘI HÌNH KHI TỤNG KINH THIẾU SÓT CÂU TỪ
Tất cả những hòa thượng xuất gia,đạo sĩ,tiếp nhận tiền tài của
người khác,thay người cúng bái tụng kinh,thiếu sót từ ngữ,hoặc số
trang sẽ bị dẫn đến bổn điện,đưa họ vô “Sở Bù Kinh” - phòng bảo tồn
sách kinh, trong một phòng tối tăm.Ngoài những từ ngữ mà họ đã tụng
thiếu ra, tất cả đều sao chép rõ ràng, bù tụng rõ ràng.
Nơi này có đốt đèn dầu, tồn trữ mười cân dầu. Chỉ được dùng
một tim nhỏ đốt, khi sáng khi tối, không được một hơi có thể bù chép
hoàn tất nhanh chóng được.
(3): TỘI HÌNH NGƯỜI TU HÀNH THAM NHŨNG NGƯỜI
CÚNG NGƯỠNG
Nếu như một người xuất gia tu hành thanh tịnh hoặc đạo sĩ, nảy
sinh lòng tham, cố cầu xin tiền cúng ngưỡng để hưởng thụ, cũng phải
đến nơi này bù kinh.
(4): LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI THÀNH TÂM TU HÀNH, MỞ
RỘNG PHẬT PHÁP
Một số thiện nam tín nữ tự tu tâm tại nhà, rất thành tâm, tâm
khẩu như nhất địa, bái niệm tất cả kinh, câu chú, hồng danh, dù có sai
sót, bỏ sót, nhưng trọng vào thành tâm mà không trọng vào từ ngữ.
Những người có thành ý tu tâm này, Phật sẽ truyền ban chỉ thị, không
cần bù kinh, mùng một của mỗi tháng, sẽ ghi lại công đức vào trong sổ
sách tích thiện.
Người trên thế gian, nếu như vào mùng một tháng hai mỗi năm,
thanh tịnh tu chay, quay mặt về hướng Bắc, thành tâm thành ý lập lời
thề nguyện: chuyện ác bất làm, hành thiện tích đức, do khái niệm thiện
ý này mà miễn được vào địa ngục; đồng thời truyền in thiện sách, tạo
cho nhiều người biết hối cải hướng thiện. Nếu cố gắng niệm “Nam Mô
A Di Đà Phật” hồng danh, lập lời nguyện lớn, xin cầu kiếp này sẽ được
đến thế giới Tây Phương cực lạc, và sẽ hành thiện tích đức niệm Phật
hoàn hướng tịnh thổ, như thế, người này sau khi mãn thọ chết đi, lập
tức lệnh đồng tử áo xanh đưa đến sở Tây Phương cực lạc, hoặc lập tức
được Phật Bồ Tát tiếp nhận đến nơi sanh cực lạc.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 3.1>

-----------

THẢM BÁO CỦA KẺ KINH DOANH SÁCH BÁO, TRANH VẼ KHIÊU DÂM 
Tại khu Giang Nam có một thương gia bán sách tên là Chu Tường, vì muốn tranh giành lợi nhuận cao, chuyên lén lút phát hành in ấn buôn bán và cho thuê những sách truyện khiêu dâm với giá cao, bạn bè đã khuyên anh ta đừng kinh doanh những loại sách này nữa có ngày chuốc họa vào thân và chịu sự ác báo, Chu Tường cho là sự mê tín đáng mắc cười, không sợ tới. Hai năm sau, thị lực của Chu Tường bắt đầu mờ dần, cho đến một ngày mắt bị mù, tìm kiếm rất nhiều y bác sĩ để chữa trị, tốn bao nhiêu tiền vẫn không chữa được. Một ngày, tiệm sách bị hỏa hoạn, mắt của hắn bị mù không thấy đường để tháo chạy, nửa người bị bỏng nặng, cơ thịt bị hoại tử, mỗi ngày đều kêu la trong sự đau đớn, không đến ba ngày thì tử vong. Trước khi chết đã nói: “Tôi in ấn kinh doanh những sách khiêu dâm như vậy, tuy kiếm được nhiều tiền nhưng đều tiêu tan hết vào để chữa bệnh, vả lại tôi hại người không ít, chịu sự trả báo như thế cũng là đáng đời, hi vọng các vị hằng lấy tôi làm gương, đừng kinh doanh những loại sách truyện giống như vậy nữa”. Vợ của Chu Tường sau này do cuộc sống khó khăn vay mượn rất nhiều tiền, tiếp đó bị người đòi nợ bắt cóc bán đi khu núi rừng để làm nô lệ. 
Nguồn: Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

THOÁT ĐẠI NẠN NHỜ NIỆM HỒNG DANH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Có lẽ người Việt Nam chúng ta, ai cũng biết nghệ sĩ hài hải ngoại Vân Sơn 
rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt sống ở Mỹ. Gia đình thờ Phật, nhưng 
anh lại không tin Phật, vì anh cho rằng Đức Phật chỉ là truyền thuyết. 
Nhưng trong một lần gặp nạn, sự sống chết chỉ trong gang tấc, không còn 
cách nào thoát được nên anh mới cầu cứu đến Phật.Câu chuyện xảy ra trong 
chuyến vượt biên rời khỏi Việt Nam vào tháng 11 năm 1988, nghệ sĩ hài Vân Sơn 
đi chung trên con tàu chở bốn mươi mốt người. Sau bảy ngày lênh đênh trên biển 
khoảng 3-4 giờ sáng ngày thứ tám, con tàu đến gần bờ biển Malaysia thì bất ngờ 
tàu lạc vào vùng xoáy nước, con tàu không thể di chuyển được, đứng im một 
chỗ. Tất cả mọi người trên tàu đều tuyệt vọng chờ chết. 
Lúc đó, anh cùng người lái tàu tên Hùng đứng trên khoang trao đổi. Anh 
hỏi:- Anh có cách nào điều khiển cho tàu đi tiếp được không?Anh Hùng đáp:- Dạ 
không! Xưa nay, em chưa bao giờ rơi vào tình cảnh khó xử như thế này. Lúc đó, 
Vân Sơn ước gì có bụi cây, hay có một thứ gì đó ở xung quanh để còn chút cơ hội 
bám víu, nhưng quả thật không một thứ gì, chỉ có trời cao, biển rộng, sóng nước 
mênh mông. Bình thường anh ít nghĩ đến Phật, nhưng lúc này tính mạng như 
nghìn cân treo sợi tóc. Anh chợt nhớ đến Bồ-tát Quán Thế Âm mà gia đình thờ. 
Lập tức, anh niệm danh hiệu Ngài liên tục, không có chút mảy may xen 
tạp việc gì, cho đến khi mở mắt, anh nhìn vào bờ. Ôi thật linh ứng vô cùng! Anh 
thấy Bồ-tát đang đứng trên ngọn núi, ánh sáng chiếu sáng rực rỡ. Anh không tin 
vào mắt mình, nghĩ mình đã chết, hoặc bị hoa mắt nên anh gọi người lái tàu nhìn thử xem có phải là Bồ-tát không? Và anh Hùng cũng hớn hở vui mừng hét lên: 
“Bồ-tát Quán Thế Âm đến kìa!”Tiếp đến, anh Hùng điều khiển được con tàu, 
chạy theo hướng của Bồ-tát thật nhẹ nhàng, lướt sóng tới đảo. Khoảng một lúc 
sau, họ còn thấy Bồ-tát bay lên hư không, vẫy tay chào và mỉm cười với mọi 
người. Thật là kỳ diệu! Từ đó về sau, Vân Sơn hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối sự 
nhi ệm mầu của Phật pháp. Anh kết l uận: “Trên đời quả l à có
những điều mà khoa học không thể nào giải thích nổi, có những điều ngoài sức 
tưởng tượng của con người, nhưng đó lại là sự thật!”.
(Diệu Âm Lệ Hiếu ghi lại lời kể của nghệ sĩ Vân Sơn)
NỘI DUNG CỦA NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU <chương 13.9>


-----------

CỨU NHIỀU SINH LINH, TĂNG THÊM TUỔI THỌ
Tại Tống Vi có một ông thương nhân rất giầu có tên là Dương
Tự, lúc năm 28 tuổi, ông mơ thấy một Thần nhân nói với ông: “Ông
sống thêm 10 ngày nữa thì phải chết. Nhưng nếu ông cứu được 10 ngàn
sinh mạng, có thể miễn chết”. Dương Tự nói: “Trong thời gian mười
ngày ngắn ngủi phải cứu sống 10 ngàn sinh mạng, sợ không thể dễ mà
làm đủ con số đó”. Thần nhân nói: “Trong Kinh Phật có nói, trứng của
cá chỉ cần không qua ướp muối, cho dù trải qua thời gian ba năm vẫn
có thể sinh đẻ thành cá con, tại sao ngươi không suy tính về vấn đề
này?”. Từ đó, ông Dương Tự dựa vào lời nói của Thần nhân mà viết ở
khắp nơi trên đường và trên tường, để người người biết được không
dùng muối ướp trứng cá; còn khi nào thấy người giết cá thì xin lại
trứng cá, cho xuống hồ nước. Một tháng sau, ông lại mơ thấy Thần
nhân lúc trước nói: “Ông đã cứu sống lại cả tỷ con sinh mạng rồi, số
lượng đã đủ, mạng sống của ông sẽ được kéo dài ”. Sau này ông sống
thọ đến 90 tuổi mới qua đời.
NỘI DUNG CỦA NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU <chương 11.8>
==================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT

-----------


QUẢ BÁO UNG THƯ DO NẠO PHÁ THAI Ở HÀ NỘI
Tại Hà Nội, có một CLB Khí Công mà ở đó thường tổ chức hướng dẫn mọi người tập luyện để nâng cao sức khỏe và tự chữa bệnh cho mình. Rất nhiều người bệnh từ khắp nơi tham gia tập luyện. Những bệnh đau nhức cảm cúm thông thường cũng có, những người mắc chứng nan y như tiểu đường, ung thư cũng không ít. Trong đó có một bệnh nhân ung thư gan mà mọi người trong CLB đều nhớ rõ. Cô là một dược sĩ trong quân đội. Cô vốn đang khỏe mạnh bình thường, một hôm bỗng cảm thấy như có ai đó (1 luồng gió) nhảy vào trong người mình, sức khỏe từ đó giảm sút. Cô đi siêu âm thì phát hiện một khối u trong gan. Sau đó một lần nữa, cô lại cảm thấy như có ai đó nhảy vào người. Tuy nhiên lần này cô biết đó là ai. Cô quả quyết chính là đứa bé mà cô đã bỏ cách đây hơn 20 năm, bởi khi đó cô đã có 2 con mà kinh tế cũng rất khó khăn. Thế là khi siêu âm cô lại phát hiện thêm một khối u nữa ở gan. Từ đó cô rất chăm chỉ tụng kinh niệm Phật sám hối nhưng đáng tiếc cô vẫn không qua khỏi vào ngày 21/7/2011 âm lịch. Câu chuyện của cô thường được CLB xem là ví dụ điển hình được gọi là Nghiệp bệnh. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một trường hợp và mọi người có quyền hồ nghi về điều này. Nhưng câu chuyện tiếp theo đây, có thể sẽ gợi mở ít nhiều cho những ai còn đang phân vân.
Mới đây, giáo sư Gregory Roberts và Naji J. Touma từ Đại học Queen bang Ontario, Canada, đã thực hiện loạt siêu âm để kiểm tra khối u bất thường trong tinh hoàn của một bệnh nhân 45 tuổi. Điều bất ngờ là khi siêu âm, các bác sĩ sửng sốt nhìn thấy khối u khiến bệnh nhân đau đớn lại có hình mặt người và đang nhìn chằm chằm vào họ. 
Hình ảnh mặt người đàn ông, có vẻ đau khổ, được gửi tới Urology - tạp chí chính thức của Hiệp hội quốc tế về tiết niệu học, và công bố trên số tháng 9 của tạp chí này.
Viết trên tạp chí, hai người cho biết: "Các bác sĩ và nhân viên y tế đều kinh ngạc khi nhìn thấy vẻ mặt của người đàn ông trong bức ảnh siêu âm, miệng anh ta há ra như thể anh ta cũng mắc bệnh tinh hoàn nghiêm trọng". Liệu có phải người đàn ông trong ảnh có ân oán gì với người bệnh nên anh ta cũng nhảy vào để báo oán giống trường hợp của cô dược sĩ?
NỘI DUNG CỦA NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU <CHƯƠNG 9>
==========================
 Điều bất ngờ là khi siêu âm, các bác sĩ sửng sốt nhìn thấy khối u khiến bệnh nhân đau đớn lại có hình mặt người và đang nhìn chằm chằm vào họ. 
Hình ảnh mặt người đàn ông, có vẻ đau khổ, được gửi tới Urology - tạp chí chính thức của Hiệp hội quốc tế về tiết niệu học, và công bố trên số tháng 9 của tạp chí này.

