Saturday, November 28, 2020

Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh

Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh


Hoi - Duong Nhon Qua va Ngoc Lich Minh Kinh




Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh
Ấn Tống - Phật Lịch 2540 - 1996

Tựa


Của Giang-Triều - Viễn khắc bản lần thứ nhì


Xưa nay, làm lành thì đặng phước, dữ ác thì mắc họa, nhơn-quả báo-ứng rõ ràng, và đủ bằng chứng. Còn có lời nguyện là vái-van thì phải huờn nguyện là trả lễ. Còn lời nguyện tôi lấy làm tệ quá! là nguyên năm Kỉ - Vì, trào Thanh vua Gia-Khánh, tôi dạy học tại đất Tam-tấn, hai lần phát nguyện in sáu ngàn bộ Như-ý-lục là sách khuyến -thiện, mà cho người; vái nội mười năm in cho đủ số. Ba năm khắc mới rồi bản Như-ý -lục tại kính -kỳ, hụt tiền nên in mới năm trăm bộ! Thảng - mảng đã đến mười năm, té ra trả tiền lễ chưa đủ, mà cha tôi qua đời! Tôi ăn năn buồn rầu, vì cầu thọ cho cha không hết lòng, nên sống không đặng lâu dài, mà còn mắc nợ lời vái.

Qua tháng mười một năm Giáp-Thìn, tôi đến kinh-đô nữa, vào chùa Dao-nhiên, lại cầu đức Văn-Xương-Đế -quân cho nán năm năm nữa, sẽ in đủ số sách mà chuộc tội (Cái sự nguyện in thiên-thơ mà cầu việc chi, đã có nói trong tựa sách Như-ý -lục, ấy là nguyện vái cầu thọ cho cha sống lâu).

Qua năm sau là năm Kỉ-Vì, in thêm một ngàn bộ. Song sợ lòng xao lãng theo luật Công-quá -cách, và hay xem lời khuyên đời các tính trung hiếu, đều rút biên thêm sau cuốn Như-ý-lục, mùa thu khắc thêm rồi. Nay là năm Bính thân, in thêm một ngàn bộ nữa. Lúc nầy tôi dạy tại sông Thiên giang; tiền tuy ít, mà không dám bê trễ. Khi ấy xảy gặp thầy Cố - tình -Nhai là ngươi in kinh, nói chuyện cuốn Hồi -dương Nhơn quả, đưa cho tôi xem, coi kỹ lời nói việc lành việc dữ rành rẽ, bắt rùng mình, rởn óc, sợ run! Thầm xét sách của bậc thánh hiền, luật của tiên, kinh của Phật, là lời dạy của tam giáo (ba đạo) đều khuyên người chừa dữ làm lành. Nhưng mà cuốn Hồi dương nhơn-quả nầy người xem nghe càng dễ hiểu, đủ tin: nên các kinh khuyến thiện cho kinh nầy là đường tắt hơn hết. Nghĩ như vậy, tôi chia số tiền ấy, phân nửa in Như ý lục có phụ thêm, còn phân nửa khắc bản Hồi dương nhơn quả in cho đời, mới rồi lời vái trước. 



(Như vậy lời tựa nầy, là lần khắc bản nhì).


TỰA


Khắc bản Hồi Dương Nhơn Quả lần thứ ba


Dương-gian âm-phủ thưởng phạt cùng một lý không khác. Người trí thì hiểu, kẻ dốt không thông. Nay hỏi thử kẻ không thông học như vầy: "Lời xưa nói: Việc Âm-phủ chẳng nên tin tron, song cũng phải tin. Như vậy, tin tại lỗ tai hay tin tại con mắt?" Chắc trả lời rằng: "Tai nghe có lý cũng tin, mà sao bằng mắt thấy ".

Huyện Kim Khê, có chàng họ Lý tên Hạo-Chiêm, tự Chung-Tú, thuật chuyện chàng họ Giang tên Triều -Viễn, tự Giác Phi ở huyện Bạch - Hà, khắc thêm bản kinh Hồi-dương nhơn-quả, là khắc lần thứ nhì, do theo bản của Lâm-Tự-Kỳ. Nguyên tích Lâm-Tự-Kỳ ở huyện Hiếu -cảm, tỉnh Hồ-Bắc, bị quỉ Vô-thường lầm bắt hồn xuống âm-phủ, thấy vua Nhứt-Điện với các phán-quan xử nhiều án. Sau sống lại nhớ chừng, chép làm một tập, có vẽ hình vua Minh vương với Phán -quan xử các tội hồn và quỉ sứ hành hình, thích nghĩa minh bạch âm-luận rõ ràng. Rồi rủ đông người chung đậu, mướn khắc bản in cho thiên hạ phỏng vài ngàn cuốn (Như vây, Lậm-Tự-Kỳ khắc bản là lần thứ nhứt).

Khi ấy tại chợ Kiến-khê, có người bằng hữu đặng một bổn, muốn khắc bản, dùng tại xứ minh cho gần, vì Hồ-Bắc với huyện Bạch-Hạ đều xa cả. Chàng Lý-Chung-Tú cũng ở về quận Kiến-Khê khen ngợi lắm, khuyên rủ các vị háo thiện hay làm phước bố thí, đậu bạc khắc bản lần thứ ba, xin tôi đặt lời tựa, để in trước mặt kinh. Tôi nói: "Ai cũng muốn làm lành như mình. Nếu lấy sự tai nghe mà khuyên người hồi tâm, sửa lòng làm lành chừa dữ. Sao bằng lấy sự mắt thấy khuyên người, chắc ý tin thiệt chừa lỗi làm lành. Bởi vì tin chắc có kẻ thác đi sống lại, thấy việc âm phủ xử đoán mà thuật chuyện, dương-gian âm-phủ tuy cách nhau, mà thưởng lành phạt dữ cùng một lý không khác. Ta còn nói điều chi nữa? "

Trào Thanh niên hiệu vua Đạo Quang năm thứ tám, năm Mậu-Tý, nửa tháng tư, quận Kiến khê Trương-Hữu-Thiện rửa tay kính đề tựa nầy, tại Minh-Châu-Đường. 

Nay ông Lê-Nghiêm-Kỉnh với Thôn-Cựu-Giác, Cô-Thành-Đức cậy dịch. Hồi-dương nhơn-quả, còn tôi tín nguyện dịch thêm Ngọc Lịch. 

Thơ rằng:

Trần Lê lo dịch tích Hồi dương,
Phong nầm nghe kinh hiểu chán chường,
Sắc chỉ Minh-Vương phân xử thẳng,
Làm gương mấy án thế xem tường. 






HỒI DƯƠNG NHƠN QUẢ
SỰ TÍCH LÂM TỰ KỲ
BỊ QUỶ BẮT LẦM, SỐNG LẠI THUẬT CHUYỆN ÂM PHỦ
VUA NHỨT ĐIỆN XỬ 43 ÁN, NHỜ UỐNG PHÁT HUỆ MỚI NHỚ



Trong tỉnh Hồ Quảng có huyện Hiếu Cảm, tại làng Lê Thọ có một người học nho, họ Lâm tên Tự Kỳ, thuở nay ăn chay cữ sát sanh, hôm mai thường tung kinh Kim Cang, song không hiểu nghĩa lý trong kinh cho hết. Tánh ở công bình hiền hậu. Xóm làng đều kính trọng người.

Nhằm bữa mồng hai tháng ba, năm Mậu-ngũ, trào vua Gia-Khánh, Lâm Tự Kỳ dậy sớm thắp hương cúng lạy. Xảy đâu mấy con quỉ vật Tự Kỳ mà bắt hồn dẫn đi; đem đến miểu ông Địa sở tại xem xét rồi. Qua bữa sau giải tới miểu Thành Hoàng (là ông thần đình sở tại) xem xét nữa, nội ngày ấy giải đến đền vua Tây Nhạc, là chỗ hội các hồn mới chết, phỏng là ba bốn trăm hồn, vua Tây Nhạc phê nhận các tờ rồi giải qua Đô-thống-ti xử đoán. Bữa thứ ba mới tới Đô thống ti đủ mặt Lâm Tự Kỳ, thấy các hổn đều mang gông xiếng áo quần rách rưới. Quỉ xứ lùa hết vào dinh Chưỡng án phán quan (ông phán quan coi các án) mà phát đính bài mỗi hồn, đeo trên cổ, có đề phạm những tội gì. Tới phiên kêu tên Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lý Thọ, huyện Hiếu Cảm đeo đính bài bốn chữ " ác phạm ngưu đồ " (nghĩa là tên tội phạm hàng trâu), quĩ dẫn hồn Lâm Tự Kỳ vào hầu tra. Phán quan xem thấy trên đầu Lâm Tự Kỳ có chiếu hào quang nhấp nháng. Phán quan hỏi: " Người làm hàng bấy lâu, giết bao nhiêu trâu? ". Tự Kỳ bẩm rằng: " Mô Phật tôi thuở nay không giết trâu nào hết. Phán quan nói: ngươi không giết trâu sao đeo đính bài, trên tên họ ngươi có bốn chữ " ác phạm ngưu đồ? ". Mà ngươi phải ở làng Lý Thọ chăng? ". Tự Kỳ bẩm: " Tôi ở làng Lê Thọ, chớ không phải làng Lý Thọ ". Phán quan hỏi: " Ngươi mấy mươi tuổi? ". Bẩm rằng: " Tôi đã bốn mươi mốt tuổi. " Hỏi: " Sanh tháng ngày giờ nào? " Bẩm: " Sanh nhằm giờ Thìn, mồng ba tháng giêng. " Phán quan tra bộ rồi nói: Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ số tới 78 tuổi, cớ nào bắt tới làm chi! Vả lại: họ tên trong bộ tuy trùng tiếng trên đính bài, mà chữ không trùng, tên làng cũng đồng âm mà bất đồng tự. Huống chi chi ngày sanh tháng đẻ khác nhau. Nhà ngươi là Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ, còn ta sai bắt tên hàng trâu là Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lý Thọ kìa. Bởi nó mới 36 tuổi, làm hàng giết trâu chó phỏng vài trăm con. Hỡi còn tội khác kể không xiết, nên đáng đoạ tam đồ, là hành hình ba cách: trấn nước, đốt nấu dầu, đâm chém bằm xắt, kêu là thuỷ đồ, hoả đồ, đao đồ. Còn ngươi có chiếu hào quang trên đầu, chắc là ngươi làm lành tụng kinh kệ. " Bẩm rằng: " Tôi thuở nay không làm điều chi lành lắm, song chẳng dám làm việc dữ. Từ mười bảy tuổi ăn chay, đến nay đã hai mươi mấy năm, thường ngày dầu mắc việc chi gấp lắm, cũng lo tụng cho rồi một cuốn kinh Kim Cang, và niệm Di Đà vài trăm câu, rồi mới làm công việc. " Phán quan nói: " Như vậy thì là người lành: quỉ xứ bắt lầm một người thường cũng có tội, huống chi là người lành! Vả lại Thổ địa sở tại, với các vị thần xem xét đều sơ lầm, cũng có lỗi nữa, việc nầy quan hệ, chẳng phải nhỏ đâu! Vậy thời thiện-nhơn hãy ngồi đỡ mái tây, đợi tôi tâu cho vua hay, rồi sẽ đưa về dương thế. " (Nghĩa là hườn hồn sống lại). Xảy có hai người đồng tử mặc áo xanh dắt hồn Tự Kỳ đến nhà khách mái tây. Thấy trên tấm biển đề bốn chữ " Tây Phương chú tiết ": (Nghĩa là chỗ ở tạm mà đợi rước về Tây phương cho rõ ràng tiết nghĩa), lại có đối liễn cột cái như vậy:

Đại trượng phu, thủ bất khai sanh tử lộ. 
Kỳ nam tử, song mi số phá lợi danh quan. 


THÍCH NÔM: Đứng bực trượng phu chí cả, thông hiểu sự sống làm thì thác có báo ứng vầ phần hồn, nên không dám làm dữ, mà lại làm lành nhờ thần sau. Còn nam nhi cao kỳ thông thái ấy, sự danh lợi thì mất đức hạnh nên không lòng tham danh lợi, lo tu nhơn tích đức cho phần hồn. 

Khi ấy, Tự Kỳ vào trong nhà khách, thấy có ba người; một gái, hai trai, đều ăn mặc theo đạo sĩ (thầy pháp tàu) tay cầm xâu chuỗi lần, đồng đứng dậy, chắp tay mời ngồi. Đồng tử nói: " Thiện sĩ ngồi chờ một chút, đợi vua ngự sẽ vời ". Giây phút nghe ba tiếng trôngmở cửa đền. Đồng tử đến vời Tự Kỳ đến cửa đền, thấy trên cửa ngõ có treo tấm biển ngang, đề mười một chữ:

Kinh châu đẳng xứ sanh hồn thiện ác đô thống ti.


NGHĨA LÀ: Sở đô thống ti coi xử hồn dữ lành Kinh châu. 

Cửa ngõ đề đôi liễng rằng:

Âm dương bổn vô dị lý. Cảm ứng xát hữu minh trưng.


NÔM: Âm dương vốn không khác lý. Cảm ứng thiệt có quả tang. 

Đối liễng trên cột như vầy:

Gian hùng đáo thử, năng bất tâm hàn. 
Thiện sĩ lâm tư, tự nhiên khí tráng. 


NÔM:Gian hùng đến đó sao khỏi lòng nao. 
Lương thiện vào đây tự nhiên hơi khoẻ. 

Vảo cửa trong, thấy treo tấm biển bốn chữ. 

Phước thiện hạo dâm. 


NGHĨA LÀ:Thưởng người lương thiện, phạt tội tà dâm. 

Và đôi liễng như vầy:

Nghiệt cảnh phân minh xảo kế thiên ban nam tế yểm. 
Dạ đài thê sở công hầu cực phẩm bất tương nhiên. 


NÔM: Gông báu sáng loà, xảo kế nhiều bề không thể giấu. 
Để cầm thảm khổ, công hầu tột bực chẳng hề dung. 

Đôi liễng nữa rằng:

Thiên đường hữu lộ chi tu ốc lậu đổ thanh nhiên. 
Địa ngục vô nôm chỉ vị thốn tâm da ám địa. 


NÔM:Thiên đường có nẻo thẳng, cho hay nhà kín thấy trời xanh. 
Địa ngục không ngõ ra, cũng bởi tấc lòng theo đất tối. 

NGHĨA LÀ: Trong nhà kín nhà tối, coi như ban ngày, không dám làm quấy thì đặng lên Thiên đường. Nếu không lòng tối tăm, hay tính mưu thầm kế trộm, cơ xão độc ác, thì sa địa ngục. 

Vào tới đơn trì (sân sơn son), trên treo bốn biểu chữ Tam vô tư đường (nhà ba đều không tư). 

Kinh Lễ Ký nói: Thiên vô tư phúc, địa vô tư tải, nhựt nguyệt vô tư chiếu. Nghĩa là: Trời không che riêng, đất không chỗ riêng, nhựt nguyệt không chiếu riêng).

Đôi liễng như vầy:

Sanh bình nhứt vị hồ hành, kham thán tín tâm bất cập tảo. 
Kim nhựt thiên ban thọ khổ, cự tư hồi thủ khước hiềm trì. 


NÔM: Bấy lâu một thói làm hồ, tiếc nhẻ lòng tin khôn kịp sớm. 
Thuở nay nhiều bề chịu khổ, thương ôi dạ tũi khiến ra chầy!

Trông xa, đôi liễng trên cột như vầy:

Đối Quỉ sát, Dạ xa, mạc quái đương tiền nhan diệc ác. 
Thượng đao sơn, kím thọ, phương trì tích nhựt niệm đầu sai. 
(Kím thọ là cây có buộc gươm trên nhánh nhiều quăng tội lên). 

NÔM: Ngó Quỉ xứ Dạ xa, chớ trách cõi nầy nhiều mặt dữ. 
Lên đào sang, kím thọ mới hay thuở trước tấc lòng sai. 

Trên cao có treo tấm biển bốn chữ:

Thưởng khách hình oai. 
(Thưởng người lành, phạt kẻ oai dữ). 

Phía Đông treo tấm biễn bảy chữ:

Tân thiết vô gian Tăng nho ngục. 


NGHĨA LÀ: Mới lập thêm địa ngục hành không hở, là hành rồi cách nầy, dạy hành cách khác, để trị tội sãi tu giả, sĩ hại đời. 

Đôi liễng dài hai bên như vầy:

Thọ Bồ tát giái âm tá môn không ngu kì, vương pháp nhiêu Phật, pháp bất nhiêu. 
Độc Thánh hiền thơ phản tương nho thuật sát nhơn thê vỏng lậu, thiên vỏng bất lậu. 


THÍCH NÔM: Đọc kinh Bồ tát thầm ẩn chùa chiên dối thế, phép vua dung phép Phật chẳng dung. 
Học sách Thánh hiền, dám đem chữ nghĩa hại người, lưới đời lọt, lưới trời không lọt. 

Ấy là hành tội sãi tu dối, và kẻ học hay đặt đơn hại người).

Thuở ấy, các hồn đều quì dưới thềm. Phán quan thâu giấy tờ tâu rành sự bắt lầm v.v... Tần Quảng vương xem rồi, phán rằng: " Người nầy quả thiệt hiền lành, lại ăn chay tụng kinh, vả lại chưa tới số, đáng cho hườn hồn. Còn 4 quỉ Dạ xa bắt lầm, xử trượng mỗi tên tám chục roi, rồi giam lại sẽ kêu án. Lỗi Thổ Địa tại làng chỉ đi bắt lầm, ta cũng dâng sớ cho Ngọc Hoàng đế phạt tội. Rồi phán hõi Tự Kỳ rằng: " Người bấy lâu tụng Kinh chi? ". Tự Kỳ tâu: " Tụng kinh Kim Cang ". Phán: Hay lắm! Mà tụng bao nhiêu cuốn? ". Tâu: " Tôi không nhớ, song tôi ăn chay hăm mấy năm, còn tụng kinh mới 7 năm. " Vua truyền Phán quan tra coi tụng đặng bao nhiêu cuốn. Phán quan giở bộ đếm cọng đặng 3503 cuốn. Phán rằng: " Số ngươi còn nhiều, ước tụng cũng dư một tạng (một tạng là 5848 cuốn). Mà ngươi có rõ nghĩa lý trong kinh chăng? Tâu: " Tôi khong hiểu cho hết. " Phán: " Nếu hiểu nghĩa kinh mà ở theo, và khuyên người nữa, thì công đức lường không xiết. Chớ như tụng không, thì công đức mười phần, đặng có ba phần. ". Tự Kỳ tâu: " Mướn người tụng kinh thế cho mình có đặng phước chăng? ". Phán: " Mướn người tụng mười phần, đặng một phần phước. Nhưng mà còn hơn kẻ không tụng. Khi trước người tụng kinh Kim Cang, chưa khỏi sai siển. Lúc đương tụng trong lòng không thanh tịnh hoăc nhớ mấy việc nầy việc kia. Ấy là miệng tụng láy có, mười phầm được phước không đặng hai ba phần. Vậy từ rày sắp sau phải rán sức suy cho thông nghĩa lý, miệng niệm, lòng tưởng. Gặp ai cũng giảng bốn câu kệ trong kinh Kim Cang, thì mới có trông về Tây phương đặng. " Phán quan tâu: " Người nầy cách thế gian đã năm ngày, trái tim phải lạnh, chắc trong nhà liệm rồi, e khó sống lại. Nếu Ngọc đế tra ra, ắt không tiện lắm. Xin vương gia cho hườn hồn lập tức. " Vua phán rằng: " Không hề chi. Ngày mồng 2, 12, 22, ngày mồng 5, rằm, 25, mồng tám, 18, 28 đều là ngày lệ xử các phạm hồn tại đây. Nay là ngày số 8 (mồng 8) cũng nhằm kỳ sữ. Ta thấy người đời không tin nhơn quả báo ứng, dễ khinh lời thánh, chê bai Tam Bảo (là Phật, Pháp, Tăng: Phật, kinh luật thầy tu), các tội ấy rất nhiều. Nay cầm thiện sĩ một ngày, xem ta xử đoan lành dữ, nữa sống lại, thuật chuyện cho người đời nghe. Mau cho thiện sĩ uống một hườn thuốc Noản Tâm nầy thì trái tim ấm tới bảy ngày. " Rối phán rằng: " Phàm các hồn đến cửa nhứt nầy, quá bảy ngày mới giải qua chín vua Thập điện, thì sống lại không đặng. " Tự Kỳ tâu: " Vì cớ nào mái tây có nhà khách gọi là: Tây phương chú tiết, người phàm đến đó đặng chăng? ". Vua phán: " Không phải đến đặng. Phàm người thác, đem hồn tới vua Tây Nhạc xem xét, phê rối mới giải đến đây. Trẩm xét rõ đáng luân hồi mới phê vào tờ, rồi gởi qua vua Đông Nhạc xem rõ mới phát một tờ cho đi đầu thai, hồn ấy mới đặng đầu thai. Còn trừ ra ai trọn lành không dữ, hoặc ăn chay tụng kinh chơn tu, thì trẩm không phép xử đoán, nên cho ở tạm mái tây, đợi trẫm viết điệp triệu Kim đồng Ngọc nữ, đem tàng phương báu, rước hồn lên Thiên đường. Tâu: " Sao gọi là Thiên đường? ". Phán: " Cõi thiên đường sáng láng rộng ngay. Nếu lòng ai sáng láng, ở rộng rãi ngay thẳng, thì hồn lên Thiên đường. " Tâu: " Còn địa ngục thế nào? ". Phán: " Chốn địa ngục thấp dơn đen tối. nếu ai lòng ở hèn hạ, nhơ nhớp, xấu xa, mê muội, thì hồn sa địa ngục ". Tâu: " Những hồn lên Thiên đường hoặc sa địa ngục có luân hồi (đầu thai) chăng? " Phán: " Đã lên thiên đường, hoặc sa địa ngục, đâu còn đầu thai, song cũng có khi chưa đứng bực cũng còn đầu thai nữa ". Tâu: " Như vậy bực nào phải luân hồi? ". Phán: " Trong một ngàn người, may một hai người lên Thiên đường. Còn ngàn người phỏng vài trăm người bị cầm địa ngục, . Còn bao nhiêu (800) đều luân hồi hết. Bởi vì ai trọn lành không phạm một điều dữ, mới đặng lên Thiên đường. Nếu ai trọn dữ, không làm một điều lành, mới bị cầm địa ngục. Còn ai không lành không dữ, hoặc nữ lành nửa dữ đều phải đầu thai. " Tâu: " Hoặc kẻ trước làm lành, sau làm dữ, hoặc người trước làm dữ sau làm lành, có kẻ dữ nhiều lành ít, kẻ thì dữ ít lành nhiều, vương gia mới xử làm sao? " Phán: " Trước làm lành, sau sanh dữ, thì ghi dữ, chẳng ghi lành. Trước làm dữ, sau chừa lỗi làm lành, thì ghi lành, chẳng ghi dữ. Còn dữ nhiều lành ít, đem lành trừ dữ, còn dư bao nhiêu dữ, thì hành mà trả họa. Dữ ít lành nhiều, thì đem dữ trừ lành, còn dư bao nhiêu lành thì trả phước. " Tâu: " Nếu ghi dữ chẳng ghi lành, thì những kẻ trước làm lành, sau làm dữ cũng như trọn dữ một thứ. Còn ghi lành chẳng ghi dữ, thì những kẻ trước làm dử sau làm lành, cũng như người trọn lành một thế, không phải chẳng chia nặng nhẹ sao? " Phán: " Chẳng phải nói như vậy! Bởi người làm lành chẳng trọn, thì Ngọc Đế ghét lắm, cho nên ghi dữ, chẳng ghi lành, song không phải chẳng kể sự lành của nó đâu, nhưng tính giảm hết phân nửa việc lành. Còn kẻ ăn năn chừa lỗi, thì Ngọc Đế thương lắm, nên ghi lành chẳng ghi dữ, song chẳng phải không ghi dữ một chút nào, nhưng mà giảm phân nửa việc dữ. " Tâu: " Tôi thường thấy người làm lành mà bị nghèo nàn. Còn kẻ dữ lại đặng giàu sang. Trời báo ứng không rõ ràng, nên hiểu chẳng thấu! ". Phán: " Người lành mắc hoạ, e mặt lành mà lòng chẳng lành. Kẻ dữ mà đặng phước, e mặt dữ mà torng lòng không dữ. Thượng đế trong thiệt tình, chớ không cần sự làm mặt bề ngoài. Bởi làm mặt bề ngoài thì dối người đặng, chớ lòng dối trời sao đặng. Xưa nay quả báo chắc không lầm. Song việc nhơn quả báo ứng có nhiều cách. Có khi dữ lành kiếp trước mới trả đời nay. Lành dữ đời nầy, kiếp sau mới trả. Hoặc đời nào trả theo đời ấy, có khi mới làm lành mà dữ trả lập tức nhãn tiền. Còn như người nói: " Dữ đặng phước, lành mắc hoạ ". Là bởi lâm lành, làm dữ đời nay chưa bao nhiêu mà mắc trả lành lớn dữ lớn, kiếp trước chưa rồi, làm sao người hiểu thấu. Bởi vì trả kiếp trước của chúng nó, lành cho hưởng phước, dữ cho mắc hoạ, cho dứt nợ kiếp trước. Rồi mới xét lành dữ đời nay thiệt giả, nhiều ít, lớn nhỏ, trừ cấn, hoặc trả lại đời nay, hoặc để dành kiếp sau hoặc trả cho con cháu nó. Việc báo ứng theo luật âm, hoặc sớm muộn, hoăc kín đáo, hoặc rõ ràng; chắc không sai một mảy. Cái ý nhiệm mầu, người biết sao thấu? " Tâu: " Sao gọi là đời nay mà chịu trả nhơn quả kiếp trước? " Phán: " Như con nít mà bị té sông, lửa cháy, bị đâm chém, bị tật bịnh, hoặc cọp ăn, rắn cắn, ngựa đạp, xe cán, trâu báng, hoặc các việc rủi ro v.v... thì đời nay nó đã biết làm điều chi dữ đâu, mà bị trả hoạ, là vì trả hoạ kiếp trước. Lại còn học trò mới đôi mươi, mà đi thi đỗ, hoặc là con dòng mà đặng thế chức, hoăc hưởng tổ ấm, phụ ấm, hoặc các việc may mắn thinh không, v.v... thì đời nay tuy chưa làm lành, mà đặng hưởng phước, ấy là trả lành kiếp trước. Coi đó mà suy, thì hiểu lành mà mắc hoạ, dữ mà đặng phước là tại cớ ấy. " Tâu: " Nếu người lành lên Thiên đường hết, cũng không luân hồi, thì trong đám đầu thai chẳng là không có người lành sao? Còn kẻ dữ đều cầm địa ngục, cũng không luân hồi, thì trong đám đầu thai không có kẻ dữ rồi! ". Phán: " Người lành cũng có khi luân hồi một hai, là vì mười phần lành, còn chưa trọn lành một phần, thì cũng cho đầu thai xuống cõi trần chịu cực một phen, cũng như tu thêm cho trọn lành, rồi mới được về Thiên đường, ấy là trời lấy lòng tốt mà bó buộc người lành đó. Còn kẻ dữ có khi một đôi người đặng luôn hồi, là vì mười phần dữ chưa trọn, nên cùng dung chế, cũng cho luân hồi, chịu cực trăm bề, hành phạt một phen cho đến thế, làm cho biết ăn năn chửa lỗi, ấy cũng nhơn từ của Thượng đế như lòng mẹ thương con không nỡ giết đứa dữ. " Tâu: " Bắt người lành đi đầu thai, thì người lành khổ lắm,! Còn kẻ dữ cũng được đầu thai, thì kẻ dữ rất may chăng? Sao trời không phân biệt? " Phán: " Không phải vậy đâu! Cho người lành đầu thai hưởng giàu sang vinh hiển, là Thiên đường tại đời, sao gọi chịu khổ? Còn cho kẻ dữ đầu thai, chịu khó hèn, tai nạn, cũng như địa ngục tại dương gian, sao gọi rất may? Huống chi người lành hưởng cảnh thuận, nếu tu nhơn tích đức thêm, thì lên Thiên đường. Nếu hưởng phước giàu sang mà làm dữ quá, trừ hết phước dư tội thì cũng không siêu được. Nếu kẻ dữ bị cảnh nghịch tai nạn mà biết ăn năn vì lỗi trước, lo tu đền tội, thì cũng hết khổ, bằng không tu thì đoạ địa ngục Đả ưng, hết trông đầu thai nữa. Coi đó thì đủ biết sự hoạ phước tuy là trời định, song lòng người lành dữ cũng đổi dời, việc may rủi tuy ở số phần, mà lòng ngưởi ở dữ lành cũng đổi số mạng. Cho nên hoạ phước số mạng không chắc gì, do tại làm lành làm dữ mà đổi dời hoài. " Tâu: " Như vậy Thiên đường Địa ngục siêu-đoạ là tại lòng người muốn tự do làm chủ. Nếu tôi là người không làm chủ cái tâm tôi, ấy là: Thiên đường nọ, có đàng chẳng bước; Địa ngục kia không cửa lại tìm!. Phán: " Phải, xét lại người là người sẽ lên Thiên đường, nên lòng mau tỉnh như vậy. " Nói chuyện dứt rồi, Phán quan tâu: " Các phạm hồn tựu đủ hầu tra. " Vua xem lời phê của vua Tây Nhạc rằng: " Bọn Từ Húc, cộng 752 hồn, đang đầu thai. " Vua đều phê cho chúng nó được giải qua vua Đông Nhạc lãnh tờ đầu thai hưởng phước. Coi qua lời phê trọn lành ba hồn được siêu, kể ra sau nầy:

1)Một nàng thiên nữ là Liễu thị, chí hiếu với mẹ chồng nuôi con đau cực khổ, lại hay bố thí, cho kẻ tù ăn: xuất tiền sửa cầu đắp đường, làm nhiều việc lành, không nói một lời tổn đức, chẳng làm một điều chi hung dữ. Lại ăn thâp trai đã mười năm và hay tụng kinh Phổ Môn nữa. 

2)Một tên thiện dân là Dương Thăng, thảo cha mẹ, thương anh em chị em, cung kính kẻ lớn, ở nhơn từ rộng rãi, hay thương người. Không ănn gian một đồng tiền, chẳng tham lam ngân lượng bạc. Cứu người ngặt nghèo, giúp người gấp rút. Vài trăm người nhờ ơn giúp giùm, mấy chục nhà nhờ tay cứu sống. Công ơn bố thí lớn lắm. 

3) Một vị thiện sĩ là Trương Quan Diện ở huyện Võ Lăng, tuy nhà nghèo, mà thủ phận, cực khổ mà bền lòng. Đặt sách vài trăm cuốn, đều nói chuyện khuyên đời. Dạy học trò giữ nhơn nghĩa làm đầu, kết bạn hữu ngay tín làm gốc. Tuy chẳng an lạt mà lòng lành như ăn chay. Tuy chẳng niệm Kinh, mà lời hiền như niệm kệ, lòng mình sạch sẽ, lời nói chẳng dữ hung. 

Ba vị ấy đều đáng đầu thai về Tây Phương, được liên-hoa hoá thân bực thượng (như Na Tra khỏi cha mẹ sanh nữa).

Vua xem lời phê của vua Tây nhạc rồi, phán rằng: " Mau vời Kim đồng Ngọc nữ đem tàng phướn báu, xuống rước ba hồn qua Tây phương (Kim đồng rước hồn nam). Ngọc nữ rước hồn nữ), còn tại ti nầy, phải nổi trống trổi nhạc, thắp hương, chưng hoa, sắp đặt bạc -tiền mà đưa ba vị ấy. Còn các hồn phạm tội, chiếu y theo số thứ tự trong đinh bài, dẫn vào trẫm xử. "

Phán quan tâu rằng: " Hồn phạm số thứ 1 là họ Dư, ở huyện Huỳnh châu, tú tài thi đỗ cử nhơn, hai khoá đậu tấn sĩ, đặng bổ chức tri huyện, huyện Tú thuỷ, trào Thanh, lên lần tới chức chủ sự sở hình bộ, sau làm chức lang trung sở công bộ; lại sang qua chức thị lang sở hộ bộ, rồi qua sở lại bộ đặng năm tháng mới thác. Tra án tên phạm nầy, từ ngày đỗ tú tái tới làm huyện, không làm một mãi lành, đến làm sở hình bộ, giết oan 13 mạng. Làm sở công bộ, ăn hối lộ rất nhiều. Làm sở hộ bộ, ăn hối lộ nhiều bạc lắm. Sau lên sợ lại bộ càng dạn hơn nữa, bán chức quan mà ăn, miễn đầy túi mình, không cần ai khóc. Tội nầy đáng đoạ Địa ngục A Tì, không đặng đầu thai. " Họ Dư đứng dậy bái và tâu rằng: " Tôi đã làm quan lớn, xin Vương gia châm chế cho tôi còn thể diện ". Vua nạt và phán rằng: " Khốn kiếp! Dương gian trọng người chức lớn, tại Âm phủ trọng đức chớ chẳng trọng tước quờn; kẻ đức hạnh lớn, dầu ăn mày trẫm cũng kính nể. Nay ngươi còn ỷ thế làm quan mà cự với trẫm sao? quỉ Dạ xa lấy chùi sắt mà đập đứa nầy cho chí tử. " Họ Dương tâu rằng: " Tôi có ăn thập trai, tụng kinh Chuẩn đề. " Phán rằng: " Ngươi ăn thập trai niệm chú Chuẩn đề, mà cầu công danh bền bỉ. Ngươi phải hiểu nghĩa hai chữ Chuẩn đề. Phàm ngừơi muốn cầu giàu sang công danh, hoặc cầu con, cầu trường thọ, thì phải chừa mười điều dữ là: chẳng kính trời đất, chằng kính tam quan, chẳng thảo cha mẹ, chẳng thuận anh em, chẳng ngay vua chủ, chẳng tin thiệt, chẳng lễ nghi, chẳng xử nghĩa phải, chẳng thanh liêm trong sạch, chẳng biết hổ thẹn. Đã chừa mười điều dữ ấy, lại còn ở theo luậ Công-quá-cách, mổi ngày tụng kinh Cảm ứng cho nhớ mà sửa lòng, không dám hở một bữa, chẳng dám tính một điều trái lẽ. Như vậy thì ăn thập trai, niệm chú Chuẩn đề cảm động lòng trời. Còn ngươi bầy lâu làm dữ nhiều điều, cứ bia tiếng Chuẩn đề, mà trông trả phước, là theo ngọn, chẳng giữ gốc, mà cảm động vào đâu? Nhằm ngày thập trai, ngươi quên ăn mặn lỡ, bữa khác ăn tray mà trừ, hoặc đám tiệc chúng ép, thì ngươi đình ngày chay mà ăn mặn. Theo phép đã ăn chay, thì không lẽ ăn bữa khác mà thế ngày quên, cũng không đặng xả đỡ ngày chay mà ăn mặn. Nếu thế hoặc xả thì không phải lòng thành, còn kể chi nữa? Ăn chay thập như ngươi đó, lại càng thêm tội, đừng cãi nhiều lời! Mau dẫn nó qua A Tì địa ngục

- - - - - - -



Kếu số thứ nhì họ Tần, ở huyện Hớn Dương, Tú tài thi đậu tấn sĩ, làm quan tri phủ, phủ Thái Nguyên, ba năm mới thác. Phạm nầy khinh dễ bực thiên đình, không kể mạng người, trấn nhậm ba năm, ăn hối lộ tới mười mấy muôn trượng, không cần việc nước. Đời nay ngươi đặng thi đỗ làm quan, là vì kiếp trước là thầy chùa, có công dọn đường núi và đắp lề vài trăm trượng (vài ngàn thước mộc). Nào hay đời nay đổi lòng tới thế, mà phụ ơn Ngọc Đế ban thưởng!

Phán quan đọc án rồi. Họ Tần tâu: " Tôi khi sống mê muội không dè có việc Địa phủ xự tội như vậy. Nay mới ăn năn tỉnh lại. Trong nhà tôi còn vài muôn lượng bạc. Nay thấy đền vua hư cũ, dưới đền nhiều hồn đói rách. Tôi tình nguyện dưng hết bạc mà tu bổ đền vua, còn dư thì bố thí cho hồn đói mà đền tội chẳng biết ý vua định thế nào? " Phán rằng: " Nay ngươi ăn năn đã muộn quá! Đền Âm phủ của trẫm, há dùng của vạy-vọ mà tu bổ sao? Còn ngạ quỉ (ma đói) là tại chúng nó khi sống làm dữ nay phải chịu khổ, ai cần bố thí cho nhọc công. Huống chi lúc người còn sống, hay kiếm mưu nầy thế kia mà thâu của cho nhiều, nào có thương ai đói mà bố thí. Phải chi người làm phước cho sớm, thì đã tiêu hết tội rồi, đâu có ngày nay mắc án. Mà lại vài muôn trượng đó, có phải của ngươi sao? Mười mầy năm trước, trẫm đã cho oan gian đầu thai làm bốn trai hai gái của ngươi, ngươi thác chưa đầy hai tháng, chúng nó theo đàng điếm bài bạc đã phá hết ráo sự sản rồi; ít lâu đây con trai ngươi sẽ đi trộm cướp, con gái ngươi sẽ vào lầu xanh, làm hư tiếng tông môn không tốt! " Họ Tần nghe qua động lòng khóc ngất, tiếng rống ồ ồ! Quỉ sứ lấy chùi đồng đập đùa, té xĩu tại đất. Giây phút tỉnh hồn, bị dẫn qua Địa ngục. 