-----------
ĐẦU BẾP ĐỔI NGHỀ, CẢ NHÀ ĐƯỢC PHƯỚC
Nghề nghiệp của A Dung là một đầu bếp một nhà hàng, ông ta
chuyên phụ trách giết mổ cầm thú, gia súc. Không cần suy tính, lương
cũng tương đối, trong túi lúc nào cũng đầy tiền. Chỉ tiếc là 16 năm nay
không tiết kiệm được đồng nào, mẹ, vợ, người thân thường hay bị bệnh
nên tiền đều tiêu hết vào để chữa trị bệnh cho người thân, bệnh tình
còn không có chiều hướng tốt. Trong lòng ông ta mong muốn có đứa
con để bế bồng và nối dòng thờ cúng nhưng cầu xin thế nào cũng đều
vô hiệu, đã trạc tuổi trên 40 rồi vẫn biệt tâm vô tức. Khi xem cuốn sách
“Ngọc Lịch Bửu Phiêu” mới biết mình đã làm chuyện sát sanh trong
thời gian quá lâu dài, sát sinh cũng có rất nhiều nguyên do nhưng trong
thời gian ngắn không có cách nào chuyển nghề được.
Đứng trước tấm thớt chặt thịt quen rồi, trong giấc mộng cũng
toàn thấy mình chặt thịt. Có mấy lần mơ thấy mình đứng chặt toàn thịt
người. Cho nên thường hay thức giấc giữa đêm khuya. Tuy nhiên đối
với công việc sát sinh của mình có sự kinh sợ nhưng vì phải duy trì đời
sống của gia đình, ông ta vẫn tiếp tục hành nghề như thế, không bao
lâu vợ ông ta có thai, ông rất vui mừng.
Một đêm nọ, ông đang nằm cơn ác mộng, mơ thấy mình đi đến
một hố sâu thẳm, lơ lửng đi trên một cây cầu treo, bưng rất nhiều cánh
tay, bàn chân, thịt người, bưng hoài không hết. Lúc này ông bị vợ đánh
thức giấc mộng vì bà ta sắp lâm bồn nên đau bụng dữ dội, ông liền đưa
vợ đến bệnh viện, bác sĩ chúc mừng ông vì vợ sanh được một thằng con
trai nhưng vì sanh sớm hai thang nên cháu bé phải ngủ trong lồng kính,
A Dung mỗi ngày đứng cách lồng kính nhìn vào một sinh vật nhỏ đang
vật lộn với ranh giới sống chết lòng đau như dao cắt, cuối cùng cũng
xuất viện về nhà nhưng ẵm về nhà một cháu bé yếu ớt xanh xao, tay
trái chỉ có bốn ngón tay, ngón cái tụ máu nên đã bị hoại tử, như là bị
dao cắt, người vợ mặt xanh xao nhìn ngơ ngác, ông nhìn thấy đau lòng
đến rơi nước mắt. Ông thề nguyện trong lòng, trong vòng một năm ông
nhất quyết phải đổi nghề và cầu xin Bồ Tát chỉ dẫn.
Người có thiện nguyện, thiên nhất tòng tri, A Dung cuối cùng
cũng được một thầy giáo thiện tri giới thiệu đến một quán ăn chay làm
đầu bếp. Một tháng nay, ông luôn niệm Phật ăn chay, những ác mộng
như trước nay và sự bất an đã từ từ không còn. Kỳ diệu nhất là đứa
con cưng của ông, một tháng nay không cần uống thuốc, không còn bị
bệnh, chỉ lâu lâu bị cảm nhẹ mà thôi và sức khỏe của người mẹ và vợ
cũng dần bình phục khỏe lên, cả nhà sống trong không khí hòa thuận
vui mừng, ông cảm thấy hiện giờ mới thật là một gia đình hạnh phúc.
Trong Kinh Phật nói: “Trong tất cả các hành vi tội ác, sát hại
sinh mạng là tội ác lớn nhất, nghiêm trọng nhất; trong tất cả các công
đức hành thiện, không sát sinh và phóng sinh là công đức lớn nhất.”
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu:
======================
hình ảnh cho quả báo sát sinh

-----------

LIÊN SINH HOẠT PHẬT KỂ CHUYỆN QUÁ BÁO LIỆT DƯƠNG DO TÀ DÂM
(Trích từ sách " Địa Ngục Biến Hiện Ký của Liên Sinh Hoạt Phật - Lư Thắng Ngạn)
Tôi đi thần hành ở âm gian, phát hiện ra có một địa ngục,
tên là “cát điểu địa ngục” (địa ngục xẻo chim, dái), tôi thấy thật lạ
kỳ. Trong lúc đang thần hành thì nghe tiếng của một người nam
gọi tôi: “Sư Tôn, xin cứu tôi với, tôi sẽ bị cắt chim!” Tôi trông thấy
2 Minh Sứ trói một người nam, một vị Minh Sứ khác cầm đao
chính đang muốn xẻo dái của người nam bị trói, như cùng sắp ra
tay làm vậy. Chỉ cần cắt, xẻo một nhát đao, người nam này chính
thức mất bộ phận sinh dục, “mất dái”, thành một vị thái giám
thuở xưa, vị Công Công trong hoàng cung. Tôi trông thấy cảnh này
thì vội kêu lên: “Tạm ngưng, tạm ngưng.” Minh Sứ trông thấy tôi 
biết ngay, tạm ngừng tay. Tôi thấy người nam này, nguyên lai tên
là Hoàng, đúng là đệ tử của tôi.
Tôi nói: “Anh chưa chết mà sao lại ở tại địa ngục thế này?”
Hoàng đáp: “Tôi chưa chết, nhưng trong mộng lại bị mang xuống
địa ngục, Minh Sứ muốn xẻo chim của tôi.” Tôi hỏi: “Anh phạm tội
gì vậy?” Hoàng cúi đầu không nói.
Tôi nói: “Dù anh không nói ra, tôi cũng biết rồi, anh phạm
nghiệp tà dâm, dạy anh phải giữ 5 giới, anh không chịu tuân thủ.
Bây giờ đã phạm giới, trong mộng bị xẻo dái, còn biết nói sao?”
Hoàng rất xấu hổ nói: “Bây giờ tôi biết được luật lệ của Minh
Vương là có thật, tôi thật phải sám hối, từ nay trở đi không bao
giờ tái phạm, tôi kiên định giữ 5 giới.” Lời nói của Hoàng nghe
thành khẩn và sợ sệt, từ “chân tâm” nói ra, nên từ tâm phát ra
một luồng ánh sáng trắng, dây trói chân tay Hoàng tự động cởi
lỏng, rơi xuống đất. Hoàng bèn quỳ trước mặt tôi nói: “Tôi tất
nhiên cho in ấn thành sách luật lệnh của Minh Vương, bá cáo cho
mọi người biết, đây không chỉ là luật lệnh, đồng thời cũng là chỉ
dẫn cho chúng sinh làm điều thiện, tà dâm đích thực là trăm hại,
không có một tí ích lợi gì.”
Tôi nói: “Lành thay! Lành thay! A Di Đà Phật!” Hoàng tự
động bỏ đi. Hoàng từ trong mộng tỉnh dậy, cảnh, mộng rất là
trong sáng, rõ rệt! Sự kiện này, Hoàng tự động đến gặp tôi, trong
mộng đã thấy rằng thật là may mắn, anh Hoàng căn bản bị xẻo
chim (dái), nhưng kết quả vì lý do “thành thật sám hối”, Sư Tôn
lại đến thật đúng lúc, nên Hoàng đã được cứu. Hoàng hỏi tôi:
“Nếu như trong mộng bị xẻo chim thì sẽ như thế nào?”
Tôi đáp: “Không cử động, cử động nhưng không cứng, cứng
thì không lâu.” Hoàng nói: “Giống như vật phế bỏ vậy.” – “Đúng.”
Hoàng nói: “Ngày nay, có rất nhiều người nam trên thế gian
này, bề ngoài trông rất dõng mãnh, sự thực lại bị xuất tinh sớm,
dương vật sớm bị suy tàn, không cử động, không cứng, không lâu,
đây có phải đều bị Minh Sứ xẻo chim?” Tôi đáp:
“Những người bị như kể trên có phải qua địa ngục xẻo chim
hay không thì tôi không biết, nhưng việc anh phải đến địa ngục
xẻo chim là sự thực. Nhưng bất kể có qua hay không qua địa ngục
xẻo chim nhưng xuất tinh sớm, dương vật suy sụp, tiêu lụi, không
cử động, không cứng, không lâu, đây cũng là những sự thực.”
Hoàng nói: “Đây chính là nhân quả, vì dâm dục quá độ, không tiết
chế, tất nhiên bị xẻo chim thôi.” Tôi nói: “Minh Sứ kỳ thực không
chỉ cai quản âm gian, những người thế gian phạm nghiệp, lúc sinh
thời đã phải chịu sự báo ứng, rất nhiều người bị như vậy.”
Tôi muốn hỏi mọi người: “Chúng ta tu hành, sắc thân
nguyên lai là sinh diệt, bạn phải làm sao trong pháp sinh diệt này
tu xuất ra được pháp bất sinh bất diệt, lý tu của nó ở chỗ nào, thử
bàn luận xem.”
Nội Dung Của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 12>
======================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT


-----------

HIẾU ĐẠO MẸ CHỒNG, CẢ NHÀ HÓA GIẢI DỊCH BỆNH
Thời Thanh Triều tháng ba năm Giáp Ngọ, huyện Võ Tiến tỉnh
Giang Tô, cư dân của Thành Đông, con trai Ngụy Thành cưới cô Thị
Tiền làm vợ. Có một lần, Thị Tiền về nhà thăm song thân, không bao
lâu, xóm làng phía bên chồng phát sinh dịch bệnh cấp tính, truyền
nhiễm rất rộng, bệnh gây chết rất nhiều người, người nào cũng sợ bị
truyền nhiễm, bà con thân thiết cũng không dám thăm hỏi, lo tháo chạy
tránh dịch không kịp. Ngụy Thành không may cũng bị nhiễm dịch, sau
này cả gia đình họ tám người, đều bị nhiễm hết dịch bệnh. Thị Tiền tại
bên làng gái nghe tin ba mẹ chồng đều bị nhiễm dịch bệnh, nóng lòng
muốn về nhà hỏi thăm bệnh tình, cha mẹ cô ta thương con, sợ con gái
về nhà chồng sẽ bị nhiễm bệnh, nên khuyên con gái không nên về nhà
chồng vào lúc này. Nhưng Thị Tiền thấu hiểu đại nghĩa, cô ta nói:
“Chồng cưới vợ về là muốn để vợ mình phụ chăm lo cho cha mẹ chồng.
Bây giờ cha mẹ chồng đang bệnh nguy kịch, nếu như con nhẫn tâm
không về, như vậy đâu khác biệt với cầm thú!”. Cuối cùng không nghe
sự phản đối của cha mẹ, không sợ sự truyền nhiễm của dịch bệnh, tự
mình về nhà chồng. Khi Thị Tiền về đến nhà chồng, vợ chồng Ngụy
Thành và cả tám người nhà đều kỳ tích đột nhiên khỏi bệnh. Những
người trong nhà lúc ấy, đều cho rằng cả nhà Ngụy Thành được thoái
khỏi sự chết chóc của dịch bệnh là do sự hiếu thảo của Thị Tiền, cảm
động đã nhận được sự cảm ứng của thần linh.
Hiện giờ, trong xã hội có con cháu biết hiếu thảo với cha mẹ rất ít
mà cầu có nàng dâu biết hiếu thảo với cha mẹ chồng còn khó thêm.
Nguyên do của bệnh tật là do vi khuẩn cảm nhiễm, nhưng chức năng
miễn dịch trong cơ thể con người bị hạ thấp cũng là một nguyên nhân
quan trọng. Đại học Megigan của nước Mỹ đã tiến hành thử nghiệm
theo dõi điều tra trong vòng 14 năm đối với 2700 người, phát hiện người
thường xuyên hành thiện bản năng có hệ thống miễn dịch rất cường
tráng. Đại học Hạ Phật bên nước Mỹ nghiên cứu, đã từng để học sinh
xem một bộ phim ký sự, nội dung nói về một phụ nữ người Mỹ cả đời
đi đến nước Ấn Độ cứu trợ các người nghèo và người bệnh tật. Học
sinh bị ký sự này làm cho cảm động, tiếp theo là nhà khoa học này đã
lấy nước bọt của mỗi học sinh tiến hành thí nghiệm, phát hiện tiêu
chuẩn của bạch cầu miễn dịch tăng cao nhiều hơn trước khi xem phim
đạt kỷ lục. Cảm ứng này là do Thị Tiên có chính khí vĩ đại, dũng cảm,
hiếu thảo, tăng cường sức đề kháng của cả gia đình, làm cho vi khuẩn
dịch bệnh không có chỗ phát sinh nên được thoát chết. Những chuyện
nhân quả thật sự là phù hợp nguyên lý của khoa học.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------


HIẾU THÂN BÁO ƠN, TỤ PHƯỚC CHÁNH ĐẠO
Lâm Thành Mỹ người Phúc Kiến, lúc còn nhỏ đã mồ côi cha,
người mẹ của anh nhất định không chịu tái giá, tận tâm nuôi dưỡng
anh ta lên người. Khi Thành Mỹ lớn lên nghĩ đến công ơn của cha mẹ
khó báo đáp, nên đã khóc suốt ngày đêm. Có một ông thiền sư nói với
anh ta: “Con hiếu thảo tưởng nhớ ơn thân, chỉ khóc thì không có lợi
ích, nên phải tìm cách đền đáp mới có ích lợi, thời cổ xưa có câu: “Hành
thiện với thân có ích, làm ác với thân có ưu phiền”. Nếu muốn báo đáp
song thân, chỉ có kiêng sát sanh mà đi phóng sanh, quảng tích âm đức,
mới chính là hiếu đạo báo đáp”. Thành Mỹ nghe được, cảm thấy rất có
đạo lý, từ nay về sau, lập trí kiêng sát sanh mà phóng sanh, quảng tu
các việc thiện để cứu thế thân. Sau này ông già được hưởng thọ đến 96
tuổi, con cháu đều học thành tài và có danh vọng.
Người cổ xưa thường xem ngày sinh nhật của mình gọi là ngày
“ngày mẫu nan”, người mẹ đã mang thai 10 tháng, thân xác nặng nề
đau đớn, trong lòng luôn lo âu cho thai nhi, ngày sanh đẻ biết bao đau
đớn, càng sợ hãi và lo âu càng nhiều. Cho nên, ơn nghĩa mẹ to lớn. Kinh
Phật có nói: “Những người còn từ mẫu là những người giàu có, từ mẫu
đã mất là người nghèo nhất; từ mẫu còn sống ngày ngày trong sáng, từ
mẫu đã mất như là mặt trời xuống núi”. Trong kinh Phật còn nói với
chúng ta: “Kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ như cúng Phật đều tậu
được phước đức giống nhau”.
Không ít người đã tiêu khoản tiền lớn lặn lội đến cả ngàn dặm
cây số cầu phước, cầu lộc hoặc cầu đông, cầu tây để mong được số may
phước đỏ. Lại không biết được, nhà nhà đều có một tượng Phật, đâu
cần phải lao thân đi xa để cầu xin tại ngoại.
Người trong thời đại hiện nay, mỗi khi đến ngày sinh nhật thì đua
nhau giết mổ gà vịt, có cá có thịt để đãi khách chúc mừng. Đây chính là
phản lại chỉ định của thiên đạo về đền ơn báo đáp ơn nghĩa, làm như
vậy không được tăng thêm phước lộc, ngược lại còn tiêu hủy phước báo
và số mạng. Cho nên, ngày sinh nhật nên đi mua động vật phóng sanh
hoặc truy tưởng lại công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ hoặc đi bố thí người
nghèo khổ, in tặng sách thiện hoặc niệm kinh niệm Phật hành thiện,
mới là chính đạo làm phước cho thiên địa.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