- - - - - - -




Phán quan truyền dẫn hồn kế đó vào nữa, đọc án rằng: " Phạm hồn họ Triệu ở huyện Quỳnh Châu, trước làm thơ lại (thơ ký), sau lên chức huyện thừa tại huyện Vĩnh Bình mới chết. Hồi 18 tuổi làm dữ rất nhiều. Đến làm quan, ăn của chúng, hại mạng dân. Sai thâu thuế kẹp khảo dân nghèo. Lo vừa ý quan trên, khắc bạc dân dưới. Đáng ghét hai khoản nầy: Đi xét án nhơn mạng, cứ theo tiền mà làm thiệt giả, nghĩa là lo bạc thì quả bị giết cụng gọi là tự vận, không lo bạc thì tự vận cũng vu là giết. Còn xứ điền thổ hễ ai lo nhiều bạc thì đặng ruộng đất. Nên trong túi tham, đựng vài ngàn lựơng vàng. Bởi thế, khi còn sống đã phạt tuyệt tự, mà chưa hết tội. Nay trước nấu dầu, mà rửa hờn cho dân, rồi sẽ cầm địa ngục A Tỳ không đặng đầu thai nữa. 

Họ Triệu tâu: " Lời xưa nói: " Vì nghèo mới làm quan. Như vậy ăn của dân cũng là phải. Nếu buộc sự ăn hối lộ mà làm tội, thì kẻ làm quan lấy chi mà nuôi gia quyến và đãi quan khách, của đâu mà đi lễ quan trên? " Phán: " Như minh oan cho người, hoặc lấy lẽ ngay mà xử cho trúng phép công bình theo luật. Kẻ khỏi hàm oan, người ngay khỏi bị hại, người cám ơn vì xử công minh, nếu chúng nó giàu có cảm ơn, nên vui lòng mà cho tới bạc ngàn, mình cũng không lỗi. Chớ như không lợi ích cho người chút nào, lập thế bày mưu mà ăn tiền, thì oan ức người ngay lắm tội biết bao nhiêu. Ngươi nghĩ thử, những của ngươi ăn đó, có phải nghĩa công bình chăng? Người ta có vui lòng tình nguyện đền ơn cho ngươi chăng. Có đáng công ơn theo lẽ minh oan, tự nhiên mà người cho chăng? Phải là kiếm cơ lập thế mà cướp của người chăng? Ngươi còn già miệng chữa mình sao? " Họ Triệu tâu: " Tôi có ăn chay vía tam quan (là ba rằm lớn, tam ngươn: rằm Tháng giêng vía Thiên quan, rằm tháng bảy vía Địa quan, rằm tháng mười vía Thuỷ quan) thiệt là trong ba vị tam quan đại đế bảo hộ. Nào hay bây giờ bị hoạn nạn nầy, ba vị tam quan đại đế, sao chẳng đến mà cứu tôi! " Phán rằng: " Lời nói dữ ấy, tội đáng bằng hai, lấy bàn sắt vã miệng nó mười cái? Ba vị tam quan đại đế là Thiên quan, Địa quan, Thuỷ quan, ba vị thần ngay thẳng, phò hộ ngừơi lành. Người làm lành, tuy chẳng ăn vía ba rằm lớn ngàu cũng thêm phước, há bảo hộ ngươi là bọn không nhơn nghĩa sao? Nếu người làm lành mà ăn chay, thì chay ấy giúp thêm việc lành. Nếu làm dữ mà ăn chay, là giới việc an chay mà làm dữ, sao dám nói hồ đồ? Truyền dẫn qua ngục ". 

- - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Châu ở huyện Đông Thành, qua ngụ đất Hớn Khẩu, nổi lò thợ bạc, hay chế bạc thấp, bạc giả mà hại người mất tình nghĩa, hư thể diện; làm tội nhiều lắm. Trừ ra một tội đáng giết là: Một người buôn bán ở huyện Kỵ Thuỷ đem một trăm ba chục lượng bạc lọc có dư, mướn y nấu ra bạc chín (nghĩa là bạc mười nấu ra bạc chín, chín chỉ bạc pha một chỉ đồng). Nó lấy hết phân nửa bạc lọc pha đồng phân nữa, nầu ra bạc năm, kẻ buôn bán lầm sau buôn bán nửa đường mới hay bạc năm bị lỗ tức mình mà chết. Tuy ngươi ăn gian sáu chục lượng bạc lọc, bị thời khi uống thuốc đã hết tiền hết bạc, mà còn hỡi còn. Tra bộ trõn đời ngươi, không có điều lành mà trừ cấn; nên truyền dẫn qua hoả thành (thành lửa) mà thiêu trọn một tháng, cho người bớt tức. Rồi giam vào địc ngục, không đặng luân hồi. 

- - - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Tiền, ở huyện Ma Thành, xóm Trịnh Gia, làm cai trong huyện ấy. Cả đời hay xúi chúng kiện thưa mà ăn chia của đem lo. Nó có xúi người cháu chồng, kiện thiếm dâu va thủ tiết, đoạt sự sản của thiếm dâu, mà ăn lo lót (ăn chia) hơn năm trăm lượng bạc. Tiết phụ bị hiếp, tức mình phải bịnh mà chết! Huống chi còn nhiều tội dữ khác, có lẽ nào mà đặng đầu thai, dẫn nó quăn lên núi đao mà trị tội ". Họ Tiền tâu: " Tôi có cử sát sanh sáu bảy năm, nhờ ơn vua dung chế ". Phán: " Người đừng nói khào! Đã biết cử sát sanh là việc lành, sao ngươi biết tiếc mạng vật, mà chẳng thương biết mạng người? Ngươi thuở nay xúi kiện cáo, tranh đua việc quấy, lại chẳng biết mấy mạng. Cứu sống mạng vật mà giết chết mạng người, ấy là không phân gốc ngọn lớn nhỏ Thương Đế có vì sự nhỏ mọn ấy, mà tha tội lớn hay sao? Huống chi ngươi cử sát sanh mà làm mặt tốt, mua danh lành, chớ không phải lương tâm chẳng hở. Song ngươi kêu nài lắm, trẫm tha khỏi cầm ngục đao sơn, cho được đầu thai mà phải làm con nhà nghèo, mang hai tật câm và quáng, đi ăn mày trọn đời, nếu biết thân mà giữ bổn phận đền tội mãn đời, sau sẽ nghĩ lại ". 

- - - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Thơ ở phủ Thừa Thiên, con chức Điển sử, bổ làm thơ lại (thơ ký) tại phủ. Ba mươi tuổi mà chết. Hồi xuân xanh đánh bóng quến người, phá của chúng, hại mạng người, không biết bao nhiêu tuy tại chúng nó đắm sa, song cũng tại ngươi tham của mà quyến luyện; không thể nào dung tội ngươi được. 

Huống chi ngươi trưởng thành lại càng đắm sa tửu sắc lấy vợ con người, chẳng biết bao nhiêu mà kể. Nếu nàng nào không thuận, thì lấy thế quan, mà vu hoạ hại người! Cho nên vào nhà nào, phụ nữ cũng sợ oai mà chịu hiếp. Tội dâm ác thái quá, giết cũng chưa vừa, đáng giam vào trong ngục đao kiếm ". Phán quan tâu: " Tên tội này có hiếu với mẹ lắm. Mẹ ngoài sáu mươi tuổi đau nặng. Y sắc thuốc nếm rồi mới dâng, đêm nằm không cổi dây nịt. Vài tháng như vậy con mẹ bịnh ngặt, ăn không đặng, y cắt thịt bắp vế nấu cho mẹ uống đỡ nước cho bổ, sống rán vài ngày như vậy cũng nên rộng dung chút đỉnh ". Phán: " Thượng Đế tuy ghét tội dâm ác lắm, mà rất trọng con thảo. Bởi nó biết nuôi cha mẹ là hiếu, mà chẳng biết giữ mình mới trọn hiếu. Trẫm tha cầm ngục đao kiếm, lại đặng luân hồi, song làm điếm lầu xanh mà đền tội dâm ác. Nếu sau biết ăn năn sẽ nghĩ lại ". Phán rồi cấp điệp (giấy) qua cho vua Đông Nhạc mà đầu thai. 

- - - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Tôn ở huyện Võ Xương, 19 tuổi cải họ Trương đi lính hầu tại phủ. Đã hay bợ đỡ quan phủ, lại thạo bua việc. Lớn mật dạn dĩ, gian hùng hẳn hoi. Hầu việc các dinh, ông quan nào cũng bị y nói gạt hết. Đến đổi mạng người sống thác, đều tại tay y; việc phải quất đặng thất, đều tại miệng nó. Sự dữ đã đầy, tội đếm không hết. Luận tội dương gian khó thứ, luật hình âm phủ không dung. Mau dẫn qua địa ngục Đao san ". Họ Tôn tâu: " Tôi có dùng năm chục lượng bãc mà thếp vàng cho Phật tại chùa Báo Ân. Lại cúng bạc dầu thắp đèn ăn chay, niệm Phật Di Đà một ngàn câu ". Phán: " Đờ khốn nà! Nếu làm dữ, sau biết ăn năn chừa lỗi, làm phước niệm Phật, trời thì trời tha tội. Có đâu mượn tiếng cúng chùa niệm Phật, mà làm dữ thẳng tay, Phật Di Đà há giúp sức cho người làm dữ sao? Ví dụ: Kẻ vì tửu sắc sanh bịnh, uống thuốc bổ dưỡng lại. Nếu cử tữu sắc, thì uống mới hay. Nếu mê sa tữu sắc như xưa, thuốc bổ sao cho lại tửu sắc? Lẽ nào thuốc giúp sức cho kẻ tữu sắc nỗi? Dẫn nó qua ngục cho mau, đừng để cãi rán?

- - - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Ngô, ở huyện Huỳnh Cang hồi nhỏ đi học, thi khoa tú tài không đậu, học qua nghề viết đơn mướn ". Vua phán: " Xưa nay kẻ viết đơn thưa kiện, không có ai hiền lành bao giờ.: Họ Ngô tâu: " Tôi là kẻ đại thơ cứ viện cho kẻ dốt, chớ không làm điều chi dữ. " Phán: " Kẻ bố thí chẳng phải tại của mà tại lòng; kẻ chém giết, tội chẳng tại gươm mà tại ý. Người đã viết đơn kiện cáo, trong ý tính nói bó buộc cho gắt như muôn ngọn lửa cháy lau khó dụt. Nghiên mực độc hơn ao huyết, ngòi viết bén quá lưỡi gươm. Đặt một chữ, phá nhà người rất dễ; sửa một nét, giết mạng chúng như chơi. Dưới lửa độc, đủ đồ roi kẹp; trên tờ đơn, đều cửa ngục hình. Sưa đi còn sửa cho hay, buộc trước lại buộc sau cho gắt! Kẻ quả tang muốn bắt cho mau người không tội quyết gài cho chắc. Có khi trợ tiên-cáo mà nói gián, gặp lúc binh bị cáo mà hại tiên-cáo (nguyên cáo). Nhiều lúc lời mà làm bộ giết tiên-cáo mà hại bị-cáo. Lòng độc như yêu khôn độ, mưu său tợ quỉ khó dò. Kể sao cho xiết sự tội ác của ngươi, mau dẫn qua mổ bụng rút ruột, hành cho đủ tam đồ, rồi sẽ giam hoài nơi địa ngục. "

- - - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Trần ở huyện Ky Thuỷ, bị án ăm trộm. Vua xem án rồi, phán rằng: " Người may đặng làm người, sao theo trộm cướp?" Họ Trần tâu: " Tôi hồi nhỏ thiếu ăn thiếu mặc, cha mẹ, em út, kêu đói như bộng, vã lại năm thất mùa, lúa gạo mắc, xâu gao thuế nặng, cũng chẳng đã mới đi trộm cướp!" Vua ngó phán quan mà phán rằng: " Người nầy tuy là ăn trộm, song nói cũng phải lẽ. Hãy tra bộ sổ cho kĩ, coi lám các an ra thể nào? " Phán quan tra bộ rồi tâu rằng: " Họ Trần có giựt đồ của kẻ buôn bán, đi ngang núi Mai Lảnh tại huyện Ky Thuỷ. Sau bị bắt nguội, giải đến quan họ Từ, vốn là người ở huyện Ngô, phủ Tô Châu, truyền y viết lời khai. Họ Trần viết bài thơ như vầy:

Bất tu hiệp bát, bất tu xao, 
Nể tỉ xuyên du, thuật tánh cao!
Xa thủ, thù nhơn can dữ nảo, 
Măn xang đô thị sát nhơn đao!

THÍCH NÔM:

Lựa là kẹp khảo, lựa là tra, 
Chước niệm nhà ngươi, xảo quá ta. 
Tay xá móc gan, rồi lấy huyết, 
Gươm đao đầy bụng mổ hằng hà. 


Quan huyện họ Từ xem thơ, rồi mới nói với các thơ lại rằng: " Chúng ta thiệt cũng như ăn cướp, còn muốn xử tội ăn cướp sao? Các thơ lại cai bếp quân lính đều đi bắt đầu này đầu kia, mà kiếm chác cho ta, thì cũng như bọn lâu la kiếm của tang cho chủ trại! Chi bằng ăn năn cho sớm, lo tu nhơn tích đức mà nhờ thân sau, cho khỏi mắc đoạ ". Các người nha dịch đều bẩm rằng: " Chúng tôi đã tập quen thói dữ rồi, và lại bị nuôi gia quyến, khó nỗi ăn năn chừa lỗi! " Họ Trần tâu: " Có khó chi! Kẻ tu thân phải có can đảm trí huệ khác hơn người thường, cũng sấn sướt manh mẽ như lòng đứa ăn cướp, thì mới nên việc. Đứa trộm cướp dạn dĩ không sợ mới dám phá cửa mà giựt của người, dễ như trở tay, muốn làm sao thì làm vậy. Nếu quyết hồi tâm đi tu, thì cũng phải can đảm sấn sướt như vậy, thì dữ nào mà bỏ không rồi, lành nào mà làm không đặng! " Nói rồi ngâm bài kệ như vầy (nho kêu thi, Phật kêu kệ):

Cang đao bổn bất dẫn nhơn hung, 
Pháp khánh bất hội giáo nhơn thiện, 
Cang đao pháp khánh lưỡng bô tình, 
Chỉ thử nhứt tâm phân lưỡng nguyện. 
Hướng lai thất cước tự du du, 
Kim nhựt hồi đầu giai chiên chiến. 
Cải ác tùng thiên hữu hà nan, 
Tác đạo vi quan cu mạc luyến. 

THÍCH THƠ NÔM:

Gương trừng bá giục ngực người làm dữ, 
Chuông tự nào khuyên thế ở lành?
Chuông kiếm vốn không hiền mới độc, 
Tánh tình sẵn có trược cùng thanh. 
Xưa mê ngủ gục say vô độ, 
Nay tỉnh ăn năn sợ thất thanh, 
Chừa lỗi hồi tâm tu dễ quá, 
Ăn lo, ăn cướp bỏ thì thành. 


Khi ấy, nội nha môn: nhiều kẻ hồi tâm, từ chức đi tu mười mấy người. Phán: " Quả có công đức ấy, đủ chuộc tội trước: huống chi lấy của, chớ chưa hại mạng người, đáng giảm tội phân nửa. Đáng ghét tội giam dâm, vì no ấm mà sanh sự. Phải suy phần đạo tặc, bởi đói nghéo không đủ mà liều thân. Sự cùng mà biến, tội cũng đáng dung. Tha tội họ Trần, cho giấy qua vua Đông Nhạc lãnh phần đầu thai làm thầy chùa du phương tại núi Thiên Thai. Nếu chịu khổ hạnh tu hành, sau sẽ siêu độ. "

- - - - - - -



Phán quan đọc án kế: " Họ Trần ở huyện Viên Dương tự hồi nhỏ hoang đàng, làm biếng, làm cho cha mẹ lạnh đói khổ, ưu phiền sanh bịnh mà thác, vì con không cần kiếm mà dưỡng nuôi. Còn nó tới 49 tuổi cũng chết đói ". Phán: " Tuy nó không làm điều chi dữ lắm. nhưng mà làm biếng lại xài lớn. Những đứa trộm cướp, chẳng phải ham giết người lại đốt nhà làm dữ, đều bởi làm biếng lại xài to, túng cùng mới biến ra nghề ấy. Cho nên siêng làm và tiện tặn, thiệt là cội rễ nên nhà, mà cũng là gốc trau mình sửa nết nữa. Kẻ có nhơn, người quân tử, ai cũng cần kiệm. Tại người không siêng làm mà chẳng tiết kiệm, để cho cha mẹ đói lạnh mà thác. Như vậy không cần kiệm tuy là lỗi nhỏ mà tội không nuôi cha mẹ là bất hiếu khó dung. Dẫn nó qua pháp trường, mổ bụng lắc bao tử và móc ruột mà trị tội xài lớn. Rút cho hết các sợi gân làm biếng, mà trị tội bất cần. Nay cha nó đã đầu thai làm chức thơ lại tại huyện Thường Châu, ở sau Tây-môn, cho nó đầu thai làm heo của cha nó đặng bán lấy tiền mà đền tội bất hiếu đời trước. "

- - - - - - -


Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 1 10 năm trước với 14 lần trong tổng số.

Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Phán quan đọc án kế: "Họ Khương ở Châu Hưng quốc, là nhà giàu bất nhơn, năm mươi mốt tuổi, bị dân nghèo là họ Hồ giết. Họ Khương giàu lớn hơn nội châu ấy, vựa lúa mà bán cho các lái khắp nơi. Nội xứ chết đói vì trong năm thất mùa, họ Khương chẳng thí cho nhà nghèo một nắm lúa gạo. Khi ấy quan phủ, quan huyện cho mời y, bảo bố thí cho dân đói, y lo hối lộ cho khỏi bố thí. Đến nỗi bà con hoạn nạn chết đói, y cũng không ngó tới!" Phán: "Ngươi bình sanh trọng tiền bạc, chẳng hề cho ai vay mượn, lòng ở khắc bạt gắt gớm độc hơn tội giết người, không thể nào dung đặng". Tâu: "Tôi mới biết gắt gao rít róng mắc tội nơi luật trời. Xin vương gia tha tôi về, đặng tôi cải ác tùng thiện, xuất hết của tiền lúa gạo mà bố thí cho dân nghèo. Xin vua rộng lòng y tấu. " Phán: "Ngươi còn trông sống lại hay sao? Kho lẩm trong nhà còn thuộc về của ngươi hay sao? Con cái ngươi đều là oan gia thiệt con đòi nợ chưa đầy một năm nó đã phá hết sự sản, không còn sót món nào!" Khương nghe rõ khóc ròng than rằng: "Tôi bấy lâu chắc lót quyết để lâu dài. Cùng chẳng đã xuất một đồng điếu mau củi, hoặc mua rau (cải) cũng còn tiếc lắm. Ai dè con là tội báo cừu nhơn đầu thai vào mà phá hết sự sản tức biết chừng nào!" Phán: "Cái tội gắt gớm cũng như tham gian. Trước giam theo ngạ quỉ, bỏ đói cho lâu. Sau sẽ cho đầu thai làm ăn mày, chịu đói rách mà đền tội bỏ đảy buột chặt. "

Phán quan đọc án kế: "Họ Doản ở huyện Quy-đức làm thầy thuốc mập mờ, hốt thuốc pham chết vừa nam vừa nữ công mười một mạng. Tánh hảo ăn thịt trâu lắm, bữa nào cũng có thịt trâu mới chịu cầm đũa tội ấy cũng nhiều. Tuy trốn khỏi tội Dương gian, chớ lánh sao cho lhỏi luật Âm phủ ". Phán: Phạt nó đầu thai làm trâu mười một kiếp, mà trừ tội phạm thuốc mười một người. 

Phán, quan đọc án kế: Họ Lý ở huyện Thần Châu, ròng nghề làm mai mối. Miễn có tiền mướn mà ăn, thì quyến dụ gạt con gái nhà lành, ở đợ, làm bé mà chẳng động, lòng thương. Đến nỗi làm mai con nít cho ông già, cột mối bà già cho trai nhỏ, bọn ấy không vừa ý, tức mình phát bịnh mà chết hết bảy người, vì không thể sanh đẻ nối đời đặng." Phán: "Bởi tội y nói xảo mà rù quến gạt người, nên bị án nặng. Truyền cắt lưỡi, bẻ răng, bỏ xuống hầm đời đời, cho oan hồn bớt tức. "

Phán quan đọc án kế: "Họ Phùng ở huyện Miển Dương, là tên tá điền, năm nào cũng giấu bớt lúa mà đong chút đỉnh. Nếu năm nào mà trúng mùa, thì dem lúa ngâm nước một đêm mới đong lúa ruộng. Chủ điền tức mình, lấy ruộng lại cho người khác mướn, nó cũng thầy kiện không chịu giao. Nếu làm ra lẽ, để cho người khác mần, thì tới khi gieo mạ, giống lúa sớm nó lén vải lúa muộn vào, hoặc lúa muộn, vải lén lúa sớm vô, lộn lạo cho thất mùa, phải bỏ cho nó mướn. Tội hung dữ ngang ngược thái quá không phải tầm thường. Đáng phạt đầu thai làm đứa ăn mày bạt xụi, mà đền tội ngang tàng kiếp trước. "

Họ Phùng tâu: "Tôi có thấy chỉ dụ của Vương gia, phàm dân ruộng rẫy, đều cần kiệm cực nhọc, dầu có tội gì nhỏ mọn đều rộng dung. Vậy xin vương gia ân xá. " Phán: "Kẻ lo làm ruộng tay chưn mỏi nhọc không hở, ăn uống, cực khổ dư ra thì bán cho đời, thiên hạ đều nhờ công lao kẻ làm ruộng. Vậy mới có công với đời, nên tha lỗi nhỏ. Có đâu tham gian độc dữ như ngươi, đừng có nói nhiều chuyện, quỉ sứ dẫn đi giải cho mau."

Phán quan đọc án kế: "Họ Uông ở huyện Than Âm cha nó ăn chay làm lành, nó chẳng nghe lời cha dạy. Cả đời làm nghề đánh cá, mỗi ngày bắt cá chạch, lươn, tôm, trạnh cua đinh, không biết bao nhiêu mà kể. Cha nó có quở la thì nó cự và mắng lại như ăn cơm bữa, song nó có hiếu với mẹ lắm, mẹ nó đau, thì lo chạy thang thuốc, nuôi dưỡng hết lòng. Bởi cớ ấy, nên Táo quân có tâu với thượng đế cho trừ án nặng. " Vua ngó phán quan mà phán rằng: "Tên nầy trái lòng nhơn của thượng đế, vì lòng trời muốn người vật sanh ra cho nhiều không muốn giết hại. " Rồi day lại, quán quở rằng: "Loài cá trạnh cừu oán chi với ngươi, nếu có việc chi phải lẽ như là cúng ông bà, nuôi cha mẹ, cùng chẳng đã bắt đờ mà dùng. Vậy nên đức Khổng Tử, câu mà chẳng lưỡi cũng thể theo lòng nhơn của trời. Nếu chài lưới đánh như ngươi, mà nhiều người làm như vậy, thì không còn sót tôm cá lươn trạnh. Nếu tính mỗi mạng vật, cho ngươi đầu thai mà thường mạng, thì muôn đời cũng chẳng dứt nợ oan trái ấy. Lại thêm mắng cha, tội lớn thấu trời, mau dẫn qua địa ngục ". Phán quan tâu:" Vương gia thường trọng chữ hiếu, tên này cơn mẹ bịnh, nuôi dưỡng lo chạy hết lòng, khi mẹ liệt, nó lóc thịt bắp vế mà nấu cháo cho mẹ ăn bổ cầm hơi, cũng nên trừ cấn. " Phán: "Bất hiếu với cha, mà chí hiếu với mẹ, trẫm cũng rộng lượng cho trừ. Tính một tội đánh cá, cho đầu thai làm một đứa hung hoang, hai mươi tuổi bị quan xử trảm".

Phán quan đọc án kế: Họ Trần ở Hớn Trấn, lòng xảo trá mưu kế không lo nghề nghiệp làm ăn. Hằng ngày rủ ren con em nhà lương thiện đánh bài bạc mà lấy xâu và ăn gian ăn lận nữa, đến nỗi nhiều người tán gia bại sản, mà thói dữ cũng không chừa. Lại lập thế bắt con gái nhà nghèo làm hầu thiếp, (như lập thế tiền trái hậu mãi). Hai tội nhập một nặng nề. " Vua phán: "Nghề bài bạc hại người độc hơn nước lửa trộm cướp. Nếu bị thua quá, thì phải bỏ nghề nghiệp, đổi lòng ngay, gái trai cũng hư danh thất tiết, tới nỗi tan gia sản, liều thân mạng. 

Ngươi tai mắt không thiếu đủ tay đủ chưn, sao không học nghề nghiệp làm ăn ngay thẳng, mà chi độ cho qua ngày. Trên làm tên dân không phạm luật triều đình, dưới làm người phải, khỏi nhơ danh tổ phụ. Nghĩ nào dùng tai mắt mà làm quấy, lo mưu kế mà gạt người. Cái thân hữu dụng, làm tội vô cùng. Khác nào: ăn thịt người cho no bụng, phá nhà chúng đặng vui lòng. Cho phải trả. Tuy phạt người tuyệt tự, trừ mưu bắt chúng mà làm hầu. Chớ tội chứa cờ bạc, không thế nào trừ đặng. Quỉ sứ chặt mười ngón, và hai tay, rồi mổ bụng móc tim rút ruột. Rốt lại cầm hoài nơi Địa -ngục, không đằng đâu thai." Họ Trần tâu: Tôi tối dạ đi học không nên, tập bài bạc kiếm tiền dễ lắm. Lỡ vào nghề đó, sanh gian sanh lận. Song ăn thì vừa, thua thi trả, hai bên tình nguyện như nhau. Chớ tôi không giựt của, xin Vương gia dung thứ. " Phán rằng: "Rủ ren kẻ thiệt thà, ăn gian ăn lận, dầu anh em cũng quyết lột da, huống chi bằng hữu mà không mở mật. Khiến người mất của, ngươi mới đẹp lòng. Ai dại gì tình nguyện đem của mà cho ngươi, cũng tại ngươi lập thế thần mà đánh bẫy, ngoài chuốt ngót nói lời ngon ngọt, làm như thiết nghĩa ruột rà, nào là đãi ăn, nào là phục rượu, nào là dem nữ sắc mà quyến luyến cho mê sa. Ấy là trăm mưu ngàn kế mà gạt người, tộc ác dường hầy mà bỏ luật dung tha sao cho đặng? Quỉ sứ cứ việc dẫn nó đi."

Phán quan dọc án kế: "Họ Lý ở huyện Hoành Dương đi lính tập theo quân Du kích. Còn họ Du, huyện Huỳnh Mai cũng đi lính tập theo sở cầm cờ đánh trống. Còn họ Thanh cũng ở huyện Huỳnh Mai, là lính pháo thủ của quan đề đốc họ Lý tự Giang Tư. Ba tên ấy đều có đánh giặc. " Vua phán rằng: "Quân lính trong đội ngũ chinh chiến, tay cầm gươm súng, lòng tập hung hăng, thắng trận thì bắt vợ con người ta, thậm chí ăn thịt người nữa. Tội ấy chẳng hèn đồng quăng lên ngục Đao sơn cho đáng kiếp". Phán quan tâu rằng: "Họ Thanh lúc phá thành Dương Châu, bắt đặng ba người mà chẳng giết. Bắt đặng hai người đàn bà mà chẳng động tới, đều trả lại cho chồng: 2 người chồng đền ơn bạc tiền, y cũng không chịu lấy. Hai khoản ấy phước phần chẳng nhỏ. Huống chi mỗi tháng ngày rằm với mồng một, ăn chay tụng bảy biến kinh Cao Vương." Phán: "Có công đức như vậy, trẫm cũng đáng kính đáng khen, cấp điệp cho họ Thanh, qua vua Đông-nhạc, mà đầu thai làm chức quan văn thất phẩm, sống bảy mươi chín tuổi, không bịnh mà mãn phần, con cháu hai đời đều đặng công danh vinh hiển. Còn hai hồn linh kia xử y án trước".

Phán quan đọc án kế: "Nàng Tiền mẫu Nương ở huyện Gia ngư, ghen dữ và ngỗ nghịch với cha mẹ chồng. " Vua phán: "Nội một tội bất hiếu với cha mẹ chồng, cũng đáng cầm ngục A tì, còn luận lành dữ nó làm chi nữa. " Nàng Mẫu Nương tâu: "Tôi không dám bất hiếu với cha mẹ chồng, mà tôi còn ăn chay bố thí nhiều lắm. " Phán: Dầu ăn chay bố thí như vậy, cũng chuộc không nổi tội bất hiếu với cha mẹ chồng. Song nghĩ người ăn chay bố thí, nên tha tội xay giã mà thôi giải qua giam vào Địa ngục không đặng đầu thai mà răn những nàng dâu ngỗ nghịch. "

Phán quan đọc án: "Nàng Châu tú Nương, ở phủ Thừa thiên, có chồng mà lấy trai, ấy là tội nặng. Lại thêm hại một mạng mọi gái". Phán: "Đàn bà có đức chính chuyên một chồng. Tánh nết phụ nữ, phải hiền hậu lành, mới phải đàn bà đức hạnh. Ngươi là con khốn, không biết xấu hổ không giữ chính chuyên, lấy trai lang chạ; là bởi ham ăn làm biếng không lo việc nữ công, ăn no ở không, mơ tưởng việc dâm dục, tham ăn thịt mê uống rượu, lại đánh bóng trang điểm, bán dạng thuyền quyên, làm con trai đê mê mẩn mang tiếng xấu danh nhơ, mi đã thất tiết xấu xa, hại chồng mi mang nhục, hư thể diện cha mẹ tông môn của mi, không cần con cháu hổ thẹn. Tuy đội lốt người, mà khác nào súc vật. Lại còn độc ác, hại mạng mọi gái. Sao không biết xét, mọi gái cũng có cha mẹ sanh thành, bởi kiếp trước nó không tu, nên đời nay hèn hạ mi nết xấu cũng như là đứa hèn, mà được sai khiến đứa hèn là quá phép. Nỡ nào không có lương tâm, mà đành đoạn hại mạng nó? Mau nấu dầu mà trị tội lấy trai và cho hồn oan con mọi hết tức. Rồi cầm hoài Địa Ngục không đặng đầu thai."

Phán quan đọc án kê': "Nàng Thành sửu Nương huyện Thanh âm hay xúi chị em bạn dâu lối xóm rầy lộn, hại con gái xóm ấy hàm oan tức mình thắt họng mà chết. Lại hay bảo mấy nàng thủ tiết lấy chồng. Đẻ con gái năm lần, đều trấn nước chết hết." Phán: "Hại một người dưng thì thường mạng 1 kiếp nếu mà hại một mạng ruột thịt, phải thường mạng hai kiếp. Truyền quỉ sứ dẫn hồn con ma thắt họng, và năm con ma da nhỏ, kéo nó xuống ao nước, cho bớt giận một hồi. Rồi bắt lên, cắt lưỡi mổ bụng móc ruột, không cho đầu thai, cầm hoài nơi Địa ngục, mà trừ cái tội khuyên tiết phụ cải giá và xúi chúng rầy rà. " Sửu nương tâu: "Chẳng phải tôi ham khuyên cải giá làm chi. Bởi thấy chúng nó còn tơ mà nghèo khổ, lại không con, thủ tiết ích gì, chi bằng cải giá cho qua ngày: ấy là lòng tốt của tôi." Phán rằng: "Ác phụ không biết phải quấy! Đàn bà may rủi một đời, nếu chồng thác, thì phải thủ tiết. Thượng đế càng kính vì tiết phụ. Dầu có chết đói, ngàn muôn năm cũng ngợi danh thơm. Nếu nó muốn tái tiện, ngươi cũng phải cản trở, mới là lòng tốt. Sao bảo nó cải giá, làm cho nó mang tiếng thất tiết trọn đời. Người đừng cãi sướt nữa. Mai giải đi hành tội. "

Phán quan đọc án kế: "Lý Khải Nương là con đầy tớ nhà Mễ. Làm đổ gạo cơm trong bếp, dính trên miệng lò, huỷ hoại của trời hơn mấy năm kể chẳng xiết (là đổ đồ ăn). Hay ăn vụng ăn cắp của chủ, mà đổ thừa cho người, hại con đầy tớ khác phải đòn. Hay lấy bậy và dắt trai vào nhà, tư tình với chủ gái; tội ấy đã nhiều. Lại hay cải giá, tính đã ba đời chồng, tội nặng quá lẽ. " Phán: "Ngươi kiếp trước làm nhiều điều dữ, nên phạt người làm tôi mọi. Sao không biết xét, tuy là người mà làm mọi cũng như ngạ quỉ súc sanh bị cầm Địa Ngục, ba điều khổ ấy, hỡi còn chưa biết ăn năn tu mà nhờ kiếp khác. "

Phán quan tâu: "Mọi gái cũng con người, sao gồm ngạ quỉ súc sanh Địa ngục?" Phán: "Tôi mọi ăn uống không đặng tử tế, khác nào ma đói. Không ai lễ mà đãi, nào khác súc sanh. Không được có chồng sanh con, thường bị cấm cố, khác nào cầm ngục. Nay không chừa lỗi, còn xử thêm cách nào, phải hành cho đủ tam đồ mới đáng không đặng đầu thai."

Phán quan đọc án kế: "Lưu thất Nương ở huyện Quế Lâm bốn mươi tuổi mà không con, tánh đa dâm và ghen lắm! Chồng muốn cưới thiếp. Thất nương không con. Chồng lén cưới vợ bé, gởi lối xóm. Thất nương hay tin bắt vợ bé đặng, lấy bàn ủi ủi phỏng mình, lở thúi mà chết!" Phán: "Cấm chồng cưới, cho tuyệt từ thờ mình, lợi ích chi đó". Huống chi hành hình cách thảm mà giết người, chắc dung không đặng. Thất nương tâu: "Đàn ông không con, cho phép cưới thiếp, còn đờn bà không con, chẳng cho cải giá, việc ấy mất công bình, thiệt xử hiếp tôi lắm". Phán: "Loài súc sanh không biết hổ ngươi, hãy còn cãi rán! Buông lời nói hư phong hoá, không biết hồi sống mi kềm chế chồng mi ra thể nào? Tánh đa dâm ghen tương như mi, đáng phạt đầu thai làm con điếm, ba mươi tuổi mắc ghẻ độc thúi lầy cả thân mình, bỏ thây dọc đường, chó heo ăn thịt cho bỏ ghét".



Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 1 10 năm trước với 1 lần trong tổng số.

Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Phán quan đọc án kế: "Tào Thị là gái xằng, ở huyện Ngô Giang kế thất họ Chữ ở quận Trường Sa. Họ Chữ thác sớm. Tào thị khắc khổ con ghẻ trăm bề. Các việc ăn mặc đều thua con chung. Tới lúc tương phân thì chia phần hơn phần tốt cho con mình. Lịa khắc khổ dâu ghẻ, tới nỗi tức tối sanh bịnh mà chết!" Phán: "Con ghẻ thờ mẹ ghẻ có hiếu cũng như thờ mẹ đẻ một thể. Sao mẹ ghẻ khắc khổ con ghẻ dâu ghẻ đến thế, thiệt là lòng như cầm thú, đáng đầu thai làm súc vật mới xứng tội. " Phán quan tâu: "Tào thị đến già lòng thành niệm Phật và ăn chay cữ sát sanh ba năm ăn năn đền tội cầu siêu độ phần hồn". Phán: "Vậy thì khỏi đầu thai làm súc vật, song phải luân hồi làm tội mọi con dâu ghẻ, mà đền tội trọn đời ".

Phán quan đọc án kế: "Mười lăm vị hoà thượng pham tội dữ". Vua phán: Các sãi xuất gia đi tu, lẽ thì thành làm Phật tổ, cớ nào đeo đính bài tội dữ?" Mười lăm hoà thượng tâu: "Nhờ vương gia từ bi dung thứ". Phán rằng: "Các sãi có hay tờ điệp của Phật Thích Ca mới gởi đến đây chăng?" Đồng tâu: "Chúng tôi chưa hay". Vua gởi điệp văn đọc lớn rằng: "Chùa chiền đời nay đã biến hư lắm, mối đạo Phật lưu truyền đã mỏn rồi, như ngọn đèn gần tắt. Các sãi tuy tiếng đi tu, thiệt nhiều người dối tệ. Trong một ngàn hoà thượng, lựa đặng chừng một hai người xứng đáng, không hổ thẹn mà thôi! Cõi Âm phủ phải tra xét cho hẳn hòi, đừng lầm các sãi dối thế". Đọc rồi phán rằng: "Các sãi đã thấy điều luật của các sãi tại cẳu nầy chăng?" Đồng tâu: "Chưa thấy". Phán rằng: "Để trẩm giảng các tội án trong điều lệ tu hành cho mà nghe. Các sãi tuy đi tu, mà trong lòng khác nhau hết: Có kẻ cự nghịch với cha mẹ, giận lẫy mà đi tu, là tội bất hiếu lớn thứ nhứt, còn nói làm chi! Có kẻ giận anh em vợ con mà đi tu. Có kẻ bị cách xấu, mắc cở mà đi tu. Có kẻ quyết trốn xâu lậu thuế, vì đói rách mà đi tu. Có kẻ mê cảnh chùa tốt mà đi tu. Có kẻ mê mấy sãi nhỏ có bóng sắc muốn nhập vào cặp xách mới đi tu. Có kẻ ham làm chức hoà thượng sang trọng mà đi tu. Có kẻ mồ côi không ai nuôi mà đi tu. Có kẻ vô hậu không ai hoạn dưỡng mà đi tu. Có kẻ ngán việc đời là cuội giả, mộ đạo Phật là siêu độ linh hồn mà đi tu. Các sãi ai tu về cớ nào thì khai thiệt? Các hoà thượng đồng tâu: "Xin vương gia từ bi thẩm xét, thiệt chúng tôi ngán việc đời, nên xuất gia đầu Phật mà cầu siêu độ linh hồn, chớ không có ý chi khác". Phán: "Các sãi đời nào xưng tội, mấy thuở chịu khai!" Truyền chỉ Phan quan dẫn các sãi đến đài Nguyệt cảnh chiêu thử. Nguyên tại nhứt điện là cửa đền thứ nhứt: vua Tần Quảng có lập cái đài Nguyện cảnh phái bên hữu cái điện chánh. Đài ấy cao mười một thước, trên có treo cái mặt kiếng Nguyệt cảnh lớn mười người ôm mới giáp vòng bề tròn treo chiếu qua hướng đông, trên giá treo mặt kiếng ấy có để bảy chữ rằng:

Nguyệt cảnh đài tiền, vô hảo nhân

Thích nôm: Trước đài Nguyệt cảnh không người lành.

Các hồn chối án, thì quỉ sứ dẫn lên đài, mà ngó vô mặt kiếng, thì thấy hiện nguyên hình từ nhỏ tới chết, làm những việc chi đều ứng hiện hình thù như hát bóng đủ lớp nhớ lại nên chối không đặng. Vua Tần Quảng mới y luật mà xử, hoặc giải qua chín cửa đền khác, vân vân. ...(8 cửa có ngục mà thôi).

Khi ấy các sãi, từ người soi kiếng đủ mặt rồi coi lại không có thầy nào chơn tu mộ đạo cho thiệt tình! Coi ra ba sãi ăn mặn uống rượu. Một sãi tà dâm, hãm hiếp. Bốn sãi mê các đạo nhỏ thanh sắc. Bốn sãi tham bạc, ăn gian của chùa. Trừ ra có ba sãi, cứ sớm tối tụng kinh, công phu, cất chùa, lên cốt Phật, lơ làm công quả trông chùa, chớ không thông mùi đạo. Vua cười ngất phán rằng: "Hèn chi đức Thế tôn quở trách các ngươi làm hư trong đạo Phật!" Liền phạt một sãi gian dâm với bốn sãi mê đạo chúng thanh sắc, cộng một bọn tà dâm năm sãi, đồng giam vào ngục. Tăng nho mới lập, không đặng luân hồi. Còn bốn sãi rượu thịt, đầu thai làm heo bà kia ăn cám hèm cho đã. Lại còn bốn sãi ăn gian của chùa, phạt làm lừa ba đời, chở đồ đi xa mà đền ơn cho các chủ bố thí. (Tại tham của nên cho chở đồ nhiều mới toại chí!) Trừ ra ba sãi thiệt thà, tuy quyết chí đi tu mà chưa thông đạo vị, nên cho đầu thai làm thầy chùa mà tu nữa; nếu siêng tu hành rõ thấu ba bực thì cũng được khỏi đoạ. Đền giải qua vua Đông Nhạc, đi lại vua thứ mười. (Chuyển luân vương) đầu thai.

Phán quan đọc án kế: "Họ Gia ở huyện Văn Mộng đưa đò dọc sông Bà Dương. Tháng chạp năm Nhâm thân, lén giết một người bộ hành lắy đặng ba mươi lăm lượng. Bị chúng cáo, quan tra không đủ cớ tha về. Sau mang bịnh nghèo khổ, đi ăn mày. Tới 38 tuổi, biết tội mình mới đi tu. Cứu trùng, kiến, nhiều lắm, lượm giấy chữ, cũng nhiều. Ăn chay làm lành thường bữa tụng kinh niệm Phật. Tu hai mươi năm như vậy, mà cầu tiêu tội sát nhơn, và nhờ phước kiếp sau." Phán: "May ngươi ăn chay làm lành, niệm Phật tụng kinh sáu hối (ăn năn cầu tiêu tội). Huống chi đã phạt làm ăn mày; đày đoạ đến kiếp, nên trừ tội giết người mà lấy của". Họ Gia Tâu: "Tôi trước đại phạm tội, sau ăn năn tu hành. Xin vương gia xét lẽ cho tôi nhờ". Phán: "Ngươi hãy đứng một bên, đợi trẫm xử án khác rồi sẽ định".

Phán quan đọc án kế: "Họ Lâm huyện Bành Thạch ông cha có làm phước giúp người. Còn họ Lâm kiếp trước là thầy tu, ăn chay bố thí 545 đôi giày rơm, trời lạnh bố thí cộng 65 chiếc chiếu. Nên đời nay 23 tuổi mà thi đỗ cử nhân, đậu rồi không giữ lòng lành. Tư tình với Kim thục Cô là gái ở một xóm rồi bỏ, nàng ấy tức mình thắt họng mà chết. Vã lại nết tham, lãnh việc kiện mướn, đem mối kiện thưa. Ra vào chốn nha môn lo lót cho chúng, bởi cớ ấy, giựt được vài trăm mẫu ruộng trong làng. Ăn thập trai chưa đặng một tháng ngã. Lại nói: "Dẫu ngã mà kiếp sau làm ăn mày cũng chịu. Quan âm, Chuẩn đề đã phú Táo quân dưng sớ tâu trên Ngọc đế phân: "Bỏ lệ chay kỳ là phạm luật Phật, nên phạt tội" Vua phán: "Ngươi nhờ đức tổ phụ và kiếp trước có tu, mà thi đỗ cử nhơn đáng lẽ tu thêm phước đức. Nào hay mê mụi, lung lăng làm dữ, lại nói ngã chay, nguyện làm ăn mày. Đáng lẽ cho hành đủ tam đồ. Song nghĩ ngươi thờ Quan đế với thờ Quan Âm hết lòng thành kỉnh, nên nay xử trảm, cho đặng luân hồi, thay hồn đổi xác, nhập vô thây ăn mày là họ Gia y theo lời nguyện. Còn Kim thục Cô đã đầu thai rồi làm con mọi xóm đồng. Ngày kia trước đi xin cơm tại nhà chủ nó cho nó đánh chết ngươi mà thường mạng thắt cổ hồi đó. Còn hồn họ Gia (coi án trước) nhập vào xác họ Lâm đặng làm cử nhơn, sống hưởng phước tới bảy mươi tuổi. "

Phán quan xướng danh rằng: "Tôi hồn HỌ Hàng mười bốn tuổi". Phán rằng: "Thằng nhỏ nầy, làm những tội chi". Phán quan tâu: "Thằng nầy tuy còn nhỏ, mà chửi cha mắng mẹ hoài hoài. Tội hỗn ấy là tại cha mẹ nó cưng quá, nên nó quên nết hỗn hào, mang tội bất hiếu thấu trời. Khi nó đi học đạp giấy chữ tính tới 37.500 chữ có dư. Thường khi nó ăn cơm còn dư: đem đổ chỗ nhơ uế nữa." Phán: "Con nít không biết gì, ấy tại cha mẹ nó hư, thương là hại nó. Đã phạm luật trời, không lẽ dung đặng. Quỉ Dạ xoa giải nó qua thành lửa mà đốt, không đặng đậu thai."

Phán quan đọc án kế: "Họ Châu ở huyện Tiêu lương, làm hàng trâu bò. Họ Thẩm ở huyện Thạch thủ làm hàng chó. Họ Dương ở huyện Gia ngư, làm hàng heo." Phán: "Ba tên làm hàng nầy, đáng quăng vào Đao sơn Địa ngục". Họ Dương khóc mà tâu rằng: "Tôi có ăn chay ba năm, theo kinh Huyết bồn. Vả lại làm hàng heo, nhẹ tội hơn hàng trâu bò và hàng chó. Xin vương gia xét lẽ tôi nhờ." Phán: "Ngươi ăn chay theo kinh Huyết bồn mà cầu cho ai? Tâu: "Tôi cầu cho mẹ tiêu tôi." Phán: "Tuy theo kinh ấy là phi lý, huyễn hoặc, mà lòng có hiếu đáng khen. Song người có hiếu với mẹ, sao không bắt chước lòng nhơn của trời ưa sống, mà làm heo"? Tâu: "Xin vương gia xét lại, bởi cha tôi bảo nên phải làm. Vả lại heo là thú người hoạn dưỡng mà ăn thịt không công lao với đời. Huống c hi làm hàng heo chẳng ít, ăn thịt heo lại nhiều, xin vương gia rộng lượng." Phán: "Ngươi ăn chay theo kinh Huyết bồn mà có tụng chăng?" Tâu: "Có tụng. "

Phán: "Người sau bày đặt kinh Huyết bồn, chớ không phải của tiên Phật đặt, phải chí ngươi tụng Kim Cang, chẳng những hồn mẹ ngươi tiêu tội vong hồn ba đời cũng được nhờ. Ngươi có hiếu tụng kinh trẫm trừ tội làm hàng heo, cho qua Đông nhạc, đầu thai làm con trai mần ăn. Còn hàng trâu bò và chó lại đây. Trâu bò cày ruộng mới có lúa cho đời, chó giữ nhà mới còn đồ cho chủ. Chúng nó đều có công với đời, người giết vật có công, không thể tha tội Phán quan tra thử chúng nó giết bao nhiêu chó bao nhiêu trâu bò cày ruộng?" Phán quan tra bộ rồi tâu: "Họ Châu làm hàng 72 con trâu. HỌ Thẩm làm hàng hết 187 con chó". Phán: "Hàng trâu đầu thai làm trâu 72 kiếp, hàng chó đầu thai làm chó 187 kiếp, thưỜng mạng cho đủ số, rồi giam vào ngục Ngạ quỉ (ma đói) không đặng đầu thai."

Phán quan đọc án kế: "Họ Vưn ở huyện Thạch thủ, mới học làm thầy địa lý. Họ Hà ở huyện Võ Lăng làm thầy coi số và coi tướng". Phán: "Thầy địa lý mập mờ chỉ xấu là tốt, tốt gọi xấu, làm sai sách địa lý. Còn coi số coi tướng, nếu coi không thấu, cũng đoán hoạ phước không nhằm mà khoe thiên văn. Coi số coi tướng có sai cũng không đến đỗi hại người mà phải mắc tội nơi trời. Còn thầy địa lý lôi thôi tuy không mắc tội nơi trời mà làm thiệt hại cho người, là dời đổi tổn hao, lại làm sái động địa cho người mắc hoạ, hoặc hư nhà hại mạng, tuyệt tự, mới là tội lớn, chớ gạt người mà ăn tiền là tội nhỏ. Như vậy phải tính nó mà làm hại bao nhiêu nhà, thì bắt nó đầu thai làm súc vật mà thường bồi cho đủ số, rồi sẽ cầm hoài ngục. A tì. Còn thầy coi số coi tướng, quen thói nói lừa, gạt chúng mà ăn tiền, sau lưng người lại giận cho ít tiền mà mắng lén. Chẳng hề dạy ai làm lành cho khỏi họa mà đặng phước. Phạt nó đầu thai làm thằng câm mà đi ăn mày tới ba mươi tuổi chịu lạnh và chết đói. Rồi sẽ nghị lại ".

Phán quan đọc án kế: "Bảy tên học trò phạm tội, tên thứ nhất họ Văn ở huyện Bành Trạch. ..." Phán rằng: "Bảy tên phạm đồng lên đây. Trẫm coi các ngươi đều là ăn học hồi nhỏ, lo thi đậu mà hưởng sang giàu, song có hiểu chút đỉnh đạo lý thánh hiền chăng?" Các trò tâu: "Cha mẹ với anh tôi dạy chúng tôi hồi bé, lo học mà đi thi, trông thi đổ cho vinh hiển, ở nhà tốt, sắm đất ruộng cho nhiều. Thầy chúng tôi cũng hiền". Phán: "Trẩm nghĩ các ngươi đều có căn trước, thiệt là rất may. Thứ nhứt may đặng làm trai. Thứ nhì may không tàn tật. Thứ ba may đặng tánh thông minh, thứ tư may đặng khóa đậu vào trường chánh. Đặng bốn điều may ấy mà quên căn tu kiếp trước. sao chẳng nghỉ đã đứng vào nghề sĩ, là hơn nghề nông, nghề công, nghề thương. Bởi nghề nông rán sức làm ruộng rẫy, thức khuya dậy sớm cực khổ, tay chưn chẳng rảnh, ăn uống rồi, còn dư bao nhiêu thi` bán cho người ăn, ai ăn hột cơm của nhà nông, điều là nhờ nông phu đổ mồ hôi xót con mắt, mới có của ấy. Còn nghề công làm ra các đồ khí dụng mà bán cho người, thiên hạ điều nhờ cả. Còn nghề thương xuống biển lên nguồn, chở chuyên hàng hoá, mà bán cho đời dùng, khỏi thiếu. Như vậy ba nghề ấy điều có công với người. Còn các ngươi chiếm nghề đứng đầu là nhứt sĩ, có công chi với đời chăng? Các ngươi hiểu nghĩa lý chữ nhu là thể nào chăng? Bởi chữ nhơn với chữ nhu bởi người phải cầu nhứt sĩ mà nhờ. Song ngươi cầu mà nhờ các ngươi sự gì có ích cho đời việc chi? Té ra các ngươi mỗi ngày làm hao của trời đất, xài tiền bạc hàng vải của triều đìng. Biết các việc chơi bời; khảy đờn, đánh cờ, làm thơ uống rượu. Ăn bận cho nhủn nha, dạo chơi cho khoái lạc. Lại còn ra vào chốn nha môn, lãnh phần lo lót, hăm mộ hàng xóm, ngay sửa ra vạy, vạy sửa ra ngay, làm mất lẽ công bình, các độc ác hại đời chẳng kể xiết! Nếu thời may thi đỗ làm quan đặng quyền cai trị thì thưa dịp ỷ thế cho đầy túi tham. Mượn cái oai triều đình, trổ cái tài chủ trại. trên dối chúa dưới hại dân. Chúa thánh ban ơn rộng, bị ăn gian nên lê thứ hết nhờ. Dân nghèo chịu thuế sưu,vì hà lạm nên triều đình thiếu dụng. Trăm mưu nghìn kế cho lợi nhà mập thây chớ không lo bày việc lợi dân, mà sửa phong cho hết tệ. Thức khuya dậy sớm mà lo lập thế an dân, như cố ý cô lưu mà chờ hối lô.


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Không cần lễ nghĩa, chẳng hề tu đức thanh liêm, mảng cây mảng cậy oai quyền không thẹn làm điều tà vậy sao chẳng nhớ: người xưa làm chức tú tài đã lo đời, cứ gánh vác việc thiên hạ. Còn các người đậu chức tú tài thì mong ăn của thiên hạ cho lợi mình! Còn sự nầy đáng ghét lắm: bình thường hay khoe mình là trung hiếu liêm sĩ thấy ai làm một điều chẳng ngay, thì mắng nhiếc quá sức! tới phiên mình thì quên trung hiếu liêm sĩ, bỏ trôi theo giòng nước, khi trước mắng người không ngay nay ở vậy không cần ai mắng! Sao gọi là biết tu ố, mà xưng biết sĩ! Có một trò tâu rằng:' Tôi có công dạy học trò, cũng hữu ích cho thế '. Phán: Ngươi quả thiệt như đức thánh Mạnh tử lấy hiếu đễ trung tín mà dạy học trò sao? Chẳng qua là bực dung sư, dạy cầm chừng mà hại đệ tử, cả ngày lo ăn thịt, nhậu rượu cho say; không công mà hưởng lộc, tội lỗi chẳng ít, còn kể công sao? Ngươi phải họ Ngu ở huyện Tương Dương chăng? Tâu:' Phải '. Phái:'Ngươi là thày dạy học, sao còn dốt quá, lời không thông. Có lẽ hỏi ngươi rằng: Sát sanh có tội chăng? Ngươi nói: Không tội gì, Kinh Phật nói: Bất sanh bất diệt, nghĩa là không sát sanh thì nó chẳng đặng đầu thai kiếp khác! Ngươi mượn chữ kinh mà thích nghĩa bướng, mà xúi chúng sát sanh, thì mang thêm ba tội nặng. Một là mượn câu kinh mà thích nghĩa bướng. Bởi ngươi không hiểu nghĩa bất sanh là không dầu thai nữa, còn chữ bất diệt là không thác, nghĩa là nói tu có trí huệ, có công quả lớn đức hạnh lớn, về Tây phương đặng liên hoa hoá thân chẳng đầu thai theo bực vãng sanh tịnh độ, mà cũng không thác nữa, Phật gọi là chứng quả Niết bàn. Chớ không phải nói nghĩa kỳ chướng dốt nát, giảng ngược như ngươi! Còn tội thứ nhì là xúi cho chúng sát sanh, những kẻ dốt ưa sát hại, nghe ngươi giảng vậy, nó càng sát sanh hơn nữa. Tội thứ ba là nói nghĩa ngược ngạo không rành. Nếu nói nghĩa ngươi thích đó, thì là bất diệt bất sanh mới phải. Sao câu kinh nói: Bất sanh bất diệt, mà ngươi dám thích nghĩa nghịch tự như vậy? Huống chi thuở nay, ngươi biếm nhẽ thánh hiền tiên phật, kể tội không xiết! Học trò phạm các tội khác còn thương tình dung chế đặng. Trừ ra tội chê bai vị tổ tam giáo (Khổng tử, Thái thượng, Thích ca) thì thiên luật không dung. Quỉ Dạ xoa, dẫn họ Ngu, đến làng Ác khuyển, cho bầy chó dữ xé thây mà trị tội kiêu ngạo tam giáo. Còn một trò nầy hay đặt thơ huê nguyệt, ca huê tình, nói dâm cho gái trai động lòng sanh dâm loạn mới hư phong tục; tội ấy nặng nề, trước đánh đòn tám chục roi sắt, rồi kéo lưỡi cắt môi, cầm hoài nơi ngục mới với họ Ngu. Còn năm người tuỳ theo tội nặng nhẹ, cho đi đầu thai. Ba người tội nặng cho đầu thai làm lừa, làm chó. Còn hai người tội nhẹ đầu thai tàn tật; câm, bại, đui, cùi. Đến lãnh tờ, giải qua vua Đông-nhạc, đi đầu thai lập tức '.

Phán quan đọc án kế:'Họ Viên ở huyện Quan-san, lập tiệm cầm đồ, ăn lời quá phép, mà không chế một ly. Còn trong nhà cho vay, cho giạ non, thâu giạ già. Trong tiệm dùng cân hai đáy (trái cân), cho ra thì dùng trái cân nhẹ, thâu vô đổi trái cân nặng. Bởi cớ ấy nên giàu bằng Nhà nước. Làm cho trời giận thần hờn. Bị hoả tinh đốt nhà là lửa trời sa cháy tiêu sự sản. Ba mươi lăm tuổi chết yểu, vợ con cũng thổ huyết chết luôn! Phán:'Ăn lời quá phép, đã phạm tội nơi trời. Huống chi cân lậu, đong nhẹ giạ già giạ non: lường gạt của chúng cho nặng túi tham. Tưởng gạt chúng té ra gạt mình, mong hại đời chẳng ngờ hại mạng. Cả đời lường gạt. của chúng mà còn hay không? Chẳng giữ lương tâm, ba đời chịu khổ. Tuy bị cháy nhà cửa; mà chưa hết tội. Giao tờ qua vua Đông -nhạc; phạt đầu thai làm ngựa trạm thơ, bị chúng cỡi mãi đánh hoài, chạy lao quá cho tới chết. Đầu thai làm ngựa ba kiếp như vậy, mới đặng đầu thai làm người nghèo '.

Phán quan đọc án kế:'Họ Hồng ở huyện Thiện hưng cha làm chức điển lại, ở huyện - Võ Xương, hồi nhỏ họ Hồng bị cha không ưa tức mình cạo tóc vô chùa. Sau phạm luật về thế để tóc, ngã mặn như kẻ ở thế tục. Gập ai cũng xảo, không tiếng thật thà. Sau lưng hay nói hành việc của chúng! Hay kẽ vạch sự tư tình của người và nói phụ nữ hoa nguyệt, xúi giục gây gỗ thêm thừa thêu dệt nhiều điều, làm những chuyện trái phép. ' Phán: ên nầy tội nặng khó dung '. Phán quan tâu: Tên nầy không dữ chi lắm, bị ác khẩu mà thôi '. Phán: 'Tội ác khẩu có ba điều, tên nầy gồm hết. Nói láo về sự tục tĩu, là phạm chữ dâm sĩ, bất thông như đứa điên. Nói láo thêm thừa cho chúng giận nhau mà đâm chém. Nói láo gạt người mà lấy của, phạm chữ tham gian. Té ra một sự nói xảo, mà gây ra chữ dâm, chữ si, chữ sân, chữ sài, chữ tham, chữ giao đạo. phán quan còn gọi tội ác khẩu là tội nhỏ sao? Truyền xẻ miệng bớt môi, khẽ răng, kéo lưỡi, mà hành tội ác khẩu, tuy còn sống đã phạt tuyện tự, mà chưa hết tội nay phạt cầm, Hoài Địa ngục, không đặng luân hồi '.

Phán quan đọc án kế:' Vợ họ Uông, là nàng Trình thị ở huyện Giang-Hà. Nguyên kiếp trước ăn chay, cữ sát sanh, làm lành, hay bố thí, có hiếu với mẹ chồng nuôi đau hết lòng hết sức, bởi chưa đủ công hạnh, nên cho đầu thai kiếp nầy mà hưởng phú quí làm con nhà quan giàu; lại gặp chồng lương thiện sanh ba trai hai gái, định số sẽ sống 82 tuổi, không bịnh mà mãn phần. Không dè bị cha mẹ cưng quá, vì con quan, nên quen thói ỏng ảng hồi nhỏ, nhà có tôi tớ nên quen thói làm chủ nhà hay mắng nhiếc hành hạ kẻ dưới tay, tập tánh đã quen nên độc dữ lắm; đến khi có chồng hiền hậu, thì ỷ thế giàu sang nên chuyên quyền, hiếp chồng quá lẽ. Vã lại quen thói ăn sung sướng, nên sát sanh hại mạng rất nhiều. Cho vay ăn lời quá phép, khắc khổ tá điền, đã bắt làm công không, thất mùa cũng không châm chế chút nào! Thuở nay chẳng hề bố thí cho bà con nghèo đồng điếu nào, có đâu bố thí cho người dưng. Ngày nào cũng chửi tôi tớ. Đánh chết tớ gái là Vương -nguyệt - Mai, lại còn khoét mắt tớ trai là Trương -hưng -Nhị bị đau nhức tớ chết. Lại còn phạt tớ gái là Ngô-hà -Hương, bắt ăn đậu nành sống cả tô sình bụng ba ngày mà chết! Còn nhiều đứa tớ khác bị thương tích, tai mũi tay chân môi miệng điều tì hết! Có kẻ đem sự báo ứng nhơn quả mà khuyên giải thì Trình thị ỷ con nhà lớn quan to, nên mắng nhiếc kẻ giảng nhơn quả và nói rằng:' Ta giàu sang, no ấm áo, con cháu đầy nhà ta thuở nay lại mấy bố thí cho ai, mà phước đó? Ai tin ngươi nói phải tu nhơn tích đức mới sống lâu tới bảy tám mươi?' Nói rồi đuổi đi lập tức. Mấy lời ấy Táo quân cũng tâu tới Thiên đình, và lại mỗi tháng chạy tờ về cửa thiên tư mạng chánh, đều biên tội Trình thị đã nhiều. Các hồn oan cũng cáo nữa. Ngọc đế truyền bớt ba kỉ, cho bắt hồn Trình thị đặng trị tội nên mới 46 tuổi mà chết. 

Phán rằng:'Không kính trọng chồng, là tội thứ nhứt theo luật trời không tha đặng. Huống chi độc dữ khắc khổ tôi tớ, hại oan ba mạng. Tánh độc dữ hơn cọp không phải lòng người, đáng cầm Địa ngục, không đặng đầu thai nữa. ' Phán quan tâu: 'Trình thị nguyên kiếp trước tu hành có hiếu với mẹ chồng lắm. 'Còn đời nay người con gái lớn Trình thị, thấy người mẹ hổn với cha, và ở độc dữ, nên tu hành tụng kinh niệm Phật làm phước bố thí, mà cầu cho mẹ tiêu tội, cũng như tu thế cho mẹ nó. Vậy xin vương gia cho luân hồi trả quả, chừng hết nợ trước sẽ xử nữa. ' Phán:' Nếu con gái nó tu thế như vậy, thì trẫm tha tội cầm ngụ, cho đặng luân hồi. Kiếp thứ nhứt cho nó đầu thai làm đàn bà nghèo khổ đói rách cả đời, cho hồn Hà Hương vào bụng nó làm quỉ thai đau đớn đến kiếp, tới ba năm phát bệnh điên mổ bụng mình và cắt ruột mà chết, đặng trả quả bắt Hà Hương ăn đậu nành sống sình bụng mà chết. Kiếp thứ nhì, đầu thai làm con câm, ghẻ chốc cùng mình đi xin tới 50 tuổi, ăn cắp gạo nhà họ Trương, bị con gái họ Trương (là hồn Vương nguyệt Mai đầu thai) đánh chết, mà đền mạng oan kiếp trước. Kiếp thứ ba, làm con gái 18 tuổi, bị du côn (là hồn Trương hưng Nhi đầu thai), đâm đui cặp mắt và đứt gân, lết ngoài chợ xin ăn tới chết, thì trừ mới rồi ba mạng. Trong ba kiếp ấy hành tội câm, ghẻ đói, lạnh cực khổ, đi xin, là đền tội hiếp chồng và làm giàu bất nhơn đó. Như trong ba kiếp chịu khổ, biết ăn năn ở hiền lành, thì sẽ châm chế cho kiếp khác. ' Trình thị tâu rằng:' Chồng tôi khờ dại tệ quá, chẳng biết lo việc nhà, tôi không rầy sao đặng? Xin vương gia xét lẽ phải mà thứ dung '.


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Phán:'Đàn bà có đạo tam tùng, khi còn ở nhà, tùng quyền cha mẹ, xuất giá tùng quyền chồng, chồng thác tùng quyền con trai, phần phụ nữ không đặng làm chủ. Chồng ngươi là kẻ hiền hậu, ngươi lại chê rằng khờ dại, mà hổn hào khi dễ trăm bề. Đến nước nầy. mà ngươi chưa biết tội sao?' Trình thị tâu rằng: Tội tôi hổn với chồng đã đáng. Còn như đánh tôi chửi tớ, là tại chúng nó làm công việc không xong, mà lại ăn vụng làm biếng trăm bề hư hết. Vả lại chúng nó tánh ở ngang ngạnh, là tại chúng không vưng theo, ngu mê ám chướng không hiểu việc chị. Tại chúng nó chướng như vậy, là nó bảo phải đánh nó, xin vương gia xét lại. ' Phán:' Thuở nay kẻ hầu hạ, tâm tánh chúng nó không phải như người bực thượng. Hoặc là hồn cầm thú đầu thai, hoặc người dữ đầu thai lại, bị mất tánh thông minh, phú tánh ngu độn theo kẻ hạ tiện; vã lại đầu thai làm con nhà hèn hạ dốt nát, thì tánh nó thô tục ngang dọc, cứng đầu cứng cổ, ngu mên ám chướng, là lẽ trời định tự nhiên. Mình là người, người bề trên, cơn bình thì phải thủng thẳng mà dạy dỗ, đến việc làm, phải thích nghĩa cho rành, và dặn di dặn lại. Dầu chúng nó lầm lỗi, cũng tuỳ tội nặng nhẹ mà răn, lẽ nào nóng nảy mà đánh chửi mãi, đánh quá cho chúng nó hoảng hồn mà phát điên. Sao chẳng xét, chúng nó cũng là con cái nhà lành, vì nghèo quá mới cắt ruột mà bán cho mình làm tôi mọi, tuy tiếng là thầy với tớ, chớ chúng nó cũng như con cái trong nhà, việc ăn mặc, đau mạnh, khoẻ mệt mình phải biết thương chúng nó. Bởi cớ ấy tớ trai cũng như con trai nuôi, tớ gái cũng như con gái nuôi. Lẽ nào ở độc mà khắc khổ? Giả tỉ con cái ngươi bị người đánh chửi, ngươi có đau ruột hay không? Còn ngươi cho tôi tớ ăn không no, bận không lành, lại nỡ lòng hành hình trái phép, hại tới ba mạng. Thiệt là không sợ luật trời, còn dám nhiều điều cãi lẽ. Mau dẫn nó đi đầu thai '.

Phán quan đọc án kế:' Họ Châu ở huyện Hớn dương, từ hồi nhỏ lập tiệm bán hàng xén, các trái cây, đồ đồng thiếc và các món nhỏ mọn lẻ loi. Thường dùng giấy chữ mà gói các món đồ bán. Bình thường hay lấy giấy chữ mà chùi bàn ghế, chỗ nào nhơ uế, cũng lấy giấy chữ mà chùi, và quét đổ nơi hầm dơ 24 năm như vậy. 

Còn vợ họ Huỳnh, là Khương-thị, ở huyện Hiếu cảm có hai đứa con đi học, mỗi ngày Khương-thị lấy giấy lộn (giấy chữ) để dành bồi hồ bao độn đáy giầy, hoặc đi sông, bồi vách, hoặc cuốn làm rọi để hút thuốc, hoặc vò cho nhừ làm chó lén, huỵch để nhúm lửa; như vậy năm năm.

Còn họ Mai ở huyện Táo dương, là Tú tài dạy học trò hay đạp giấy chữ, các học trò bắt chước, cũng huỷ giấy chữ, chẳng biết trọng chữ, lấy chùi đồ, hoặc đốt mà hút thuốc, làm thường vậy đến 22 năm. Ba tên phạm ấy đồng tội".

Phán: "Trong sách có chữ trời đất quỉ thần, tên ông bà cha mẹ, trong giấy chữ đều có. Nếu không chữ, thì đạo lý chẳng rành, sao có kinh sách? Nếu đạp huỷ giấy chữ, cũng như đạp huỷ trời đất, quỉ thần, thánh hiền, ông bà, cha mẹ. Họ Mai nhờ chữ nghĩa mà hiển vinh, nhờ chữ nghĩa mà no ấm, mà dám đạp huỷ giấy chữ 22 năm, cho các học trò bắt trước, tội ấy về người hết. Ba phạm ấy đều bị cầm nơi Địa ngục không đặng luân hồi. "

Phán quan đọc án kế: Họ Dư ở huyện Miễn - Dương nhà cũng khá, mà ở bất hiếu. Nuôi vợ con ăn mỹ vị, bận đồ tốt, còn cha mẹ ăn bận lấy có. Cha mẹ phiền trách, nó trả lời rằng: "Cha mẹ để gia sản chi đó, mà bắt lỗi nuôi ăn mặc không xứng đáng? Nó lại mắng thêm, làm cho cha mẹ nó buồn rầu tức tối trọn đời. "

Phán: Họ Dư tuy dốt, há không biết ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng, trở lại trách cha mẹ không sự sản, không nuôi cha mẹ, mà lại nuôi vợ con tử tế. Nếu vậy vợ con có để gia sản cho ngươi sao? Ngươi bất hiếu thiệt không bắng súc vật. Phạt nó đầu thai làm trâu ba kiếp, ra sức cày ruộng mà nuôi thiên hạ, chết rồi còn bị chúng xẻ thây, mà đền tội bất hiếu. " Phán quan tâu: "Tên phạm nầy có xí được một trăm lượng bạc, cho lại kẻ làm mất, đền ơn nó cũng không ăn nên kể rủi mất, đền ơn nó cũng không ăn nên kể rủi mất bạc trở ra may, nội nhà khỏi hại. Âm chất ấy cũng đáng chế bớt tội ngỗ nghịch". Phán: "Như vậy thì chết khỏi làm trâu ba kiếp, cho đầu thai làm ăn mày chết đói hai kiếp. Nếu biết tu sẽ hay."

Phán quan đọc án kế: "Vợ họ Lý là Trần thị ở huyện Huỳnh -Mai, thủ tiết, mà bất hiếu với cha mẹ chồng. Cha chồng bóng quáng, mẹ chồng phong bại, Trần thị cho ăn mặc lấy có, đến đỗi đói lạnh mà chết. " Phán: "Đàn bà có chồng, thì tùng quyền chồng, cha mẹ chồng là cha mẹ ngươi. Ngươi đã biết thủ tiết, thì phải ở có hiếu với cha mẹ chồng, thay mặt cho chồng mà nuôi cha mẹ, thì tiết hiếu song toàn. Thời khi còn sống vua quan phong tặng, thác rồi lại đặng thành thần; mới là trọn lành, thần kiêng quỷ sợ. Sao lại phạm tội bất hiếu, đáng đoạ Địa Ngục, không đặng đầu thai." Phán quan tâu: "Nàng nầy giá chồng hồi còn xuân, thủ tiết ba mươi mấy năm cực khổ, xin vương gia châm cho đặng luân hồi. " Phán: "Trẫm cũng vì sự thủ tiết, mở đường mọn cho nó đặng đầu thai làm cho chúng phân thây, mà trừ tội bất hiếu cha mẹ chồng. "

Phán quan đọc án kế: "Họ Hồ ở huyện Lâm-Lương đậu Tú-tài, tánh ở độc bạc, hay nghe lời vợ mà ngỗ nghịch song thân. Lại thấy anh em thật thà dốt nát, nên chia phần ăn để ruộng hèn, nhà xấu, đầy tớ dở cho người anh. Còn chia phần ăn cho người em rồi, sau em thác, em dâu là Lý -thị không con, nên nuôi con người anh cả làm con mà lập tự cho chồng. HỌ HỒ muốn đoạt gia sản của em dâu, nói vu oan rằng: Lý -thị tiếng thủ tiết mà tư tình chửa hoang, dựng chứng đủ cớ. Lại mướn bà mụ nghiệm xét, cũng nói Lý -thị thiệt có thai. Lý -thị tức mình, mổ bụng trước mặt quan mà chết, làm cho nhiều người chứng ăn tiền, đều mắc họa với bà mụ. Như vậy họ Hồ bị ba tội nặng, mau xử mà răn đời. "

Phán: "Họ Hồ đậu Tú -tài, thì đã thông kinh Thi, kinh Lễ, sao mà bất hiếu bất đễ tới thế?" Tâu: "Tôi hồi còn nhỏ có học kinh Thi kinh Lễ cũng biết hiếu cha mẹ, thương anh em. Tại vợ tôi học hay mà ở độc, nó xúi các việc bất hiếu bất đễ. Tôi dại nghe lời, nhờ vương gia rộng dung." Phán: "Tội vợ ngươi Mã thị, ông Táo và du thần, tâu cáo nơi thiên đình đã lâu, tự nhiên phạt tội một cách nặng nề. Ngươi há chẳng biết; chồng cầm quyền vợ, vợ phải nghe lời chồng dạy, lẽ nào chồng nghe lời vợ dạy hay sao? Nếu ngươi thiệt tình hiếu đễ. Vợ ngươi lẽ nào dám bất hiếu bất đễ. Nay ngươi bất hiếu với cha mẹ, khi anh bất thông hiếp em dâu thất thế mà còn nỡ nào vu oan làm bức cho tiết phụ liều mình? Thiệt tánh độc hơn rắn bồ cạp, không bằng loài chó heo. Phạt đoạ Địa ngục A tỳ, hành tội liền liền, quăng lên núi đạo, rồi bỏ xuống ao nước sôi, xay giả nấu dầu, thiêu ra tro, rồi huờn hình lịa như vậy luôn, không đặng đầu thai nữa. "

Phán quan đọc án kế: "Họ Lưu ở huyện Bành Ly, hồi nhỏ học thợ mộc, hay ếm mà hại chủ nhà, hai mươi năm như vậy. Hay chửi mưa nắng, vì hư việc của nó. "

Phán: "Ngươi làm thợ mộc, ếm hại chủ nhà. Tuy ngươi ếm người không nổi, song cái lòng độc ác của ngươi, quỉ thần đã ghét lắm. Huống chi mưa gió mây sấm trời đất đều do các vị thần linh cai trị. Sao ngươi dám mắng mưa chửi gió xúc phạm trời đất thần linh. Cớ nào ở độc và điên cuồng đến thế? Trời sai thiên lôi đánh ngươi chết, mà trừ chưa hết tội: Nay phạt ngươi làm ăn mày câm và điếc, mãn kiếp chết xuống đây sẽ hay."

Phán quan đọc án kế: "HỌ Từ nước Vệ, huyện Kim Sàn. Hồi nhỏ ngang dọc, không tin sự báo ứng tội phước nên không kính thánh thần. Gặp thầy chùa, thầy tu, hoặc ăn mày, đều không bố thí, mà lại mắng thêm.
Lòng ở bất nhơn, hay giết rùa, đập rắn, giết loại trùng dế rất nhiều. Say rượu hay phá quán, đánh lộn ngoài chợ. Lúc say rượu kia, đánh chết đứa con đẻ mà không biết thương."

Phán: "Không có lòng nhơn thương xót, là chẳng phải con người. RẤt đỗi thấy đứa con nít nhỏ, bò gần miệng giếng lòng còn thương, bất nhẫn mà bồng ra cho xa, huống chi con đẻ của mình mà đánh chết? Hùm dữ còn chẳng nỡ ăn thịt con, lòng thằng này thiệt độc hơn cọp, tuy ở Dương gian đã bị cầm ngục cho tới rũ tù, nay nấu dầu và đốt cho đáng đời, rồi sẽ đi đầu thai làm súc vật ".

Phán quan đọc án kế: "Họ Nhan ở huyện Quan hoá, tánh ở không tốt, hay giấu việc của người, thuật việc hư của chúng. Kể nói cho sướng miệng, không cần việc có việc không. Muốn đọc cho chúng câu, chẳng kể nói chơi nói thiệt. Làm cho đàn ông con trai mất tiếng khen, đàn bà con gái mang danh xấu, những tội ấy kể không xiết, nghị phạt tội cho mau."

Phán rằng: "Họ Nhan là mặt người nói ngay, không cần danh tiếng chúng. Tội độc ác quá rồi, giam vào ngục cắt lưỡi. "

Phán quan đọc án kế: "Họ Giám ở huyện Nghị Thành, đấu Tú -tài, có khoa ngôn ngữ, hay kêu ngạo mắng nhiếc người và nói trây nói nhớp theo việc tục tĩu. Thường lấy các câu trong kinh sách, nói bức khúc, thích nghĩa bậy mà cười, đáng tội lắm. "

Phán: Ngươi đọc sách thánh hiền, lại để ngươi mà giễu lời thánh hiền. Có tài trí thông minh, không giúp việc phải, lại đêm tai trí mà giễu cợt, nói kiêu ngạo cho trời đất ghét, mà tổn đức mình, làm chúng cười một chút, không ích chi cho mình, thiệt là ngu quá! Cho đầu thai làm đứa ăn mày câm cho hết nói nữa!" Phán quan tâu: "Họ Nhan với họ Giám, đều phạm khẩu quá, tội ấy cũng nhỏ xin Vương gia rộng dung."