MẮNG THIÊN NHỤC THẦN, ÁC VẬN ĐEO THÂN 
Tôi là người Sơn Đông, từ nhỏ đã rất thông minh, sinh ra nhìn
rất kháu khỉnh và khả ái. Tuy gia cảnh nghèo nàn nhưng có khí chất và
cá tính khác so với những con nít xung quanh, thành tích học tập luôn
đạt hạng nhất, tôi luôn là tiêu điểm của thầy giáo, bạn học và hàng xóm.
Không ít những thầy bói toán tinh vi, xem tướng đều cùng có một đoán
định, đời tôi sẽ giàu sang phú quý thuận phát.
Nhưng từ năm 1988 trở đi, không biết tại sao, vận mạng của tôi
xuống cấp trầm trọng như là rớt xuống ngàn vạn dặm vực sâu thẳm.
Tôi bắt đầu lâm bệnh, trí nhớ giảm dần, đầu tắt mặt tối, thân xác đau
nhức cả người. Cơn bệnh đột phát đã đi cùng tôi trải qua suốt 15 năm.
Cho dù có lên đại học hay công tác tại đơn vị, đều rất gian nan và khó
khăn, 15 năm nay, tôi tìm đủ mọi cách làm đủ thứ chuyện nhưng vẫn
không thành, những việc có liên quan đến tương lai của tôi cho dù cố
gắng hết mình vẫn vô hiệu quả, không thể thực hiện được. những năm
gần đây, tôi cứ suy nghĩ mãi, nguyên do gì mà vận mạng của tôi lại tối
tăm như thế?
Sau khi quy y Phật đường, do tiến triển tu trì, hơi có ít chuyển
biến về các mặt nhưng vẫn không có chuyển biến về phần cơ bản, tôi
bắt đầu tự an ủi, số phận của tôi chắc là do nhân quả kiếp trước của
mình gây nên. Sau này đọc được Kinh Địa Tạng biết được Địa Tạng Bồ
Tát có thần uy lớn, có thể tạo cho chúng sinh biết được nhân quả của
kiếp trước để tiêu trừ nhân nghiệp. Nên bắt đầu tháng riêng năm 2003,
tôi bắt đầu siêng năng niệm Kinh Địa Tạng và đã khóc trước mặt Địa
Tạng Bồ Tát than vãn sự đời đau khổ của mình trong 15 năm nay, xin
Bồ Tát để cho tôi được tỉnh ngộ.
Sau 20 ngày trong trí nhớ của tôi đột nhiên hiện lên một việc tôi
đã làm 15 năm trước, hình như có cảm giác mình bạch được nhưng lại
không dám xác định. Cho đến tháng 11 năm 2003, tôi vừa niệm xong
200 trang của Kinh Địa Tạng, trong ngày đó tôi gặp một tu sĩ đưa cho
tôi cuốn sách Ngọc Linh Bửu Phiêu xem xong, tôi như tỉnh giấc mộng,
bỗng nhiên hiểu rõ sự tình. Cuối cùng, tôi đã tìm ra nguyên do 15 năm
nay tôi phải chịu dày vò trong sự đau khổ, gian khó của tôi không phải
do ác nghiệp từ kiếp trước gây nên, chủ yếu là do, trong đời này tôi đã
phạm vào bất tôn trọng với thần linh thiên địa mà gây ra.
Vào một buổi chiều tháng 8 của 15 năm trước, do tôi bị chuyện
của gia đình gây sốc, không giải quyết được, chạy ra ngoài sân, chỉ
thiên dậm chân thô tục dùng hết những loại thần chú câu từ tôi biết
được để chửi bới thiên địa. Từ lúc ấy, không đến 100 ngày sau, tất cả
thân xác tôi đau nhức hết, bắt đầu 15 năm vận xui của mình. Tính từ
ngày bắt đầu lâm bệnh đến tháng 11 năm 2003 vừa tròn 15 năm. Thời
gian mười mấy giây chửi thiên mắng thần, đổi lại 15 năm vận xui tột
cùng. Thật là ghê sợ! Tôi chỉ có cúi đầu nhận tội, sám hối và quyết tâm
quyên góp tiền in tặng truyền bá sách Ngọc Linh Bửu Phiêu, cung kính
thần linh. Không ngờ khi những tâm niệm nảy lên trong lòng, nguyện
chung thân thiện tâm, không đến thời gian 1 tuần, đơn vị nơi làm việc
có văn bản ra, tôi được thăng chức. Kể từ khi tôi bắt đầu làm việc trong
thời gian 8 năm mà không tưởng tượng ra. Kỳ lạ hơn, hai hôm trước
lòng bàn tay của tôi phát ngứa, lúc đầu tôi tưởng bị muỗi trích gây ra,
nhìn kĩ lại phát hiện chỉ tay đã đứt của mình 15 năm qua nay đã kết nối
lại, thật là quá thần kỳ và linh nghiệm, không thể ngờ! Tôi không có
hướng về Bồ Tát và Thần linh cầu xin việc gì, chỉ là quyết tâm sám hối
và phát nguyện in tặng sách thiện và truyền bá sách Ngọc Linh Bửu
Phiêu, đúng là một cuốn sách không bình thường!
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------


CON LƯƠN HIỆN LINH BÁO MỘNG
Ông Ninh Ni là luật sư có tiếng tại Nam Xương, trong giấc mộng
thấy 7 người đầu đội nón nhọn màu vàng, lật đật đi đến trước mặt ông
ta cúi đầu xuống đất cầu bái và cùng hét lên “Cứu mạng!” Ông nhìn
thấy lòng từ bi nổi lên, trả lời: “Được, được!” biểu thị là tìm cách cứu
trợ.Những người này lại hét lên lời cảm tạ rồi đi.Qua buổi sáng ngày
hôm sau ông Ninh thức dậy đi rửa mặt, suy lại chuyện ly kì trong giấc
mộng ngày hôm qua, không hiểu lý do gì. Vừa lúc ấy, ông đầu bếp đến
nói: “Tiên sinh, hôm trước ông mua về những con lươn để chuẩn bị
đãi khách, hôm nay có nấu ra ăn không?”, ông trả lời: “Từ từ, để tôi
xem sao”. Quả nhiên có 7 con lươn đang lội trên thau nước như là đang
cầu cứu với ông ta, thấy vậy ông mới hiểu rõ giấc mộng của đêm hôm
qua và đã kể lại chuyện giấc mộng cho cả nhà nghe, kêu đầu bếp đem
toàn bộ số lươn ra sông phóng sanh, thực hiện lời hứa trong giấc
mộng.Chiêu chiêu Phật tính, động vật như nhau. Lươn như linh hồn,
báo mộng cầu cứu với chủ nhân, để miễn bị nạn chém giết cùng nghĩa
với văn chương phóng sanh của Liên Trì Đại Sư “ trong nạn cầu sanh,
hiện áo vàng mà nhập mộng” cùng ý với nhau.
NỘI DUNG CỦA NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU <chương 11.4>
==========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT

-----------

QUAN THÁNH CHIẾN THẮNG ÔN THẦN
Thời Dân quốc, các thành thị làng quê nước ta đều có tổ chức
bang phái, lúc thời Thanh Triều còn gọi là Hội đồng hương, thời dân
quốc gọi là Hội quán, người An Trưng có An Trưng hội quán, người
Hồ Nam có Hồ Nam hội quán… chủ yếu là phòng hộ không để cho
người địa phương và người xứ lạ ăn hiếp, khi có xảy ra sự cố thì hội
quán sẽ đứng ra can thiệp. Năm 1946, năm thứ 2 của năm kháng chiến
thắng lợi, ông Tôn Vịnh Trấn trưởng làng của hội quán người An
Trưng đến mời cậu tôi là Huỳnh Hạc Ban vẽ cho họ một bức tranh lớn
hình tượng Quan Công, cậu tôi là họa sĩ nổi tiếng tại Viễn Nam, có
khiếu tạo hình lập thể nhân vật. Sau khi hai bên bàn bạc ổn thỏa việc
tranh vẽ và tiền công. Năm ngày sau thì hoàn thành, người hội quán
xem rồi khen tranh thật trang nghiêm và mở tiệc chiêu đãi tạ lễ. Trong
lúc dự tiệc, cậu tôi hơi hiếu kì, trong địa phương có rất nhiều hội quán
không thấy có tín ngưỡng Quan Công, chỉ có hội quán của An Trưng
chịu bỏ ra giá cao để vẽ tranh thần tượng Quan Công, nhất định phải
có nguyên do. Cho nên hỏi thăm, ông trưởng lão hội quán trả lời:
“Quan Công đã từng cứu bá tánh của toàn huyện chúng ta, nên đã kể
ra câu chuyện như sau:
- Thời cuối Thanh Triều, Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh khích
chiến với binh lính nhà Thanh tại An Trưng không bao lâu, Viễn Nam
các huyện phát dịch bệnh (bệnh truyền nhiễm), chỉ độc nhất huyện
Kinh không có bá tánh nào bị bệnh, nguyên nhân là do Quan Công hiện
thánh đuổi khỏi ôn thần.
- Trưởng lão hội quán nói: cửa phía Nam của huyện chúng ta có
thiết lập một cái miếu để cung phụng thánh Quan Công, trong miếu có
một ông chuyên quản lý chăm sóc nhang đèn trong miếu (gọi là ông
chay), trước dịch bệnh bùng phát 1 tháng, có một đêm thánh Quan
Công báo mộng cho ông chay và 2 người trong làng lân cận và nói: “Ôn
thần sắp giá lâm huyện này, vì để tránh sinh linh phải chịu tai họa, đêm
mai ông phải đến miếu tôi gõ chuông, để trợ giúp thần uy, trục xuất ôn
thần, có thể tránh khỏi nạn kiếp”. Sáng ngày hôm sau, hai ông trong
làng ko hẹn mà đi đến miếu thông báo cho ông chay nghe, mới biết là 3
người cùng mơ một giấc mơ. 11h đêm hôm đó, ba người đột nhiên nghe
thấy trên trời cao có tiếng ngựa chạy và tiếng đánh kiếm thì lập tức gõ
chuông, trong đêm khuya tiếng đánh kiếm càng quyết liệt, chỉ thấy các
thần tượng trong miếu tiết mồ hôi ra như mưa, ông chay không ngừng
dùng khăn lau, ra lệnh hai ông trong làng mạnh tay gõ chuông, khoảng
1 giờ đồng hồ sau, tiếng kim mã dần biến mất, đêm khuya trở lại im
lặng, ba người quỳ xuống tạ ơn thần, những người trong làng bị đánh
thức giấc đã bu quanh dò hỏi nguyên do. Sau chuyện này không bao
lâu, toàn huyện phát ra dịch bệnh, trong 10 người chỉ còn giữ lại 3
người, độc nhất huyện Kinh không có bùng phát dịch bệnh, sau này
người trong làng lập bia khắc lên sự tích Quan Công đuổi ôn thần lưu
truyền trong miếu. Từ đó, người nào c ng biết đến, đều tín ngưỡng linh
nghiệm của Quan Thánh.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

NHẬN HỐI LỘ OAN MẠNG, CON CHÁU BẦN TIỆN
Dư Tân, tại huyện Giang Âm, có danh tiếng gần xa. Năm Càn
Long đời nhà Thanh, ông tham gia thi cử nhân, chưa làm bài công, đã
thu gom đồ dùng ra ngoài, sắc mặt xanh xao và hụt hẫng, một thí sinh
cùng thi chung đi theo, nhiều lần thăm hỏi nguyên do, anh ta mới nói:
“Cha ta làm quan nửa đời người mới nghỉ hưu về nhà. Lúc ông lâm
chung, kêu bốn anh em tôi đến bên cạnh ông, khóc lóc và căn dặn: “Tôi
còn sống trên đời không có làm chuyện gì vô lương tâm, chỉ là lúc làm
trưởng huyện, đã từng nhận hai ngàn lượng vàng tiền hối lộ, giết oan
hai tù phạm. Đêm hôm qua, linh hồn của tôi đi xuống Diêm phủ để đối
chiếu vụ án, trên pháp lý mà nói, đáng lẽ tôi phải tuyệt giống nối dòng.
Do tổ tiên ông cố đã từng cứu người chết đuối nên lập được công đức,
có thể để lại được một người con trai, nối dòng năm đời, nhưng đều
phải chịu cảnh bần tiện suốt đời. Tội hình trong địa ngục tôi không thể
tránh khỏi, nếu còn vọng tưởng con cháu có công danh, chỉ có tăng
thêm tội cho tôi mà thôi, đại đại bất hiếu.” Nói xong, ông đã tắt thở.
Sau này mấy anh em chúng tôi lần lượt qua đời, chỉ còn sót một mình
tôi. Tôi hai lần trước tham gia thi cử tại làng, đang thi tự nhiên làm dơ
bẩn đề thi (thời ấy Quốc pháp quy định, làm bẩn đề thi giám thị không
xem, không duyệt đề thi, xem như mình không có thi). Hôm qua, nửa
đêm canh ba, đột nhiên thấy cha mình lật mành che lên mang giọng
trách móc mà nói: “Người không có làm những việc để tích đức, công
đức chuyển đạt lên trời để tôi có thể giảm nhẹ tội hình, lại còn làm trái
lời dặn của di chúc, tạo cho tôi nay phải đi tứ phương, vả lại tội còn
nặng thêm.” Nói xong, dùng dụng cụ còng trên tay làm tắt nến đèn. Tôi
danh hạ Tôn sơn không đành lòng, chỉ tiếc là đã để cho cha ôm hận bị
giam cầm trong âm phủ. Tôi sẽ vào núi xuất gia, học tập hiếu hạnh của
Mục Liên cứu mẹ”, người người nghe được, người nào c ng kinh ngạc
đến không nói ra lời. Cùng phòng trọ, có một thí sinh tên Trần Hộ
Thanh, sáng tác một bài thơ “Quy Sơn” tặng cho anh ta.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu


-----------

CUNG THẦN VÀ CẦU PHƯỚC
Trước mắt, các nơi trên toàn đất nước có không ít các loại chùa
miếu lớn nhỏ (không phải nói về chùa Phật Bồ Tát), có số miếu đến
ngày viếng thần hay phô trương giết mổ súc sinh, dùng phương thức
vừa thịt vừa cá để cúng phước. Vậy là trên cơ bản đã làm trái với đạo
giáo, sai lệch ý nghĩa thiên đạo của Phật giáo.
“Thượng thiên có đức háo sanh” kinh điển có tiếng của Đạo giáo
“Tập Thái Thượng Cảm Ứng”. Trong sách có văn khuyến cáo nhân
loài không được “xạ phi” (chim) rược đuổi (thú), lắp ổ đào tổ, hại thai
phá trứng, không được “giết rùa đánh rắn”, “xâm hại bọ sâu”; vả lại
phải hiểu biết nói với loài người, nếu có thể “từ tâm với vật, không sát
sanh, chắc được thiên đạo hộ thân, phước lộc tùy chi, thần linh vệ chi”.
Phật trong cuốn “Trung Bản Khởi Kinh” nói: “Sát sanh giỗ Tổ,
không tậu được phước, thiên thần không ăn, kẻ sát có tội”. Tại sao
thiên thần không ăn? Tại vì thiên thần trú tại cung điện trên cõi trời là
xây bằng thất bảo, ăn toàn các mỹ vị ngọt ngào như cam lộ, làm gì mà
phải ăn những thứ thịt của súc sinh vừa hôi tanh, dơ bẩn, xấu xí. Khi
thiên thần không đến ăn thì sẽ không cầu được phước, kẻ sát sanh để
làm giỗ cúng bái còn phải gánh thêm tội sát sanh, thật là tự gây phiền
phức cho mình! Cho nên, sát sanh để cúng thần là một chuyện tà ngộ
chánh, một hành vi vô công mà có tội.
Trong cuốn “An Sĩ Toàn Sách” có ghi lại một câu chuyện “thần
sông thụ giới”: xứ mỏ cá sấu trong tỉnh Giang Tây, có con sông nước
trôi mạnh rất nguy hiểm, có tên gọi “không gió ba thước sóng”. Bản xứ
này có một miếu Long Vương, được xem là rất linh ứng, các thương gia
vãng lai, nhất định sát sanh cúng bái, khi hàng hải mới được bình an,
trường kì như vậy vì cúng bái không biết đã sát sanh biết bao súc sinh
không thể tính nổi. Đến thời Minh Triều, có một vị pháp sư có đức giới
rất cao siêu từ đâu đi ngang qua, trước một ngày ông đến, người quản
lý của miếu Long Vương, mơ thấy thần Long Vương đến nói với ông
“ngày mai sẽ có một vị đại hòa thượng đến đây, ông ta kiếp trước tu
hành đã bái cùng một sư phụ xuất gia với tôi, ông tu hành không nguôi,
kiếp này đã trở thành cao tăng, tôi chỉ sai lệch một bước, đã tọa lạc
thành một thần ăn vật máu tanh (dùng sát sanh súc vật để làm cúng bái
cho các thần), nghiệp tôi sát sanh tội rất nặng, tương lai nhất định phải
vào đại địa ngục chịu khổ báo. Ngày mai, nhờ ông thay tôi cầu xin pháp
sư truyền tôi Phật giới, sau này các người lại vãng đến cúng bái tôi,
nhất định không được dùng rượu thịt!”. Qua ngày hôm sau, ông chủ
quản miếu đi dò xét, quả nhiên gặp được một pháp sư giống vậy nên đã
nói rõ nguyên do cho ông ta nghe và mời ông ta đến miếu Long Vương
để thuyết pháp giới. Từ nay về sau, sóng gió bên sông rất bình yên,
người qua lại không cần phải sát sanh để dâng cúng. Cho nên, tức đã là
thần nếu tham hưởng thức ăn có mùi tanh cũng phải chịu sát giới, cũng
phải vào địa ngục chịu khổ báo.
Trên thế gian thật sự là có chuyện sát sinh để cúng bái thần quỷ
cho việc cầu phước, chúng ta nên hiểu rõ, thần quỷ không phải thật sự
tu hành để trở thành một thánh linh đại từ đại bi, cũng có lúc phạm
qua lỗi lầm, vả lại thật sự có không ít tà ma ác quỷ yêu ma háo thịt máu
tanh, hành động tác quái trên thế gian. Nếu do tham hưởng máu tanh
mà lãnh sự cung phụng của máu thịt thì sẽ ban cho mình một phước
mà mình không đáng có, giúp mình làm những chuyện không nên làm.
Đây sẽ là một hành vi mua chuộc vừa phạm nghiệp tội sát sinh
nghiệp trộm cắp, sau này sẽ tự hứng chịu khổ báo; từ mình mà nói,
ngoại trừ phải cùng gánh chịu nghiệp tội sát sanh còn phải chịu sự khổ
báo do cưỡng cầu mà miễn, phải biết có trốn được một thời mà không
trốn được vĩnh viễn, hưởng những phước báo mà mình không đáng
được hưởng, ai biết được có khi nào do tà ma ác thần xoay chuyển cho
mình hưởng trước những phước lộc mà mình đáng được, như vậy có gì
để đáng vui mừng? Dựa trên cho biết, sát sanh cúng bái, đối với thần
hoặc người, cả hai đều có hại. Cho nên “Kinh Pháp Cú” có nói: “Yểu
nghiệp thấy phước, vì ác chưa đến, khi ác đến mùi, tự chịu tội hình”
Như vậy, chúng ta cầu phước phải sử dụng phương pháp thanh tịnh từ
bi như phóng sinh, ăn chay, tụng kinh, kính hiếu trưởng bối, cứu trợ
người già neo đơn và người có hoàn cảnh khốn khổ, hỗ trợ trẻ em nghèo
thất học, niệm Phật, cúng tăng, cúng dưỡng Phật Tam Bảo, tuyên
dương sự việc nhân quả báo của thiện ác. Trợ giúp tiền in sách thiện
truyền bá nhân loài mới chính là phương thức chánh đạo để cầu phước.
Nếu như cúng Phật có thể dùng hoa quả, thực phẩm chay rất tốt. Chỉ
cần thành tâm đều được cảm thông.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu 
https://www.facebook.com/groups/939868006046747/

-----------


Linh ứng pháp hội Homa và quán đảnh pháp Chuẩn Đề 2013. 
--------------------------------
Đầu năm 2013, 2 vợ chồng bạn Quang Bách ở Hà Nội đã góp công đức ấn tống sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu. Đặc biệt người vợ khấn nguyện hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh đang trầm luân trong địa ngục. Những ngày sau đó 2 vợ chồng Bách liên tục nằm mơ thấy Chúa Bà Năm Phương (vị chúa tiên thánh mẫu bản cảnh Hải Phòng) gọi xuống Hải Phòng.
Cuối cùng 2 bạn quyết định xuống Hải Phòng thăm đền Ngũ Phương Chúa Bà vào đúng ngày 6/3 âm lịch - ngày vía Phật Mẫu Chuẩn Để. Tình cờ khi đó tại chùa Vẻn 244 Tô Hiệu Hải Phòng, Thượng sư Thích Liên Chiếu - Chân Phật Tông tổ chức pháp hội Homa và quán đảnh pháp Chuẩn Đề nên 2 vợ chồng đều tham dự.
Trong pháp hội hỏa cung Homa, vợ của Bách đột nhiên nhìn thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát từ trong lò lửa hiện ra, rồi bay thẳng đến trước mặt, ngài vung gậy tích trượng, ném vào người cô ấy rồi biến mất. Khi kết thúc pháp hội, 2 vợ chồng có đem chuyện này kể lại cho tôi.
Suy nghĩ một lúc, tôi trả lời: Cuốn sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu vốn do Địa Tạng Vương Bồ Tát gia trì, nay vợ Bách ấn tống lại hồi hướng công đức cho chúng sanh dưới địa ngục là trùng với hạnh nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nhờ công đức này mà được chứng kiến kim thân của Bồ Tát, ngoài ra việc ném gậy tích trượng chính là tiêu trừ và thanh tịnh nghiệp chướng cho cô ấy. Xin chúc mừng 2 vợ chồng đã tạo được công đức lớn. 
Ngoài ra mật pháp Chuẩn Đề chính là mật pháp mà Bách đã mong ước được quán đảnh để tu luyện đã lâu, nay tình cờ khởi sự mà duyên lành đến quá trùng hợp. Thực sự là bất khả tư nghì.
FB bạn Quang Bách. 
(Link FB: https://www.facebook.com/muxiut?ref=ts&fref=ts)
-Liên Hoa Thái Dương-
(Ảnh minh họa là một pháp hội Homa của Chân Phật Tông trong thập niên 90.)

-----------

HÀNH Y KHÔNG DÂM ĐƯỢC TÀI LỘC
Có một người tên là Hà Đăng, y thuật linh thông. Ông Lý người
cùng huyện mang bệnh lâu nay trị không khỏi, nên nhờ người tìm ông
đến điều trị. Ông Lý có người vợ trẻ và đẹp, cô ta lén nói nhỏ với Hà
Đăng: “Chồng tôi bị bệnh từ rất lâu những gì trong nhà có giá đều
mang đi tiệm cầm đồ bán hết rồi, thật ra chẳng có tiền chi trả cho ông,
tôi nguyện quyến thân để hậu tạ tiền khám chữa bệnh và thuốc thang”,
Hà Đăng nghiêm túc nói: “Sao phu nhân lại nói ra những câu nói hồ đồ
như thế, gia đình của bà đã vét sạch tài sản để chữa trị cho ông, tôi làm
sao có thể dựa vào thời cơ để chiếm đoạt? Tôi sẽ hết lòng chữa trị cho
chồng bà mà không lấy đồng xu nào, xin bà hãy tự trọng chính mình,
không nên bôi nhiễm nhân cách của tôi và tự làm nhục mình”. Vợ của
ông Lý rất xấu hổ và cảm kích. Ngay đêm hôm đó, Hà Đăng mơ thấy
một người dẫn ông ta đến một quan phủ, trên quan đường có ông quan
viên nói: “Ngươi hành y có công đức, nhất là không lựa thời nguy cơ
của người khác để chiếm lấy thân xác của người đàn bà, tinh thần đáng
kính, cảm động thần minh, tuân theo chỉ định của Ngọc Hoàng Đại Đế
ban cho nhà ngươi một chức quan, thưởng tiền năm vạn”. Khi ông thức
giấc ông cảm thấy rất buồn cười, một y sĩ nhà quê, làm sao có thể làm
quan? Nửa năm sau, Hoàng Thái Tử lâm bệnh, Thái y trong cung chữa
trị bất lực vô hiệu, Hoàng Đế cho người xuống dân gian để tìm y bác sĩ,
nghe nói Hà Đăng có y thuật tài giỏi và lương hiền, nên hạ lệnh triệu
tập vô cung, Thái Tử chỉ uống một thang thuốc của Hà Đăng thì đã có
hiệu lực, uống thêm mấy lần thì khỏi bệnh hoàn toàn. Nên Hoàng
Thượng ban cho ông ta làm quan Thái y, thưởng năm vạn tiền. Lúc
này, Hà Đăng rất kinh ngạc chuyện trong giấc mộng. Đúng là thần
minh khả tín.
chú giải: hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa

-----------


IN TẶNG SÁCH " NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU ", BỆNH NẶNG KHỎI ĐỘT NGỘT
Trong ghi nhận “Nhuận Đường Tập” của Thị Hà nói:
Ông Lưu Đặc Thiện tại huyện Cảnh Lăng Hà Bắc, sinh ra một
con trai tên là Thiên Dư, mới được có một ngày,Thiên Dư đã bị bệnh
rất nặng, bách dược đều vô hiệu, Bác sĩ nói, Thiên Dư: “Cho dù chim
hạc tái thế, cũng khó mà phục sanh, hết cứu được rồi.” Cả nhà rất bàng
hoàng nhưng cũng đành phải chịu thôi. Ông Đặc Thiện xưa nay sống
thiện tâm kiên vững, cho nên ông đã thành tâm hướng trời thỉnh cầu:
“Tôi nguyện in tặng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” trăm cuốn để khuyên thế
nhân, hi vọng con trai tôi được nhanh lành bệnh”. Sau khi thỉnh cầu
xong, kỳ tích đã xuất hiện. Trong chớp mắt, thân xác con trai đã từ từ
khôi phục và khỏe lên, kể cả ông bác sĩ đã từng trị liệu cho cháu cũng
kinh ngạc mà nói: “Làm sao có thể như vậy được, làm sao có thể như
vậy được”. Tại sao bệnh tình từ sáng đến chiều có thể thay đổi lớn như
thế, thật là không thể ngờ. Như vậy, trải qua điều trị thêm 10 ngày, con
trai ông đã hoàn toàn khỏi bệnh. Sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” thật là
ân huệ to lớn.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.5.5>

-----------

KIÊNG TÀ DÂM ĐƯỢC THẦN VĂN XƯƠNG BAN CÔNG DANH
Đường Vịnh lúc thời thiếu niên thường hay treo đèn khổ học đến
khuya. Một đêm nọ, có một thiếu nữ thầm yêu anh ta thường dùng tay
xé rách giấy của cửa sổ, hay chọc ghẹo và quyến r anh ta. Đường Vịnh
khuyên giải mãi mà không có tác dụng, liền dùng giấy dán lại chỗ đã
rách, dùng bút ghi lên: “Móc rách giấy cửa sổ dễ dán lại, gây tổn hại
lòng người khó mà hàn gắn lại”. Cô gái này nhìn thấy mới chịu bỏ đi.
Nửa năm sau, có một vị Tăng tu luyện có nội công đi ngang qua trước
cửa nhà Đường Vịnh, hiền từ bước vô, nhìn thấy họ, có treo tập trạng
nguyên, bên trái phải treo một đèn dầu, trước cửa còn có hai câu đối,
ông Tăng cảm thấy rất lạ, nên gõ cửa và trò chuyện với họ, khi anh ta
nghe được lời nói của ông Tăng cũng cảm thấy rất lạ, anh ta liền kể lại
sự tình của câu đối cho ông Tăng nghe. Ông Tăng nói: “Văn Xương Đế
Quân thần linh tối cao chuyên cai quản công danh thi cử và sự nghiệp
văn hóa rất kính nể những người không phạm vào tà dâm, người nhất
định thi trúng cử trạng nguyên”. Sau này, Đường Vịnh quả nhiên thi
trúng trạng nguyên và nổi tiếng trong thiên hạ.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