Phán: "Tội lời nói tuy là nhỏ mọn, nhưng mà bày sự tự, tỏ sự kín của người và lại chưa dọ cho chắc nghe lưu truyền mà nói ra như mắt thấy. Những người hay nói chắc, không vị không giấu, mà nói bóng gió điều chi, ai cũng tin chắc. Huống chi thiên hạ ưa nghe chuyện mới chuyện lạ, phân nửa không tin, chớ tin cũng hết phân nửa, làm cho người hư danh xấu tiết, đến nỗi trên ông cha mang nhục, dưới con cháu hổ hang. Có khi nói chúng tức tối hổ thẹn mà liều mình, tội lớn vô cùng, sao gọi là lỗi nhỏ." Phán rồi y án, không chế chút nào. 

Phán quan đọc án kế: "Vợ cho Chúc là nàng Cát thị ở huyện Dực Dương. Tánh hay nghi ngờ, lòng ở độc hiểm hay xui chúng rầy rà, làm cho bà con rời rã, như là: cha con mẹ con bỏ nhau anh em vợ chồng xa nhau. Phàm gặp đờn ông con trai cũng nghi nếu có sự chi mất lòng, thì vu oan cho người ấy là loạn luân. Gặp phụ nữ cũng sanh nghi nếu bất bình thì vu oan rằng nàng ấy ngoại tình lang chạ. Những gái đồng trinh hoặc người thủ tiết, đều bị nó vu oan, dẫu bà con hoặc chí thân, nó cũng không chừa nữa. Nó vu cho Chương thị, Chương thị tức mình phát bịnh thác! Lại nói vu oan cho người em trai chàng hàng bên chồng rằng chú ấy muốn lấy con gái! Người em chồng tức mình, nhảy xuống sông mà trầm mình. Mau định tội răn đời. 

Phán: "Cát thị tánh hay hồ nghi, lòng độc như rắn bò cạp, lưỡi bén như gươm, lại chúng hư danh liều mạng. Trong đám phụ nữ có loài bất lương ấy, không còn án nào mà hơn nữa. Truyền cắt lưỡi, đục răng, cắt môi cầm tại ngục A tì mà hành mãi, không đặng đầu thai. Phán quan thâu hồn đứa con trai với đứa con gái nó, cho hết dòng thèo lẻo. " Phán quan tâu: "Chồng nó là họ Lương, hiền hậu làm lành, có khắc bản kinh Cảm Ứng in mà cho người, tới 7.534 cuốn, khuyên dạy người đời, cải ác tùng thiện công đức rất lớn, nỡ tuyệt hâu ngươi. " Phán: "Nghĩ chồng ngươi hiền lành, người lành phải có hậu, nên tha cho hai đứa con. Còn ngươi tội ác thái quá, cầm ngục hoài không luân hồi. "

Phán qua đọc án kế: "Phan thị nhan sắc xinh tốt mà tham dâm, chê chồng xấu tướng, lộn chồng lấy các tay điếm đàng, thả lắm đau ghẻ lở mình mà chết. "


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Phán:'Nhơn duyên trời định, có số giàu nghèo. Ngươi là đàn bà xấu nết, không biết hổ thẹn, chê chồng xấu mà lộn chồng, lại ngoại tình lang chạ, Thấy chúng giàu sang tức mình nghèo khó, ỷ mình bóng sắc, chê chồng xấu xa không xét nết lăng loàn mà chê chơn chất, chê chồng già mà mê chồng trẻ, trách cha mẹ định không xứng lứa vừa đôi. Thờ chồng không trọn đạo, hoang nết chẳng nên người. Đứng đường bán dạng thuyền quyên, đánh bóng nhem trai hoang đảng. Tội tà dâm đại ác không dung. Phạt đầu thai làm heo nái hai kiếp, cho đáng tội lộn chồng, rồi sẽ xử nữa. Truyền quỉ sứ cho máy răn sắt nhai nó, rồi cho đầu thai '.

Phán quan tâu rằng:' Hai mươi ba khoản ác phạm cộng 42 án đã xử rồi. Còn Thiện sĩ Lâm tự Kỳ bị bắt lầm bây giờ tính lẽ nào? Vua Tần Quảng đòi hồn lâm tự Kỳ lại, phán rằng:' Nay đưa ngươi hườn hồn, phải rán lấy lòng thành tu hành cho sấn sướt, trẫm nãy giờ xử các án đó, ngươi đều hiểu chăng? Tự Kỳ tâu rằng:' Tôi thấy đủ ' phán:' Các sai dịch, đưa hồn thiện sĩ qua vua Đông nhạc, lãnh phê hồi dương đặng thiện sĩ thuật lại cho đời nghe các án trẫm xử đó. ' Tự Kỳ tâu: ' Tôi tối dạ nhớ các án không rành. ' Vua ngó phán quan mà phán rằng:' Cho thiện sĩ một hườn thuốc phát huệ ngậm trong miệng mà hồi dương, thì nhớ đủ điều không sót. 'Tự Kỳ lãnh huờn thuốc phát huện rồi tâu rằng:' Tôi cám ơn vương gia cho sống lại, từ nầy tới, quyết ý tu hành song chưa biết cách tu hành đạo đức lóp lang điều nào làm trước cho trúng cách?'

Tần quảng Vương phán rằng: Đạo là đạo ngũ đạt: chúa tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bằng hữu, cũng trong năm bực ngũ luân chớ không điều chi lạ. Sao gọi đạo chúa tôi: Phàm làm quan thì trước phải ngay chúa thương dân, ở trong trào, hoặc trấn cõi ngoài, điều giữ theo luật cho xứng chức phận, hết lòng hết sức cứ lẽ công bình mà quên tự vị, lo việc nước mà quên việc nhà, ấy là theo bực chức phận. Còn dân giả thì lo cho đủ sưu thuế, không phạm phép nước, giữ bổn phận thảo thuận ngay chính, thiệt thà chắc chắn, giữ theo lẽ nghĩa nhà ở nhơn nhường. Khuyên dạy quê khờ, giữ gìn phong hoá, ấy là tu bực chúa tôi. Còn đạo cha con, làm cha nuôi con thì phải dạy, thương con phải cho nó cần lao. Hoặc dạy sách kinh cho thông đạo lý, hoặc dạy ruộng rẩy buôn bán nghề nghiệp làm ăn; chẳng nên cưng hư, cho lập lũ tửu sắc hoang đàng bài bạc. Còn làm con, lo nuôi dưỡng kính yêu cha mẹ, việc lớn thì lo ăn học nên danh cho cha mẹ vinh hiển, ở thanh liêm ngay thẳng cho cha mẹ được tiếng khen. Kế đó phải rán hết sức hết lòng mà nuôi cha mẹ, ăn mặc cho xứng đáng, tuỳ theo sức mình giàu nghèo; giàu sang thì dưng mùi ngon ngọt và chiều lòn cho cha mẹ vui lòng, đừng để cha mẹ bất bình mới trọn thảo; nếu nghèo khó dầu muối dưa hẩm hút, cũng nuôi cho cha mẹ đẹp lòng, liều thân trâu ngựa mà đền cúc dục. Dẫu nghèo cũng hết lòng cung kính cha mẹ, chớ ỷ một sự nuôi, mà không kính lễ. Còn phải biết thân vóc nầy là thịt xương của cha mẹ chia cho, nên phải thủ thân chẳng dám huỷ hoại thân thể, và cũng không dám làm quấy cho nhục cái vóc của cha mẹ sanh thành, mới là trọn thảo. Ấy là đạo cha con như vậy. Còn đạo chồng vợ phải phân biệt chồng lo việc ngoài, vợ lo việc trong cho trúng cách. Chồng cầm quyền vợ, song phải lấy lễ nghĩa mà đãi nhau đừng bỏ phép mà mầy tao mi tớ. Hoặc chồng ỷ quyền mà đánh hiếp vợ, hoặc vợ vô lễ mà sỉ nhục chồng. Chồng trọng vợ tại đức hạnh, chẳng nên mê sắc, vợ kính chồng như thờ chúa phải giữ đạo tôi. Vợ chồng thuận hoà, thì nên gia đao. Chồng dạy vợ hiền kỉnh cha mẹ chồng, cho dâu sẽ bắt chước. Hoà thuận chị em bạn dâu, thì trong nhà hết sanh nghi. Chồng dạy phải thì vợ nghe, mới gọi xướng tuỳ trọn đạo. Ấy là tu việc chồng vợ, còn như anh chị em cũng một chỗ mà ra, một máu một thịt như tay chơn, thể các nhánh cây một gốc, nếu anh đau như em đau, coi như một vóc, dầu sự may sự rủi, sự vui sự buồn, cũng chung cùng nhau một thể. 

Như cha mẹ còn mà anh em hoà thuận thương yêu nhau, thì cha mẹ vui mừng lắm. Tuy cha mẹ đã khuất, ngó tháy anh em, cũng như thấy cha mẹ, thương anh em cũng như thương cha mẹ. Bởi vậy tuy anh em bất hoà mặc lòng, nếu người dưng đánh anh em, cũng nóng ra mà binh vực, lấy đó mà suy, thì anh em là thiết lắm. Nói tắt một điều: cha mẹ anh em là trời định, không đổi dời đặng. Còn vợ con là ở sau, tại nơi người định, nên đổi dời đặng. Vì vậy chẳng khá trọng vợ con mà khinh anh em, chớ khá vị tình sau maquền nghĩa trước, thì tu việc anh em rồi. Còn bậu bạn cũng đứng vô năm bực nhơn luân là cớ nào vậy? Mình chưa làm việc lỗi, nhờ bạn trách mới bỏ. Việc nên hư lợi hại phải quấy của mình, có khi cha mẹ vợ con nói không được, vì không nỡ nói, mà bạn dám nói. Việc tâm phúc của mình, có khi cha mẹ vợ con nói không được, mà bạn dám nói. Có việc cấp nạn, cha mẹ vợ con cứu không được, mà bạn lo được cứu được. Cho nên con người không nên chẳng có bạn đạo nghĩa. Cho nên kết bạn, nói phải chắc chắn nhìn lời: lâu ngày cũng chẳng quên nhau. Lo việc cho bạn, cứu cấp cho bạn. Mình ở cho trọn đạo với bằng hữu, tự nhien bằng hữu giúp ích lợi cho mình. Tu xong cái đạo bằng hữu, năm bực đạo nhơn luan trọn rồi. Xin thiện sĩ rán lên một bực. Ấy là lời quê cạn của trẫm, truyên dạy người đời, nghe cho mau hiểu rán sức mà làm. Nói tắt một điều, người tu hành chẳng luận bỏ nhà hay ở nhà, gái trai già trẻ, cũng không luận sang hèn giàu nghèo, hoặc trôi nổi hoạn nạn, không người nào mà tu chẳng được, không chỗ nào mà tu chẳng được, không thuở nào mà tu chẳng được. Tại nơi mình tuỳ theo bổn phận, trong lòng cho an. Mình có dư, coi như còn thiếu, chớ sanh lòng kiêu căng xài phí quá chừng. Mình tuy thiếu, coi như có dư, đừng sanh dạ tham lam ước mơ quá lẽ. Ở với người, cứ một chữ DUNG, trị trong nhà nhớ trăm câu NHỊN. 
Nếu ai ở điều chi quấy quá, mình hết lòng tìm kiếm cho ra chỗ phải của người. Mình ở điều chi phải nhiều, mình hết sức xét suy cho ra chỗ phải còn thiếu. Lo cần kiệm là đầu sanh lý, giữ hiếu đễ là cội tu thân. Lại còn bố thí giúp đời, làm lành chẳng mỏi. Làm đặng vậy trọn đời; gìn chay tốt không gìn cũng tốt, niệm Phật linh, Không niệm cũng linh. ' Tự Kỳ:'Phải có của mới bố thí đặng, nghèo mới biết làm sao?'Phán rằng: Sự bố thí chẳng phải rặt ròng có của, lấy của bố thí là thí cho kẻ nghèo ngặt. Nếu sức mình không dư, mà cho kẻ đói một chén cơm, cho kẻ khát một bát nước, cũng gọi là bố thí. Hãy còn nhiều cách bố thí mà không tốn của. Như kẻ đương lo sợ, mình dùng lời dịu giải khuyên cho hết sợ, gọi là vô uý bố thí. 

Còn những người mê đắm, không biết ăn năn, mình khuyên giải cho tỉnh lại hết lầm, gọi là vi pháp bố thí. Nếu có việc chi tiện cho đời, thì mình ra sức, việc bất tiện mình lo dùm cho mên, gọi là phương tiện bố thí. Nếu người ta tranh đua, thưa kiện, mà mình thích giải hoà, gọi là giải kiết bố thí. Trong lòng bất nhẫn hay thương người, gọi là tâm điều bố thí. Các điều đã nói đó, là bố thí lời nói với công làm lựa phải có tiền bố thí '. Tự Kỳ tâu: Cứ theo thầy chùa nói: phải ăn chay niệm Phật mới gọi là tu hành. ' Phán rằng:' Ăn chay niệm Phật, là ép xác sửa lòng. Chớ ăn chay có ích chi cho Phật. Còn niệm Phật lại lợi chi cho đời, Miễn là làm mười điều lành, lánh mười điều dữ, thì đủ rồi. Nếu ăn chay niệm Phật mà mười điều dữ không bỏ,mười điều lành không làm, chẳng những không phước không công mà lại nhiều tội nhiều lỗi. Vậy chớ mười mấy sãi hồi nãy, cũng ăn chay niêm Phật, mà cũng bị giam Địa ngục, ấy là không phải chơn tu, Nếu chơn tu thì sửa mình giữ đạo là thứ nhất, bố thí ăn chay thứ nhì. Cái nào cũng quí tại chữ tâm: bố thí khó tại lòng nhơn, không khó đều ra của ăn chay khó tại lònh chánh, không khó miệng cữ kiêng. Cho nên nhà nghèo bố thí một đồnh tiền, cầm đáng ngàn đồng nhà giàu có. Nhà giàu có ăn chay một bữa, cũng bằng chay một tháng nhà nghèo, là lấy chỗ khó ít nhiều mà tính phước, nếu rán chịu khó cho lắm, mới thiệt lòng thành tu hành. 'Tự Kỳ tâu: Sao gọi trong kinh Kim cang có bốn câu kệ quí?' Phán:' Nghĩa nầy mắc lắm, trẩm giảng ký, thiện sĩ nhớ cho rành, Kinh Kim Cang 32 phần, phần thứ năm:
Phật cáo Tu bồ đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như lai. '
Nghĩa là: Phật Thích Ca dạy ông Tu bồ Đề rằng: Phàm việc chi có hình tướng đều là sự huyễn sự dối. Nếu thấy cái tướng nào không phải tướng, thì là thấy Phật như lai. 'Bởi Phật không chịu hình tướng, không bày điện, cứ không ngỡ là quí. 
Phần thứ ba dạy phép không tâm (trong lòng không); 
Tu bồ Đề nhược Bồ tát hữu ngã tướng, nhơn tướng chúng sanh tướng thọ giả tướng, tức phi Bồ tát. 
Nghĩa là: Nếu phật Bồ tát, mà có ngã tướng là lòng tham, nhơn tướng là lòng sân giận, chúng sanh tướng là lòng si mê bất thông, thọ giả tướng là lòng nịnh ái đắm sa, thì không phải là Phật Bồ tát '. Vì trong lòng không 4 điều ấy. 

Phần thứ 26 giảng phép không có thân (mình không). 
Nhĩ thời Thế tôn, nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược dĩ sắc kiến dĩ âm thinh câu ngã. 
Thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai. 
Khi ấy Phật Thế tôn (Thích Ca) ngâm bốn câu kệ rằng:
'Nếu lấy hình tướng có sắc mà muốn thấy ta, hoặc lấy âm nhạc tiếng ca ngậm mà muốn thấy ta thì người ấy làm đạo tà. chẳng thấy Phật Như
Lai đặng '. Phật dụng cái tâm thanh tịnh vô hình, chớ không ưa hình tướng. 
Phần 32 (phần rốt) dạy phép không việc đời:
Nhứt thiết hữu vi phát, như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quan. 
Nghĩa là: Hết thảy các việc có hình làm ra thì giả như chiêm bao, bọt nước, cái bóng của mình như móc sa trên ngọn cỏ, như chớp nháng đều không bền lâu, thấy đó mất '. Các việc hữu tình, đều hư huyễn như
vậy, nên Phật trọng vô hình. 
Trong phần ấy, Phật có dạy câu nầy:
Bất thủ ư tướng, như bất động. 
Nghĩa là: ' Chẳng dùng binh tướng, trơ trơ chẳng bận
lòng. 
Lại trong phần 18, Phật dạy bỏ ba lòng:
Tu bồ Đề, quá khứ tâm, bắt khả đắc. 
Hiện tại tâm, bất khả đắc. 
Vị lại tâm, bất khả đắc. 
Nghĩa là:'Không nên nhớ chuyện đã qua. Còn hiện tại bây giờ, không nên vọng tưởng. Sẽ đến đừng mơ ước '. Phải để tâm cho thanh tịnh thì không tội, mới đặng theo Phật Như Lai, Phật xưng là Như Lai vì trong phần 29, Thích Ca nói: Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ,
cố danh Như Lai. Chữ Như Lai là tự nhiên cái tâm, không phải ở đâu mà đến và cũng chẳng đi đâu. Nên gọi tự nhiên như vậy. 
Vua Tần Quảng thích nghia các bài kệ và các câu yếu lý trong kinh Kim cang,rồi phán rằng:' Nếu thiện sĩ về tụng thêm cho đủ một tạng kinh Kim cang (5.818 biến) và dem các bài kệ ấy giải nghia cho nguời nghe hiểu đạo Phật, không cần cúng chùa, quí t?i chừaa tham sân si ái bốn tội và bỏ ba cái lòng vọng tưởng, nh? c?u, mo uớc việc chưa tới, ch?a d? không lòng vọng tưởng tà vạy, là sửa lòng tu mình, khỏi tội mà đặng thành chách quả Ít nữa cũng được hưởng phước kiếp sau. Nếu người nghe
mà cải ác tùng thiện, thì công của thiện sĩ lường không xiết, sẽ đặng siêu thăng'.
Tự Kỳ tạ ơn, rồi tâu rằng:' Tôi cám ơn vương gia cho sống lại và nhờ ơn dạy bảo,
thắp hương mà lạy hoài đền ơn cũng không xứng. Còn các vị thần sở tại chỉ lầm,
e bị tội lỗi xin vương gia rộng dung cho chư thần '. Phán:' Trẩm y lời miễn chấp. 
Thiên sĩ hồi hương rán hết lòng làm lành, nhớ lời trẩm dặn '. Phán rồi truyền bốn
quỉ sứ, đưa hồn Tự Kỳ, về tối cõi dương gian, giao cho các thần sở tại, đem hồn
cho nhập xác. 
Khi ấy Lâm tư Kỳ sống lại, như tỉnh giấc chiêm bao, kêu tiểu đồng, n gười nhà
xúm lại cho uống nước trà, trong miệng Tự Kỳ bay ra mùi thơm lạ (ấy là hơi
thuốc Phát Huện). Xóm làng tới thăm đông lắm, đều hỏi thăm việc Âm phủ mà
nghe, vì từ xưa đến nay, chưa thấy ai thác đi sống lại, Tự Kỳ bảo đem giấy mực
lại, cứ việc vẽ hình vua Tần Quảng với phán quan xử 42 án. Rồi để các án theo hoạ đồ, gọi là cuốn Hồi - Dương Nhơn - Quả. Ai nấy xem thấy đều hãi kinh, nội châu huyện quan dân đều đến xem sự lạ, thấy xử các án công bình, mới biết từ xưa
đến nay, sự báo ứng không sai một mảy, mới tin Địa ngục rõ ràng, hồ nghi huyễn
hoặc, nên nhiều người cải ác tùng thiện. Trong lúc ấy nhằm ngày mồng chín tháng ba, năm Mậu Ngũ, trong niên hiệu vua Gia Khánh trào Thanh. 
Lâm tự Kỳ với người háo thiện, sao lục cuốn nầy mà cho thiên hạ coi, đua đậu
tiền mướn khắc bản, vân vân. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
NHƠN-QUẢ LỤC LINH NGHIỆM KÝ


(Biên các sự linh nghiệm kinh Nhơn-Quả nầy)

1.__ Uông-Nguyên ở huyện Tiền Đường, mẹ già,

còn y đã ba mươi tuổi, mà không con, cha là ông Tinh-Hư, tính khắc bản
kinh Hồi Dương Nhơn Quả, chưa khắc đặng mà phần. Uông-Nguyên
muốn cầu cho mẹ đặng sống lâu và cầu con luôn thể, nên bán ruộng
mà mướn khắc bản. Mới khắc nửa cuốn, mà vợ đã có thai đẻ con trai. Rủ thêm các vị háo thiên Ngại - Khởi vân vân, phụ tiền in tới muôn cuốn mà cho người. Đêm kia Uông-Nguyên chiêm bao thấy hồn cha về khen rằng:' Con noi ý cha, cha đã siêu thăng về cõi Thiên đường. Còn mẹ người sẽ trường thọ. Các vị phụ in, đều đứng tên vào sổ Thiên tào '. Sao gia đạo càng ngày càng khá, mẹ sông gần trăm tuổi. 

2.___ Triêu-Bích đi thi đậu về, thấy hồn vợ hiện dọc đường đón

chồng khóc rằng:' Thiếp hay sát sanh, thường làm nham cua lắm. Nay hồn xuống âm phủ, phạt bỏ vào núi Giải - san, bầy cua kẹp ngày
đêm khổ sở. Tại âm phủ trọng kinh Hồi - Dương Nhơn -Quả lắm. 
Tôi xin cho hiện hồn về, cậy tả bảy cuốn cho người mà chuộc tội '. Triệu -Bích về tới nhà mới hay vợ chết đã chôn rồi. Liền sao tả kinh nầy,
mới được hai bổn mà cho lần. Kế đi viếng mả vợ gặp ông già xưng là thần núi nói rằng:' Vợ ngươi nhờ phước cho kinh, đã đặng đầu thai rồi. 

3.___ Vương -Phụng là thầy thuốc huyện Thoại -An, cữ sát sanh, lại

phóng sanh nữa và hay mướn khắc các bản kinh khuyến thiện. Ngày kia
bịnh ngặt, chiêm bao thấy hai quỉ sứ bắt hồn dẫn đi đặng nữa đường, ngó lên thinh không có ba vị, một vị mặc áo vàng nói rằng: ' Ấy là Vương - Phụng hay khắc bản kinh in cho thiên hạ, mau thả hồn ra '. Hai quỉ y lời. Vương -Phụng tỉnh dậy thuận chuyện, mạnh giỏi như thường, nên lo việc in kinh làm lành. Sau tu thành tiên. 

4.___ Dương -Sâm là tấn sĩ ở huyện Huỳnh -nham. Lúc chưa thi

đậu, thấy trong làng khắc bản kinh Cảm Ứng và kinh Hội -Dương Nhơn -
Quả mà in cho người. Dương-Sâm xét mình ít tiền thấy tấm bản số 17
chưa khắc, xin chịu tiền nội một tấm ấy. Tối chiêm bao thấy ông thần mách bảo rằng:' Cho chàng trúng theo số bản kinh '. Sau thi đậu tấn sĩ
thứ 17. Lấy đó mà suy: khắc bản kinh không luận tiền nhiều ít, quí tại
lòng thành. 

5.___ Phương thời Khả ở huyện Hưu Ninh, nhà nghèo mà hay bịnh. 

Gặp người lạ nói rằng: Ngươi nghèo mà không con, số có 36 tuổi. Nếu
muốn đặng phước, thì phải làm lành '. Thời -Khả về rán sức khắc các bản kinh, quyết in cho thiên hạ. Khắc mới phân nửa, bịnh giảm năm phần, khắc rồi thì hết binh. Sau sanh hai người con trai, lớn đều vinh hiển. Thời - Khả cũng đặng sống lâu. 

6.___ Trần tông Hiên ở huyện Ngô - Môn, năm Canh Ngũ trào Vua -
Gia Khánh, tháng mười một nội xóm rong thành bị lửa cháy. Người trên
thành ngó thấy có một người lớn cao, đứng trên nóc nhà Tòng Hiên mà chữa lửa, Ai nấy đồng lấy làm lạ. Không bao lâu các nhà xung quanh đều bị cháy hết, trừ ra một nhà Tòng hiên khỏi cháy! Ai nấy đều hỏi thăm vì cớ nào mà khôi bị hoả hoạn? Tòng Hiên nói:' Trong nhà có bản Cảm Ưng và bản kinh Hồi dương nhơn quả, không biết phải nhờ đó
mà khỏi chăng '.

7.___ Huyện Tiền Đường có ông văn học giỏi, là Hứa đình Du, hay
tụng kinh Cảm Ứng, để thờ trên bàn, lối xóm coi theo mà ở. Đêm nọ ăn cướp tới dộng cửa, chúng nó xây xẩm, không thấy đường mà vô, hoảng hồn bườm hết. Sáng Đình Du hay sự ấy càng cám ơn thần, khắc bản ấn thí nhà càng khá hơn. 

8.___ Cống sanh (cử nhơn) họ Uông, ở huyện Lạc Hiệp, ngày nọ chiêm bao thấy vào chùa ông Văn Xương ĐẾ Quân, có đôi liễn:

Thiên thượng chủ ti hữu nhãn, đơn khán tâm điều:

Nhơn gian văn tự vô quyền, toàn bằng âm đức. 

Nôm: Chủ tể trên trời có mắt, cứ ngó lương tâm:

Văn chương dưới thế không quyền, trọn nhờ âm đức. 

Họ Uông ý muốn khắc câu đối đó vô thiện thơ (kinh) mà cho đời hiểu sự chiêm bao thấy liễn Đế Quân nhứt định sự đậu rớt như vầy mà sửa lòng. Bỗng thấy ông thần bước ra vòng tay nói rằng:' Lệ thương in
một trăm cuốn thiện thơ cho người, thì sống thêm một kí (12 tuổi). Nếu in thêm đôi liễm nầy vào, cho đời rõ tìch thần thánh thưởng phạt, tin mà sửa lòng, phước thọ nhiều lắm '.

9.____ Tạ thiệu Thuyên ở huyện Huyễn Bình bốn mươi tuổi mà không
khong con, lấy làm rầu lắm. Có người khuyên y cho vay đừng ăn lời nặng, rán làm nhiều việc lành, và khắc bản in kinh cho người. mà cầu con thì đặng. Thiệu Thuyên tin lời làm liền. Vợ bịnh yếu đặng mạnh, sau sanh ba đứa con trai đều mạnh mẽ. Vợ chồng tin sự linh nghiệm nên làm lành thập bội hơn xưa. 

10.___ Họ Ngô ở Hàng Châu làm chức võ, sức mạnh đánh quờn hay
lắm. Ngày nào cũng xúi chúng kiện thưa và ra tay giúp sức. Ngày kia họ Ngô đi với chúng bạn, ngồi nghỉ tại cầu Liên Kiều, gần cửa chùa ông
Tưởng tướng công. Ngó thấy trong chùa có một người đương coi đọc
kinh Hồi Dương Nhơn Quả. Họ Ngô cười và ngạo rằng:' Kinh ấy là nói
gạt đàn ông dốt, đàn bà quê, chớ như bực văn học viên quan lẽ nào chịu
đọc và khen ngợi! Thức cười cho ông văn học hồi trước, bày đặt điều
huyễn hoặc làm chi? ' Nói chưa dứt lời, vùng té nhào hộc máu cả chén!
Bạn hữu hỏi thăm, họ Ngô nói:' Thấy con quỉ lên cốt đứng dựa bàn thần, nạt lớn một tiếng, hết hồn mà té '. Cách ba ngày sau họ Ngô thác. Trương -đảng -Ngọc ở huyện Tiền Đường thấy tận mắt mà thuật
chuyện ấy lại. 
11.___ Niên hiệu Gia Khánh, năm thứ 12. Trương tử Anh có một đứa
con trai lên bông bịnh nghịch. Mấy thầy thuốc chạy hết. Tùng cậy họ
Khuôn thỉnh tiên, đặng xin toa thuốc. Uống tuy khá mà mỏng còn lở lầy
Thỉnh tiên nữa. Ngài cho toa thuốc rắc và dặn như vầy:' Đứa nhỏ nầy số vắn, tuy cho thuốc lành mạnh, sau cũng khó nuôi. Ngươi phải rán làm phước, cầu trời cho thêm tuổi. Đám Nghê tượng Hồng ở ấp này mới
khắc bản Hồi Dương Nhơn Quả, ngươi phải phát tâm in ba trăm cuốn mà
cho người thì nuôi đứa con ấy mới được '. Tử Anh y lời, thiệt con mạnh. 
12.____ Kim biên Tam tự Chấn Tổ, ở huyện Hữu Ninh. Thuở nay làm điều chi cũng giữ theo kinh Cảm Ứng với kinh Hồi Dương Nhơn Quả
làm gốc. Nếu gặp ai làm dữ, thì hết sức giảng dạy khuyên can. Mùa thu năm Giáp Tuất, đi qua đò xứ Nghiêm lăng sông, Thất lý, bị lão lớn quá gãy bánh lái hư ghe thiếu chút mà chìm đò. Bộ hành ai nấy kinh hãi. Xảy đâu ngó thấy trong đám mây đen có ông thần bận giáp vàng tay cầm cờ đỏ, phất và nói lớn rằng:' Trong đò nầy có ba người tu theo
kinh Cảm Ứng với kinh Hồi Dương Nhơn Quả, phải bảo hộ cho an '. Các
người trong đò đều xúm lại, vì đồng nghe đồng. Chủ đò hỏi thăm nội bộ hành trong đò, có ai tu theo kinh Cảm Ưng với kinh Hồi Dương Nhơn Quả? Thì có họ Hứa ở phủ Nam Xương, họ Du ở huyện Gia Hưng, với ông Kim chấn Tổ là ba vị. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
13.____ Cung giai Dĩnh ở huyện Võ lâm, vợ là Lý thị, mang bịnh bĩ mãn (lớn bụng) hai mươi năm, mỗi lần đau bụng gần chết, cũng giống bịnh cổ trướng, uống các thứ thuốc không hết. Giai Dĩnh vào chùa Văn
xương Đế quân lạy vái, nguyện khắc bản kinh Âm chất và kinh Hồi Dương Nhơn Quả, in với các thiện thơ cho người vái cho vợ lành bịnh. 
Hèn lâu Lý thị mới mạnh. Còn em ruột là Cung giai Uý, vợ là Từ thị nghén song thai, giờ Thìn đẻ một đứa, còn một đứa trong bụng tới giờ Dậu, mà chưa ra, mẹ con mệt xỉu, nội nhà hãi kinh. Giai Uý vào chùa Văn xương, quì lại nguyện in thí kinh Âm chất chú giải, Hồi Dương Nhơn
Quả, năm trăm bộ cầu cho vợ sanh thai mạnh khoẻ. Thiệt sanh mau mắn mẹ con đều bình an. Còn người chú là Cung chương đau bịnh trĩ
(ghẻ dưới giang môn), mấy năm ngồi thì đau nhức. Lạy Văn xương đế
quân, cầu cho hết bịnh thì in kinh. Vái rồi lạnh mình bắt run như rét trong bụng lạnh ngắt như uống nước đá lần lần hết bịnh. 
14.____ Quan hình thơ là Thẩm lộc Minh ở huyện Tát, phụng chỉ về Kinh đô, vợ phát bịnh nặng. Lộc Minh lạy cầu Văn xương đế quân xin cải ác tùng thiện lo khắc bản in kinh. Người nhà vào chùa kêu Lộc Minh
nói bà đã tắt hơi. Lộc Minh về nhà, vợ sống lại nói: 'Thiếp bị quỉ bắt dẫn đi, nửa đường gặp ông thần, xưng là Trị nhựt công tào, nói rằng người chồng có vái nên Đế quân bảo tha về '. Nhằm ngày 19 tháng 6. Đạo quang năm thứ ba. 
15.___ Hạ Chi sanh ở huyện Trường giang, ngụ Kinh đô nhớ mẹ già ở nhà 70 tuổi. Rằm tháng bảy, năm Quí Mão vào lạy Đế quân, nguyện in kinh Âm -chất với kinh Hồi -Dương Nhơn Quả cho đời, cầu mẹ trường thọ mạnh khoẻ. Không bao lâu đặng thơ nhà gởi qua nói: Mẹ đau phát
bối đã lâu, rằm tháng bảy vùng hết".
16.____ Lưu-quân-An ở xứ Dương-Châu, làm chức tùng sự theo quan Lại bộ. Mẹ theo ở Kinh-đô, phát bệnh mê mẫn. Quân-An ở xa chùa Văn -đế, nên chồng ghế lên cho cao. Đầu canh năm lên ghế cao, lạy ngay phía chùa Văn-xương đế -quân cầu cho mẹ mạnh, thì khắc bản kinh in cho thiên hạ, giây phút bà mẹ tỉnh hồn nói rằng: "Ta bị một con quỉ bắt đi theo cả trăm tội nhơn bỏ tóc xoã, mặt mày lem luốc. Xảy gặp ông bảo tha một ta về, nên mới tỉnh lại. " Nói rồi khoẻ lần, không uống thuốc mà mạnh. 

Hồi -Dương Nhơn-Quả lục

Chung


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
TỪ - ÂN NGỌC - LỊCH MINH KINH

LỜI TỪA CỦA TÔ LAN TỰ NHƠN THU

Kinh Ngọc Lịch nầy, gốc thầy tu hiệu Đạm - Si, gặp thần Phật truyền bổn nầy, về giảng cho đời hiểu. Sau truyền lại cho đệ tử là Vật Mê đạo nhơn (thầy tu để tóc) lưu truyền đã lậu, giảng điều quả báo minh bạch. 
Ngặt người đời, kẻ tỉnh ăn năn thì ít, mê mà không tin thì nhiều. Chê lành nhỏ mà chẳng làm, làm dữ nhỏ không sợ. Cũng có người: đã biết
tội xưa, muốn chừa lỗi cũ. Chưa làm lành bao nhiêu, mà mong đặng phước gặp sẵn dịp dễ lắm liền cải lương tâm! Trách chi ông thánh nói: '
Người khác hơn cầm thú có bao nhiêu!' Thiệt là phải lắm. Coi các vị giàu sang trên đời, đều có căn lành theo Ngọc Lịch. Còn kẻ khó hèn, tuy tại tội kiếp trước, song cũng phạm trong Ngọc Lịch. Người sống bao lâu, ăn năn sao kịp! Kinh Diệc nói:'Coi làm việc lành, xảy gặp phước tốt '. Kinh thơ nói:' Làm dữ cầu may ví như đạp nhằm đuôi cọp, hoặc đi
trên giá mùa xuân, có khi tan ra nước mà sụp '. Lại nói: ' Làm lành, trời cho phước xuống, làm dữ, trời cho hoạ xuống '. Phàm làm người việc nào đã thấy trước con mắt chẳng sai, thì chớ lôi thôi lây lất. Tôi chưa dám chắc mình là không quê, song cầu cho khỏi tội nghiệp mà thôi. 
Niên hiệu vua Gia Khánh, năm Kĩ Mão thánh 11. 


lỜI TỰA CỦA KIM - DẦN Ở HUYỆN TIỀN ĐƯỜNG

Người quân tử lập thân, làm việc nào mà không lành. 
Miễn giữ theo lương tâm trời phú, cho khỏi tội với trời đất quỉ thần mà thôi. Nếu muốn làm gì thì làm, không sợ phép trời, chẳng tin báo ứng, thì càng ngày càng tệ, còn dạy nỗi gì? Tuy ông thánh nói:' Làm lành trời trả phước, làm dữ trời trả hoạ. ' Họ nói:' Lành không chắc phước, dữ không chắc hoạ '. Như vậy các án trốn khỏi lưới dương gian, chẳng
là bỏ qua sao? Đời tệ như vậy, người quân tử mới giảng làm sao? Nay
có kinh Ngoc-Lịch truyền ra, khắc bản tới lần thứ tư, dạy dự phòng nghiêm nhặt, giảng quả báo rõ ràng, ai đọc tới cũng giựt mình sợ tội. Làm lành tuy không cần phước mà có phước, làm dữ sợ hoạ cũng không
khỏi. Nếu không biết kiêng có trời soi xét, thì làm dữ luôn luôn. Xem kinh nầy mỗi việc coi như có thần biên tội phước, ở phải thì ngó trời đất,
mình cũng không hổ thẹn là đủ rồi. 
Niên hiệu Đạo -quang, năm Nhâm ngũ, tháng 9. 

LỜI DẶN CŨNG CỦA ÔNG KIM -DẦN

Kinh Ngọc -Lịch này, ghi xét công quả, phân biệt ngay gian,
linh hiển rõ ràng, quả báo trước mắt. Ai làm lành thì đặng phước, ai làm dữ thì mắc hoạ. Kẻ dữ mà ăn năn cải ác tùng thiện, lâu ngày cũng đổi hoạ ra phước. Lời dạy rẽ ròi, dẫu đàn bà con nít, nghe cũng hiểu mà giữ theo. Nếu ai không tin, gọi chuyện đặt điều, như phụ chiếc thuyền
lành với mình cơn té sông, không chịu leo lên, thì phải bị chìm nơi biển
khổ, sa Địa ngục đã lành rồi. Tôi ước ao cho các vị quân tử, để cuốn kinh này trên bàn, dựa đầu nằm, hằng ngày xem đọc, mắt thấy lòng ghê, thì răn mình không dám làm quấy. Như vậy thì hiệp theo lời thánh
dạy, lành gặp phước, dữ mang tai. Nếu chừa lỗi làm phải cho trọn lành,
tôi mừng giùm lắm. 

PHỤ TRẠ NIÊM HIỆU KINH NGỌC LỊCH

Thầy Đạm -Si là Hồ -Tăng sãi nước Hồ, nước Liêu. 
Tên Kinh -Ngô, năm canh ngũ, nước Liêu, niên hiệu Thái Bình thứ mười. 
Nhằm trào Tổng, vua Nhơn- Tông, niên hiệu Tiên -Thánh thứ
tám, năm canh ngũ, ngày trùng cửu. Đạm -Si đi núi gặp kinh Ngọc -Lịch. 

KINH NGỌC -LỊCH

ÔNG TỬ HOÀNG LÀ THẦN ĐÔNG NHẠC DẠY:

Trời đất không tư vị, thần minh hay xét soi. Chẳng vị cúng tế mà cho lành, không trách thiếu lễ mà cho hoạ. Có quyền đừng
ỷ thế lắm, giàu sang đừng xài phí lắm, nghèo khó đừng dối trá lường gạt
tham gian. Bởi vì ba bực ấy, trời sẽ cho luân phiên xây vần, giáp vòng trở lại banđầu như đồng hồ vậy. (Nếu có quyền mà ỷ thế quá, thì mau
hết thế, tới thất thế sẽ bị báo cừu. Giàu xài phí quá thì hưởng mau hết
phước, trở nên nghèo mà chịu khổ. Còn kẻ nghèo nếu biết kiếp trước tội nặng, nay chịu trả quả, phải ăn năn thủ phận không dám làm quấy,
hết vận bỉ, tới vận thới, trời cho trở nên khá nếu liều mạng gian tham,
trí trá lường gạt giựt của chúng, là buộc thêm tội, trời phạt chồng án tới
già, e để hoạ dư cho con cháu khổ nữa, vì phạt dời mình chưa hết). Cho nên mới làm lành một ngày, tuy phước chưa tới, mà hoạ đã lánh xa
(như tai qua nạn khỏi). Hoặc mới làm dữ một ngày, tuy hoạ chưa tới, mà phước đã lánh xa (như sẽ gặp) sự may, mà khiến ăn trược). Người làm lành như vườn cỏ mùa mưa, tuy chẳng thấy lớn, mà càng ngày tốt tươi. Người làm dữ như đá mài dao, tuy chẳng hao, mà càng ngày mòn mổi. Phải nhớ mà răn lòng điều nầy, đừng làm những việc tốn của người
cho đặng lợi mình, phải cữ kiêng cho lắm. Thà làm một mảy lành, tìm
phương giúp cho tiện sự người cơn bất tiện. Khuyên người chớ làm một mảy dữ. Ăn mặc tuỳ theo bổn phận, độ cho vừa sức mình tự nhiên vui vẽ, lựa là còn số mạng làm chi? Xin xăm sủ quẻ bói khoa, mà hỏi hoạ phước làm chi? Ta nói sự hoạ phước, chắc cho đời rõ như vậy; khinh khi gạt người thì mắc hoạ, độ lượng rộng và hay dung người thì đặng
phước. Nếu nghe lời ta mà ở theo, quỉ thần kính phục, thiên hạ kiêng
vì. 

BÀI BỬU CÁO DẠY BÁO ÂN
của Huyền Thiên Thượng Đế

Nếu đọc tụng, chừa các điều dữ, làm các điều lành thì khỏi hoạ. 
Lạy ba lạy rồi tụng, hết rồi cũng lạy ba lạy. 
Huyền nguơn ứng hoá. Võ khúc phân chơn, Thuỳ niệm ngã đẳng
chúng sanh, hữu tướng thoát sanh phụ mẫu. Hoài đam thập ngoạt, nhủ
bộ tam niêm, Tân khổ bá thiên, ân cần khốn niệm. Liên ngã phụ mẫu, nhựt tiệm suy hủ. Ngã kim trị niệm bình đẳng, tất diệt hiểm tuấn tham
sâu, kỳ ân báo bổn. Nguyện ngã, hiện tại phụ mẫu, phước thọ tăng diên. Quá khứ phụ mẫu, tảo đắc siêu sanh. Đại thánh đại từ, đại nhơn,
đại hiếu. Bát thập nhị hoá, báo ân giáo chủ hưu thành chơn với trị thế
phước thần, ngọc hư sư tướng, Huyền thiên thượng đế kim huyết hoá thân, chung kiếp tế khổ thân tôn. 
Giải nghĩa kinh Báo ân của Huyền thiên thượng đế. 
Đức Huyền thiên thượng đế, thương chúng tôi có cha mẹ ơn mang
mển mười tháng, cho bú ba năm cay đắng trăm bề tấc lòng lo lắng nuôi con. Nay thương cha mẹ tôi càng ngày càng già yếu tôi nguyện tụng kinh này, thì lòng ở công bình ngay thẳng bỏ lòng độc hiểm, tham lam,
giận hờn. Thờ Đức Huyền thiên thượng đế làm thầy: lại tụng cầu cho cha mẹ mà báo ân cội rễ. Nếu cha mẹ tôi còn sức khoẻ thì đặng sống
lâu, nhờ trời thêm tuổi: còn như có mãn phần rồi thì được siêu thăng. 
(từ ấy sắp sau là phước ngài dài lắm).


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
MƯỜI ĐIỀU CẤM CỦA ĐỨC VĂN - XƯƠNG ĐẾ - QUÂN

1.___ Cấm chẳng ngay chúa (chủ), chẳng thảo cha mẹ bất nhơn, phi
nghĩa. Phải ngay chúa, thảo cha mẹ, ở thiệt tình với người. 
2.___Cấm không đặng tính mưu kế lấy của người cho lợi mình. Phải
làm âm chất (âm đức) mà cứu giúp thiên hạ. 
3.___ Cấm đừng sát sanh mạng vật mà ăn, nếu trùng kiến vô cớ cũng đừng sát hại, là lòng nhơn với vật mọn. 
4.___ Cấm tà dâm hoa nguyệt, giữ giới kỳ, là kỉnh
vía thần. 
5.___ Cấm không đặng phá việc tốt của người, cho thất công người. 
Đừng làm cho rời rã ruột thịt của người. Phải giúp bà con mình, anh chi em cho hoà thuận với nhau. 
6.___ Cấm nói dèm siểm, chê bực tài hiền. Không đặng kiêu ngạo
khoe mình, phải khen tài năng sự phải của người. Còn mình có công lao không khoe, dùng xưng mình (giỏi khiem).
7.___ Cấm say rượu, phải cữ thịt trâu, thịt chó. Phải ăn đồ hiền kiêng đồ độc, theo cách vệ sanh cho khỏi bịnh. 
8.___ Cấm tham lam không nhàm, bỏ đãy buộc chặt không bố thí. 
Phải giữ chữ cần kiệm, có dư mà giúp kẻ nghèo. 
9.___ Cấm kết bạn với kẻ quấy, hoặc ở xóm tiểu nhơn, gần kẻ nết xấu, phải thân với người tài đức mà bắt chước. 
10.___ Cấm không đặng bạ nói bạ cười, làm điều trái lẽ. Phải giữ mình ít nói, giữ theo đạo nghĩa đức hạnh mà ở. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
ĐỨC VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN DẠY RẰNG:

Loạn luân là bà con lấy nhau, phạt đoạ ngục Vô gián bị hành bào lạc
1.5OO lần, vì tội loạn luân nặng hơn tội tà dâm với người ngoài. (Bào lạc là cột đồng trống ruột cao 20 thước, đổ lửa than trong ruột cột đồng đốt cho đỏ, rồi quỉ sứ xiềng hồn tội cho ôm cột đồng mà đẩy lên, cháy tiêu thành than rớt xuống lại
huờn nguyên hình như trước mà hành nữa cho đủ 1.500 lần). Nếu ai biết ăn năn trước, thì chừa lỗi, làm công mà chuộc tội, đừng phạm tội loạn luân dâm ác nữa. 
Còn kẻ văn học đặt tuồng hoa nguyệt cho hát bộ hát, bài ca dâm, thơ dâm vẽ hình
tục tĩu, hoặc in mà bán, làm cho ngươi tập thói dâm, hại hư phong hoá, hoặc
mướn hát tuồn dâm, đều bị tội nặng, thác cầm vào ngục Vô gián (Vô gián nghĩa là
không hở). Giã, rồi xay, rồi bào lạc, rồi nấu dầu, hàng xây vần hoài không hở. 
Gái trai hành nhu8 nhau. 
Thầy Liên Trí hoà thượng nói:' Ai thấy tuổng dâm truyện dâm, hoặc đọc lời hoa nguyệt, xem hình ảnh tục tỉu, đều động tâm sanh ra dâm loạn. Những tuồng dâm như truyện Tây sương ký, đặt chuyện Trương quân Thoại với Thôi -Oanh -Oanh mà hát cho đời mê mẫn, thiệt không phải người tài tử với giai nhân mà làm nết xấu nguyệt hoa như vậy. Nếu các viên quan có quyền thế, đốt tuồng truyện
ấy, hoặc huỷ diệt đi, thì được phước lớn vô cùng. Còn con người ai cũng muốn sống, vật nào cùng sợ chết, nỡ nào giết nó ăn thịt cho bố mình, đành đoạn chặt đầu lột da, thọc huyết cắt cổ, nhổ lông đánh vảy, bằm xắt luộc nướng, đau rát khó kêu oan! Làm tội ác mà gây oan báo muôn đời, đến thác bị hành tội rồi còn phải đầu thai mà thường mạng nhiều kiếp. Sau đặng làm người, tật bịnh chết yểu, hoặc bị hùm tha rắn cắn đau bịnh hành hình thuốc độc, vân vân, đều bởi hay sát sanh mà khổ đó. Nay ta khuyên đời, chẳng phải biểu ăn chay trường hết, song khuyên trước cữ sát sanh. Nhà nào cữ sát sanh thì thần phật phò hộ, khỏi tai hoạ, ít bịnh, sống lâu, con thảo cháu hiền, đặng các điều may phước lớn, kể chẳng xiết. Nếu có của dư phóng sanh. thả rùa trạch chim cá, tụng kinh niệm Phật chẳng những hưởng phước thọ mà thôi, thác hồn được lên thiên -đường, hoặc về Tây - phương, khỏi luân hồi nữa, có đâu sa Địa ngục mà chịu hành hình. Ai có phước thấy lời ta khuyên, mau hồi tâm chừa dữ làm lành cho sớm, đừng để gần thác ăn năn không kịp Nếu làm chẳng đặng, cũng rán khuyên người '.


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
LỜI BỬU - HUẤN
của Ông Lữ Tổ (Lữ - đồng - Tân) giáng cơ:
Con người linh hơn muôn vật. Sao người đời không biết thân mạng. Cứ biết một sự dâm ác. Sự dâm ác dầu vua chúa quan dân xưa
nay đều bị hư hại, vì dâm ác mà quên nước, quên nhà, quên danh, quên mạng, không kể gươm đao nước lửa mà theo dâm ác, không cần thể diện, tội phước hại đến chừng nào! Đức Văn -đế chỉ dụ:' muôn tội
dữ, án tà dâm, đứng đầu! ' Lạy dạy rằng:' Nếu có dâm ác thì hư trăm việc '. Hai câu ấy thật hay lắm, quả lắm? Người đời thái quá tới loạn luân không cần lớn nhỏ cũng vì thói tà dâm! Không kể thân mạng, thể diện, danh giá, tiền của cũng vì tà dâm! Không rõ vì cớ nào thói tà dâm
truyền nhiễm khắp thế gian như vậy! Song bọn ấy có kẻ mắc hoạ, có kẻ tuyệt tự, xuống âm ti còn bị ngục hình, Các người giữ lòng tự nhiên sạch, mới là đáng bực anh hào. Chẳng nói làm chi đến bực thượng sĩ là
khó đặng, miễn các người chừa lỗi cũ, thì thờ thần cầu vái mới linh, khỏi thác yểu cho trọn danh con thảo, và dạy con cháu em út tập theo gương
tốt của mình. Lời ngay phái chịu nghe, thuốc đắng phải lo uống. Các đệ tử khá nhớ đừng quên! Nếu mình ngay khỏi phạm thì biên lời ta khuyên đây mà dán trên vách cho em út con cháucoi, kẻ khác cũng thấy mà sửa nết. 
Thương mạng vật thì sống lâu. Tiếc cơm gạo mà giàu được. Trọng
giấy chữ thì làm quan. Dè lời nói thì đặng phước. Làm gương tốt cho cháu con. Đừng phạm tội nơi trời đất. 

LỜI DẠY CỦA CỬU - THIÊN TƯ -MẠNG TÁO -QUÂN

Ta tuy coi sổ cái tại Cửu thiên, mỗi năm 24 tháng chạp tâu một kỳ. Song mỗi nhà điều có Táo quân thay mặt cho ta, mỗi tháng chạy tờ công quá mỗi người cho ta gài vào sổ chánh. Ta chẳng nỡ cho đời phạm tội vì lầm lỗi, nên dạy sau đây: Cấm đốt giấy chữ trong bếp, vì sợ tro ấy nữa đổ nhằm chỗ dơ. Cấm ca, khóc, hoặc chửi rủa, mắng nhiếc trong bếp. Chẳng nên đâm hành tỏi trong bếp, hoặc bửa củi trước bếp. Cấm bỏ lông gà, xương thú, củi dơ trong bếp (ngồi chồm hổm ngay bếp), hoặc quét động vô bếp. Cữ ăn thịt trâu, thịt chó, thì trong nhà bình an. Nếu ai loã lồ trong bếp, thì phạt nặng. Nhứt là cấm gõ gạc trên bếp, cạo dẫy chảo nồi trên bết. 

TÍCH ĐÔI LIỄN ÔNG QUAN - ĐẾ

Tại phủ Hàng châu, tỉnh Chiết giang, có người Tú tài
Trương đại Mỹ, ở phía tả núi Ngô san, thuật chuyện rằng: Hồi ta tắt hơi, hồn đến ngoài thành Phong đô vào lạy Quan đế mà khóc. Quan đế hỏi:' Tới số thì thác, lạy khóc ích chi? Ta bèn tâu:' Tôi cũng biết thác rồi không lẽ sống lại song thương mẹ già không ai nuôi, nên đau lòng mà khóc. Quan đế nói:' Như vậy để ta tâu cho ". Giây phút kêu ta mà nói:' Ta đã tâu rồi, Thượng đế khen ngươi có hiếu, cho sống thêm một kỷ (12 tuổi).' Liền cho ta uống một chén nước trà dạy rằng: ' Chùa ta khắp trong thiên hạ treo liễn rất nhiều, song không vừa ý ta, nên ta đặt một đôi liễn như vầy đây, ngươi coi cho nhớ, về mà truyền thiên hạ '. Ta coi thấy:
Số định tam phân, phò Diêm hán, tiễu Ngô phạt Ngụy, tân khổ dị thường, vị liễu bình sanh sự ngiệp; 
Chí tôn nhứt thống, tá Hi triền, phục ma đảng khấu oai linh phi chấn, chỉ huờn đương nhựt tinh trung. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Thích nôm:
Số trời định ba phân phò Diêm hán, đánh Ngô dẹp Nguy, cay đắng nếm đều, sự nghiệp bấy lâu chưa dứt. 
Lòng ta thâu một mối, giúp Hi triều, trừ yêu dẹp loạn, oai linh dậy khắp,
tình trung thuở ấy vừa xuôi. 
Ta đọc thuộc rồi, lạy tạ ơn Quan đế cho hồng ta về nhập xác, sống lại biết đã liệm rồi. Ta liền kêu lớn, bảo giở nắp săng cho ta ra. Ra rồi thuật chuyện vân vân, té ra quên hết nửa câu liễm trước! Cặp con mắt lại không thấy đường! Giây phút nghe gõ cửa, mẹ ta chạy ra trước thấy người bận áo xanh, đưa phong thơ mà nói rằng:' Xin trao thơ nầy cho con bà xem '. Mẹ ta nói:' Con tôi bịnh con mắt, coi thơ sao đặng? '
Người áo xanh nói:' Ấy là toa thuốc, bà trao cho mau '. Mẹ ta đem vào trao liền. Ta xé thơ ra xem thử thấy chăng? Té ra mắt sáng như xưa, coi rõ là nửa câu liễn trước? Kẻ xa người gần, đều lấy làm lạ! Hứa triệu Đình ở Nhơn hoà nghe ta đọc liền biên đôi liễn ấy, khắc treo tại chùa Ông núi Ngô san, lại có khắc một tấm bảng thuật chuyện sự tình đôi liễn, mà treo trước cửa chùa, cho kẻ có hiếu xem, kẻ bất hiếu biết chừa lỗi. Xin rán lưu truyền. 
KINH NGỌC - LỊCH của Thập ư Vương dọn kiểu, Thượng đế có phê, cho truyền trung giới, cải ác tùng thiện. 
Nguyên ngày ba mươi tháng bảy. Địa Tạng vương bồ tát ăn vía sanh, bởi ngài làm chức U minh giáo chủ cai trị mười vua thập điện. Nên bữa vía ngài, thập vương với các vị thần đều đến chầu mừng. Địa Tạng vương phán rằng:' Ta muốn siêu độ chúng xanh, nên mỗi năm ngày vía nầy, ta truyền ân xá các phạm tội nhẹ được đầu thai, tội nặng thì giảm bớt. Ngặt người đời làm lành có ít, làm dữ rất nhiều, ta thấy thập vương các ngục hành hình thảm thiết! Vậy phải tra xét cho kỹ, những ai tại dương thế biết ăn năn chừa lỗi, có khuyên đời làm một hai điều lành, thì trừ bớt tội cho nó '. Thập vương tâu:' Chúng tôi y luật hội nghị '. Nếu ai làm lành tự nhỏ đến già, thì đưa lên cõi thần tiên. Còn kẻ nào công quả bằng nhau, khỏi hành tội, đặng đầu thai kiếp khác như thường. Nếu công ít, quả nhiều, thì hành tội tuỳ theo dư quá nhiều ít, rồi cho đầu thai kẻ khó hèn. Nếu biết chừa lỗi làm lành kiếp sau sẽ cho đầu thai hưởng phước. Nếu còn làm dữ nữa, sẽ bắt xuống hành hình, rồi cho đầu thai cùng khổ đáo để, sống chịu hoạ tai, đến thác sẽ giam vào Địa ngục không đặng luân hồi nữa. Còn kẻ quá ít, công nhiều, trừ còn dư công, thì đặng đầu thai hưởng phước giàu sang trường thọ. Trừ ra tội bất trung là phản chủ, bất hiếu với ông bà cha mẹ, hoặc là liều mình (tự vận), hoặc sát sanh thái quá không tin luân hồi báo ứng. Cứ nói theo tục ngữ:' Người thác thì hồn phách tiêu tan hết, bỏ xác thúi rồi, còn hồn đâu mà bị hành tội nơi âm phủ. Thường thấy người sống bị tội, nào thấy ma chết mang gông, chết rồi thì thôi, còn biết sự gì nữa! '.

Mấy lời ấy quê lắm! Tuy thác thời bỏ xác, chớ linh hồn con hoài, sống làm dữ bao nhiêu, thì thác bị hành tội bấy nhiêu. Mấy kẻ bày đặt nói trước, cho người không tin âm phủ, thì đã bị Vô gián địa ngục, không đặng đầu thai. Người đời tuy thấy kinh sách tam giáo giảng dạy, song không tin, rất uổng công tiên Phật thánh thần dạy bảo. Trăm người không có một người tin mà cải ác tùng thiện, nên phải lập thêm địa ngục mà hành hình mới đủ. Nay Bồ tát thấy vậy mà thương, truyền chỉ thế giảm. Chúng tôi cũng vưng lời, cho các người dữ chịu hồi tâm, ngày vía Bồ -tát với các ngày vía chúng tôi, ăn chay thệ nguyện thiệt tình ăn năn, cải ác tùng thiện, không dám làm dữ nữa, rán sức làm một điều lành chi đó, sau thác xuống hồn khỏi bị hành tội. Trừ ra tội tôi chẳng ngay, con chẳng thảo, hoặc giết mình, hoặc làm mưu mà gạt người lương thiện đến nỗi phải bị trời đánh, chết trôi, chết thiêu, cọp ăn, rắn cắn, thì hồn xuống âm phủ phải chịu hành phạt, song cũng chế giảm một bực vì sự ăn năn chừa lỗi. Nay chúng tôi truyền các phán quan biên hết các sự tội phước, sống làm điều lành nào, mà được phước chi, làm điều dữ nào, thác bị hành ngục chi, ai ai nghe qua cũng hiểu, để dưng cho Bồ -tát xem. Đợi gặp ai cho đức hồi dương, sẽ lưu truyền cho thiên hạ '.
Khi ấy phán quan điện nào, biên theo điện nấy, thành ra bổn Ngọc -lịch, dưng cho Địa -tạng vương xem, Ngài khen hay. 
Qua mùng ba tháng tám, Người với thập vương chư thần đồng dưng Ngọc -lịch cho Thượng -đế ngự duyện Thượng -đế phán rằng:' Hay lắm! Từ nầy chư thần rán xem xét, người đời nguyện chừa lỗi không phạm nữa, làm một sự phước thì cho trừ hai tội cũ, năm điều phước cho trừ hết tội xưa, lại đặng ghét làm siêu độ cho thân quyến nữa, trai đặng đầu thai phú quí, gái đặng đầu thai làm trai Thành hoàng Táo thần tuân chỉ '.


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA TẦN QUẢNG NGỰ ĐIỀN THỨ NHỨT

Làm điều lành nào, được thưởng phước,kể ra sau đây:

1. Lượm giấy chữ nho, đốt trong trả, đổ tro xuống sông, thì được con thảo cháu hiền. Nếu đốt trong bếp thì có tội. 
2. Đốt các thơ truyện hoa nguyệt, cho khỏi hư phong tục, hoặc làm lành làm phước, đều hưởng phước và sống lâu. 

Làm điều dữ chi, phạt tội gì, kể ra sau đây:

1__ Liều mạng giết mình, cho người mắc hoạ phạt làm ngạ quỉ (ma đói).
2__ Các sãi ăn của thập phương mà tụng kinh thiếu, hoặc chịu của người công đức mà tụng kinh thiếu, đều phải tụng bổ lại. 
Tần quảng vương cầm sổ sống thác, trị việc âm phủ. Đền ở tại dưới biển lớn, chánh hướng tây theo đường Hắc đạo suối vàng. Phàm người lành mãn phần, thì cho người tiếp dẫn lên Thiên đường, hoặc về Tây phương. Còn ai công quả bằng nhau, thì qua cửa thứ mười cho đầu thai hoặc gái làm trai, hoặc trai làm gái, mắc nợ nần thì trả quả cho nhau. Nếu công ít quả nhiều, thì dẫn ra phía hữu cái đền, lên đài Nghiệt Cảnh mà soi. Đài cao 11 thước mộc, treo kiếng lớn mười ôm, day mặt qua hướng đông, trên đề bảy chữ rằng:' Nhiệt cảnh đài tiền vô hảo nhơn '. Các hồn soi thấy bình sanh việc chi, đều ứng đủ lớp lang như hát bóng,
nên chối không được. Tới đó mới hay rằng. ' Muôn lượng vàng ròng đem chẳng đặng, cả đời bản có tội theo mình '. Soi kiếng làm án rồi, sai quỉ giải hồn qua cửa thứ nhì, cầm ngục hành tội. Người không kể cha mẹ sanh thân vì sự tức mà tự vận thắt họng, trầm mình, uống thuốc độc, hoặc kiếm cớ chi mà liều mình, không đợi tới số đòi hồn mà chết về nghiệp giết mình (trừ ra vì trung hiếu tiết nghĩa mà giận lẫy, hoặc bị phạm tội sợ hành, tội chẳng đến chết, hoặc muốn liều mạng mà hại người mắc hoạ: làm như chơi mà ra chết thiệt cho người mắc hoạ: các hồn chết về nghiệp ấy, Táo quân với chư thần, bắt hồn giải đến cửa đền nầy, giam vào ngục ngạ quỉ, gặp ngày tuất ngày hợi, thì phải làm cách
liều mình ấy, cầm 70 ngày, hoặc một hai năm, rồi dẫn hồn về ở chỗ liều
mình gia quyến có cúng thì được về ăn, đốt vàng bạc giấy áo thì đặng
lãnh. Nếu biết lỗi không hiện hình nhát người, hoặc không bắt ai mà thế, đợi mấy người trên Dương gian bị làm nhơn mạng đặng khỏi hoạ, thì chư thần giải hồn ấy đến đây, sẽ giải qua cửa thứ nhì tra công quả, nếu trừ rồi dư quá bao nhiêu thì hành tội và giải qua cửa khác hành nữa. 
Còn khi sống mà lòng mong liều mạng đặng hại người, hoạc hăm làm nhơn mạng cho ai, tuy liều mình mà chưa chết, cũng ghi lòng tội hành hình, tu có làm lành cũng trừ tội ấy không đặng. Lúc hồn còn ở chỗ liều
mình, mà hiện hình làm ma nhát cho chúng sợ mà chết, thì sai quỉ mặt xanh nanh vút bắt hồn xuống hành tội cho đến kiếp, rồi cầm ngục mãi không cho đầu thai. 
Còn các thầy chùa, thầy pháp, thầy tu, người ta mướn tụng kinh mà tụng thiếu sót, chừng hồn xuống đây phải ở sở bở kinh, chỗ ấy có đủ thứ kinh, cho đèn lưu ly mờ mờ, mà tụng cho đủ các chỗ thiếu hồi đó. 
Dầu thầy chơn tu cho mấy cũng phải bổ cho đủ vì tiền người. Nếu kẻ tu tại gia tụng cho mình, có sái chữ đọc thiếu cũng không chấp, trọng tại có lòng thì đặng phước khỏi tụng bổ. 
Ngày vía vua Nhứt điện là ngày mồng một tháng hai, nếu ngày ấy ai ăn chay, đặt bàn trở về mặt hướng bắc, nguyện không làm các điều dữ, đọc trải qua bài này một bận, hoặc in Ngọc lịch mà cho thiên hạ, cải ác tùng thiện, đến mãn phần trăm sai thanh y đồng tử rước hồn đem về Tây phương. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA SỞ GIANG NGỰ TẠI ĐIỆN THỨ NHÌ

Các điều lành đặng phước, kể ra sau nầy:

1. Bố thí cơm cháo, được hưởng phước giàu có
2. Thí thuốc cứu người, đời đời giàu sang. 

Các điều dữ bị hành tội, kể ra sau nầy:
1.Ban đêm tính việc quấy, phạt vào ngục Hắc vân sa cho mây đen đè mình, vùng không đặng. 
2. Các viên quan ăn hối lộ, đánh ép kẻ ngay, bắt chịu án oan, phạt
giam hoài trong tù xa, ló cổ ra mà chịu. 
3. Dỗ dành con nít làm quấy, bị cầm ao giá lạnh. Sở giang vương ở dưới đáy biển nam, địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, gồm 16 cái
ngục nhỏ, kể ra đây:
1. Ngục Hắc vân sa
2. Ngục Phẩn thỉ nê, Phẩn
3. Ngục Ngũ xa, đâm
4. Ngục Cơ ngạ, đói
5. Ngục Tiêu Khát, khát nuớc
6. Ngục Nung huyết, máu
7. Ngục Nhứt đồng phủ, 1 chảo đồng
8. Ngục Đa đồng phủ, nhiều chảo đồng
9. Ngục Thiết đối, cối xay sắt
10.Ngục Bân lương, đong lường
11. Ngục Kê trác, gà mổ
12. Ngục Khôi hà, ao tro
13. Ngục chước triệt, chặt khúc
14. Ngục Kiếm diệp, gươm lá
15. Ngục Hồ lang, cáo, chó sói
16. Nguc Hàng băng trì, ao giá
Nếu phạm tội dụ dỗ trẽ nhỏ, cạo đầu vô chùa làm sãi, làm cô vải; 
hoặc còn nhỏ tự ý cạo đầu vô chùa đi tu bỏ cha mẹ, mang tội bất hiếu; 
hoặc ai gởi thơ (kinh sách) hoặc đồ đạc, cố ý nói làm mất mà làm của
mình hoặc làm hại tai mắt tay chưn người; không biết coi mạch làm thuốc bướng hại người mà lấy tiền: hoặc nhà giàu bất nhơn mua mọi gái, sau người chuộc lại mà không cho: hay là làm mai ham ăn của mướn giáu tuổi, tráo tuổi, rõ biết gái trai có tật bịnh, gian giảo, mà nói
gạt người sau chúng nó bị tức tối: các tội kể trên đó, tuỳ theo nặng nhẹ, giam vào 16 ngục hành cho đáng kiếp, rồi giải qua cửa thứ ba hành nữa. 
Nếu ai giảng Ngọc lịch, hoặc in cho thiên hạ, hoặc thấy kẻ bịnh nghèo mà cứu giúp, hoặc bố thí cơm cháo gạo tiền, hoặc biết ăn năn chừa lỗi, thì cho trừ tội trước khỏi tính trước khỏi tính, được qua cửa thứ
mười đi đầu thai làm người. 
Nếu cữ sát sanh, cấm con cháu không giết trùng dế và đến mồng
một tháng ba là ngày vía trẫm ăn chay nguyện phóng sanh, sau khỏi bị
đoạ địa ngục được qua cửa thứ mười đầu thai hưởng phước. 
Xưa nay lượm giấy chữ thì sống lâu, ai cũng rõ biết. Nếu đạp giấy chữ,
chẳng hề hưởng giàu sang phước thọ bao giờ. Như việc buôn bán đồ thiệt tốt giá vừa phải thì nhiều người mua,lựa phải dán lời rạo, vậy cho chúng tin miếng giấy áp tới mua nhiều sao? Huống chi dán nơi vách tường, mặt chợ mới, coi tử tế, lâu gió mưa rớt xuống bùn lấm ướt nhẹp,
kẻ muốn lượm cũng không thể lượm được. Cho đến chỗ dơ, thấy đầy những cán dù, cán viết, miểng sành, giầy guốc, đều cũng có chữ trong đó, kẻ trong chữ nghĩa, cũng không thế lượm cho hết. Nên ta khuyên đời phải xét cho kỹ, mà khuyên nhau rằng:' Giàu nghèo có phần số mạng, không phải tham mà đặng nhiều. Muốn đặng phước thì trước đừng làm tội. Nếu làm tội như vậy sao đặng nên giàu có? Nếu tin lời ta,
thì đừng dán lời rao chữ nho. Các món vật dụng đừng viết nho in chữ nho vào đó. Tự nhiên không cầu lợi mà lợi nhiều, chẳng cầu phước mà phước đến, là vì trọng chữ nho, không đụng đâu để đó. 





---------------- 

VUA TỐNG ĐẾ NGỰ ĐIỆN CỬA THỨ BA

Làm lành được phước:

Làm cầu, sửa cho thiên hạ đi, thần thường phò hộ. 

Làm dữ phạt tội:

1. Giết người mà cướp của, bị cọp nhai
2. Đoạt thơ của người không đem tới, bị bắn. 
3. Làm mưu giết chồng, hại chồng bị phân thây xẻ thịt. 
4. Đốt nhà hoặc săn bắn bị bào lạc. 
Tống đế vương, đến tại đáy biển đông nam. Địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, chia ra 16 ngục nhỏ, kể ra sau nầy:
1.___ Ngục hàm lỗ nước mặn. 
2.___ Ngục mà huờn dà nu, gông xiềng. 
3.___ Ngục xuyên lặt, đục sườn. 
4.___ Ngục đồng thiết, quát hiểm, nạo mắt. 
5.___ Ngục quát chỉ, nạo mỡ. 
6.___ Ngục kiềm sài tâm cang, móc gan tim. 
7.___ Ngục khối nhãn, móc mắt. 
8.___ Ngục sản bì, lột da, căng da. 
9.___ Ngục nguyệt túc, cưa cẳng. 
10.___ Ngục bát thủ cước giáp, rút móng. 
11.___ Ngục hấp huyết, hút huyết. 
12.___ Ngục đảo điêu, treo ngược. 
13.___ Ngục phân ngung, sả vai. 
14.___ Ngục thơ hoa, ăn giòi tửa. 
15.___ Ngục kích tất, đập đầu gối. 
16.___ Ngục ba lâm, mổ trái tim. 
Làm quan không biết ơn vua, không đạo tôi: dân không lo sưu thuế cho nhà nước: vợ phụ bạc chồng, lộn chồng bỏ chồng, trốn chồng hỗn với chồng, hồi nhỏ cha mẹ đã chịu cho người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi mà cãi họ lại, đầy tớ phản chủ thơ -kỳ quân lính ở bạc với người làm đầu (quan thầy của mình): kẻ làm công ăn gian chủ tiệm; tù vượt ngục, bị đày mà trốn, hại người bảo lãnh và quan cai trị trong sở, hoặc làm cho người thân bị khổ; không biết ăn năn chừa lỗi, trừ công còn dư quá thì hành; cứ theo địa lý để quân lâu, hoặc cữ không cho làm mả, hoặc bày cải táng đào mả lấy cốt tồi tàn, hoặc không đắp mả ông bà cha mẹ để loạn lạc (xiêu mồ lạc mả): dụ người làm phạm luật; xúi chúng kiện cáo làm thơ rơi giấu tên, hoặc dán lời kiêu ngạo mà giấu tên, hoặc dán lời nói xấu tiết cho con gái, phá đám hôn nhơn (cưới hỏi) mà giấu tên; hoặc viết thơ hồi, tờ để: làm giấy tờ giả mạo; đòi tiền bán chịu rồi mà chẳng dỉ sổ, hoặc trả nợ rồi mà không cho giấy không xé giấy: tập ký tên giả, khắc con dấu giả; sửa số bạc tiền trong giấy tờ, đều làm hại người, các tội kể ra đó, tra ra nhẹ nạng, sai quỉ Đại lực giam vào khám lớn, tùy theo tội, dẫn vào các ngục nhỏ hành cho đủ số rồi giải qua cửa thứ tư mà hành theo các ngục khác. 
Nếu ai nhớ ngày vía trẫm, là mồng 8 tháng 2 hay ăn chay nguyện vái không phạm các tội kể trên đó nữa lo việc làm lành mà trừ, sau thác xuống khỏi bị ngục nầy. 
Thầy Nguơn Hiền thiền sư đặt bài khuyên đừng ủ con gái. Mạng người là trọng, nên phép nước nghiêm trị việc án mạng (nhơn mạng). Nếu làm mưu làm hại oan, dẫu trốn khỏi tội Dương gian trời cũng hại mau lắm. Bởi cái mưu giết người, là lòng độc ác, mang tội nghịch thiên là trái lòng ưa sống của trời. Kíp chầy cũng trả chẳng tha. Người đời làm cho loại chí một hồi, sau an8 năn không kịp. Nay nhiều kẻ phạm tội dương gian âm phủ, nhứt là tội ủ con gái! hoặc ủ con chửa hoang! Tuy việc ấy là kẻ ngu hay làm, song quen thói rồi, nhiều nơi bắt chước. Bởi cớ ấy trời bớt số giảm kỷ, hoặc phạt cùng mạt tuyệt tự (không con trai). Nói chi đầu thai kiếp khác thường mạng là luật chung. Nghĩ thử nó đầu thai làm con, mà đền ơn cho mình, nỡ nào mà giết con cho đành đoạn? Huống chi kẻ vô hậu, cầu có chút gái còn khó thay, như vậy đủ biết phước nhiều thì có trai, phước ít mới có gái, còn vô phước thì không có con chi hết. Mình phải răn lòng sát hại làm phước mà cầu trời cho sanh trai, vì muốn kế tự, thì phải tu nhơn tích đức. Độc ác con gái chửa hoang, sanh ra thì quyết giết! Sao không biết xét, rất đỗi kẻ vô hậu còn nuôi con nuôi thay! Huống chi máu thịt của mình trong bụng sanh ra, cũng lập thế mà nuôi như kẻ nuôi quá phòng vậy, thì khỏi mắc oan nghiệp. Nếu không chừa lỗi độc, thì bị tuyệt tự, trông chi sanh đặng con trai. Người quân tử có nhơn, rán khuyên đời mà cứu nhiều mạng, thì âm đức lớn lắm. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA NGŨ QUAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TƯ

Làm lành hưởng phước:

Thí quan tài và đồ liệm, thì nhà có thần phò hộ. 