GẮNG SỨC HIẾU MẸ, CON ĐƯỢC TƯỚNG HIỀN 
Thôi Hảo, từ nhỏ đã có tính bẩm sinh là hiếu thảo. Cha của anh
ta qua đời rất sớm, người mẹ vì thương nhớ ưu sầu, khóc nhiều quá
dẫn đến bị bệnh mắt. Thôi Hảo bán hết gia tài trong nhà, đi khắp nơi
tìm bác sĩ đến chữa bệnh cho mẹ nhưng vẫn vô hiệu quả, đôi mắt bị
mù. Từ đó, anh ta rất thành kính phụng dưỡng người mẹ, ba mươi năm
như một ngày. Tất cả các thứ đồ dùng ăn mặc của mẹ, đều sắm theo
thời tiết nóng lạnh, đời sống sinh hoạt của người mẹ rất thoải mái,
không có thiếu thốn chút nào. Mỗi khi trời đẹp không khí trong lành,
nhất định dìu dắt mẹ đi ra ngoài du ngoạn, để được hít hơi thở trong
lành của thiên nhiên. Tuy đôi mắt của người mẹ bị mù, không được
chiêm ngưỡng phong cảnh đẹp như tranh, ông Thôi miêu tả cảnh vật
thiên nhiên như rồng bay phượng múa, kể cho người mẹ nghe rất hứng
thú, mọi sự kiện tin tức phát sinh trong ngày, cùng bàn luận với mẹ
trong tiếng cười vui nhộn, giải sầu cho tuổi già, quên đi đau khổ về đôi
mắt mù, rất vui vẻ. Sau này, ông Thôi tuổi càng lớn dần, quan vị được
tôn vinh, còn tự tay cùng với con cháu trồng những cây hoa quả trong
vườn như đào, mận, hồng và các loại cây khác để bốn mùa đều có quả
tươi ăn. Khi người mẹ qua đời, để báo đáp ơn nghĩa cho mẹ, đến dần
cuối đời chuyển ăn chay trường. Do ông Thôi hành đức cao thượng,
cho nên làm được chức quan lớn, con trai ông Nhược Phôi, cũng thành
một đại tướng trong đời sau.
Trong tập “Cảm ứng ký sự” có nói: Hiếu thảo song thân, không
nên lạnh nhạt với cha mẹ, không nên để cho cha mẹ già phải bận tâm
lo âu, không nên để cho cha mẹ phải sợ hãi, không nên để cho cha mẹ
phải buồn phiền, không nên để cho cha mẹ có tâm sự khó nói ra, không
nên để cho cha mẹ có lòng hận thù. Nếu làm được hành vi hiếu thảo
như vậy, thiên địa nhân quỷ đều tôn kính chúng ta. Làm phận con cái,
dùng vật chất để cung dưỡng, tinh thần chăm lo để ổn định tâm trí
người già, là việc hiếu thảo căn bản nhất; cố sức học tập, thiết thật kính
nghiệp, để thành một người có ích cho xã hội, cho quốc gia, vì cha mẹ
thăng quang, là một đại hiếu; dẫn đạo cha mẹ già học tập chính đạo
Phật Pháp, khuyên đạo niệm câu thánh ngôn “Nam Mô A Di Đà Phật”
để cầu đến tịnh thổ trong thế giới Tây Phương cực lạc, vĩnh viễn thoát
khỏi đau khổ của sự luân chuyển, là một đại hiếu mỹ mãn nhất trên thế
gian.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu


-----------

BỆNH NẶNG SẮP CHẾT, IN "BỬU PHIÊU" ĐƯỢC KHỎI BỆNH
Ông Lô Thiệu Hồng tại Từ Châu, do mẹ bị bệnh nặng đã mời bác
sĩ đến chữa bệnh. Bác sĩ nói: “Bệnh tình của mẹ anh rất nặng, không
thể nào trị khỏi”. Nên ông đã thành tâm cầu Phật Tổ từ bi phù hộ và
thề nguyện in tặng 200 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, cầu xin bệnh
tình của mẹ được thuyên giảm và khỏi bệnh. Kết quả, không đến thời
gian nửa tháng, quả nhiên không cần đến thuốc men mà vẫn khỏi bệnh.
Sự kiện như trên là do ông Thiệu Hồng đích thân nói với ông Qúy
Lượng ghi dựng lại.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

KHÔNG TIN BÁO MỘNG, NẤU BA BA THIỆT MẠNG
Có một ông tên Trương Kỳ Quang tại Tô Châu, thích ăn con ba
ba, trong đêm, anh ta mơ thấy một người mặc áo đen đến cầu xin anh
ta tha mạng và nói: “Ngày mai anh sẽ có tai họa lớn”. Sáng hôm sau,
người thuê mướn đất vườn của anh ta bắt được một con ba ba lớn, đem
tặng cho anh. Kỳ Quang thấy con ba ba lớn như vậy rất mừng, người
vợ nhắc nhở anh ta nói: “Đêm hôm qua anh nằm mơ thấy người mặc
áo đen có thể là con ba ba này đó, nên thả nó đi thôi.” Kỳ Quang trả lời
: “Sinh vật là có thể biết báo mộng cho người nhưng con này là con ngu
khờ, cũng biết báo mộng sao?” Lập tức ra lệnh kêu đầu bếp để nấu ăn.
Kỳ Quang ăn hết nguyên con ba ba trong một ngày. Đêm hôm đó, anh
ta đau bụng bị tiêu chảy như là bị mổ bụng ra tiêu chảy liên tục không
ngừng, chữa trị vô hiệu, bệnh suốt ba tháng trời thì qua đời.
Nội Dung Của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 11.12>


-----------

SỰ CHẾT THẢM CỦA KẺ TÀ DÂM
Tại Triết Giang có một cậu học sinh họ Ngô muốn hiếp dâm một
cô gái nhưng vẫn chưa thành. Nên hắn bàn mưu kế với người bạn họ
Phương, Phương Mậu thì lập mưu kế chuẩn bị cho ngày nào để hành
động. Không bao lâu, cha của Ngô Mậu mơ thấy có một người mặc áo
đỏ nói với công ta: “Con trai ông đáng lẽ có thể thi đậu tiến sĩ nhưng vì
lòng anh ta đen tối, Thiên Đế đã tước đi công danh của hắn. Phương
Mậu đang sống cuộc sống nghèo khó, nay lại lập mưu cho người thực
hiện hành vi tà ác, Diêm Vương đã phán cho anh ta phải xuống địa
ngục móc ruột, phải bị móc ruột ra từng khúc cho đến chết”. Cha của
Ngô Mậu thức giấc rất sợ hãi, khi trời sáng liền chạy đến trường học
tìm con trai để hỏi rõ sự tình, nghe con trai nói Phương Mậu tối hôm
qua mới bị đau ruột thừa cấp tính đã tử vong. Không bao lâu, Ngô Mậu
bị chứng bệnh suy nhược thần kinh, đầu óc bù xù ra vào trong thị xã,
không bao lâu cũng tiêu mạng qua đời! 
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 12.4>
ghi chú: hành ảnh chỉ mang tính chất minh họa

-----------


BÁN BẢO VẬT CỨU NẠN QUAN TRI THƯỢNG THƯ
Ông Ưng Đại Hiến tại Triết Giang Đài Châu, khi ông còn học
sách tại xóm làng bên vùng núi, có một ngày, đang đốt đèn dầu sao
chép cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đột nhiên nghe được đám ma quỷ
đang bàn tán và nói: “Tại nơi kia có một đàn bà, vì chồng đã thời gian
lâu chưa về nhà, bố mẹ bên chồng ép gả bà ta cho người khác. Nhưng
người đàn bà này sống rất trinh tiết, không bằng lòng, ngày mai nếu bị
ép quá, sẽ treo cổ tự tử, chúng mình sẽ tìm được người thế thân rồi.”
Ngày hôm sau, ông Ưng Đại Hiến đi tìm hiểu và đúng sự thật như
hôm qua mình nghe được. Ông trở về phòng đọc sách của mình, lén lút
đem chiếc đàn hiệu và đồ cổ của ông nội để lại cho mình đi bán được
bốn lượng tiền bạc. Lấy thân phận của chồng, viết ra một lá thư gửi về
an ủi người phụ nữ kia và bố mẹ, vừa gửi số tiền đó cho gia đình họ.
Khi bố mẹ họ nhận được thư và tiền, tin tưởng người con trai của họ
bình an, cũng không còn ép gả người đàn bà kia lấy chồng khác, tự
nhiên bà ta sẽ không còn muốn treo cổ tự tử nữa. Thời gian không lâu,
người chồng của bà ta trở về đoàn tụ với gia đình thật. Đối chiếu với
nhau về chuyện trên, cũng không biết ai đã làm ra chuyện tốt như vậy.
Qua không lâu, ông lại nghe thấy bọn ma quỷ nói với nhau:
“Theo thường lệ, chúng mình có thể tìm được người để thế thân, nhưng
do ông tú tài này đã phá hoại chuyện tốt của mình, một con ma đứng
bên cạnh mà nói:“Tại sao không gây họa cho ông ta để trả thù?”
Con ma này lại nói: “Ông ta thường chép “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
để khuyên thế gian, còn có lòng từ bi cứu giúp người, Thượng Đế ban
lệnh cho ông ta làm Âm Đức thượng thư, chúng mình còn có thể gây
họa cho ông ta sao?”. Sau này ông Ưng Đại Hiến đã thực sự thăng quan
làm thượng thư.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.2.2>
=========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT

-----------

NẠO PHÁ THAI VÀ QUẢ BÁO
Trước tiên xin mời quý đạo hữu đọc một trích đoạn trong kinh 
“Phật Thuyết Kinh Diệt Tội Trường Thọ và Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni”:
“Đức Phật mỉm cười, bảo khắp đại chúng: 
Trên thế gian có năm thứ ác nặng, sám hối khó diệt. Những gì là năm? 
Một là giết Cha; Hai là giết Mẹ; Ba là phá Thai; 
Bốn là làm cho thân Phật chảy máu; Năm là phá sự hòa hợp của Tăng.
Khi ấy, người nữ có tên Điên Đảo, kêu khóc nghẹn ngào, nước mắt như 
mưa, năm vóc gieo xuống, lăn lộn trước Phật, và bạch lên rằng: 
Lạy Đức Thế Tôn, từ bi rộng lớn, cứu hộ tất cả, cúi xin Thế Tôn, thương 
xót nói pháp.Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo một lần nữa: 
Nghiệp ác của ngươi, rồi sẽ sa đọa, địa ngục A-tỳ, không sao dừng ngớt. 
Các vị lắng nghe! Như Lai sẽ vì các vị mà nói. Về đời quá khứ, có thế giới 
tên, Vô Cấu Thanh Tịnh, cõi đó có Phật, hiệu là Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, 
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô 
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, được vô 
lượng vô biên, các đại Bồ-tát, lúc nào cũng thường, cung kính vây quanh. Trong 
pháp Phật ấy, có cận sự nữ, tên là Điên Đảo, cô này nghe Phật, xuất hiện nơi đời, 
muốn cầu xuất gia, buồn bã kêu khóc, bạch Đức Phật rằng: 
Kính bạch Thế Tôn! Con có nghiệp ác, muốn xin sám hối, cúi mong Thế 
Tôn, cho con nói rõ: Con về trước kia, thân mang thai nghén, mới đủ tám tháng, 
cũng vì phép nhà, cho nên con chẳng ham muốn con cái, bèn uống thuốc độc, 
phá thai giết con, chỉ sanh đứa chết, đủ cả hình người. Có bậc triết giả đến bảo 
con rằng: “Nếu cố sẩy thai, người này hiện đời, mắc báo bệnh nặng, mạng 
sống ngắn ngủi, chết đọa A-tỳ, chịu khổ não lớn”. Nay con suy nghĩ, rất sanh 
buồn sợ. Cúi xin Thế Tôn, đem sức Từ bi, vì con nói pháp, cho con xuất gia, để 
khỏi khổ ấy. Lúc đó, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến bảo nàng Điên Đảo: 
Trong địa ngục nóng, tạm gặp gió lạnh, tội nhân tạm mát, trong địa ngục 
lạnh, tạm gặp gió nóng, tội nhân tạm ấm. Địa ngục A-tỳ, không có điều đó, lửa 
trên suốt xuống, lửa dưới suốt lên, bốn bề vách sắt, trên đặt lưới sắt, bốn cửa 
Đông Tây, có lửa nghiệp mạnh, nếu chỉ một người, tân cũng đầy ngục, thân to lớn 
đến tám vạn do tuần, nếu đông nhiều người, cũng đều đầy ngục. Khắp thân tội 
nhân, có rắn sắt lớn, khổ độc của nó, hơn cả lửa mạnh, lại có chim sắt, mổ thịt tội 
nhân, hoặc có chó đồng, nhai thân tội nhân, ngục tốt đầu trâu, tay cầm binh khí, 
phát tiếng hung tợn, như tiếng sấm sét, bảo tội nhân rằng: “Người cố giết thai, 
phải chịu khổ này! ”…Ta nếu nói sai, chẳng phải là Phật.”
Nghĩa là cách đây 2500 năm trước, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã vì 
chúng sanh mà thuyết rõ quả báo của việc nạo phá thai: “Nếu cố sẩy thai, người 
này hiện đời, mắc báo bệnh nặng, mạng sống ngắn ngủi, chết đọa A-tỳ, chịu khổ 
não lớn”. 
Ngày nay, xã hội càng phát triển, con người càng trở nên lạnh lùng với sự 
sống. Việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, có thai, phá thai trở thành một vòng 
tròn khép kín giống nhau ở khá nhiều người. Họ quan niệm rằng thai nhi chưa là 
người nên không có quyền con người. Lối suy nghĩ đó đã khiến cho hàng triệu 
sinh linh bé nhỏ bị tước đoạt đi quyền sống khi chưa nhìn thấy ánh mặt trời.
Theo số liệu của Liên Hợp Quốc, cứ 1000 người phụ nữ trong độ tuổi sinh 
đẻ ở Trung Quốc thì có tới 24 người nạo phá thai. Kinh khủng hơn, cũng tiêu chí 
này, tỉ lệ ở Nga là 50 người trên 1000 người. Với Hàn Quốc, đất nước có luật 
chống phá thai, tỉ lệ phá thai cũng không phải là nhỏ. Theo Bộ Y tế an sinh xã hội 
Hàn, có tới 342.433 vụ phá thai năm 2005. Theo nghiên cứu năm 2012, số ca phá 
thai tính tới năm 2010 ở Hàn Quốc đã giảm xuống còn 160.000 ca. Tuy nhiên, 
con số này không phải là dấu hiệu khả quan. Lí do vì Hàn Quốc là đất nước quy 
định phá thai là hành vi phạm tội, có thể bị bắt đi tù nên nhiều người đã ra nước 
ngoài để làm việc này. 
Hiện nay, theo bà Tô Thị Kim Hoa, Phó Giám đốc sở Y tế, Chi cục trưởng 
Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Thành phố Hồ Chí Minh cho biết:
Hiện nay, tỉ lệ nạo phá thai ở Việt Nam là khoảng 300.000 ca mỗi năm. 
Trong đó có khoảng 20% ở độ tuổi vị thành niên. Con số lạnh lùng này cho thấy 
chúng ta đang là nước đứng thứ 5 trên thế giới và số một khu vực Đông Nam Á về 
tình trạng nạo phá thai. (theo báo V ietnamnet)
Có vẻ như con người ngày càng xa rời những bài học của Đức Từ Phụ
Thích Ca để lấn sâu vào vòng ái dục mà không biết rằng phá thai là một tội ác, phá 
thai sẽ đem đến những quả báo khôn lường. Người ta thường nói rằng những 
trường hợp sinh con khó nuôi, khó sinh, xảy thai, vô sinh, con chết yểu và một số 
bệnh hiểm nghèo thường là quả báo của việc nạo phá thai. Sau đây là một số câu 
truyện thực tế được ghi nhận:
Nội Dung Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