(Phong Sắc xin thích nghĩa khoảng nầy: bởi kinh Ngọc lịch tàu có in hình, khoảng nầy có vẽ cái trại thí hòm, có chất hòm, nhiều người đến khiêng những hòm thí. Các sãi dốt không biết, bổn đạo thấy vẽ hình như thế, thì hỏi hòm gì nhiều vậy? Sãi dốt nói bướng rằng: Ai chết rồi hồn phải đem cái hòm của mình mà nạp cho vua Tứ điện. Nên chôn hòm nhẹ, dễ nạp, nếu hòm lớn khổ cho vong hồn đẩy không nổi! Bó bảy tấm vạc nhẹ nhàng dễ vác! Ôi, bổn đạo quê cũng nghe theo lời ấy, mà trối với con cháu, sợ chôn hòm lớn! Lưu truyền lời phi lý tới nay! Vì sãi dốt bày nói sàm một chút, để hại kẻ dốt muôn đời! Sao không biết xét cho kỹ vua thứ tư thâu hòm ấy mà làm chi? Mấy muôn triệu hòm chỗ đâu mà để? Vả lại hồn ma mà chuyển vận đồ hữu hình sao đặng, gọi đẩy hòm nạp quách là nghĩa gì? Nếu cực khổ như vầy sau còn gọi kẻ thí hòm được phước có thần lành phò hộ? như vậy một lời nói bậy, tổn đức biết chừng nào? Làm cho kẻ dốt nghe lầm, chôn cất tức tưởi không ấm cúng! Muốn cho kẻ dốt khỏi lầm, nên tôi phải giải cho rành, may người dốt tỉnh lại. Nếu nạp hòm hết, sao lại lấy cốt còn hòm???)
Làm các điều dữ mắc những tội, kể ra sau đây:
1. Giạ già giạ non, đong nhẹ đong nặng, lòn thăng tráo đấu gian lận, hoặc bán lúa tưới nước, đều bị cối đạp giã, cho chó ăn. 
2. Cân lận, bị móc lưng treo hoài. Đo lận cũng phạt vậy. 
3. Không kính người lớn tuổi, già cả, lường gạt giựt của người, vay mượn chẳng trả, du thủ du thực hoang đàng, không giữ bổn phận, háo sắc tà dâm, lấy vợ người, ngoại tình huê nguyện, ngã mặn và tội ăn vụng, say rượu, bài bạc, trùm đĩ nhà chứa điếm, rủa chửi, trù ếm du đãng, chọc ghẹo phá hại người hiền, đổ đồ dơ uế xuống sông, phơi quần áo dơ giọt bóng tam quan là mặt nhựt mặt nguyện, yến sao, hoặc dơ uế mà lên chỗ thờ phượng hoặc vào bếp núc: Các tội kể trên đó đều xô xuống Tát trì là (huyết ô trì) ao huyết dơ mà lặn hụp, tuỳ theo tội nhiều ít, phạt ở lâu mau. 
(Ấy là chánh kinh Ngọc lịch như vậy, kẻ sau muốn răn phụ nữ, bày ra kinh huyết hồn, mà cấm sự nhơ uế nơi tam quan, hoặc giặt dưới sông, hoặc vào trong bếp mà dạy đờn bà con gái. Kẻ dốt tin thiệt có tụng thì khỏi đoạ huyết ô trì. Kẻ dốt nữa thích nghĩa rằng: con gái đàn bà có đường kinh, hoặc chửa đẻ, đều bị xuống huyết ô trì hết thảy, nên có kẻ quê tụng kinh huyết hồn cầu mẹ khỏi tội! Lưu truyền lâu đời, đàn ông ít học cũng tụng nữa! Sao không thông lý, tại trời sanh phụ nữ phải có sự ấy, mà còn bị tội là nghĩa gì? Thầy chùa xưa có học, thông hiểu chỗ đó, bày đặt thơ Hứa sử nói nhờ Hứa sử xin vua Tử điện tha tội ấy. Nói vậy trời đất còn lầm sao? Thua Hứa sử sao?)
Ngũ quan vương ở dưới đáy biển đông, nội cõi ấy rộng năm trăm dặm do tuần 1 dặm do tuần tròn giáp vòng 240 dặm, bề ngang mặt băng gian, là ngang giữa trung tâm 80 dặm. Còn mỗi dặm là 360 bộ, bộ là bước đôi, mỗi chưn một bước, nên một bộ là 5 thước mộc, như vậy 1 dặm là 1800 thước mộc. Còn 1 dặm do tuần bề ngang xuyên tâm đo 80 dặm là 144.080 thước mộc. Như vậy 580 dặm do tuần giáp vòng đo ra 72.000.000 thước mộc bề ngang mặt xuyên tâm 24.000.000 thước mộc. Lập 16 ngục nhỏ:
1. Ngục Tát trì là huyết ô trì. 
2. Ngục Vụ liêng trước tim, xiềng, với tâm để xăm. 
3. Ngục Phi thanh kiên thủ, xối nước sôi
4. Ngục Chưởng trướng lưu dịch, vả mặt sưng. 
5. Ngục Đoạn cân tích cốt, chặt gân xương
6. Ngục Yễn kiên sát bì, khứa vai lột da. 
7. Ngục Đoan phu, khoan da thịt
8. Ngục Tổn phong núi chim trĩ mổ. 
9. Ngục Thiết y, bận áo sắt
10. Ngục Mộng thạch thổ ngoa yễm, cây, lá dẳn. 
11. Ngục Lục nhãn, khoét mắt. 
12. Ngục Phi khôi tắc khẩu, tro vô lấp miệng. 
13. Ngục Quán dược, đổ thuốc độc. 
14. Ngục Du đậu hượt diệt, trợt nhớt té,
15. Ngục Thích chỉ, xâm miệng. 
16. Ngục Tốt thạch mai thân, chôn đá vụn. 

Những tội trốn xâu lậu thuế; nói ngược lúa ruộng, nói ngược nợ, cân ăn gian; bán thuốc giả; bán gạo mắc nước; làm bạc giả, ăn gian ăn bớt bạc vàng; bán hàng lụa nhiễu; bán vải mỏng mà hồ gọi dày, đi đường không nhường tránh kẻ tật nguyền, hoặc người già, trẻ nhỏ nhít; lập mưu thần mà đoạt nghề kẻ buôn gánh bán bưng, cho mất sở làm ăn kẻ cùng khổ mà thủ lợi; lãnh thơ không đưa cho sớm, để trễ hư việc người; ăn cắp cạy gạch lề lộ, hoặc rót trộm dầu đèn ngoài đường; nghèo không giữ bổn phận, sanh ra gian giảo, giàu bất nhơn, không thương kẻ nghèo, hứa cho mượn cho vay, đến kỳ không cho, hại hư việc người; thấy người nghèo bịnh, trong nhà có thuốc hay mà không cho; giấu phương thuốc hay, sắc ra bán thuốc nước không cho thấy xác, không chịu truyền cho ai; quăng miểng sành miểng chai, gai chông ra đường đi; thả súc vật ỉa dơ đường sá; để bụi gai góc sầm uất cho hư vách rào của người; trù rủa ếm đối, hăm hoạ chúng; các tội ấy đều tuỳ nặng nhẹ hành tội các ngục, giải qua Ngũ điện. 

Ngày vía trẫm 18 tháng hai, nếu ai ăn năn ngày ấy ăn chay thề nguyền không dám phạm các tội ấy nữa, lo làm lành tu bỉ sau khỏi hành các ngục nầy, nếu thêm việc nhơn quả kể sau Ngọc lịch để cho người coi mà cải ác tùng thiện, người ăn năn chừa lỗi khỏi tội thì có công có phước. 

Nếu thấy ai bị tai nạn ngặt nghèo, mình có thể cứu mà làm hiểm bỏ qua, hoặc quên ơn bạc nghĩa hoặc cố oán quyết hại cho đặng, đều là lòng độc ác: tuy tụng kinh làm lành bố thí thác rồi khỏi hành các ngục mà thôi, chớ không đặng đầu thai hưởng phước phạt làm quỉ mị yêu tinh, như hồ ly mãng xà, mấy năm, tuỳ theo lòng độc nhẹ nặng. Nếu biết lỗi không dám sanh sự hại đời, thì thâu hồn về cho đầu thai phú quý. Như hiện hình nhát chúng khuấy đời, đáng tội thì bị Thiên lôi đánh hoá ra con Tích, thì hết đầu thai lâu tiêu hồn mất. 

Phàm các quân binh đánh giặc, kể từ ngày đi đánh, hết lòng hết sức vì nước, không hãm hiếp ai, không đốt nhà dân giả; dầu tử trận hồn xuống điện này, dẫu có các tội xưa cũng bỏ qua hết, vì đặng chữ trung lương mà trừ, giải đến cửa thứ mười, cho đầu thai hưởng phước. Nếu đánh lộn sanh tử mà chết, hoặc theo kẻ làm phản, đều bị tội gia bội hành hình theo các lỗi bấy lâu. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA DIÊM-LA NGỰ ĐIỆN THỨ NĂM

Làm các điều lành được phước:

1. Nhiều năm bố thí dân nghèo, con cháu nối đời, giàu có
2. Thí lúa gạo, cơm cháo, con cháu thi đậu làm quan lớn. 

Làm các điều dữ mắc hành tội:

1. Tội bất hiếu với ông bà cha mẹ, bị chém ngang lưng đứt hai.
2. Đổ cơm cháo đồ ăn, bỏ cơm cháy, đạp cơm cháo, đổ huỷ lúa gạo, đều mang gông, cho ăn cơm thiu hóa giòi lửa. 
3. Mỗi người có tội, cho lên đài vọng hương, ngó về xứ sở nhà cửa, thương nhớ mà về không đặng, khóc than thảm thiết. 

Vua Diêm-la phán rằng: "Khi trước trẫm ở Nhứt -điện, bởi thương những kẻ thác oan, hay thả hồn về sống lại để kêu oan. Thượng -đế đổi trẫm về Ngũ -điện tại đáy biển đông bắc, cai trị 16 cửa ngục tru tâm làm mổ trái tim. Phàm các phạm hồn giải đến đây, thì đã bị hành các ngục mấy điện kia lâu ngày, dầu tội nhẹ khỏi hành, song cứ giải bảy ngày mới tới một cửa điện tới đây cũng đã 35 ngày rồi, thây thúi hết, không thể nào sống lại đặng. Nhiều phạm hồn muốn sống lại, kiếm
tâu rằng: "Tôi làm chưa rồi lời vái hoặc cất chùa làm cầu đắp lộ, khai kinh đào
giếng thí chưa rồi, hoặc đặt lời khuyến thiện chưa đủ, hoặc lời nguyện phóng sanh
chưa đủ số, hoặc nuôi ông bà cha mẹ chưa rồi, sắm sửa hàn rương chưa đủ, hoặc trả ơn chưa đặng xin cho sống lại thề làm duyên làm phước. Trẫm than rằng: Xưa người làm dữ quỉ thần hay, nay thuyền đã ra khơi xảm muộn quá! Bởi vậy Địa -Tạng -Vương ban ơn truyền chỉ, khuyên các cửa điện chung làm Ngọc -lịch cho đời tu mà chuộc tội. Thập vương làm rồi, dâng cho Địa -Tạng -Vương ngự xem, xem đủ liền đem thập vương với chư thần lên thiên đình dưng Ngọc -lịch xin sắc chỉ của Thượng -đế, nhờ ơn Thượng -đế ngự duyệt bằng lòng ban chỉ cho truyền đời tu chuộc tội. Từ Phong Đô đại đế với Thập vương lãnh Ngọc lịch có chiếu chỉ Thượng -đế phê đến nay đã lâu năm, mà chưa gặp người nào có đức hạnh xuống âm phủ, mà trao cuốn Ngọc -lịch đặng lưu truyền cho đời, chớ hồn mà hồi đương đem kinh có hình về sao đặng? Nếu truyền đặng cho đời biết ăn năn chừa lỗi, thì dưới âm phủ sẽ ít hồn tù tội, tại dương gian ít kẻ thán oán. Như vậy đủ biết trên đời không kẻ tu luyện cho đặng nhục thân (xác phàm) xuống âm phủ. (Trừ ra thân ngoại hữu thân thì đi mới đặng).

Từ đó đến nay các hồn soi Nghiệt cảnh đều là người dữ mới giải lần đến cửa này, đừng kiếm cớ chữa mình nhiều chuyện. Quỉ đầu trâu mặt ngựa dẫn chúng nó lên đài Vọng hương cho mau." Cái đài Vọng hương nhiều cửa vòng nguyệt, hình đài ấy như cái cung lên thẳng dây, giáp vòng 81 dậm, bề dài về hướng bắc, ngay như dây cung, còn đông, tây, nam, ba hướng trước với hai bên đều vòng tròn như cái cung, cao 490 thước, gươm giáo dựng làm chông xung quanh mặt thành, 63 từng rộng rãi. Kẻ hiền lành không lên đài ấy. Kẻ tầm thường công qúa bằng nhau, cũng khỏi lên, được đầu thai. Trừ ra phạm tội nhiều, trừ hết công, còn dư quá, mới cho lên đó. Nghĩa vọng hương là ngó mong về thấy nhà cửa quê hương mình, cho thấy cho nghe đặng biết việc ra thể nào. Các hồn ngó thấy những là người nàh không y theo lời mình trối, cãi các lời dạy, hoặc chuyên vận hết của mình, hoặc chồng cưới vợ khác, vợ lấy chồng khác, hoặc con cháu kiện chia gia sản ruộng đất, sổ sách giấy tờ bấy lâu, bây giờ xé hết. 

Giấy tờ thiếu nợ họ đòi không đúng. Còn kẻ thiếu mình mượn mình, không giấy, hoặc người nhà kiếm không đặng giấy thì bị chúng nói ngược hết, cãi lẩy với nhau, đều đổ thừa trả rồi cho mình (người chết)! Bà con hờn giận rầy rà, con cái giấu đút, bằng hữu nói tước. Có kẻ nghĩ tình khóc một tiếng, rồi cười bằng hai! Lại còn mấy kẻ tội dữ, thấy con trai bị tù tội, vợ bịnh hoạn, con gái bị chúng hãm hiếp, hoặc sự nghiệp tiêu điều, hoặc cháy nhà, hoặc hết của! Các hồn thấy việc như vậy tức tối mà khóc nhào! Quỉ sứ dẫn xuống, giam vào khám lớn, tra coi phạm tội gì thì dẫn vào 16 ngục tru tâm mà mổ ruột. Mỗi cái ngục đều trồng một cây trụ, rắn bằng đồng làm lòi tói, chó hình bằng sắt làm ghế đôn. Trói hết tay chưn vào trụ, rồi lấy dao nhỏ mổ bụng kéo tim, xẻ lần cắt bỏ cho rắn ăn. Rồi rút ruột cắt bỏ cho chó ăn, hành đủ ngày giờ mãn tội rồi, huờn hình như thường, giải qua Lục điện. Mười sáu ngục kể ra:
1. Ngục mổ tim không tin báo ứng. 
2. Ngục mổ tim sát sanh hại mạng. 
3. Ngục mổ tim bỏ phải mà làm quấy. 
4. Nguc mổ tim làm dữ tập phép trường sanh
5. Ngục mổ tim khi lành muốn người mau chết. 
6. Ngục mổ tim toan mưu vu vạ (hoạ).
7. Ngục mổ tim trai gian dâm, gái ngoại tình. 
8. Ngục mổ tim tốn của người lợi cho mình. 
9. Ngục mổ tim gắt gao không kể ai chết. 
10. Ngục mổ tim trộm cắp nói ngược. 
11. Ngục mổ tim quên ơn báo thù quá. 
12. Ngục mổ tim độc ác xui hại người. 
13. Ngục mổ tim lường gạt dỗ dành. 
14. Ngục mổ tim háo thắng, ham đánh lộn. 
15. Ngục mổ tim ganh hiền ghét ngõ. 
16. Ngục mổ tim ngu mê không tỉnh kiêu ngạo. 
Những tội không tin Thiên đường Địa ngục luân hồi, quả báo; ngăn trở kẻ làm sự lành; mượn tiếng đi chùa dòm hành sự lỗi của người mà nói: đốt hủy kinh sách; ăn mặn mà tụng kinh niệm Phật; thấy người ăn chay tụng kinh niệm chú mà chê: chê bai tiên Phật; kẻ hay chữ coi kinh sách mà không giảng cho kẻ dốt phụ nữ nghe: cuốc phá mã hoang, làm cho loạn lạc; vô cớ đốt rừng: để người nhà lơ đểnh làm cháy nhà, hại lây cả xóm; hay bắn cầm thú; vật kẻ yếu bịnh; quăng liệng phá người: đăng dò bắt cá; chày lưới các cuộc bắt cá; gát chim. (Lấy mủ cây làm cho dính giò bẫy, các đồ lề bất chim, hoặc đổ thuốc độc dưới đất); những mèo chết, rắn độc chết không chôn cho sâu, hại người đào nhằm móc nhằm trúng độc khí bịnh chết: trời lạnh run mà bắt dân đào đất dầm nước đặng làm vách đắp lò bếp mới; lấy thế cất dinh quan, lấn ranh chiếm đoạt ruộng đất dân, lấp giếng bí ngọn rạch (thuộc về ỷ thế); các tội kể trên đó, những kẻ phạm tội ấy, cho lên Vọng hương coi rồi, giam vào khám lớn, tùy theo tội mà mổ tim, mới giải qua Luc -điện tra tội khác. Nếu cơn còn sống không phạm các tội ấy, hoặc đã phạm lỡ, ngày vía trẫm là ngày mùng tám tháng giêng, mà ăn chay thề nguyền không tái phạm các tội ấy nữa, sau trẫm tha hỏi hành, lại tư tờ qua Lục -điện giải tội nữa. Trừ ra tội sát nhơn, hoặc theo tà thuật, xưng đặng trường sanh: hoặc hãm hiếp phụ nữ; hoặc đàn bà tham dâm ghen độc: hoặc vu oan cho hư danh tiết người; hoặc trộm cướp nói ngược; hoặc trộm cướp nói ngược; hoặc quên ơn bạc ngãi, báo oán quá lẽ; nhứt là nghe kinh khuyên giảng mà không ăn năn chừa lỗi! Các tội ấy chẳng hề châm chế. 
Còn người đời, gọi tài thần giữ của cho người, tưởng vậy là sái lắm! Ấy là mấy người chôn tiền bạc của cải hoặc các quan chôn của báu, đến thác phần hồn còn mê mà tiếc của, sợ chúng đào, nên hồn ma ở đó giữ mãi, ai tới thì hiện hồn ma mà nhát. Thần thánh nghĩ nó vô tội, nên bỏ qua cho ma giữ của. Chừng nào nghe câu kinh Phật dạy:' Cái thân cũng không phải của mình, ngũ uẫn (năm mối) là tham. sân, si, ái dục, đều không '. Hồn ma giữ của mới tỉnh lại rằng:'Cái thân là xác còn bỏ, không phải của mình mà dùng được, huống chi là của tiền '. Mới chịu bỏ của mà xin đầu thai kiếp khác. Còn mấy kẻ vô phước lại gần chỗ đó bị ma nhát mà hết hồn sanh bịnh. Như thế -gian ai nghe chỗ nào có ma quỉ hiện hình hay nhát, biết là chỗ ma giữ của, thì van vái thề nguyền, xin đào đặng của ấy thì chia ra như vầy: 10 phần xuất ra ba phần mà làm siêu độ tụng kinh cho hồn ấy đầu thai hưởng phước, ba phần nữa phóng sanh cho vong ấy, một phần bố thí cho bần nhơn thì hết 7 phần rồi, còn ba phần thì mình hưởng. Vái nguyện như vậy rồi đào, thì có thánh thần làm chứng, lấy làm như vậy không hệ gì,



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA BIỆN THÀNH NGỰ CỬA ĐỀN THỨ SÁU

Làm lành được phước:

Cất chùa, tu bổ am tự con cháu thi đậu làm quan. 

Làm các điều dữ mắc tội:

1. Vừa lúa đợi giá cao, nhà nghèo mua ít không bán; quá phòng người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi, mà theo họ cũ; hoặc cạo vàng trong mình Phật cốt mà bán, cũng như bán Phật; các tội ấy đều bị đóng đinh căng lút vô bàn chông đứng. 
2. Ăn cắp kinh sách, hoặc mua mà xé, bị treo mà lột da. 
3. Kêu trời van đất, không cung kính thánh thần, bị cưa ngược. 
4. Ăn trộm, ăn cắp, bị quì trên chông sắt luôn luôn. 
Biện thành vương, điện tại đáy biển chánh bắc, khám lớn gọi là Đại hiến đoán, địa ngục rông 500 dặm do tuần, 16 ngục nhỏ:
1. Ngục thường quị thiết sa, quì chông. 
2. Ngục chi nê tẩm thân, hầm phẩn. 
3. Ngục mạ tồi lưu huyết, xay bột. 
4. Ngục kiềm chỉ hàm châm, ngậm kim. 
5. Ngục cát hận thử giảo, thiến dái cho chuột ăn
6. Ngục cực võng hoàn toàn, đĩa cắn trong lưới gan
7. Ngục ngối đão nhục tương quết nem. 
8. Ngục liệt bì khí lôi, nghiến rách da. 
9. Ngục hàm hỏa bế hầu, ngậm lửa. 
10. Ngục tang hỏa bại hông, thổi lửa đốt (lửa giân).
11. Ngục phẩn tự, rạch phẩn. 
12. Ngục ngưu điêu mả táo, trâu báng ngựa đạp. 
13. Ngục phỉ khiếu, khoan lỗ (xoi).
14. Ngục trát đầu thoát xác, bửa sọ. 
15. Ngục yêu trảm, xắt ngang lưng. 
16. Ngục bác bì, tuyên thảo, lột da, đóng chông đứng. 
Phàm giận trời trách đất, ghét gió sấm lạnh nực nắng mưa; day mặt về hướng bắc mà tiểu tiêu, hĩ mũi, khạc phun, khoét, cạo vàng hình Phật, móc tiền dằn tâm ông Tiêu; kêu tên tộc Tiên Phật thánh thần; không kỉnh giấy chữ kinh sách; để đồ dơ uế gần chùa đình, bàn thờ: hương đăng trà quả, đồ cúng không, tinh khiết; dơ dáy trong bếp, không cữ thịt trâu, thịt chó, học sách tà dâm (thể chiến), tà đạo, để sách ấy trong nhà mà không đốt, sách ếm hại người cũng vậy, bôi xé kinh sách, đồ khí dụng. vẽ hình Thái -cực (mặt trăng lộn âm dương), hoặc vẽ nhựt nguyệt sao bắc đẩu, hoặc hai hình hoà hiệp (nguyệt hiệp lão nhơn), hoặc hình Tây-vương-mẫu (Diêu trì), hình Phước Lộc Thọ, hoặc hình Bát -tiên, mà làm nhãn gói đồ, hoặc thêu chữ (Vạn) vô hàng giẻ vải cờ, giường, ghế, bàn tơ và đồ khí dụng, hoặc dùng làm chữ hiệu, phạm thượng bận quần áo có hình rồng phụng, vựa lúa chờ giá cao không bán ít cho nhà nghèo: các tội kể trên đó, đều giam vào khám Đại -kiếu -hoán. Tra tội nào đáng hành 16 ngục nhỏ, đủ ngày giải qua Thất -điện, tra tội khác hành nữa. 
Nếu ai ở dương thế, ăn chay ngày mồng tám, tháng ba là vía trẫm, thề nguyền tự hậu không dám phạm tội nói trên đó, và 14 rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng 10 tháng mười, trong bốn ngày ấy ăn chay, cấm phòng, (vợ chồng không ăn nằm với nhau) cũng như các ngày vía lớn vậy, lo cầu khẩn ăn năn chừa lỗi thường năm giữ được năm ngày ấy như vậy, sau khỏi hành các ngục nầy. 
Thế tục lưu truyền nói:'Thập bát tằng địa ngục '. Dưới Âm -phủ có 18 từng địa ngục, ấy là nói sái, chánh là:' Nhập bát tằng địa ngục '. Vào tám cửa địa ngục lớn. Kể tám ngục lớn ra sau đây: Nhị điện có khám lớn gọi là Huợt đại địa ngục. Tam điện có Hắc thằng đại địa ngục. Tứ điện có Hiệp đại địa ngục. Ngũ điện có Kiếu -hoán đại địa ngục. Tại Lục điện đây có Đại Kiếu hoán đại địa ngục. Thất điện có Nhiệt não đại địa ngục. Bát điện có Đại Nhiệt não đại địa ngục. Cửu điện A tì đại địa ngục. Cộng tám cái khám lớn, mỗi khám lớn đều có 16 địa ngục nhỏ để hành tội và Huyết ô trì, Uổng tử thành, cộng vừa lớn vừa nhỏ 138 địa ngục; lại còn bào lạc rằng khác. Phàm các phạm bị hành rồi, tuy cháy da nát thịt, đứt gân, dập xương, không còn lông tóc, chừng giải qua điện khác huờn hình lại như khi mới chết mà hành hình nữa, rồi giải qua cửa khác cũng như vậy. Trẩm thích nghĩa cho rành, kẻo tưởng có 18 địa ngục. Nhứt là tội đặt bài ca huê nguyệt, tuồng truyện tà dâm, hoặc vẽ hình tục tĩu, hoặc làm thuốc phá thai, hoặc thuốc mê, hay là khắc bản in ra, hoặc sao tả lưu truyền các bài các hình ấy, nếu bản ấy còn, bổn còn không tuyệt đồ đó, thì người bày đặt còn bị hành tội hoài, dẫu muôn ngàn đời cũng không khỏi hình phạt nơi địa ngục vì bày tà dâm dục lòng người cho hư phong hoá. 




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA THÁI -SAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ BẢY

Làm lành hưởng phước:

Phàm con có hiếu, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, kính yêu mười phần. Khi nuôi đau càng hầu hạ thức thối cần mẫn hơn nữa, đến nỗi cha mẹ bịnh liệt, ăn không được có khi đặt bàn cầu trời, mình lóc chút thịt cánh tay, mà nấu ra nước cho cha mẹ uống cầm hơi. Ấy là lời nói thí dụ tỏ lòng thương hết sức chạy lo như vậy. Có hiếu thì động lòng trời. 

Làm các điều dữ mắc tội:

1. Ăn trộm đồ trong hòm, hoặc bày thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa. 
2. Sang đoạt, hoặc dỗ dành gạt chúng, bị ngục trảm thủ (chặt tay).
3. Lấy xương người mà làm thuốc, bị nấu dầu. 
Đền thái -san vương tại đáy biển tây-bắc, khám Nhiệt -não đại địa ngục giáp vòng 500 dậm do tuần, có 16 ngục nhỏ. 
1. Ngục chày nục tự thôn, đánh sặc máu bắt nuốt!
2. Ngục thềm thối hỏa bức khanh, hầm lửa. 
3. Ngục liệt hung, bửa ngực. 
4. Ngục nha xa ngoạn phát, cột tóc trên nạng. 
5. Ngục khuyển giảo kinh cốt, chó cắn cẳng. 
6. Ngục đảnh thạch tồn thân đội đá. 
7. Ngục lả đảnh khai ngạch, đập óc xả trán. 
8. Ngục úc thống khốc cẩu đôn, chó cắn. 
9. Ngục lê bì trư tha (trư đà), lột da, heo cắn mà trì. 
10. Ngục đoạn hảo thượng hạ trác giảo, trên chim
lắc nước mổ, dưới heo rừng xé. 
11. Ngục điếu đạp túc, treo cẳng. 
12. Ngục bạt thiệt xuyên tai, kéo lưỡi xỏ má. 
13. Ngục sưu trường, rút ruột. 
14. Ngục loa đạp hoa trước, la đạp, heo rừng cẳn. 
15. Ngục lạc thủ chỉ, đốt ngón tay. 
16. Ngục du phủ cổn phanh, nấu dấu. 
Nếu ai có uống hồng diên (kinh nguyệt lần vỏ da, thứ nhứt)
tử hà xa nhau (nhau); hoặc uống rượu phí dụng thái quá; mua đồ trong hòm người chết; hoặc lấy xương cốt người mà làm thuốc: phân rẽ vợ chồng, thân thích người; gả dâu làm thiếp, hoặc đợ; để cho vợ trấn nước con gái: hoặc chửa hoang đẻ ra liền ủ; bài bạc đánh môn đánh cặp chia tiền của, hoặc gian lận; thầy không cần dạy để đệ -tử hư: không cần tội nặng nhẹ, cứ chửi tôi đánh tớ tới bị thương tích: hà hiếp xóm diềng: không kính người lớn hơn mình, dạy phải chẳng vâng lời: khua môi uốn lưỡi, xúi rầy đánh lộn; các tội ấy tùy nhẹ nặng hành hình đủ 16 ngục. Hành đủ rồi, giải qua Bát điện tra tội khác nữa. 
Trong đời thiếu chi vị thuốc, nỡ nào giết vật sống mà làm thuốc, trị bịnh thiệt ở bất nhơn. Còn như uống hồng diên, nhau rún đồ dơ trong mình đàn bà, như ăn thịt người, thì cái miệng cũng như một thứ uế trược kia dẫu có làm lành tụng kinh niệm chú đã không linh, mà càng thêm tội, nên án ấy không dung. Nếu ai nghe khuyên nầy, mau mau chừa lỗi, nguyện cữ sát sanh, lại phóng sanh được một trăm vạn mạng mỗi ban mai súc miệng niệm Phật cho nhiều, đến khi mãn phần, Phật sai Tịnh nghiệt sứ giả đem đèn soi cho tiêu hơi uế mới đặng. 
Nếu ai lấy xương cốt kẻ chết thiêu, hoặc thây con nít chết mà làm thuốc, hoặc lấy sọ người bán mà làm vị thuốc có kẻ ác kiếm xương người tới cả gánh, chắc thì làm đồ khí dụng, mục thì tán ra bột pha đồ. Hầm các vật dụng thì dầu có công gì, trừ cũng không đặng, thà hành tội ấy công nọ để trừ tội khác, dư sẽ cho hưởng kiếp sau. Còn bây giờ hành các ngục rồi, rốt giải qua vua thứ mười đặng cắt tay khoét mắt, chặt tay chưn, hớt môi miệng mũi, đầu thai làm kẻ tật nguyền, thậm chí hai tật mà trừ tội ấy. Nếu ai còn sống biết tội, phải thề nguyền ăn năn, không dám phạm nữa, hoặc phải thí hòm mà đi liệm thí nhiều xác, sau chết đeo đính bài, trên đính bài ông Táo có chấm một điểm mực làm dấu, xuống đây mới khỏi hành hình. 
Có năm thất mùa đói lắm, tới nỗi kẻ sống đói quá ăn thịt thây ma. Nếu ai ngất ngư hấp hối còn chút hơi thở mà nỡ lòng cắt thịt nấu ăn, hoặc làm nhưn bánh bao, bánh in mà bán cho người ăn, ở lòng độc như vậy bị hành xây vần 16 cửa ngục nầy đủ 49 ngày, thì cho Thập -điện ghi vào sổ, rồi chạy tờ cho Nhứt điện đem tên vào bộ nữa, cho đầu thai lên làm súc vật chết đói, cho thấy đồ đổ trước mắt mà nuốt không vô, phải chịu đói tới chết. Tội này không phước nào trừ được, cũng không đặng đầu thai làm người mà trả quả. Còn kẻ ăn lầm, biết rồi mà còn ăn nữa, phạt đầu thai làm súc vật sưng họng đói lắm mà ăn không đặng, nhịn cho tới chết. Nếu biết lầm mà không ăn nữa, thì chế cho bố thí năm đói mà trừ (như thí lúa gạo tiền bạc cơm cháo hoặc nước gừng, nước trà), được như vậy đã tiêu hết tội trước, lại trả phước nhãn tiền và kiếp sau. 
Ba điều trên ấy là quan văn, quan võ với các phán quan điện nầy hội nghị hai điều, còn Địa -ngục thứ tư (chúa ngục) nghị một điều, là ba điều, trẫm cũng cho viết theo sau, dưng Thượng đế, nhờ ân chỉ phê cho và thăng thưởng các viên hội nghị. 
Lại truyền chỉ dụ: Thế gian làm điều dữ, chư thần đã nghị tội hành phạt rồi. 
Hỡi còn việc quân lính, việc công vụ, lễ nghị, chế riêng điều lệ nhỏ, các khoảng ấy điều y thao luật của nước nào chế, thì trị theo luật nước nấy. Nếu chúng nó chối mà đổ tội cho kẻ khác, tức thì phải tra minh mà trị tội y luật. Các cửa âm ti y chỉ dụ '.
27 tháng ba nhằm ngày vía trẫm, ai ăn chay day mặt lạy về phía bắc, thề nguyền ăn năn chừa lỗi, làm lành in cuốn Ngọc -lịch cho đời coi mà cải ác, sau khỏi hành các ngục nầy '.



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA BÌNH -ĐẲNG NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TÁM

Làm lành hưởng phước:

Kẻ giàu có trai tăng bố thí cho thầy tu, được phước lộc. 

Làm các điều dữ mắc tội:

1. Bất hiếu, cha mẹ sống không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc hồi cha mẹ còn sống làm cho cha mẹ ưu phiền bất bình, hoặc làm điều phạm phép, cho cha mẹ kinh hãi, đều bị xe cán. 
2. Ở quấy với người ơn của mình, hoặc chắp cây chiết chi, đem nhánh nầy chắp qua gốc cây kia, đều bị xắt ngang lưng. 
3. Nói tục -tĩu về việc phụ nữ, bị kéo lưỡi mà cắt. 
4. Khi người nghèo, dua bợ giàu sang bị mổ bụng móc tim. 
Ngục nầy có thành Uổng tử để giam hồn tự tận (giết mình).
Bình Đẳng vương đền tại đáy biển chánh tây, khám lớn là Đại Nhiệt não đại địa ngục, rộng 500 dặm do tuần, có 16 ngục nhỏ:
1. Ngục xa băng, xe cán. 
2. Ngục mộng hoa, chảo đậy ngột. 
3. Ngục tối quả, lóc thịt tận xương. 
4. Ngục lao khổng, bóp mũi, bóp họng. 
5. Ngục tiển thiệp, hớt chót lưỡi. 
6. Ngục thường thinh, nhà tiêu. 
7. Ngục đoạn chi, chặt tay chơn. 
8. Ngục tiền tạng, nấu đồ lòng. 
9. Ngục chích tủy, nướng mỡ xương. 
10. Ngục bát trường, móc ruột. 
11. Ngục phần tiêu, đốt trái thận. 
12. Ngục khai đường, mổ ức. 
13. Ngục hoạch hung, sả ngực. 
14. Ngục phá đảnh náo xỉ, bửa đầu xeo răng. 
15. Ngục phê cát, bằm xắt. 
16. Ngục cang xa, chĩa sắt đâm. 
Những con bất hiếu, cha mẹ còn không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc làm cho cha mẹ hay là cha mẹ chồng hết hồn, giựt mình, phiền hờn, rầu buồn, nếu không ăn năn chừa lỗi, ông Táo ghi vào sổ tội thứ nhứt tâu Thiên -tào cho bớt lộc bớt tuổi, cho tà quỉ làm điên khùng, thác rồi còn bị hành hình các ngục khác, giải đến cửa nầy ngưu đầu mã diện xách giò quăng vô khám lớn, rồi dẫn lại các ngục nhỏ hành hình cho đến kiếp, mới giải qua cửa thứ mười cho đầu thai làm súc vật. Nếu ai thấy Ngọc lịch mà tin, mỗi năm vía trẫm là ngày mồng một tháng tư, ăn chay thề nguyền chừa tội lỗi, sớm tối nguyện với ông Táo, xin ăn năn chừa lỗi, đến mãn phần ông Táo đề chữ Tuân trên trán, hoặc chữ Thuận, chữ Cải dầu hồn xuống từ Nhứt điện đến Thất điện có tội chi khác đều giảm phân nửa và khỏi phải giải qua điện nầy, đi luôn qua Cửa điện tra có đốt nhà, hoặc tính mưu thầm hay không. Rồi giải qua Thập điện cho đầu thai làm người tử tế. 

Thượng đế có chỉ dụ: "Nếu ai ăn năn chừa lỗi, in Ngọc lịch cho thiên hạ coi mà hồi tâm, thì sau thác xuống đi luôn từ Nhứt điện thẳng tới Bát điện khỏi hành các ngục. Tới cửa điện tra tội phước nếu không tội thì giao qua Thập điện cho đầu thai nhà giàu sang mà hưởng phước lâu dài. "

Còn Huyết ô trì phía sau điện, mé bên tả. Sãi vãi tại thế gian giảng sái rằng: "Đàn bà sanh đẻ có tội, sau bị sa Huyết ô trì". Ấy là nói sai lắm! Sự đó tại trời sanh còn làm tội là nghĩa gì, dầu đàn bà đẻ mà thác, cũng không tội nhơ uế chi hết. Tội là vầy: Đẻ chưa đầy tháng mà xách nước, lội sông, vô bếp, giặt quần áo dơ, phơi hứng tam quang, các tội ấy về chủ nhà (người lớn trong nhà) chịu ba phần còn bảy phần đích thân nàng ấy chịu. Ao Huyết ô để phạt gái dâm dục sau bàn Phật, trước chỗ thờ thần, hoặc không cữ giao hiệp bốn ngày kị nhụt thần trong mỗi năm, là 14, rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng mười tháng mười, nội bốn ngày đêm ấy, mà ăn nằm thì tại dương thế đã mang bịnh, hoặc chết rắp, hồn xuống đây còn bị lăn lội dưới ao ấy lâu ngày. Hoặc sát sanh vấy máu trong bếp, hoặc bàn thờ, hoặc vấy máu vô kinh sách, hoặc đồ đựng cúng tế, cũng bị sa Huyết ô trì. Trừ ra có người thân nguyện cữ sát sanh lại phóng sanh cho vong hồn, lạy Phật tụng kinh cầu mới khỏi. 




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA ĐÔ THỊ NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ CHÍN

Làm các điều lành được hưởng phước:

1- Mùa đông thì nước gừng, mùa hè thì trà nước, có phước. 
2- Đưa đò thí, con cháu thi đỗ hiễn vinh.

Làm các điều dữ mắc tội:

1- Đi tới tiền làm chùa sửa chùa quan thếp Phật, mà ăn gian, hoặc rủ người đậu tiền khắc bản kinh, hoặc in kinh, ăn gian, hoặc bán mà thủ lợi, đều bị quăng trên núi cao. 

2- Bắt ếch, nhái, lươn cá, thuốc cá, bắt chim, ăn thịt trâu chó ngựa, hay sát sanh bắt rùa rắn, vô cớ mà hại vật, đều bị quạ xé thây ăn gan tim, rắn đục tai, niệng mũi. 

3- Phân vợ rẽ chồng người, nói đâm thọc cho ruột thịt xa nhạu Vẽ hình tục tĩu, làm thuốc tráng cho tà dậm. Hoặc đặt đồ huê tình, hoa-nguyệt cho sanh thói dâm. Hoặc đập chó. Các tội ấy đều bị chó vật chết, xé thây ăn thịt tim phổi. 