PHÁT NGUYỆN IN SÁCH - THẦN LINH TẶNG THUỐC
Con dâu thứ của tôi là Thị Lưu, đã từng bị nhiễm dịch bệnh, cả
thân thể nổi lên chấm đỏ. Uống thuốc cũng vô hiệu, bệnh ngày càng
nghiêm trọng. Đến ngày thứ 12, bác sĩ nói: “Độc tố của bệnh đã di
chuyển vô tim, mạch khí đã tuyệt, rất nguy kịch trong nay mai.”, cả
nhà đã bó tay. Cho nên, tôi gấp rút đến đền thờ Thần Táo Quân đốt
nhang cầu vái: “Nếu như bệnh tình dâu thứ của tôi được khỏi bệnh, tôi
đồng ý in tặng 100 cuốn sach “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, vả lại khuyên
giải người đời kính ngưỡng cuốn sách này để cải thiện.” Đến giờ khuya
canh hai, lại đến trước đền thờ Thần Táo Quân cầu vái thật lâu. Đến
giờ canh bốn, cùng với con trai thứ âm thầm cầu vái trong phòng: “Nếu
Ngọc Hoàng Đại Đế từ bi, có thể cứu được bệnh của dâu và vợ của
chúng con, có thể khỏi bệnh, chúng con cố gắng hết sức mình để khuyên
độ thế nhân kính ngưỡng đạo lý của sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.” Đến
lúc giờ canh năm, người nhà ngủ thiếp đi tại bếp, trong mơ nghe thấy
tiếng người gõ cửa. Khi mở cửa ra, nhìn thấy có một lão già, trong tay
cầm một viên thuốc màu đen, nói là đến trị bệnh cho Thị Lưu. Vừa nói
xong, bước thẳng vô nhà, cùng với con trai thứ cho thị Lưu uống thuốc.
Cả nhà đứng ở phòng ngoài mong đợi, đột nhiên nghe trong phòng có
tiếng nói: “Phải cử động nhiều!”, ngay lập tức nhìn thấy có một người
hầu tay bưng thùng ra. Đột ngột rớt xuống, làm đổ thùng phân, để
phân văng đầy mình của người nhà, giật mình thức tỉnh.
Chạy vào trong phòng, nghe bệnh tình của dâu thứ khỏe lên
nhiều. Sau khi trời sáng, mời bác sĩ đến khám, phát hiện mạch nguyệt
đã hồi sinh. Uống thuốc thêm mấy liều, đã khỏi bệnh.
Đây chính là thần linh đã âm thầm phù hộ, là chuyện có cầu có
ứng. Ban cho các quân tử thích hành thiện, nếu thấy cuốn sách “Ngọc
Lịch Bửu Phiêu” nhất định phải thành thật ban hành chân lý trong
sách. Hoặc sao chép in ấn, truyền tặng cho người khác: hoặc truyền cáo
những sự kiện như vậy cho người khác hiểu, dùng để khuyên giải đời
người cải hóa lòng thiện, nhất định nhận được vô lượng phước báo.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.9.1>
===========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT


-----------

BỐ THÍ THUỐC MEN CỨU NGƯỜI, VINH DỰ BỔ NHIỆM CHỨC THÀNH VƯƠNG
Vào giữa năm Gia Thiện, ông Hồng Thiệu Đỉnh tại Nam Xương
Phủ Tây Giang, lúc còn trẻ theo học y khoa môn nội ngoại khoa. Năm
mười chín tuổi, đã từng đọc cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, khi đọc được
trong điện thứ hai có nội dung nói “chỉ hạ bất minh” (tức khám bệnh
cho người chỉ qua loa không kỹ), lấy thuốc trị bệnh để chuộc lợi thì bị
chuyển tiếp đến tiểu địa ngục chịu cực hình tiếp. Tin và kính ngưỡng,
đã bố thí thuốc men để trị bệnh cho rất nhiều người và sao chép cuốn
“Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nói cho người trên thế gian hiểu biết, hy vọng
tất cả mọi người cảnh giác, biết sám hối. Vừa phát đại lòng tin, trị bệnh
không tính toán tiền bạc, không phân biệt giàu nghèo. Khi gặp có người
bị bệnh nguy kịch, phải sử dụng nhân sâm, nếu người bệnh đó nghèo
khổ, mua không nổi thì ông sẽ thái nhân sâm ra từng miếng nhỏ, trộn
vào chung các loại thuốc khác, bán giá rẻ cho họ để trị bệnh. Tận dụng
tiền thưởng thu được của người giàu có, cứu trợ cho các người bệnh
nặng khó chữa. Nếu như gặp năm thất thu đói khát thì không ngồi kiệu
mà đi bộ để khám bệnh cho bá tánh. Phu nhân của ông rất hiền năng,
luôn tuân thủ ý nguyện hành thiện của người chồng. Khi mùa đông, 
cho dù mặc áo quần bằng vải thô cũng không một trách hờn. Trong
ngày mừng thọ tám mươi tuổi, tự nhiên ông nhìn thấy trên trần cao của
phòng khách treo lên một băng-rôn màu đỏ, trên có dòng chữ màu
vàng: “Phùng Thiên Đế Mạng”, Hồng Thiệu Đỉnh đến Thành Hoàng
tỉnh Phúc Kiến thi nhiệm. Ba ngày sau, trong nhà đền thờ nên thay áo
tắm rửa, ông lìa đời trong trạng thái ngồi.
Tất cả con cháu của ông trong sự nghiệp đều rất thành công và
danh tiếng.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4. 1. 9>
=========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT

-----------


QUYÊN GÓP IN TẶNG "NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU" MỘNG THẤY TRỊ BỆNH
Ông Tuyên Hoàn Chương tại Bửu Sơn, trường kỳ bị bệnh trĩ, trị
liệu khắp phương đều vô hiệu, rất là đau khổ. Vào tháng ba năm Tuất
Thìn, tự nhiên ông đọc được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, ngay
lập tức ông phát lên lòng tín ngưỡng. Ông lập tức đứng trước đền thờ
Thần Táo Quân, lập nguyện in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và
“Tiếc Chữ Thuyết”, “Tập Kính Táo” vv…cầu xin tiêu trừ bệnh trĩ.
Một thời gian, sau khi âm thầm cầu vái. Vào một buổi tối, ông mơ
thấy một ông hòa thượng, tay cầm kiếm sắt, đi đến trước mặt ông và
nói: “Để tôi chặt đứt cục trĩ của ông!”. Nói xong giơ kiếm lên và chém
một phát xuống, ông hốt hoảng thức giấc. Không bao lâu, phát hiện
bệnh trĩ của mình cũng biến mất từ nay. Đây là sự kiện được ghi lại do
ông Lưu Bửu Sơ tường thuật lại với ông Qúy Lương.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.5.7>
=========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT

-----------

THẢM BÁO CỦA KẺ KINH DOANH SÁCH BÁO, TRANH VẼ KHIÊU DÂM
Tại khu Giang Nam có một thương gia bán sách tên là Chu
Tường, vì muốn tranh giành lợi nhuận cao, chuyên lén lút phát hành in
ấn buôn bán và cho thuê những sách truyện khiêu dâm với giá cao, bạn
bè đã khuyên răn anh ta đừng kinh doanh những loại sách này nữa có
ngày chuốc họa vào thân và chịu sự ác báo, Chu Tường cho là sự mê
tín đáng mắc cười, không sợ tới. Hai năm sau, thị lực của Chu Tường
bắt đầu mờ dần, cho đến một ngày mắt bị mù, tìm kiếm rất nhiều y bác
sĩ để chữa trị, tốn biết bao nhiêu tiền vẫn không chữa được. Một ngày,
tiệm sách bị hỏa hoạn, mắt của hắn lại bị mù không thấy đường để tháo
chạy, nửa người bị bỏng nặng, cơ thịt bị hoại tử, mỗi ngày đều kêu la
trong sự đau đớn, không đến ba ngày thì tử vong. Trước khi chết đã
nói: “Tôi in ấn kinh doanh những sách khiêu dâm như vậy, tuy kiếm
được nhiều tiền nhưng đều tiêu tan hết vào để chữa bệnh, vả lại tôi hại
người không ít, chịu sự trả báo như thế cũng là đáng đời, hi vọng các vị
bạn hàng lấy tôi mà làm gương, đừng kinh doanh những loại sách
truyện giống như vậy nữa”. Vợ của Chu Tường sau này do cuộc sống
khó khăn vay mượn rất nhiều tiền, tiếp đó bị người đòi nợ bắt cóc bán
đi khu núi rừng để làm nô lệ
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 12>

-----------


KÝ SỰ TĂNG THỌ KHI IN SÁCH " NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU "
Ông Trần Ưu Dung tại thôn Đại Nghĩa tỉnh Phúc Kiến, bốn anh
em đều buôn bán, Trần Ưu Dung làm công tay đại lý khí đốt, ông biết
được người bạn có cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và mượn để đọc.
Mẫu thân của ông ta đã 82 tuổi, vào tháng 5 năm 1992, bà phát bệnh
nặng, bác sĩ đã tuyên không thể trị khỏi nên ông về nhà mau chuẩn bị
hậu sự cho bà. Ông tưởng nhớ đến ơn đức của mẹ, rất đau buồn lại
không làm gì được, đột nhiên ông nhớ ra cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu
Phiêu” có ghi lại một số ký sự cầu xin tăng thọ và trị bệnh rất là kinh
nghiệm. Tối hôm đó, ông đứng ngay trước bàn thờ Thần Táo Quân
thành tâm cầu khẩn, lòng nguyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
để cầu xin mẹ tăng thêm tuổi thọ. Hai hôm sau, vào một buổi tối, ông
Trần Ưu Dung nằm mơ thấy mình đi đến một quan phủ, hơi giống như
quan phủ của Thành Hoàng. Ưu Dung thấy mẹ mình đang đi đi lại lại
trong đó, trên sảnh không thấy có người, chỉ có một người đang cầm
cuốn sổ đang kêu tên Ưu Dung và nói với ông, trời sắp tối rồi, sẽ đóng
cửa thôi. Ưu Dung rất hốt hoảng, hét to kêu cháu gái đến rước mẹ đi
về. Người đó ngăn lại và kêu ông không được lên tiếng. Ưu Dung như
thế đã dắt mẹ trở về nhà. Sau khi thức giấc, ông đến ngay đầu giường
của mẹ để xem, chưa đợi đến Ưu Dung mở miệng, bà mẹ với tiếng yếu
ớt kể lại chuyện giấc mộng của bà cho Ưu Dung nghe, không ngờ giấc
mộng của hai người hoàn toàn giống nhau. Từ nay về sau, bệnh tình
của bà mẹ ngày một khỏe hơn, sau này hoàn toàn khỏe mạnh lại. Cả
nhà anh em rất vui mừng, thề nguyện in tặng thêm sách “Ngọc Lịch
Bửu Phiêu”
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.10.7>

-----------

IN ẤN " NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU " THI ĐẬU LIÊN TIẾP
Người đồng hương với tôi, ông Trần Trọng Trường, lâu nay rất
ngưỡng mộ thiện lý trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Nhưng
nghĩ gần những khu này không thể mua được cuốn sách này, rất hối
tiếc.
Có một ngày, ông đi đến một miếu cổ trong thành thị Tô Châu để
thắp hương, rất may mắn được biếu tặng một cuốn. Sau khi đọc xong,
ông rất kinh ngạc, tóc dựng hết lên. Cho nên, nói với một ông sư xuất
gia quen biết: “Sách thiện trên thế gian, chưa từng thấy có cuốn sách
hay như thế. Không chỉ các người có trí tuệ đọc xong có thể tỉnh ngộ
mà một số người phổ biến khi nghe hay vẫn hiểu rõ đạo lý bên trong,
cũng sẽ cẩn thận về hành vi của mình. Và sám hối những gì mình đã sai
phạm.”
Nên ông phát tâm nguyện theo nguyên sách như ban đầu, giao
cho một nhà xuất bản để in ấn, truyền bá đến lâu dài, thành tâm mong
muốn người trên trần gian đều quy tụ với thiện đạo.
Ba năm sau khi in ấn, con trai ông tên Bửu Kiệm, tham gia thi cử
trong tỉnh huyện, đã thi đậu cử nhân vào năm Giáp Tuất, tham gia hội
thi cũng đậu hạng nhất, đã mang danh dự về cho cả làng xóm. Đấy
chính là trời ban phước cho thiện nhân, có thể nói là rất lớn, rất nhanh
và rất rõ ràng.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