Đô thị vương đền tại đáy biển tây nam, khám lớn là A tì đại địa ngục, rông 8 trăm dặm do tuần đều bao lưới sắt, lập riêng 16 địa ngục nhỏ:

1- Ngục xao cốt chước thân, đập xương đốt mình. 
2- Ngục sưn cân lôi cốt, rút gân nghiền xương. 
3- Ngục nha thực tâm can, quạ ăn tim gan.
4- Ngục cẩu thực trường phế, chó ăn ruột phổi. 
5- Ngục thân tiện nhiệt du, mình, tưới dầu sôi. 
6- Ngục não cô bạt thiệt, bạt xỉ, nỏ đầu, kéo lưỡi, nhổ răng.
7- Ngục thủ não vị điền, con nhím khoét sọ ăn óc. 
8- Ngục chưng đầu, quái não, nấu dầu, nạo óc. 
9- Ngục dương súc thành hải, dê cụng bấu. 
10- Ngục mộc hiệp đảnh, ta nỏ nát sọ. 
11- Ngục mạ tâm, móc tim mà xay.
12- Ngục phị thang tâm thân, trấn nước sôi.
13- Ngục huỳnh phong, ong vò vẽ đánh. 
14- Ngục nghị chú ngao thầm, kiến đục tóp (thắng mỡ ra tóp cho kiến ăn.)
15- Ngục yết câu, bồ cạp chích. 
16- Ngục tử xích độc xà toàn khổng, rắn đỏ độc chun cửu khiếu. 
Phàm vua thế gian chế luật hình phạt, như tội nặng lắm xử lăng trì (chém rồi xả tư), xử trảm (chém), xử giảo (thắt họng), hồn xuống chịu các ngục trước hành rồi, giải đến điện nầy, hoặc kẻ đốt nhà, nuôi xâu ngải, thuốc độc, phá thai, hút hơi rún cho bổ, nút tinh trai, hoặc vẽ hình tục tỉu, đặt thơ truyện ca huê nguyệt (thơ ân tình) hay là bài thuốc mê, thuốc phá thai. Ai có phạm đều, thấy Ngọc -lịch thì ăn năn, thề chừa lỗi, không dám phạm nữa, nếu dâm thơ thì xé não, in rồi thì hủy bản, đốt sách, không truyền phương thuốc tà vạy nữa (thuốc tráng) thì sau xuống đây tha hành các ngục, giao qua Thập điện cho đầu thai làm người. Nếu nghe Ngọc - lịch mà còn làm các tội ấy, thì sau hành từ Nhị điện cho tới đây, đây trước hành bào lạc (xiềng tay chân vô ống cột đồng đốt đỏ, đẩy lên cháy thành than), huờn hồn lại giam vào ngục A tì mà hành theo 16 ngục nhỏ, rồi huờn hồn nữa, đâm gươm vô họng thấu tim phổi, giam hoài đợi các nhà bị hại trên thế gian khá lại, kẻ chết đầu thai hết, hoặc não bổn dâm thơ hết lưu truyền nữa, hoặc phương thuốc độc hết truyền, hoặc kiểu hình tục tĩu tuyệt hết, thì hồn phạm mới khỏi giam đặng đi đầu thai. 
Nếu ai phạm các tội ấy, đến ngày vía trẩm là mồng tám tháng tư, ăn chay, day mặt về hướng bắc, vái nguyện chùa lỗi, mua thâu dâm thơ mà đốt, hoặc in Ngọc -lịch cho người, hết sức khuyên đời cải ác tùng thiện, đến mãn phần, ông Táo đề hai chữ ' Phụng hành trên trán, thì từ Nhị điện đến đây, tra công mà trừ các tội khác. (Nếu kẻ giàu sang có quyền thế cho bắt kẻ hung hoang hay đốt nhà chúng, hoặc cấm dâm thơ, hủy bản đốt sách dán yết thị cấm các việc hại đời ấy, thì cho con cháu nối đời thi đỗ làm quan. Nếu kẻ nghèo, dốt, phụ in Ngọc lịch khuyên đời sau đầu thai hưởng phước. 
Vua Phong đô đại đế phán rằng:' Tay Bát điện có thành Uổng tử, ở phía hữu điện nầy (vì 2 đền gần nhau). Thế tục nói sái rằng:' Ai bị thác oan, thì hồn bị cầm thành Uổng tử '. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không xét cho đủ lý, người đã thác oan, cầm ngục nghĩa là gì? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan trước cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai Còn thành nẩyđể giam những kẻ vô cớ giận lẩy mà giết mình, trầm mình thắt họng, uống thuốc độc vân vân, giam đỡ đây đợi hành tội chưa đặng đầu thai chớ không phải các hồn bị người giết Uổng -tử. Nếu kẻ liều mình vì sự trung hiếu tiết nghĩa, hoặc quân lính vì nước mà tử trận, các bực ấy kẻ đáng thành thần thì hiển thánh, kẻ còn tội lỗi, không đặng thành thần, thì đã cho nguyên hình mà đi đầu thai, có đâu giam cầm thành nầy mà chịu bó buộc thảm khổ hay sao?




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
VUA CHUYỂN -LUÂN NGỰ ĐIỆN THỨ MƯỜI

Làm các điều lành được phước:

1. Nhà giàu sang thí kinh lành, hoặc thí Ngọc -lịch phước lớn. 
2. Tụng kinh, tụng cảm -ứng tu hành niệm Phật, giàu sang sống lâu. 

Làm các điều dữ mắc tội:

1. Hãm hiếp, dụ trẻ thơ mà ăn của, đều bị xay ra bột
2. Không kỉnh giấy chữ, rủ ăn trâu, chó, phát làm hành khất
3. Không kính người lớn, dạy khuyên điều phải mà chẳng vưng lời, hoặc thầy bảo học trò trọng giấy chữ, đều bị đá đè. 
4. Không phải cúng ông bà, nuôi cha mẹ mà sát sanh. Hoặc mưu kế lường gạt ăn gian. Bày kiện thưa báo đời. Hoặc nghề võ đánh độc cho người chết. Các tội ấy đi ngang cầu Nại -hà bị té xuống sông cho rắn mãn xà cua đinh ăn thịt. 
Chuyển -Luận -Vương đền tại đáy biển đông, ngay rún trái đất, có làm cầu bằng vàng, cầu bằng bạc, cầu ngọc, cầu bằng đá, cầu cây (cầu ván) và cầu Nại -hà, cộng sáu cái cầu. Các điện giải hồn đến, xét tội phước cho đầu thai các phương thế gian, định giàu sang hèn khó, sống lâu thác yểu, đều ghi sở rõ ràng mỗi tháng chạy tờ về Nhất điện ghi sổ rồi nạp cho vua Phong đô đại đế. 
Luật Âm phủ, phàm tứ sanh là loài đẻ con, loài đẻ trứng, loài dưới nước, loài biến hoá lộn kiếp, những loài không chân cẳng, hoặc hai giò, 4 chân, nhiều cẳng, các vật ấy chết rồi hoá ra con tích (mà chết một kiếp nữa) xoay vần như cối xay, hoặc số một năm nửa năm, hoặc sớm mai sanh chiều chết, đổi dời biến hoá mạt kiếp, không định số, là loài phải bị giết cho hết kiếp, cho đầu thai các nơi mà trả quả. Mãn năm cũng phải trình sổ ấy cho vua Phong đô đại đế xem. 
Phàm kẻ học nho có đọc kinh Diệc, các sãi, mấy thầy tu có tụng kinh niệm chú, mà phạm tội nhiều quá, tuỳ bắt hồn đến các điện, cũng chưa hành đặng, phải giải đến đền trẫm vẽ hình và biên tên vào sổ Đoạ lạc danh sách. Rồi giao cho Mạnh bà ở đài Ứ Vong, đổ thuốc mê, cho đầu thai chết trong bụng, hoặc sanh ra một đôi ngày mà chết hoặc hơn
trăm ngày mà chết, hoặc một hai năm rồi chết, đặng cho quên hết kinh chú, rồi Nhứt điện bắt hồn tra tội mà hành Nếu ai công quả bằng nhau, hoặc dư quá chút đỉnh, thì định cho đầu thai làm trai, làm gái, xấu tốt, khoẻ cực, giàu nghèo, đều giao Mạnh bà cho uống nước mê (lú) rồi mới đầu thai. 
Trẫm hằng kêu tên mà cho đầu thai làm người, nhiều kẻ phụ nữ khóc lạy rằng:' Còn thù lớn chưa trả đặng, nên không muốn đầu thai, thà chịu làm ma đói (ngạ quỉ), Trẫm hỏi rỡ, thì chúng nó kể ra: hoặc con gái đồng trinh hoặc con tiết phụ, bị các trò tốt trai háo sắc, hoặc tham của các nàng ấy, lập kế dỗ dành, làm mặt nhơn nghĩa, nói tiếng ân hậu, mà tư tình cho được; kẻ nói dối chưa vợ, thề sẽ cậy mai đến cưới, hoặc gạt tớ gái, hứa sẽ lập làm thiếp mà lấy chơi phá trinh rồi bỏ, hoặc hứa nuôi mẹ già trọn đời, hoặc hứa nuôi con ghẻ. Các phụ nữ vì tin mà mắc, té ra hết của, thất tiết, mà chẳng đặng chồng! Sao lại bán rao cho cha mẹ anh chị hành hà, xóm giềng đàm tiếu, tức mình hổ thẹn mà liều mình, hoặc tức tối thất tình phát bịnh mà chết! Nay nghe đứa phụ tình đi thi khoa nầy chắc đậu, nên xin ở lại đợi tới khoa mà báo oán đòi mạng, ngặt nó chưa tới số, hoặc phước đức tổ phụ nó còn nhiều, xin cho lên phá nó hồn mê, thi chẳng đậu, hoặc cáo với Văn Xương đế quân phạt nó phải rớt (mới ra sự đổi tên có đứa khác đậu thế) đợi tới số sẽ xin lên vật hồn báo oán, các vụ ấy trẩm tra rõ oan ức, thì cho tờ nó tới Nhứt điện cáo. Nếu ai ăn chay ngày vía trẫm la 17 tháng tư, thề nguyền tin Ngọc lịch mà ở, và đem bài này mà giảng cho các trò nghe mà đặng giữ mình, thì người giảng ấy trọn đời khỏi thủy tai hoả hoạn, khỏi việc qua quan hình phạt. 
Còn sở luân hồi rộng bảy trăm dặm do tuần, trên dưới xung quanh đều có rào sắt và bao lưới phép, chia ra 81 chỗ, mỗi chỗ đều có nhà mát, các phán quan thơ lại, để bàn ghế biên chép. Ngoài rào sắt có 108.000 đường dương trường (nhỏ như ruột con dế) quanh co đi thông lên các nước. Chia ra sáu ngã (lục đạo) luân hồi, loài người có hai: 1. giàu sang, 2. khó hèn, trong ngoài đều sáng. Còn bốn ngã tứ sanh, là: Thai sanh, loài đẻ con (thú bốn cẳng). Noãn sanh, loài đẻ trứng có hai cánh. Thấp sanh, loài ở dưới nước, như cá, tôm cua ốc, rùa, trạnh, lươn, chạch, ếch nhái vân vân. Hoá sanh là loài tằm hóa nhộng, sâu lộn bướm, sùng hoá bồ xè, đuông hóa kiến dương, quăng hoá muỗi, kiến mốc mọc cánh, vân vân. Bốn loài ấy đường ở trong tối đen như sơn, ngó ra ngoài sáng như thủy tinh, như hai ngã loài người vậy. Các phán quan thơ lại kêu tên nhìn mặt rõ ràng cho luân hồi sáu ngã, một mảy không sai. Các phán quan thơ lại, đều là người hiếu đễ, cữ sát sanh, phóng sanh, tu hành, nên phong chức thần, mà coi sở luân hồi ấy. Coi năm năm công bình không sai thì đặng lên chức, nếu trể nải, hoặc lộng quyền, hoặc để tội trốn, thì bị phạt giáng chức, nhỏ thì bị đày. 
Phàm kẻ bất hiếu, hoặc sát sanh nhiều quá, bị các ngục hành rồi, giải đến đây, sai quỉ sứ lấy nhánh đào đập chết, hoá ra con tích, cho đội lốt tứ sanh đi đầu thai trả quả. 
Phàm cầm thú: cá, loài trùng (tứ sanh), đầu thai muôn ngàn kiếp đã mãn tội, thì loài hóa sanh được làm thấp sanh, thấp sanh trở lại noãn sanh, noãn sanh trở lại thai sanh, ba đời mà không giết hại mạng vật, thì được đầu thai làm người. Tại đây cũng làm sổ, gởi qua Nhứt điện phê, rồi cho uống thuốc mê nơi Mạnh bà, rồi đầu thai lên thế gian các nước. 



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
LỜI VÃNG SANH CỦA PHẬT

Trẫm đem vào đây cho đời tỉnh lại. 
Trên đời hay sát sanh, nên bị đao binh hại:
Báo oán giết một thân, thiếu tiền thiêu tới trại. 
Mình đào hang ổ kia, nó phá vợ con lai. 
Oan trái trả xảy vần, lóng tai nghe Phật giải:
Thịt, mua lừa khúc béo, cá, chắc lựa con tươi. 
Y phục kén phần nhứt, ruộng vườn chọn vẹn mười. 
Phóng sanh thì tiếc của, lảng Phí chẳng nhường người. 

Đến thác tay không nắm, một mình tội mấy mười!



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
MẠNH -BÀ NƯƠNG CON BÀ Ứ -VONG

Thần Mạnh Bà sanh đời tiền Hán, hồi nhỏ học sách nho
lớn tụng kinh Phật. Không nhớ sự đã qua, chẳng mơ việc sẽ đến. Cứ lo khuyên người cữ sát sanh và ăn chay như mình. Không chồng tới 81 tuổi, tóc bạc mà mặt còn tơ. Bởi họ Mạnh nên kêu là Mạnh -Bà (bà họ Mạnh). Sau bà lên núi tu tới thành. Qua đời hậu Hán nhiều người biết kiếp trước, nhớ mạy đi nhìn bà con xưa, lại trí hóa nhiều, nói lậu sự Âm -phủ. Bởi cớ ấy, Thượng -đế phong Mạng -Bà lên chức Ứ -vong nương nương, là bà thần cho uống nước mê (tục kêu cháo lú), ở đài Ứ -vong nơi âm -phủ, trước đền Thập -điện; đài ầy mới lập rộng lắm, cấp thơ lại quỷ sứ cho bà sai. Lấy vị thuốc của thế tục, chế ra như rượu, có đủ mùi ngọt đắng cay chua mặn, cho các hồn sẽ đầu thai đều uống, cho lú quên các việc kiếp trước, lại cho mỗi hồn có vài ba phần tật, như nhớ cười lo giận sợ, nhểu nước miếng, đổ mồ hôi, sổ mũi, khóc, khạc nhổ. Người lương thiện, cho thêm thông minh, tỏ tai sáng mắt, mạnh khoẻ; kẻ làm dữ cho tới tinh thần, trở ra bịnh yếu phạt lần, làm cho người biết cải ác tùng thiện. 
Đài Ứ -vong ở trước đền Thập -điện, ngoài sáu cái cầu, cao lớn như nhà khách trong chùa (phương trượng) xung quanh 108 căn, phía đông có đường rộng một thước bốn tấc. Trong các căn đều để bình chén mà đãi các hồn uống nước rồi đi đầu thai. Miễn có uống bao nhiêu cũng đặng. Hồn nào nghịch mạng không uống, quỉ sứ trói giò lại, thọc ống đồng vô miệng mà đổ nhiều nước mê, ực rồi mới mở trói đỡ ra ngoài đường, xô lên cầu tre nổi, dưới sông nước suối chảy đỏ lòm, ngó thấy bên mé có gành đỏ núi gie mé sông đề bốn hàng chữ phấn trắng, nét lớn lắm, bốn hàng chữ như vầy:

Vì nhơn dung dị tác nhơn nan,
Tài yếu vi nhơn khũng cánh nan!
Dục sanh phước địa vô nan xứ:
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan. 


Thích nôm:

Xưa dễ làm người, nay khó bì,
Mong làm người nữa khó nhiều khi,
Muốn sang phú quí không chi lạ:
Lòng miệng như nhau chẳng khó gì. 


Các hồn coi rồi, hoặc đọc rồi, có hai con quỉ cao lớn ở mé biển nhảy ra tới mặt nước: một quỉ đội mão đẹn, bận áo gấm, tay cầm giấy viết,vai mang gươm trường lưng đeo còng xiềng, trơn cạp mắt tròn vo cười ngất, ấy là quỉ Huợt vô Thường; còn quỉ kia mặt dơ chảy máu, mình bận áo cổ giữa trắng, tay xách bàn toán, vai vác túi gạo đeo đính bài trước ngực, châu mày nhăn mặt thở ra than dài, ấy là quỉ Sanh hữu Phận Hai quỉ xô các hồn nhào xuống khe nước đỏ mà đầu thai. Kẻ có tội nhiều mừng đặng đầu thai làm người. Kẻ có công chưa đủ siêu thăng, thì tức và khóc rằng. Tu chưa đúng bực nên phải luân hồi cõi trần nữa! Các hồn như say như mê, nhập vào xác con nít trong bụng, hai chơn đạp cái nhao, chung ra khỏi mình mẹ. Lâu ngày tham mùi ngon, không thương mạng vật, xa cách tánh lành, phụ ơn trời phật rộng thương, chẳng lo thác hiền chết dữ, thân sau thể nào, thì cũng làm hồn ma mang thây nữa!
Bài nầy là thơ lại ở đài Ứng -vong, viết rõ dưng Thượng đế xin cho để sau Ngọc lịch cho đời hiểu (Nhậm tấu).
Vì Thập vương làm não rồi, giao cho các phán quan chép lại vẽ hình kỹ càng, có đề họ tên thuật tích, dưng cho Địa tạng vương xem lại ngày 30 tháng bảy. Qua mồng ba tháng tám Địa tạng với Phong đô Thập điện chư thần đồng dưng cho Thượng -đế phê chuẩn rồi, song chưa có ai xác phàm xuống Am -phủ mà trao Ngọc lịch đem về truyền lại thế giạn. 
Qua cuối đời Tống Nhân - tôn (nước Liêu niên hiệu vua Thái Bình) nhằm năm Canh ngũ, ngày mồng chín tháng chín (trùng cửu trùng dương), Đạm Si đạo nhơn (Kinh Ngô là thầy tu nước Liêu,Hồ tăng) ở gần núi, ngày trùng cửu, lên đỉnh núi dạo chơi, xảy thấy một tấm bia đá, chạm 32 chữ cổ tự như vầy:

Vô vi đại đạo, thiên tri nhơn tình. 
Vô vi yển minh, quỉ kiến nhơn hình. 
Tâm ngôn ý ngữ, quỉ văn nhơn thinh. 
Phạm cấm mãn dinh, địa thâu nhơn hồn. 



Thích nôm:

Đạo cả thinh không trời biết lòng,
U minh thần quỉ thấy người ròng. 
Nói thầm, suy nghĩ, thần nghe hiểu. 
Tội nặng thâu hồn, đất bắt vong. 


Xảy thấy phía trong thắp đèn vàng, trước cửa điện có treo tấm biển 4 chữ:' Xuất sanh nhập tử ' (nghĩa là: đầu thai thì đi ra, thác rồi hồn trở về đó). Đạm Si đương coi, xảy thấy đồng tử áo xanh kéo vào đơn trì (sân sơn son đỏ) quì lạy, rồi thối lui đứng trước thềm. Xảy thấy Thập vương kéo vào, đọc lời chúc ngày vía Phong đô đại đế và dưng bổn Ngọc lịch. Phong đô đại đế xem rồi, truyền văn võ các phán quán, đòi các quỉ sứ ngưu đầu mã diện mang lông đội sừng đều đến chầu, đứng tám hướng. Truyền phán quan đọc bổn Ngọc -lịch một bận. Các quỉ sứ lạy tạ ơn tâu rằng:' Nếu ngày sau chúng tôi được đầu thai, hễ thấy Ngọc lịch nầy thì thề nguyện y theo cho đặng siêu độ '. Xảy thấy hào quang chiếu sáng, các phán quan cai trị thành Uổng tử và ao Huyến Ô, đều đem bổn sổ đến dưng và tâu rằng: ' Từ năm Thượng đế phê chỉ, cho ban phát Ngoc -lịch đến nay, bởi chưa có dịp đem lên Dương gian, nên chúng tôi, tra kỹ những phạm dư trăm ngục, có nhiều hồn khi còn sống hay giảng nhơn quả trong chốn đông người, hoặc giữa chợ đông, hoặc ngả ba ngả bảy, có người nghe tội phước mà hồi tâm. Chiếu theo luật Ngọc - lịch, cũng là khuyên người chừa lỗi, đáng ân xá tội nhỏ, cộng 50.480 hồn khuyến thiện, giảng quả báo. Nên thập vương hội nghị ân xá bọn ấy, định vào sổ đầu thai, tùy theo tội ít tội nhiều cho vào đường phú quí nhỏ, hoặc tầm thường. Kẻ tội nhiều cho làm người khó hèn, hoặc quan quả cô độc (quan là không vợ, goá vợ; quả là goá chồng; cô là mồ côi; độc vô hậu không con, độc mộc đến già), đáng cho uống nước mê mà đầu thai, khỏi hành hình nữa, nên dưng sổ cho Đại đế xem '. Phong đô đại đế xem qua khen phải. 
Xảy nghe báo rằng:' Có Phật Quan -Âm Bồ -Tát giáng hạ '. Phong đô đại đế với Thập vương đồng ra chào mừng. Quan -Âm mới xuống thì hình phụ nữ, có Thiện tài theo hầu, Long -nữ cầm phướng. Đến khi Đại -đế Thập -vương ra chào mừng thì Quan -âm hoá ra hình ông Tiêu Diện đại sĩ (mặt xanh lưỡi đỏ), mình cao mười sáu thước mộc, truyền chỉ rằng: Ta phụng chỉ Thượng -đế, y lời tâu của Địa Tạng với Thập vương chư thần, xin ban Ngọc - lịch năm đó, cho thế gian ăn năn, nguyện tu chuộc tội, khỏi hành địa ngục: nay cho hồn phạm đầu thai, trẫm rất vui lòng. Lại nghe vời đặng Đam Si mà trao Ngọc lịch, về dạy thế gian cải ác tùng thiện. Trẫm ao ước có người tin Ngọc lịch, truyền giảng mà khuyên đời, chừa lỗi làm lành như mình, được đông người sửa lòng như vậy, thì núi đạo ao huyết cũng bỏ không, các địa ngục càng ngày càng trống, thì người khuyến thiện thành chức: Trí huệ dẫn thiện diễn kiếp Phật ' (vì Phật Trí huệ đem lành khỏi tội).
Đại đế Thập vương với các thần thành hoàng (thần trong đình) đồng chắp tay nói theo rằng:' Vị khuyến thiện đáng thành chức Phật ấy '.


Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày June 6th 2011, 4:17 pm với 1 lần trong tổng số.

Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Quan âm nói:' Nếu người tu ở thế thấy Ngọc lịch mà diễn dịch ra cho người dốt đàn bà con nít dễ hiểu, người ấy thành công đức nhơn thứ pháp thắng Phật ', (Phật công đức nhơn xét tài năng).
Các vị ấy cũng chắp tay nói theo rằng:' Đáng thành Phật '.
Quan âm nói:' Nếu ai thấy Ngọc lịch đi đứng nằm ngồi cũng cám mến ơn trời, rèn lòng thanh tịnh, khuyên giảng độ người ăn năn làm lành đặng năm điều thiện, sẽ được làm bạt tiến cho vong hồn tiên nhơn thân quyến. Lòng công bình muốn cho người đặng phước như mình, quyết khuyên dạy nhiều người tu hành, làm bạt tiến cho phạm hồn được đầu thai, địa ngục phải trống, thì người ấy thành: Cứu khổ tiêu huệ Phật '. (Phật Cứu khổ nạn, ơn khắp nơi).
Các vị hết thảy đều chắp tay nói theo rằng:' Đáng thành
Phật '.
Khi ấy Phong đô đại đế phán rằng:' Bởi Địa tạng vương muốn siêu độ các phạm hồn nên truyền xét hồn nào hồi ở thế có biết ăn năn chừa lỗi, thì ân xá khỏi hành các ngục. Chư thần đã vưng chỉ, Ngài lại truyền Thập vương hội làm Ngọc lịch, dưng xin phê nơi Thượng đế. Nhờ ơn Thượng đế phê cho và có chỉ dụ sửa các khoản. .. rồi đây Trẫm sẽ dạy. Bởi bấy lâu chưa gặp ai đức hạnh, nhục thân đến cõi U-minh, mà trao Ngọc lịch, đem về Dương gian khuyến thế. Nay Đạm -Si đến dưới thềm, xứng đáng truyền kinh Ngọc lịch. Như vậy nay đã có người rồi các phán quan thơ lại đem cuốn Ngọc lịch, viết thêm lời Quan âm phụng chỉ mới truyền, với chư thần truyền dạy, biên thêm đủ điều và bảo Đam -Si ghi sự tích mình gặp truyền Ngọc lịch vân vân, cho đời hiểu cội rễ. Còn khi trước có chiếu Thượng đế chỉ dụ sửa các khoản:
1. Các văn biểu tâu xin phê chuẩn, đều bỏ đừng biên vì rộn ràng e đời khó hiểu. 
2. Các vị thần với Thập vương đề tên họ thiệt, và thuật lý lịch tích mình vì làm sao mà thành, khoản ấy cũng bỏ, không cho đời biết sự tích làm chi, cứ đề nội tước (chức) như mỗ Bồ tát mỗ đế, mỗ điện mỗ vương, phán quan, thơ lại, để trống mà thôi, không cho đời biết tên họ. Ví dụ: Phong đô đại đế viết Diêm la vương viết. Đề chữ viết, bỏ họ tên, như phán quan viết vân vân, phải chấm câu vòng câu theo lời nói, cho đời dễ hiểu, e ít học khó phân câu. Cứ y chỉ như vậy, các phán quan viết lại, không nên làm sái. Còn mấy bài trẫm bảo thích nghĩa, Dương gian nói sái nói lầm như Huyết ô trì. Uổng tử thành, thập bát tằng địa ngục vân vân, ngày giáp thìn tháng ba, năm nhâm ngũ, trẫm có dưng sớ, Thượng đế cho biên thêm vào Ngọc lịch. Thôi cứ vậy bôi sửa đi '.
Khi ấy Thập vương cầm viết, điện nào sửa theo điện nấy, rồi đưa cho phán quan thơ ký chép tinh lại. Khi ấy Đạm Si quỳ dựa bàn án mà xem các phán quan chép tinh lại. Xảy thấy Tiêu diện đại sĩ, hiện lại hình bà Quan -âm, cầm nhành dương liễu châm bình nước cam lồ rải xuống ba lần, rồi đằng vân bay lên cao hết thấy. 
Còn Thập vương cũng từ tạ lui về các điện. Phong đô đại đế bãi chầu, ngự vào trong. 
Lúc này các phán quan chép các lời Quan âm, sao Ngọc lịch, biên các lời chư thần và đọc cho tôi viết từ chữ:' Thời thiên hạ thái bình canh ngũ niên. .. tới chữ chúc tất ', cộng 129 chữ. Rồi giao cho các vị viết thêm đủ điều, mới trao cho tôi mà dặn rằng:' Người biết mặt với họ tên chư thần đã nhiều, nay trở về Dương gian, xin đừng nói lậu tên họ anh em chúng ta, e người đời biết có tổ tiên thân thích làm phán quan thơ lại dưới âm phủ, cơn nào nó có bịnh trọng, không lo làm phước cho mau mạnh, nó lại làm nhăng sát sanh cúng tế, đốt sớ điệp, cầu tổ tiên phò hộ cho thêm tội với chúng ta. Vả lại Thượng đế chỉ dụ cho Đại đế tại điện này với Thập vương chư thần, còn phải bôi hết ên họ lý lịch, quê hương sự tích thay! Huống chi chúng ta là phán quan, thơ lại? Bởi lòng người đời khó lường (khó độ) lắm, e khi mượn kế sanh sự nữa, thì người với chúng ta khó mà khỏi tội lỗi, Xin nhớ lời dặn đừng quên?' Tôi thích huyết thề nguyền, không dám nói lậu, lại ghi thêm các lời phán quan thơ lại dặn cho đời hiểu. Nếu tôi đặt điều mà giả mạo lời thần phật, trời đất thánh thần há dung sao?
Nội đêm trùng cữu ấy, Đạm Si đạo nhơn ghi lời bạt. 


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
LỜI BẠT CỦA VẬT -MÊ ĐẠO -NHƠN

Tôi hiệu là Vật -Mê đạo nhơn (người tu, thầy tu tiên), tháng sáu, năm Mậu Thân, đi dạo qua tỉnh Tứ -xuyên, huyện Song -lưu, dọc đường gặp thầy tôi là Đạm Si tôn giả (Hồ tăng sãi nước Liêu. Tôi hỏi thăm thầy ở đâu? Thầy tôi trả lời rằng: Ta ở đất Luân hồi sanh tử (sống thác xây vần) ải Nhơn quỉ khứ lai (người ma qua lại) nghĩa là đi lạc xuống Âm phủ mà về đây. Ta nói cho ngươi rõ: những kẻ ở thế gian được phép đến mấy ngày vía Thập Vương, ăn chay cầu nguyện chừa lỗi cũ, cải ác tùng thiện, cứ lạy hướng bắc (chỗ Ngọc đế), nguyện chừa lỗi cũ, không dám phạm nữa, làm lành mà chuộc tội, sau thác hồn khỏi hành hình nơi các địa ngục; ấy là ân xá giảm tội. Tại thế gian nhiều án chạy khỏi chối được chớ xuống âm phủ không lọt một mảy lông, không than cũng chẳng phép chuộc tội. Quí tại còn sống ăn năn làm lành mà trừ tội mới đặng. Ngặt người đời chẳng xét, tại cái thiện thì làm người, tâm ác thời làm vật. Song kẻ phụ nữ trăm người còn biết ăn năn làm lành một hai người. Chớ đàn ông ngàn người, may có một người cải ác! Có nhiều khi gần chết mà chưa biết ăn năn, thì phải chịu hành nơi địa ngục!
Nay nhờ ơn Địa tạng vương bồ tát truyền Thập vương dọn Ngọc lịch, xin chỉ Thượng đế phê cho thế gian, biết ngày ăn năn nguyện làm lành chuộc tội, lại truyền bổn Ngọc lịch cho ta. Ta khuyên đời phải biết: có phước mới đặng làm người, còn sống, rán ăn năn lành lành kẻo muộn. Ngươi có lòng khuyến thiện, nay ta trao Ngọc lịch cho ngươi sao ra truyền cho đời biết '. Ta quì lạy lãnh cuốn Ngọc lịch thầy ta lần lần bay lên cao. Nên ta sao ra cho đời, ai khắc in ra lưu truyền cho đời khỏi tội thì mình được phước. Khuyên ai phạm tội mau chừa, không phạm thì rán mà giữ. Đừng đợi thác rồi, mới muốn sống lại mà tu không đặng. 

VẬT MÊ ĐẠO NHƠN (ghi ký)

Mười ngày vía Thập vương, đều lạy hướng bắc:

Nhứt điện Tần quảng vương mồng 1 tháng 2
Nhị điện Sở giang vương mồng 1 tháng 3.
Tam điện Tống đế vương mồng 8 tháng 2.
Tứ điện Ngũ -quan-vương 18 tháng 2.
Ngũ điện Diêm-la-vương mồng 8 tháng giêng. 
Lục điện Biên-thanh-vương mồng 8 tháng 3.
Thất điện Thái -san-vương 27 tháng 3.
Bát điện Bình -Đẳng -vương mồng 1 tháng 4.
Cửu điện Đô-thị -vương mồng 8 tháng 4.
Thập điện Chuyển -luân-vương 17 tháng 4.
Và 14, rằm, 16 tháng 5, mồng 3 tháng 8, mồng 10 tháng 10
ăn chay ngủ riêng như trên. Vía 10 vua, nội 4 tháng 1, 2, 3, 4.


Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
THÁNH ĐÀN TRAI KỲ GIỚI KỲ
(cấm phòng)

Các vía lớn, ăn chay, hoặc ngủ riêng, khỏi tội đặng phước. Tuy không ăn chay mà ngủ riêng cũng quí hơn. Tháng nào nhuần thì theo tháng trước: Tháng giêng: Mồng 1 vía Di Lặc, Thiên-Lập, ngày cúng trời. Mồng 3 vía Tôn chơn -nhơn, tổ thuốc và Hát chơn nhơn, ông tiên. Mồng 6 vía Định -chơn -Phật. Mồng 8 ngũ điện, Giang- đông thần. Mồng 9 vía Ngọc -hoàng thượng đế. 13 Lưu -mãnh tướng quân. Rằm vía Thượng -nguơn, Thiên -quan đại đế. Hựu -thành Tịnh -ứng chơn quân. Từ mồng 8 đến rằm, các vị ấy đi dẹp yêu quái, ai ăn chay, ngủ riêng, tụng kinh, có phước hơn mấy ngày thường thập bội, 19 Khưu -trường Xuân, ông tiên, cũng tổ thuốc ông đặt chuyện Tây-du. Tháng hai: Mồng 1 vía Nhị - điện, Thái dương, Câu-trận. Mồng 2 vía Thổ địa chánh, Tử -đông Văn -xương (Tụng Bổn nguyện, Bảo sanh). Mồng 4 Táo tướng quân. Mồng 6 Đông-Huê đế quân. Mồng 8, Trương đại -đế, Tam điện, Thích -Ca xuất gia (tụng Kim cang) 13 vía Các -chơn -quan, tổ thuốc, Rằm vía Thái, thượng lão -quân (tụng Cảm ứng). Tinh -trung Nhạc nguơn-soái -17 vía Đỗ -tướng -quân. 18 Tứ -điện. 19 Quan -âm (tụng Phổ -môn, Cứu -khổ). 21 vía Phổ -hiền bồ tát, Thủy -long Thánh -mẫu nương -nương. 25 vía Huyền -thiên thượng -đế thánh -phụ Minh chơn -đế. 
Tháng ba: Mồng 1 vía Nhị điện. Mộng 3 vía Huyền thiên thượng đế (tụng kinh Báo ân cho cha mẹ). Mồng 6 vía Thượng lão tướng công, Nhạng hương. Mồng 8 Lục điện, 13 Trung ương ngũ đạo. Rằm Hạo thiên, Huyền đàn, Lôi đình, 16 vía Chuẩn đề Sơn thần, 18 Hậu thổ nương nương, Trung nhạc. 20 vía Tử tôn nương nương (bà chúa thai sanh). 23 Thiên hậu nương nương 27 vía Thất điện, 28 vía Đông nhạc đại đế, Khương hiệt (ông thánh chế chữ).
Thánh tư: Mồng 1 Bát -điện. Mồng 4 Văn thù bồ tát. Mồng 8 Thích -ca Phật tổ, Cửu điện, Doãn -chơn -nhơn. 14 Lữ -tổ, Thuần dương, Rằm Thích -Ca thành (tụng Kim -cang). 17 vía Thập -điện. .. 18 Tử -vi đại -đế. 20 Nhãn -quang thánh -mẫu. 26 vía Chung -san tướng công. 28 vía Dược -vương cổ Phật. 
Tháng năm: Mồng 1 Nam -cực đại -đế. Mồng 5 Địa -lạp (cúng đất). Ôn -ngươn-soái, Đặng -thiên quân. Mồng 7 vía Châu -thái -úy. Mồng 8 Nam phương ngũ -đạo 11 vía Đỗ -thành -hoàng (cai trị các thành -hoàng). 12 Bỉnh -linh -công. 13 vía Quan thái tử. 14 rằm, 16, ba ngày kị thần (cấm phòng). 17 Trương -thiên-sư. 20 Phùng chơn -nhơn. 29 Hứa oai hiển vương. 
Tháng sáu: Mồng 4 chư Phật giáng. Mồng 6 Thôi -phủ -quân. Mồng 10 Lưu -hải -thềm đế quân. 13 Tỉnh -tuyền Long -vương. 19 Quan -âm thành đạo 23 vía Quan -đế, Vương linh-quan. Hỏa -thần. 24 Lôi -tổ. 26 Nhị -lang 27 Thiên -xu tả tướng (châu tử).
Tháng bảy: Mồng 7 Đạo -đức -lạp (cúng thần tiên), Ngưu -lang Chức -nữ. 12 Trường -chơn, Đàm chơn -nhơn. 13 Đại -thế chí bồ tát. Rằm Trung -nguơn, Địa quan đại đế. Linh -tế chơn quân. 18 Diêu -trì Tây -vương -mẫu nương nương. 19 Trị -niên thái -tuế (An giao). 21 Phổ -am tổ sư, Thượng nguơn đạo hoá. Đường chơn -quán. 22 Tăng phước tài thần, 23 Thiên -xu thượng -tướng chơn -quân (Gia -cát). 24 Long -thọ -vương bồ tát. 30 Địa -tạng -vương bồ -tát (U -Minh giáo chủ). Tháng tám: Mồng 1 Thần -công Diệu -tế Hứa -chơn -quân. Mồng 3 vía Táo -quân (mồng 3 với 27 Bắc -đẩu giáng hạ phải cữ)
Mồng 5 Lôi -thinh đại -đế. Mồng 10 Bắc -nhạc đại -đế. 12 Tây -phương ngũ đạo Rằm thái -âm triều nguơn (tụng Thái -âm), 18 Tửu -tiên (Lý -thái -Bạch). 22 Nhiên Đăng Cổ Phật. 23 Phục -ma phó -tướng Trương -hiên -vương (ông Trương). 24 Táo -Mẫu (bà Táo.)
Tháng chín: Mồng 1 Nam đẩu giáng hạ (Từ mồng 1 đến mồng 9, 9 sao). Mùng 3 Ngũ ôn. Mùng chín Cữu thiên huyền nữ. Phong đô đại -đế. 16 Cơ thần. 17 Kim Long tự đại lương, Hồng ân chơn quân. 23 Tát chơn nhơn. 26 Ngũ hiển linh quan. 30 Dược Sư Phật. 
Tháng mười: Mồng 1 Dân tuế lạp, Đồng hoàng. Châu chơn quân. Mồng 3 Tam mao ứng hoá chơn quân. Mồng 5 Đạt ma sư tổ. Mồng 6 Thiên tào chư tư, Ngũ nhạc Ngũ đế giáng hạ. Mồng 8 vía chư Phật hội niết bàn, phóng sanh có phước thập bội. (Nếu ngày mồng 8 tháng 10, làm một tội nặng bá bội ngày thường). Rằm Hạ nguơn Thủy quan đại đế, Đậu thần: Lưu sứ giả. 20 Trường hư Tịnh thiền sư. 27 Bắc cực Tử vi đại đế. 
Tháng mười một: Mồng 4 Đại thánh chí thánh Văn tuyên vương (Khổng tử). Mồng 6 Tây nhạc đại đế. 11 Thái Ất Cứu khổ thiên tôn. 17 A di đà Phật (tụng Di đà). 19 Nhựt quang thiên tử, Cữu liên bồ tát. 23 Nam đẩu giáng hạ, Trương tiên, 26 Bắc phương ngũ đạo. 
Tháng chạp: Mồng 1 Tiên phật giáng hạ (tụng kinh phước hơn nhiều). Mồng 8 Vương hầu lạp, Trương anh Đế, Thích Ca thành Phật (tụng Kim cang). 16 Nam nhạc đại -đế. 20 Lỗ ban. 21 Thiên du thượng đế. 24 Tư mạng Táo quân chầu trời (tối 23 cúng đưa trước). 29 Hoa nghiêm bồ tát. 30 Chư Phật giáng thế xét lành dữ. 
Mỗi tháng mồng 8, 14; rằm, 23,29, 30 Bắc đẩu giáng hạ, ăn chay tụng kinh. 
Tùng nhiên hòa thượng ở chùa Thiên thai đặt bài khuyên thế. 
Người đời chẳng tin nhơn quả báo ứng, nên có kẻ số thọ mà yểu, số giàu mà nghèo, tướng làm quan mà thi rớt! Sách Bửu giám nói:' Lành thì trả lành, dữ thì trả dữ: nếu chưa trả, tại ngày chưa đến '. Lại có bài thơ rằng:
Trời sanh khó dối bởi không tây (tư -vị).
Mới tính thần hay nạp sổ nầy. 
Lành dữ rốt rồi đều trả quả. 
Chẳng qua đều kíp với đều chầy. 
Kinh Nhơn quả nói; ' Phỏng kiếp trước dữ lành, coi đời nầy hoạ phước. Độ kiếp sau hoạ phước, tại đời nầy dữ lành '. Lại nói rằng:' Dầu làm dữ mấy kiếp, cũng trả cho mình '. Kinh Niết -bàn nói:' Quả báo có ba cắch! 10 Hiện báo, làm lành dữ đời nầy, trả phước họa cũng nội đời nầy; 20 Sanh báo: kiếp trước làm, trả kiếp nầy, đời nầy làm, trả đời sau; 30 Tốc báo: mới làm lành dữ, trả phước hoạ nhãn tiền, trước mắt tức thì '. Phải biết trời đất không tư vị ai, tại mình làm lành dữ nặng nhẹ, nên trả mau chậm khác nhau. Người đời khó hèn, điếc câm đi nhót, gãy tay, tật nguyền bịnh trời cho, đói lạnh, đều tại kiếp trước hưởng xài quá lẽ, làm dữ phạt nội đời ấy chưa hết kế tới số chết, nên đầu thai kiếp nầy phải phạt thêm cho đủ tội, Như vậy mà không tin nhơn quả báo ứng làm sao?
Người đời những kẻ không tin địa ngục, đến gần chết hay thấy ma quỉ, hoặc nghe tiếng binh khí, xiềng tỏa mới tin có quỉ thần địa ngục, liền van vái cầu thần. Té ra đèn giữa gió, gần tắt, ăn năn muộn sao kịp, khó trốn quỉ Vô thường. Quí tại ăn năn cho sớm, tỉnh lại mà tu, gần chết mới sợ vô ích. 
Đời Tùy vua Khai hoàng, có quan tự thừa Triệu văn Xương chết đi sống lại nói rằng:' Hồn xuống âm phủ thấy Châu Võ đế bị xiềng ba lớp tại phòng, kêu Xương lại mà nhắn rằng:' Khanh về tâu với Tùy hoàng đế rằng: các tội trẫm cãi lẽ xuôi hết, còn một tội hủy Phật nặng lắm, mau làm phước bố thí, tụng kinh mà cầu cho trẫm khỏi tội, ' Xương ra ngoài thấy một người dưới hầm phẩn ló đầu lên, hỏi ai đó? Người ấy đáp rằng:' Ta là Bạch -Khởi, tướng mạnh đời Tần '.
Sách Danh thần ghi:' Kinh Công có tên con Phương dữ lắm, xúi Kinh Công làm nhiều điều trái lẽ. Đến Phương thác, Kinh Công mơ màng thấy Phương mang gông đứng dựa cửa. Kinh Công sửa nhà làm ra kiểng chùa, bố thí tụng kinh cầu Phương khỏi tội '. Lấy sách nho đó làm chứng, đủ tin Ngọc lịch, thì khỏi khổ phần hồn, Ông Tư mã Ôn công nói:' Trên có Thiên đường. Người quân tử thác rồi, lên Thiên đường, dưới có Địa ngục, tiểu nhân thác rồi hồn sa Địa ngục. ' Sao gọi không Thiên đường Địa ngục?