ĂN HỐI LỘ XỬ ÁN SAI, CHUYỂN KIẾP THÀNH CON LỪA
Có một tiến sĩ họ Trưởng, đảm nhiệm chức vụ quản lý an ninh
trật tự tại tỉnh Sơn Đông. Đến một ngày, hai anh em vì tranh giành gia
tài của tổ tiên để lại đến thưa kiện. Người anh đưa hai trăm lượng vàng
để hối lộ cho ông Trưởng, yêu cầu xét cho anh ta được thắng kiện;
người em lại đưa cho hắn ba trăm lượng vàng để hối lộ, cũng yêu cầu
mình được thắng kiện. Ông Trưởng thu hết hai bên, vì người em đưa
hơn một trăm lượng vàng, nên xét được thắng hưởng gia tài của tổ tiên
để lại, người anh tức giận thành bệnh, không bao lâu thì qua đời. Sau
này, ông Trưởng cũng qua đời. Trong làng có một thân sĩ, sau khi chết
đi được 3 hôm, ông hồi dương lại. Kêu người đến mời con trai của ông
Trưởng đến, nói với anh ta: “Khi xuống Diêm phủ, tôi nhìn thấy ba
cậu, ông ta sắp đầu thai thành con lừa, hiện giờ, sẽ đầu thai xuống một
nhà kia.”, con trai của ông Trưởng không tin. Ông thân sĩ nói: “ Trong
lúc cha ông làm quan tại tỉnh Sơn Đông, do nhận hối lộ đã xử oan cho
người ta, tiền hối lộ là thông qua người hầu của nhà người nhận, nếu
như anh không tin, có thể về hỏi thăm xem.” Khi hỏi, quả nhiên là như
thế. Thân sĩ lại nói: “Phụ thân của ngươi nhờ tôi truyền lại cho anh;
nhất định phải trả lại số tiền nhận hối lộ, đồng thời phải in tặng sách
“Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để giảm nhẹ tội cho ông.” Con trai của ông
Trưởng sau khi nghe xong, lập tức làm theo lời chỉ dẫn của phụ thân
và đi đến nơi cha mình đã đầu thai mua về con lừa, gửi nuôi vào nơi am
phóng sanh tại Dương Châu, mướn hai người làm chăm sóc. Trải qua
thời gian ba năm, con lừa mới chết.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu
=========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG, A DI ĐÀ PHẬT
<hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa>


-----------

PHÁT NGUYỆN IN TRUYỀN SÁCH, ĐƯỢC TÁI HỒI SINH
Bà ngoại của tôi tên là Ưu Quỳnh Phân năm nay 78 tuổi, bị tai
biến mạch máu não đã liệt nửa người hai mươi mấy năm trời, gần đây
lại phát hiện bị bệnh tiểu đường. Vào ngày mồng 9 tháng 5 năm 2004,
bà đến bệnh viện của thị trấn Lê Đường khám bệnh. Khi truyền dịch
không được bao lâu thì xuất hiện tình trạng khó chịu bất an, tiếp theo
sắc mặt trở nên tím tái, không tự chủ được đại tiểu tiện. Hai mắt lật
lên, bất tỉnh hôn mê. Cấp cứu không hiệu quả nên chuyển đến bệnh
viện Uy Hiệu cấp cứu, cấp cứu khoảng 2 tiếng đồng hồ, bác sĩ nói đã
ngưng thở, hết cứu chữa được nửa, kêu người nhà chuẩn bị hậu sự cho
bà. Bắt đầu, rút ống khí ô-xy, dọn dẹp các thiết bị cấp cứu. Thì vào lúc
này, tôi nhận được cú điện thoại của người em trai, nói bà ngoại không
được rồi, mau trở về nhà. Khi đó, tôi nhớ ra nhiều sự kiện trong cuốn
sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, tôi có ý niệm thử xem, tôi liền bước đến
bàn bếp cầu xin Ngọc Hoàng Đại Đế, Thần Táo Quân, và các Thần Phật
phù hộ cho bà ngoại được chuyển nguy thành an. Và phát nguyện in
tặng 100 cuốn sách và cố sức truyền bá lưu thông. Không ngờ, chỉ trong
giây phút đầu, người bà ngoại còn nằm trong giường bệnh như vừa
thức tỉnh, hét lên một tiếng yếu ớt. Quả nhiên tỉnh lại! Bác sĩ cũng cảm
thấy chuyện rất ly kỳ nên bắt đầu tiến hành trị liệu cho bà, không bao
lâu, bà được xuất viện ra về. Đây chính là sự kiện có thật đích thân tôi
từng trải, không nửa câu dối trá đặt chuyện.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------


LIÊN SINH HOẠT PHẬT KỂ TRUYỆN QUẢ BÁO DO SÁT SANH
(Trích từ sách " Địa Ngục Biến Hiện Ký của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn)
Từng có một người nữ mắc bệnh “thiên đầu thống” lâu cả 10 năm rồi, đã tìm gặp các bác sĩ trong cũng như ngoài nước, nhưng trước sau không cách nào làm thuyên giảm bệnh. Có thể nói các bác sĩ đã bó tay, vô phương cứu chữa. Bà này đến quy y tôi. Trì “Thượng Sư Tâm Chú” cả trăm vạn lần, liên tục tụng niệm. Có một lần, bà đến gặp nói với tôi: “Sư Tôn, con thực sự có việc muốn cầu xin nên mới quy y Ngài, hy vọng Ngài tha lỗi cho con.”
Tôi nói: “Tôi không để ý gì đâu, rất nhiều người đến quy y, tôi đều xem như nhau cả.” Tôi hỏi: “Bà cầu xin gì vậy?” Lúc này bà mới nói ra nguyên do quy y là vì muốn Sư Tôn trị bệnh thiên đầu thống cho bà. Khởi đầu tôi dùng “gia trì lực”, “phù chú lực” giúp bà ta, nhưng trước sau không đúng yếu điểm. Cuối cùng tôi dùng Thiên nhãn quan sát, lúc này tôi đột nhiên phát hiện ra trên đầu bà bị tháp vào một cây đinh vô hình làm đau. Đinh màu tím, dài 5 tấc, xúc chạm làm đau dây thần kinh. Tôi kinh hãi biết rằng cây đinh vô hình làm đau này là từ âm phủ mà ra, do đó tôi phải tìm sự chỉ giáo của Minh Vương.
Tôi đã hỏi Minh Vương việc gì đã liên quan đến cây đinh vô hình làm đau của bà đệ tử này. Minh Vương nói:
“Đệ tử của Ngài khi còn trẻ rất thích ăn loại gà đồng, ếch, lúc ăn ếch thì lấy dầu đốt nướng ếch, số ếch bị nướng chết vô số kể, đã vượt qua phước báo của mình, cho nên Minh phủ mới cho phát ra cây đinh làm đau này để trừng phạt.” – “Lý do như thế, bây giờ làm sao để giải cứu?” Minh Vương đáp:
“Chỉ có phóng sinh và trì Vãng Sanh chú” Tôi nói:
“Tôi sẽ khuyến khích bà ta phóng sinh và trì chú Vãng Sanh. Trước mắt bà ấy đã trì cả trăm vạn Thượng Sư tâm chú rồi.” Minh Vương nói: “Như thế cây đinh làm đau sẽ tự nhiên biến mất thôi.” Phải nói điều thật kỳ lạ là chuyến đi Minh phủ gặp Minh Vương xong thì bệnh thiên đầu thống của bà đệ tử như không có cánh mà bay, sau một giấc ngủ tỉnh dậy, bệnh bà không còn đau gì nữa, cơn đau giống như được nhổ ra khỏi đầu, khác trước kia một trời một vực, đau đớn hoàn toàn được giải trừ. Tôi lại xử dụng Thiên nhãn xem thì không còn trông thấy cây đinh làm đau nữa.
Tôi hỏi: “Bà thích ăn ếch lắm phải không?” Bà ta trả lời:
“Sư Tôn biết cả rồi!” – “Ăn tất cả bao nhiêu con?”
“Tôi đi chợ mua về nướng ăn không biết là bao nhiêu nữa.”
“Bây giờ thì không được ăn nữa, thấy rồi đó, mua mà phóng sanh, niệm cho thật nhiều chú Vãng Sanh, như thế thì bệnh thiên đầu thống sẽ không tái phát” – “Xin tuân lệnh Sư Tôn.”
Nữ đệ tử này, từ đó không ăn thịt ếch nữa mà ngược lại chỉ lo phóng sinh ếch, niệm chú Vãng Sanh cả trăm vạn lần. Lấy sự linh cảm đến với mình báo cho nhiều người biết, dẫn rất nhiều người đến quy y tôi.
Cư theo tôi biết rằng có rất nhiều người bị cây đinh làm đau tháp (cấy) vào người rồi. Những cây đinh này là từ Minh phủ phát xuất có tác dụng trừng giới, có người bị đau vai, người bị đau lưng, người bị đau đầu, người bị đau các khớp xương, có những người bị đau răng, đau chân, đau ngón tay, vân vân. Nói rằng không nhất định từ Minh phủ tạo ra, nhưng hy vọng mọi người lo việc phóng sanh thật nhiều, đọc chú Vãng Sanh thật nhiều. Tiêu, tiêu trừ nghiệp chướng!
Tôi xin thực sự bá cáo với mọi người, phúc đừng hưởng cho hết tận, hưởng hết phúc ắt sinh ra tai ương. Chúng ta là những người học Phật phải biết quí trọng phúc, tạo ra phúc mới đúng. Phật từng đã dạy chúng ta “phải buông xả”, thử hỏi câu “phải buông xả” là buông xả cái gì nào? Hãy trả lời xem.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 11.1>

-----------


SÁM HỐI CHUYỆN QUÁ KHỨ, HỒN MA SIÊU THOÁT
Trong cuốn “Tự cầu đường tập” có một đoạn do ông Khầu Đại
Vinh nói với ông Lâm Xuân:
Cha tôi là ông Khầu Phục Sơ tại Nam Kinh, sống rất hiếu thảo
với ông bà nội của tôi. Mẹ tôi qua đời sớm, tôi là con trai ông tên là
Khầu Đại Vinh, cũng rất hiếu thảo, đồng thời thích hành thiện làm việc
tốt lành. Nhưng cha tôi Khầu Phục Sơ lại không tin là có quỷ thần và
có địa ngục.
Vào năm Nhâm Tý, tôi có đi Tô Châu buôn bán, đem về một cuốn
sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, tôi cùng cha xem chung với nhau. Cha tôi
vừa cười vừa nói: “thật là hoang đường!”. Vừa nói xong đã vứt cuốn
sách vào trong hộc tủ. Nhưng tôi lại rất kính ngưỡng, muốn tìm người
để in ấn biếu tặng truyền bá, lại sợ cha biết được sẽ mắng chửi, nên
đành buông xuôi. Năm Qúy Sửu, khi cha tôi lâm trọng bệnh và than
thở nói với con trai: “Gần đây, ta thường nhìn thấy các ma quỷ tụ tập
trong nhà mình phá phách, ta mới tin thật sự là có ma, theo ta nghĩ
chắc là cũng có địa ngục. Ta rất hối hận khi không tín ngưỡng sách
“Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.
Sau khi nghe được cha tôi nói. Trong lòng mọi ưu sầu đều biến
mất, lập tức thề nguyện in ấn 300 cuốn sách để truyền bá. Lúc này,
Phục Sơ nghe được phía ma quỷ nói: “Ông ta tuy sắp chết đến nơi rồi
nhưng Thần Táo Quân đã ghi lên trán ông ta chữ “Thuân Tuân” lại
nghe thấy các ma quỷ khác đang hét lên và nói: “Ngọc chỉ sắp đến rồi,
ta mau rời khỏi nơi này, không sẽ bị trừng phạt”. Bệnh tình của Phục
Sơ quả nhiên không bao lâu thì khỏi bệnh, hiệu quả đúng nhanh như
thế, không thể để cho người ta không tín ngưỡng vào cuốn “Ngọc Lịch
Bửu Phiêu”.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

SÁM HỐI, DỨT BỎ TÀ DÂM, CHUYỂN THIỆN, CẦU CON ĐƯỢC NHƯ MONG MUỐN
*Câu chuyện thứ nhất:
Có một người tên là Giá Nhân, đã ngoài 50 tuổi còn chưa có con,
trong lòng rất mong. Một buổi tối, ông mơ thấy một phủ điểm, trên có
ghi chữ: “Sinh dục tự”. Giá Nhân liền cầu khấn về chuyện con cái của
mình. Người kia lấy một cuốn sổ tay lật ra xem và nói: “Ông đã từng
cưỡng hiếp một phụ nữ, muốn cầu xin con cái là chuyện bất khả năng”.
Giá Nhân nghe được rất kinh ngạc, tiếp theo nhất lòng thành tâm cầu
xin và nói: “Tiểu dân lúc ấy vô tri, cầu xin được khoan dung chuộc tội”.
Quan thần nói:“ Tuy ông có lòng hối cải, phải khuyên nhủ 10 người
không phạm tà dâm (không phải vợ chồng mà có quan hệ tình dục nam
nữ) mới có thể xóa được nghiệp tội mà mình mắc phải, mới hi vọng có
con để nối dòng”. Khi Giá Nhân thức giấc, lòng quyết tâm sám hối,
khuyên bạn bè thân thuộc kiêng tà dâm, vả lại còn góp tiền in ấn sách
thiện có nội dung khuyên giải không mắc vào tà dâm và sách “Ngọc
Lịch Bửu Phiêu”, cảm hóa được rất nhiều người. Quả nhiên, sau này
ông sinh được hai cậu con trai.
* Câu chuyện thứ hai:
Huyện Hoa Đình có ông họ Trương, lúc thời trẻ thường hay cài
bẫy dụ dỗ thiếu nữ tiến hành mại dâm. Sau khi kết hôn sinh được hai
cậu con trai nhưng vì do suy dinh dưỡng bẩm sinh nên đã tử vong,
chính ông cũng bị mắc bệnh bướu hạch, điều trị nhiều năm cũng vô
hiệu quả. Sau này ông đọc được cuốn sách nói về đủ loại nhân quả trả
báo liên quan đến tà dâm dục vọng, cảm thấy rất hối hận, biết được sự
bất hạnh của mình là do trả báo sự tà dân của mình. Cho nên, ông đứng
trước tượng thần Phật xin thề vĩnh viễn từ bỏ kiêng trừ tà dâm, bỏ tiền
ra in ấn rất nhiều cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để truyền bá đến
thiên hạ. Một năm sau bệnh của ông đã khỏi, không bao lâu liên tiếp
sanh được ba đứa con.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------