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Đoan sơn đại tiên là ông Vương chương, đặt kinh thế lục rằng:' Thiệt quả có Địa ngục. Bởi người tính lành, thì thuộc dương sáng, nên khí thanh lên thiên đường. Còn lòng tính dữ, thuộc âm tối nên khí trược xuống Địa ngục. Diêm quân tra hỏi, hành tội mổ bụng rút ruột, đốt cháy nấu dầu là tại lòng chứa dữ '.
Người đời không tin thác rồi đầu thai. Như kẻ không con, cưới vợ bé nhiều cũng vô ích, vì không thai nghén hoặc có nghén bị tử phúc trung, hoặc chết theo mẹ, không thì nuôi lớn chưa kịp có con mà chết yểu, thì cũng vô hậu, những kẻ ấy thiệt là vô phước lắm. Nếu vợ chồng có con sum hiệp đến già, tuy khó hèn cũng là có phước nhiều ít mới đặng vậy. 
Sách danh thần nói:' Mẹ ông Phạm -tổ -Võ, lúc gần sanh ổng, chiêm bao thấy người cao lớn xưng mình là Đặng -Võ tướng quân đời Hán, thức dậy sanh con trai mới đặt tên Tổ -Võ. Đến lớn ở thuần lắm, nên đặt tự Thuần -Phu '.
Còn sách Tự -Loại, sách Mông -Cầu, có ghi tích Dương Hộ sanh ra, mà nhớ chiếc vòng kiếp trước. Bảo Tịnh nhớ cái giếng kiếp trước. Con gái Hướng Tịnh chết non. rồi đầu thai lại nữa, nàng nói chuyện kiếp trước không sai. (Con ranh con lộn mà nuôi được). Ngươi Văn Thẩm sống lại nhập vào xác khác. Những tích ấy đều tại sách Nho, sao không tin luân hồi đầu thai kiếp khác. 
Phàn người lành, đầu thai nhà giầu sang có đức mà hưởng phước. Công quả bằng nhau đầu thai nhà tầm thường. Công ít quả nhiều, đầu thai nhà rủi ro, hèn khó mà trả quả. Như trong Ngọc lịch nói:' Thử lòng kẻ ấy, còn làm dữ nữa, không biết ăn năn mà làm lành, Thác Địa ngục làm con Tích, đầu thai làm thú vật, nếu về hoá sanh lộn mãi, hết trông làm người '.
Bà Diệu Huệ chơn nhơn (bà thân ông Văn Xương) nói:' Con người ở đời, sống thác không nhứt định, ở tạm rồi đi, như trăng tròn khuyết, như hoa nở tàn. Ngày nay mới sanh là hồn chết kiếp trước lộn lại. Nếu thân trước chưa thác, thì hồn ấy có lộn vào xác nầy mà sanh ra đâu. Nếu ngày nay đến chết mà biết mình tội nhiều, thì trông chi đầu thai tử tế. 
Người đời chẳng tin thác rồi đầu thai làm thú vật. Sách Nho biên sự đầu thai ấy rất nhiều, chẳng phải một tích. Sử Tùy thơ, Lý sĩ Khiêm nói:' Ông Cổn là cha Địa Võ, hoá làm con cua đinh ba cẳng, gọi là con ba ba, Ngươi Đỗ Võ hóa làm đề Quyên là con quốc. (Nên chim quốc tên là Đỗ Võ Đỗ Quyên). Bao Quân hóa rồng. Ngưu Ai hóa cọp, Bành Sanh hóa heo rừng. Như Y hóa chó. Huỳnh Mẫu hóa vịt, như càng thay lớn lắm. Tuyên Võ hóa trạch (cua đinh, tục kêu là cá giải). Đặng Văn hóa trâu. Từ Bá hóa cá. Kim Hạ hóa quạ, Thơ Sanh hóa rắn '. Các điều đó biên nơi sách Nho, sao mà không tin?
Đức Thánh Khổng -tử nói:' Sanh ra đến già phải thác, làm người chẳng sống đời, nếu theo dữ bỏ lành, sao khỏi làm loài khác '. Kinh Lăng Nghiêm nói:' Người thác làm dê, dê thác làm người '. Phổ Am tổ sư đặt bài kệ rặng:' Súc sanh bổn thị nhân lai tác, nhân xuất luân hồi cổ đáo câm, Bất yếu phi mao tinh đái giác, khuyến quân hưu sử súc sanh tâm '. Nghĩa là: người lộn súc sanh cũng tại tâm, xưa nay người vật chuyển luân thầm. Muốn không đội gạc mang lòng xấu, khuyên chớ làm theo dạ thú cầm. 
Ông Tịnh Trai học sĩ nói. ' Thông minh bất năng địch nghiệp, phú quý, khởi miễn luân hồi '. Nghĩa là: Khôn lanh khó chữa tội, phú quý cũng luân hồi. 
Ông Hồng Mai nói:' Hay coi thọc huyết heo, làm thịt dê, sau gần chết la như tiếng heo dê kêu vậy, có khi chết rồi đầu thai làm chim, cho người mua mà thả. Nếu đàn bà hay coi sát sanh dê heo lắm, có khi đẻ ra đầu dê, hoặc mình rắn, hoặc trứng như trái cầu (đẻ bọc) '. Cứ theo lời ấy, người ta còn đẻ súc vật côn trùng, hoặc đẻ trứng, huống chi thác rồi đầu thai làm súc vật, mà gọi không lẽ. Bởi luân hồi mà trả nợ thường mạng, là nhơn quả xoay vần. Khuyên đời đừng gọi mắt chưa thấy nên chẳng tin, cứ làm dữ mãi (tin tại phải lý, lựa chờ mắt thấy, đợi mắt thấy đà chết rồi còn gì!).
Xưa có kẻ hỏi thầy Trình -tử rằng:' Phật nói chết rồi đi đầu thai nữa, sự ấy thấy thiệt chăng? Thấy Trình -tử nói:' Sử ấy nói có nói không cũng khó hiểu. Song xét lời đức thánh Khổng -tử dạy rằng:' Vị tri sanh, yên trí tử ' (chưa biết sự mới sanh đâu biết sự thác rồi), do một câu ấy thì đủ hiểu rồi '. Coi Trình -tử và ông thánh đời Tống; mà chưa dám gọi không luân hồi đầu thai. Còn xét lời nói đức thánh Khổng -tử, đâu biết việc thác, thì sự luân hồi đầu thai không phải huyễn. 
Ông Châu -liêm -Khuê tự Mậu -thức, là thầy hai ông Trình -tử, Trình -Hi, Trình -Hạo, (Y Xuyên với Minh Đạo). Khi ấy ông Châu -liêm -Khuê hỏi thầy Huỳnh -Long-Nam thiền -sư rằng:' Chẳng hay đạo Phật có dạy sự nhiệm mầu riêng hơn đạo nho chăng? ' Huỳnh -Long Nam thiền -sư nói:' Thầy hãy xét các câu sách nhà nho của thầy như đức Khổng -tử nói:' Triêu văn đạo, tịch tử khá hỉ ' Nghĩa là 'Sớm mai nghe thấu mùi đạo, chiều thác cũng đành '. Xét đạo ấy nghĩa là chi? Còn ông nhan -tử không đổi sự vui, là vui việc gì? Xét ra lý hai câu ấy, lâu lâu mới biết hiệp cái nhiệm mầu của đạo Phật, chớ không chi lạ mà hỏi '.
(Đạo là thông hiểu sự phải, chắc ý mà làm, chẳng hồ nghi chi hết, vì biết số mạng trời định, cứ phải mà làm, tố nào theo tố nấy, chẳng phải rán cượng cầu mà đặng, nên đức Khổng -tử nói:' Nếu cầu đặng sự giàu, tuy ra sức mệt nhọc, làm việt hèn hạ như kẻ đánh xe, mà đặng giàu ta cũng rán chịu cực chịu nhục mà làm cho giàu. Nếu tại số trời định, có cượng cầu cũng vô ích, thì thà an phận mà theo tố, là chỗ ưa của ta '. Nên ông Nhan -tử thông mùi đạo, cứ giữ đức hạnh học hành sửa mình gọi là vui theo tố bần tiện, chớ không rầu buồn sự nghèo khó, nên sau ngày mãn phần làm chức Tu -văn -Lang tại Âm phủ cũng đồng liêu với thầy Tử -Hạ. Đức thánh Khổng -tử cũng nói:' Thực sơ phạn, ẫm thủy, khúc hoăng nhi chẩm chi, lạc tại kỳ trung hỉ. Ăn cơm rau, uống nước lã, co tay làm gối nằm, ngài cũng vui vậy, là tại biết đạo, biết mạng, tố nào theo tố nấy. ' Quân tử vô nhập, nhi bất tự đắc '. Người quân tử không gặp cảnh nào mà chẳng vui, bởi vậy ngài mới thành thánh. Người đời không biết đạo, lòng tham vọng tưởng, cượng cầu cực khổ, không lợi lại bị hại, mau chết mà mắc tội nhiều, hại tới thân kiếp sau và để họa cho con cháu. 
Người đời xem Ngọc -lịch mà nửa tin nửa nghi, chưa dám đoán chắc là tại học chưa đủ lý; té ra gặp phước mà bỏ qua. Nếu hiểu nhơn quả đời trước làm lành dữ, đời nay chịu phước họa. Đời nay làm lành dữ, thì kiếp sau chịu phước họa mà còn nghi chi nữa? Nay nhờ ơn trời, nhậm lời Thập vương chư thần, cho truyền Ngọc lịch đủ bằng chứng khỏi nghi, cũng như tích Lâm -tự -Kỳ sống lại, ghi lại cuốn Hồi -dương nhơn -quả thì mau ăn năn làm phước chuộc tội nếu đợi gần chết ăn năn sao kịp?



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
TÍCH TRUYỀN NGỌC LỊCH MÀ CỨU HỒN MẸ

Tỉnh Tứ Xuyên, thân Dậu đường, ông Viện- cẩn- An mãn phần, để một trai lại, tên là Dức- Sơ mới bảy tuổi. Vợ Cẩn An là Thiệu- thị thương con ốm yếu, nghe lời họ bày phép bổ nguơn, mỗi ngày dùng gà mập, nấu lấy nước thịt gà làm canh cho con ăn cơm. Nên mua gà nhiều lắm, đào trùng dế, nuôi cho mập đặng nấu cho con ăn. Dức-Sơ 15 tuổi Thiệu- thị bịnh ghẻ đau nhức cùng mình, như dế
cắn gà mổ, mà cũng còn nhắc đầy tớ gái, làm gà cho con ăn. Đức-Sơ hiểu ý liền
cản cấm không cho làm gà nữa. Thiệu thị đau bảy năm, gần chết làm gà gáy, dế kêu, cào rách mình mà chết! Đức-Sơ khóc kể vì mẹ thương mình, nên sát sanh mới bị quả báo, liền thề cữ sát sanh Cách một năm có nàng Ning-Cô là chị con nhà bác, gả cho Tiền bị đẻ mà chết. Hồn xuống Nhựt-điện, vua xem bộ phán rằng:' Nàng nầy tội nhiều, đáng bị sản nạn, giao qua Nhị-điện hành hình '. Phán quan tâu rằng:' Viện-ninh-Cô có khuyên cha mẹ chồng đừng đốt cây khô nhiều kiến, đã ba lần. Lại khuyên chồng khắc in van giới sát
cho người 5000 tờ và phụ in kinh Quan-âm phóng sanh văn 3000 tờ. Táo quân tâu Thượng-đế cho sống thêm 30 năm nữa. Vua Nhứt-điện đứng dậy phán rằng:' Lành thay!' Liền sai kẻ áo xanh cầm phướng đưa hồn về. Ra tới cửa ngõ đỏ, có thắp đèn vàng, nghe tiếng kêu rằng:' Ninh-Cô cứu ta với!' Ninh-Cô ngỏ thấy thiếm là Thiệu-Thị đầu tóc chôm bôm, mình máu lội bộ, chạy theo khóc rằng:' Cháu sống lại nói cho con ta hay, rằng ta bị khổ dưới âm-phủ bảo làm phước mà chuộc tội cho ta, nếu khỏi tội, ta về cho chiêm bao mách bảo trả lời. Xảy thấy quỷ tóc đỏ cầm chĩa đâm họng Thiệu thị mà dẫn đi, Ninh cô sống lại, thuật chuyện... Đức sơ hay, liền lạy Phật làm chay, tụng kinh tới 19 năm mà không thấy chiêm bao. Cưới vợ là Thi thị, cũng cữ sát sanh. Sau thấy kinh Ngọc Lịch, Đức Sơ nguyện sao tả cho người đặng chuộc tội mẹ. Mới tả được 120 bổn lẻ, cho mới được 108 cuốn. Nhằm niên hiệu vua Càn-long trào Thanh, là năm canh ngũ, đêm rằm tháng giêng, chiêm bao thấy Thiệu thị về vỗ lưng con mà khen rằng:' Con thiệt có hiếu. mẹ ra khỏi ngục, nhờ phát Ngọc lịch 49 người hồi tâm, vua đà tha tội, lại cho về mách bảo con hay, hồn mẹ được về ở tại mã, giờ tý ngày 18 nầy, sẽ đi đầu thai hưởng phước. Còn con cũng đặng sống lâu nữa '.

Đức Sơ hỏi:' Cha tôi bây giờ ở đâu? ' Thiệu thị nói: ' Đầu thai đã lâu, lại chú giải kinh Nhơn quả với Thiệu thơ, nên thi đậu làm quan và mạnh khoẻ '. Đức Sơ hỏi:' Ở tại xứ nào? ' Thiệu thị không nói, xơ Đức Sơ thức dậy. Đức Sơ thuật chuyện cho vợ nghe...Thi thị nói:' Tại mình mơ tưởng sao tả Ngọc lịch nên chiêm bao thấy vậy '. Sáng Đức Sơ dọn đồ ăn bưng tế mã mẹ và đốt giấy áo, vàng bạc, vái rằng:'Nếu mẹ cho con thấy chiêm bao nữa, thì con mới tin chắc '. Đêm ấy, Đức Sơ thấy Thiệu-thị về điểm mặt Thi-thị mà mắng rằng:' Mầy ghét chồng sao Ngọc-lịch nên mầy xé năm cuốn, thiếu chút nữa mà hại ta! Lại nói cho chồng không tin điềm thiệt, mầy sẽ mắc họa bây giờ '. Đức-Sơ giựt mình dậy hỏi vợ, sao mình xé 5 cuốn Ngọc lịch. Thi thị nói: "Đừng có nói yêu nói ma, có ba điều không đáng tin lắm: 1. Cữ sát sanh, không cho đồ sống vô nhà, như sãi vãi một thứ; 2. Đêm nào ngày nấy, thầy sãi tụng kinh hơn hai mươi năm mà cũng còn mắc tội dưới âm phủ! Giá gì sao mấy bổn kinh mà phước nhiều vậy? Còn tin là nghĩa gì? 3. Nói tôi xé 5 cuốn, sao mình không nghĩ? Mình viết rồi cất vô tủ khóa lại, tôi làm sao mở đặng mà xé, còn tin nỗi gì? Chẳng phải thiệt hồn mẹ về mách bảo đâu! Ấy là mình vọng tưởng mà thấy bậy, e không bao lâu, sẽ điên cuồng mà chớ!" Đức Sơ nghe nói lưỡng lự, vì cũng phải lý dễ nghe. Đêm 17 qua ứng mộng bên nhà em
Thi thị và ứng mộng nhà cháu là Ninh-Cô, rồi ứng mộng dâu con mà mắng rằng:' Mồng sáu tháng bảy năm ngoái Châu-phụng-Cô là gái xóm nầy vào nhà ngồi chung với mầy mà thêu giày, mầy có lấy một cuốn Ngọc lịch để trong rổ may. Đêm sau mầy giận chồng mầy không cho Phụng-Cô vô nữa, nên
mầy xé 5 bổn Ngọc lịch. Bữa sau em mầy là Thị-Phúc đến thăm, thấy kinh rách, năn nỉ xin về đóng lại dán lại viết vô mà cho người, Âm phủ đã ghi phước cho Thị-Phúc. May sao con ta để vô tủ mà khóa, phải không thì mầy cũng xé nữa! Nay lại chối lức đặt chuyện ba điều không đáng tin, tội già làm nặng lắm. Táo thần với Thổ địa đã chịu cho tà quỉ vô nhà hành mầy chạy đâu
cho khỏi họa!' Nói rồi xô đổ bàn để đồ trang điểm một cái rầm! Vợ chồng giựt mình thức dậy! Đức -Sơ hỏi vợ tin không! Thị-thị nói: Ai tin thì gọi có, ai không tin thì gọi không '. Xảy thấy một đống khói đen bay vô cửa phòng! Thị thị rùng mình, ngó chồng mà nói rằng:' Mình tả thêm ít cuốn nữa, thà tin là có, chớ gọi là không '. Đức Sơ biết vợ có xé kinh thiệt, nên mới nói như vậy. May mẹ đã đầu thai, nên tin chắc, thôi cậy sãi tụng kinh nữa, quyết lòng tả Ngọc lịch làm phước.
Đêm ấy Thi-thị phát óng, lưng vai đau nhức như đánh như dần. Rước thầy thuốc coi mạch. Thầy thuốc nói:' Ấy là âm độc làm ghẻ ác, phần thím có thai, nên không dùng thuốc nóng mà trị, thế phải chịu phép!' Đức Sơ rầu lắm. Kế em vợ là Thị Phúc ghé. Ninh-Cô cũng đến thăm, đồng thuật chuyện chiêm bao, bảo Dức-Sơ van vái. Đức Sơ vào bếp, vái ông Táo, nguyện tả một trăm bổn Ngọc lịch mà cầu cho vợ mạnh. Thi thị đương nóng mê, vùng dậy quì dưới đất, lạy khan mà nói rằng:' Từ rày sắp lên, tôi tin Ngọc lịch, tình nguyện bán hết đồ nữ trang mướn tả Ngọc lịch, cho người mà chuộc tội '. Xảy thấy ông đội mão thất tinh, bận áo đen, đuổi đống khói đen dưới giường lăn ra bay ra mất. Thi-thị bớt nóng hết sưng lưng vai (chứng phát-bối). Bữa sau sanh con trai, mẹ con mạnh khoẻ. Nội trong hai tháng, vợ chồng mướn nhiều người tả đủ một trăm bổn Ngọc-lịch cho người. Bởi vợ chồng cám ơn thần, nên biên sự tích vào đây mà khuyên đời, không dám giấu sự lỗi.



---------------- 


BỞI CHÊ NGỌC LỊCH BỊ PHẠT NHÃN TIỀN

Phan ngưỡng Chí là học nho, không tin Ngoc lịch, viết bậy vô mà kiêu ngạo. Phê tại câu:' Đâu thấy hồn ma mang gông '. Đề ba chữ son rằng:' Thị chi chỉ '. (rất phải lắm). Bởi mực mấy bài từ Nhứt điện tới thắt điện. Tại Ngũ điện lấy son gạt tréo. Trên câu nói:' Uống rượu lảng phí, ' nó đề hai chữ son lởn. ' Khả tiếu ' (Tức cười quá!). Chỗ Thập điện nói câu:' Đàn bà con gái bị học trò gật nên thuận theo thất tiết... ' Nó đề II chữ mực: ' Phụ nữ tự kỉ tầm tử, dữ nam tử hà thiệp?' (Tại phụ nữ liều mình, đàn ông có can cớ gì?' Chỗ nói đầu thai, nó đề hai chữ son:' Loạn họa!' (nói bậy!) Chỗ Mạnh bà, mấy câu ấy, nó chấm mực vài hàng. Trên bốn chữ ' Khổ căn nan đoạn ' (còn đầu thai cõi trần cực khổ) nó khuyên son trết! Tới câu:' Làm hồn ma mang thây nữa,' nó khuyên son 9 khuyên. Từ ấy sắp sau, chỗ bôi chỗ gạt tréo, cho tới chỗ câu: ' Hào quang chiếu sáng, Quan âm giáng hạ,' nó vùng phát điên. Nửa đêm nó mở cửa chạy ra phố chợ, hai tay chống đất, bò càng, lật phao tay đổ máu, trầy đầu gối lả giò, bò một hồi làm như bị trói cẳng, mọp đó la lớn rằng: ' Bớ con ơi!! Mau đem cuốn kinh Ngọc lịch ra đây, đặng đưa cho lối xóm, đem cúng trong chùa Tây Nhạc đại đế '. Con nó về lấy kinh trao cho xóm, trở vô thấy nhà phát hỏa, cóng cẳng chạy ra không kịp nên bị chết thiêu! Nó nóng họng chạy về chữa lửa, thấy vợ nó là Hoăng thị lõa thể (trần truồng) chạy ra, Ngưỡng Chí mắc cở nói với xóm rằng: ' Người đời đừng bắt chước tôi ở độc nhiều năm, nay thấy Ngọc lịch, còn không tin mà chừa lỗi, lại phê ngạo nhiều câu, nên bị trời phạt nhãn tiền độc quá! ' Nói rồi lửa cháy tới, cứng cẳng chạy không đặng, phải bị chết thiêu. Bầy chó nhảy vô kéo thây ra, xé ăn tới xương cốt! Xóm coi thấy phê trong Ngọc lịch như vậy, ai cũng rùng mình! Mới biết tại tội nặng quá, nên trả lẹ lắm!!! Còn vợ nó mắc cở trốn xứ nào bặt tin không biết!




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
GANH GHÉT MUỐN DẸP NGỌC LỊCH BỊ BÁO NHÃN TIỀN

Tại xứ Tây hương, chùa Thổ cốc (ông Trương), có một sãi, tên Đạt Viễn, đặng cuốn ngọc lịch, cầm qua am Thuần dương mà coi với đạo -sĩ (thầy pháp) tên Quán-Tiên. Hai thầy coi tới chỗ thầy chùa thầy pháp ăn tiền tụng mướn mà tụng sót, thác sau phải vào sổ Bổ kinh mà tụng bổ, vân vân. Lại coi tới chỗ luân hồi, nói thầy chùa thầy pháp có tội nhiều, các ngục hành hình không đặng, phải cho uống thuốc mê, đầu thai tử phúc trung, hoặc chết yểu nhiều kiếp, cho lú quên hết kinh chú, rồi mới hành hình, vân vân. Đạt -Viễn nói: ' Chúng ta nhờ cậy tụng kinh mướn mà khá, nếu Ngọc lịch lưu truyền nhiều chỗ, thì nghề làm ăn chúng ta phải ế! Dầu xé đốt Ngọc-lịch cũng không hết đặng, biết tính làm sao? Quán-Tiên nói: ' Tôi biết cầm cơ thỉnh tiên. Thầy sẽ bảo các sãi rủ người ngoài, hoặc bổn đạo đến coi thỉnh tiên. Tôi làm bộ cơ lên, viết chữ nói phá Ngọc-lịch thì chúng hết tin '. Đạt -Viễn đi khoe cùng nói tại am Thuần-dương (Lữ-đồng -Tân) thỉnh tiên linh lắm, ai cầu hỏi việc gì, thì đến mà hỏi, hoặc xin toa thuốc xin bùa, thần tiên cũng cho '. Thiên hạ nghe nói lưu truyền lần ra, nên ngày nọ nhiều người đến am Thuần-dương coi đạo -sĩ thỉnh tiên tới dưng hương chật trong chật ngoài. Quán-Tiên làm bộ lập bàn xông cơ, lúc đỏ đèn niệm chú, phun nước đốt bùa... Một lát cơ lên, đồng bưng cơ, thầy lại coi, viết chữ trên mâm cây vuông đổ cát. Quán-Tiên kêu ai biết chữ lên coi chữ tiên viết, Người biết chữ lên đàn, coi thấy trong mâm cát có bảy chữ lớn rằng: ' Ngô Thuần-dương tổ-sư chí hỉ ' và chín chữ nhỏ: ' Phàm nhơn khấu vấn giả, tốc tốc lai vấn '. (Nghĩa là: Ta là Thuần-dương tổ-sư đến rồi. Ai hỏi sự chi, mau lên mà hỏi). Ai nấy nghe đọc như vậy, thì rùng rùng lên đàn. Quán-Tiên nói: ' Đừng lại đông lắm, hỏi rộn không nên, vô từ người mà hỏi tử tế '. Đạt -Viễn quì lạy vái lớn rằng: ' Chẳng hay trong đời việc chi quí hơn hết, xin tổ-sư chỉ dạy Cơ viết nhiều chữ nhỏ như vầy:
' Thứ nhứt kính đạo -sĩ (thầy pháp) thứ nhì trọng thầy chùa, Đạo -sĩ dâng sớ, cầu đặng sống lâu. Hòa-thượng tụng kinh siêu-độ, đưa vong hồn về Tây-phương. Duy có một chuyện không nên nghe, là thứ Ngọc-lịch bảo ăn năn chừa lỗi làm lành mà trừ tội! Có đâu dễ như vậy! Nhiều người tin khắc bản lưu truyền mà gạt kẻ dốt phải lầm! Nếu ai gặp Ngọc-lịch thì xé mà đốt đi, thì đặng phước lớn '.

Người coi đọc rồi, lấy giấy chép ra chưa rồi bài ấy. Xảy thấy hào quang xanh lét chiếu vô đàn, Quán Tiên rùng mình té xuống đất, Đạt Viễn cũng nhào theo. Người chép bài ấy, đứng dựa bàn Lữ tổ, trợn mắt hét lớn rằng: ' Ta là Liễu tiên đây! Vưng lịnh tổ sư truyền dạy cho đời rõ: Bởi vì người đời vô phước làm dữ không ăn năn. May nhờ trời nhậm lời Thập vương các thần tâu, ban phát Ngọc Lịch cho Đạm Si đem về, truyền người đời xem mà chừa lỗi, không dám phạm nữa, lời thần tiếng Phật tiên thánh khuyên răn. Thượng đế truyền chỉ Đô thành hoàng mỗi ngày canh phân phiên các du thần ngày đêm soi xét nhơn gian lành dữ. Nay có thầy chùa là Đạt Viễn, thầy pháp là Quán Tiến, dám ganh ghét Ngọc lịch, lên cơ mà giả nói gạt đời. Tội hai đứa ấy đáng đọa địa ngục hành tội cho đến kiếp rồi giam ngoài ngục A tì, không đặng đầu thai. Nếu ai ghét Ngọc lịch, mà không tin, cũng phạt như Quán Tiên Đạt Viễn vậy '. Nói rồi, ngó thấy cơ tự nhiên không ai vịn mà lên, viết 33 chữ như vầy:

Tâm bịnh tư tương tâm dược y.
Huyến nhục huân tính thiểu ngật ta.
Thơ trung tự hữu ba la mật.
Năng sử oan khiên tận thoát ly.
Ngô Liễu Tiên khứ dã


Thích nôm:

Bịnh tâm, thời trị thuốc bằng tâm.
Huyết thịt ít ăn đặng phước thầm.
Ngọc lịch thánh thần tiên Phật dạy.
Độ đời khỏi đọa, hết mê lầm,
Ta là Liễu Tiên đi rồi


Người coi chữ sao chép rồi, bước xuống nói rằng: ' Hồi nãy tôi chép còn một ít chữ thì hết bài trước. Xảy thấy một ông mặt xanh môi đỏ, lên đàn, bảo tôi truyền lời Lữ-tổ dạy, rồi đằng vân bay mất! '. Ai nấy hãi kinh về hết. Không biết Quán Tiên với Đạt Viễn đâu mất! Cách vài bữa nghe nói Quán Tiên với Đạt Viễn hai người bầm mình la hoài cho tới chết, mới biết quả báo nhãn tiền lẹ quá! Ghê thay!!


KINH-TÍN -LỤC
(truyền Ngọc-lịch, được phước)

Người bị chết trôi, lửa cháy, trộm cướp, tai họa, đều đổ tại thời vận, không dè tại mình làm dữ mà ra. Bởi chẳng kiêng trời đất, không tin Tiên Phật Thánh Thần, bất trung, bất hiếu, bất nhơn, bất nghĩa, hủy hoại lúa gạo, bỏ xả giấy chữ nho, sát sanh hại vật, khoe mình hiếp người, mê đờn ca, đắm tửu sắc, theo bài bạc gian lận, nếu phạm các tội ấy, dẫu có khỏi tội dương pháp, thì cũng bị thần phạt mắc tai họa. Nếu in Ngọc -lịch, gặp ai cũng giảng tội phước quả báo, sau thác đã tiêu hết tội, mà còn sống bây giờ cũng được hưởng phước sống lâu. Nay mới nghe cái tích làm lành đặng phước đổi rủi ra may, kể ra sau nầy, đều việc nhãn tiền, thiên hạ có nghe có thấy.

Ông Huỳnh-phương-Châu ở huyện Đại hưng, trấn nhậm huyện Khúc Dương, làm quau giáo thọ, vợ cũng làm lành. Khi đương làm việc tại đó, khắc bản kinh Kim cang, kinh Cảm ứng, kinh Âm chất, in mỗi thứ vài ngàn bộ, vợ in Ngọc -lịnh vài ngàn cuốn mà cho người, phóng sanh chim cá không biết mấy muôn ngàn mạng. Sanh năm người con trai, đầu lòng là Thúc Lâm đậu Than hóa, còn bốn người kế là Thúc Kinh, Thúc Kỳ, Thúc Huyển, Thúc Tuyên đều đậu.

Mục-quốc-Duy ở huyện Ngộ, đậu Tiến sĩ trào Minh Thiên Khải, ở nhà không làm quan. Hay thỉnh nhiều thiện thơ (kinh lành), thấy Ngọc-lịch liền sao tả cho người thấy, có rách thì dán lại, năm thất mùa thì đâu đậu thí lúa, lúc thiên thời thí thuốc. Con trai là Huệ Viễn đậu Tiến sĩ trào Minh Thuận-trị, cháu tên Đồng đậu Trạng nguyên, Cảnh Tuyên đậu Truyền lô, Kế Nhượng đậu Tiến sĩ. Con của Đồng tên Tảo đậu Bảng nhãn, các chắt đều bổ Hàn-lâm, Tiến sĩ, nối đời làm quan, cũng nhờ bố thí.

Bành-nhất-Âm ở huyện Trường châu, gặp thất mùa thì thí lúa, thấy thiện thơ thì in. Con tên là Cần, sao tả Ngọc-lịch dư trăm mà cho người, thi đỗ Trạng nguyên, chắt là Khải Phong cũng đỗ Trạng nữa, bởi nhờ thí Ngọc lịch.
Từ trước Đình ở huyện Côn san, làm biện lại với quan Nghiêm văn Tịnh. Khi trấn nhậm tỉnh Chiết giang, dân bị nước lụt. Trước Đình nói nung cho ông Nghiêm văn Tịnh bố thí, cứu sống nhiều mạng. Còn làm phước điều nầy: Lúc trào Minh vua Sùng Trinh, bị loạn, giặc bắt vài trăm phụ nữ, gởi tại Trước Đình bảo giữ giùm. Từ trước Đình lén cho phụ nữ bạc tiền, mà thả đi hết, rồi lập thế đốt nhà mà phi tang, đem bản kinh Ngọc-lịch với gia quyến trốn qua ở huyện Thái dương mà lánh nạn. Thuở nay Từ trước Đình in Ngọc-lịch thí cũng nhiều lắm. Đến thái bình, con trai lớn là Từ kiền Học thi đỗ Thám hoa, làm tới chức Thượng thơ, con giữa là Bĩnh Nghĩa cũng đậu Thám hoa, làm tới chức Thị lang, con út là Nguơn Văn làm tới Thiên quan chủng tể. Năm người con của Từ kiền Học là Thọ Cốc, Huỳnh Thọ Mẫn Thọ, Từ Bình, Từ Tuấn đều thi đậu.

Thái bội Lan ở Hồ-châu, ở hiếu đễ (thảo thuận), tiện tặn cho dư mà bố thí, hay thí thuốc cho nhà nghèo, con côi đàn bà góa cậy mượn thì chẳng tiếc. Nếu phụ nữ hoặc trẻ thơ làm mất đồ không dám về nhà, thì cho mà thường lại. Hay cho kinh Ngọc lịch, 84 tuổi không bịnh ngồi xếp bằng mà mãn phần. Lối xóm thấy có Tiên đồng Tiên nữ mời Bội Lan lên xe. Cháu là Khải Tôn, chắt là Thăng Nguơn đều đỗ Trạng.

Hùng triệu Đãnh ở huyện Nam-xương, làm thầy thuốc thuở 19 tuổi. Coi Ngọc lịch thấy khoản dung y hại người bị vào Hụơt -đại địa - ngục nên giữ mình trị bịnh kỹ càng và giảng cho thầy thuốc khác nghe nữa. Mình đã in thí, lại rủ nhiều Người, Phàm trị bịnh không nài cực khổ. chẳng luận giàu nghèo Nếu kẻ nghèo không có sậm, cũng tán nhỏ mà cho không. Nhà giàu thưởng bao nhiêu tiền, đều tùy cơ bố thí cho kẻ khó. Gặp năm thất mùa, thì đi bộ coi mạch chẳng nỡ làm tốn tiền xe người. Vợ cũng hiền đức, thuận theo ý chồng, mùa đông bận áo vải cũng không phiền. Đến 80 tuổi, nhằm ngày sanh Triệu-Đãnh, xảy thấy thinh không hiện ra một bức lụa đỏ, thông giữa căn nhà để chữ vàng rằng:
Phụng thiên đế mạng, Hùng-triệu