NGƯỜI MẮC BỆNH PHONG MUA DÂM, NGƯỜI BÁN DÂM THIỆT MẠNG
Những năm gần đây, nạn mại dâm ngày càng gia tăng, những kẻ
mất đạo đức ngày càng nhiều, mại dâm mua dâm nghiêm cấm nhiều
lần không hết, dẫn đến bùng phát căn bệnh HIV và những căn bệnh lây
nhiễm khác, gây độc hại đến xã hội. Nhưng mà thiện ác ắt phải có báo,
sự kiện dưới nay lấy làm cảnh tỉnh cho những kẻ có hành vi tà dâm.
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2001, tại tỉnh Hồ Nam trong làng Thị
của nhà họ Trương có trại phong cùi, có ông Trương Mậu sau khi xem
xong cuốn băng hình khiêu dâm ngay lập tức đón xe chung với La Mậu
thoát ra đi đến làng thị họ Trương, đi đến nhà trọ Từ Dung. Nhờ La
Mậu môi giới, giới thiệu gái bán dâm họ Lữ cho ông Trương. Lữ Mậu
nhìn thấy ông Trương đầu tóc chân mày hơi rụng, cả mình tấy đỏ như
đang lột da vậy, trong lòng hoài nghi. La Mậu bịa ra lời dối và nói:
“Hắn ta là dân quân phục ngũ, hai chân là do bị thương ở chiến
trường”, cô bán dâm nửa tín nửa nghi, nhưng nghĩ đến tờ giấy bạc 50
đồng sắp được bay vào túi mình, nên đồng ý bán dâm.
Xong việc, La Mậu nói với mại dâm Lữ Mậu, người mua dâm là
người mắc bệnh phong cùi. Lữ Mậu nghe xong người cứng đơ, sau đó
căn theo lời tố cáo của quần chúng, cảnh sát bắt ngay tại trận ông
Trương, ông La tất cả 4 người do vi phạm và đưa Lữ Mậu đến bệnh
viện xét nghiệm, bác sĩ dặn cô phải sớm nhập viện để chữa trị bệnh. Lữ
Mậu rất hối hận, về đến nhà đã treo cổ tự vẫn.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương12>
===========================
GHI CHÚ: MỌI NGƯỜI HÃY VÀO NHÓM ĐỂ TẢI SÁCH NGỌC LỊCH BỬU PHIÊU VÀ ĐỌC NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ NHÂN QUẢ BÁO ỨNG

-----------

PHÁT TÂM IN TẶNG SÁCH ĐƯỢC THOÁT NẠN SÔNG BIỂN
Vào năm 1940, tôi tại chức tại Phúc Kiến, ông Mã của công ty
thuốc lá có tặng tôi một cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, sau khi đọc
xong, cảm thấy là một thuốc bổ để cứu thế gian, rất là quý báu. Trước
hai ngày, khi đưa tiễn vợ tôi về Thượng Hải, tôi mơ thấy có một người
mặc bộ đồ màu đen nói với tôi: “Cuốn sách này rất tốt, nếu mà có thể
in tặng 1000 ngàn, sẽ trợ giúp cho anh rất nhiều.” Khi thức tỉnh anh
dặn dò vợ mình, sau khi về đến Thượng Hải nhớ in sách biếu tặng.
Lúc ấy, con sông Giáp Giang do chiến tranh bị quân lính phong
tỏa, những người đi tàu đều phải đến cảng Phúc Thanh để đáp tàu
chuyển tải, người đến Thượng Hải mà đáp thuyền buồm đã chen đầy
bảy chiếc thuyền buồm. Trong đó, đã có 6 chiếc gặp sóng gió bị chìm,
chỉ có chiếc thuyền mà vợ anh ngồi được đi bình an. Thật là chuyện
không thể ngờ được. Thật là do Thần Phật phù hộ. Y như trong cuốn
“Tập Thái Thượng Cảm Ứng” đã nói: khái niệm thiện tâm đã dạy
trong lòng, tuy vẫn chưa thực hiện bằng hành động, thì đã được ban
phước lành, thật là chuyện không sai chút nào, tôi đưa câu chuyện đích
thân tôi từng trải, nếu như có nửa lời nói dối, tôi sẽ bị cho xuống địa
ngục chịu hình phạt đau khổ.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.10.12>
ghi chú: hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa

-----------

CẢN NGƯỜI IN TẶNG SÁCH, HỒN MA ÂM PHỦ ĐẾN QUẤY
Ông La Lượng Phong tại Trúc Tây đã từng ghi chú lại một đoạn
văn chương trong cuốn “Tự cầu đường tập” bên nhà họ Lý:
Vào năm Bính Thìn, ông Lưu Hạc Triều tại huyện Sơn Âm, dẫn
cả gia đình vào kinh hầu tuyển. Một ngày nọ, dọc đường gặp một phụ
nữ mặc áo hồng nói với ông ta: “Lúc tôi còn trên trần gian, muốn in
sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn. Lúc đó, ông nói in sách này
chẳng có tác dụng gì và đã cản trở tôi, làm cho tôi sau khi chết đi không
thể thoát khỏi sự tội hình đau khổ trong âm phủ”. Sau khi nói xong
chớp mắt đã biến mất.
Ông Lưu sau một hồi rất kinh ngạc và suy nghĩ lại, mới nhớ ra
Trịnh Ma Ma là người lúc trước làm mướn cho nhà ông. Hốt hoảng
lên! Về đến nhà thì bị phát bệnh. Lúc đang bệnh thường mơ thấy hồn
của Trịnh Ma Ma đến quấy rối. Bà vợ Thị Khương biết được sự tình,
mau thề nguyện đồng ý in gấp hai lần số lượng sách “Ngọc Lịch Bửu
Phiêu” để truyền bá. Miệng ông Lưu Hạc Triều phát ra tiếng nói giống
y như tiếng của Trịnh Ma Ma và nói: “Bệnh của chủ nhân là do đã mãn
thọ. Cho nên, một mặt tôi đến để báo trước sự việc, mặt khác tôi đến
dẫn ông ấy đi xuống âm phủ. Nay do đồng ý vì tôi in ấn sách “Ngọc
Lịch Bửu Phiêu” để truyền bá, tôi sẽ dựa vào công đức này tâu dưới
diêm phủ để được phước, có thể được siêu thoát, kiếp sau đầu thai
thành người. Nếu như có thể tăng số lượng in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu
Phiêu” không chừng chủ nhân có thể tăng thọ”.
Thị Khương lại quyên góp tiền để in thêm 400 cuốn sách, phát đi
tứ phương bá tánh để truyền bá khuyến thiện. Nửa tháng sau, hai vợ
chồng đều mơ thấy Trịnh Ma Ma đến tạ ơn và cung kính nói: “Nhờ
cuốn sách thiện này truyền bá, rất may mắn được sám hối tội lỗi trong
quá khứ, địa ngục dưới âm phủ đã cho phép tôi được đầu thai thành
người. Với lại chủ nhân ông cũng được kéo dài thọ sống và công đức
của bà chủ cũng không ít, sau này nhất định được báo phước muôn
ngàn”.
Sau khi vợ chồng thức giấc, tường thuật lại thấy chuyện trong mơ
đều giống nhau. Vả lại, bệnh tình của ông Lưu c ng có chuyển biến tốt
và đã mau chóng khỏi bệnh.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 4.5.3>


-----------

NGƯỜI CAI QUẢN LUÂN HỒI TRONG ÂM PHỦ
Cư sĩ Lý Bách Nông nói: có một người họ Lăng, làm giáo sư thông
dịch tiếng Anh tại Hồng Kông, tính người này rất là trung thực, sống
có nghĩa đạo. Lăng quân mỗi tháng đều phải ngủ suốt bảy ngày bảy
đêm, ông nói là đi làm chức vụ dưới âm phủ, cai quản chuyện luân hồi,
người người không thể tin. Hỏi ông ta trong bảy ngày thả ra bao nhiêu
vong linh? Ông ta nói có khoảng 100 mấy ngàn, lại hỏi có bao nhiêu
người cộng sự với ông? Ông ta nói rất nhiều. Hỏi ông ta trên cõi trời có
nhiều người đầu thai đến thế sao? Ông nói: “Người Hồng Kông, Quảng
Đông thích ăn bồ câu non, một ngày sát sanh vô số, những vong linh
của số bồ câu và động vật này thường sống sống chết chết trong vòng
mấy mươi ngày là thường phải chịu luân hồi, cũng đi qua tay của chúng
tôi.” Còn nói hai người đồng nghiệp có đại nạn, một là do bất hiếu, hai
là do tham nhũng oan pháp, sẽ phân biệt chết theo dưới vùng biển lửa,
kêu hai người không nên đến tỉnh thành trong lúc này. Hai người
không tin, vừa lúc ấy, hai người đi đến nhà bà con tại tỉnh thành vui
chơi, không ngờ mấy ngày này bị lũ lớn, cửa Tây lại bị cháy lớn, một
người chết trong nước lũ, một người chết trong lửa cháy. Lăng quân
còn nói dưới âm phủ chú trọng Phật Pháp nhất.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu

-----------

ĂN THỊT ẾCH, MIỆNG PHÁT ÂM THÀNH ẾCH
Vào ngày 23 tháng 11 năm 1987, “Báo Tối Hiền Giang” có đăng
tải: thị xã Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam có một học sinh sau khi ăn thịt
ếch xong tinh thần bị thất thường, miệng phát âm như ếch, ai nhìn cũng
cảm thấy kì lạ.
Giữa tháng 5 năm 1987, thôn 8, khu Bắc thị xã Nhạc Dương có
một trường học có một học sinh 17 tuổi, trên bãi cỏ trước cổng trường
phát hiện một con ếch to, bắt lên nhìn kĩ mới phát hiện là hai con ếch
dính liền nhà nhau. Anh ta bắt đem về nhà, lột da mổ bụng xong cân có 
trọng 
lượng hơn 2 kg, ngay tối hôm đó thì nấu ra ăn. Ai ngờ sau khi ăn xong
qua ngày hôm sau thì tinh thần bị thất thường, trong miệng hét ra liên
tục câu “Ộp! Ộp! Ộp!” như tiếng ếch kêu. Trải qua nhiều nơi chữa trị,
bệnh tình có chuyển biến tốt nhưng vẫn có di chứng bệnh về sau.
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu


-----------

GIẾT BA BA LỚN, SANH CON RA GIỐNG BA BA NHỎ
Có một ngày nùa hè năm 1968, thị xã Từ Cung tại tỉnh Tứ Xuyên
có vợ chồng anh Lưu Ngọc Hoài, Ôn Minh. Anh mua con ba ba lớn,
giết mổ để nấu ăn cho khỏe thân.
Sang năm sau ngày 13 tháng 3, Minh Anh sanh được một cậu con
trai. Họ đã có 2 đứa con gái trước, nay sinh được quý tử thật là vui
mừng. Nhưng cậu con trai này, sau khi nhìn vào thì thấy sợ hãi hết hồn,
đầu thì nhỏ, nguyên hình như cái mai con ba ba, hai tay hai chân co và
lật ngược lại, không tự cử động được. 1 năm tuổi còn chưa biết lật
người lại, chỉ nằm đó mà thôi, khi nào nổi giận thì giơ tay, giơ chân,
miệng la “Oa oa”.
Lúc sanh con ra chưa đủ 2 kg, đặt tên là Lưu Kiến Quốc, người
chỉ cao có 1 mét. Suốt đời cậu ra không đứng lên được, sinh hoạt hàng
ngày do người mẹ chăm sóc như cơm ăn, mặc áo, đại tiểu tiện đều phải
có người phụ, trị bệnh lại tiêu hết rất nhiều tiền. Ôn Minh Anh thừa
nhận là con ba ba đang đến đòi nợ.
Sự kiện này thực sự cả tỉnh Tô Châu không ai là không biết, kẻ
sát sanh ăn thịt thì sẽ bị trả báo, thiết thật phải biết cảnh tỉnh!
Nội dung của Ngọc Lịch Bửu Phiêu <chương 11.14>

-----------







Find us at:
Share on facebook: You don't have to be worried about the FACEbook Robots Auto Blocking Servers anyway. Bạn hãy nhấn nút sau để chia sẽ liên kết trang web mới này trên FACEBOOK. Xin các bạn cứ yên tâm mà chia sẽ vì sẽ không bị các chương trình auto robot servers kiểm tra tin rác ngăn chặn được đâu. Xin cám ơn FACEBOOK, INC,. and many others. Cheers! From Yours friends!!! Hi! Please click these buttons to share these links (these new other sites) on FACEBOOK. (You don't have to be worried about any FACEBOOK firewall automatic spam checking robot servers anyway, it is our warranty now. Thanks to our FACEBOOK. INC,. and many others. Cheers! From Yours friends!!! Hi!)
You can also find us at:
Trang Web Site 1: 
You can also find us at Web Site #1: 
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
or
Trang Web Site 2: 
You can also find us at Web Site #2: 
Click this button to Share on FACEBOOK: site02232d1
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
ANOTHER ONE AT:
Trang Web Site 3: 
You can also find us at Web Site #3:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn
or:
Trang Web Site 4:
You can also find us at Web Site #4:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
or:
Trang Web Site 5:
You can also find us at Web Site #5:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
Namah Shakya Mouni Buddha. Nam mo Awalokiteshwara Bodhisattwa Mahasattwa maha karunikaya karuna Tadyatha. Aum, Mouniye, Maha Mouniye, Swaha.

No comments:

Post a Comment

Feature Post Co Thuoc

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are just exactly some cold or flu influenza) Smart Curing Therapy Treatment _ Toa Thuoc dieu tri benh Corona hieu qua nhat hien nay

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are j...

Popular post Co Thuoc: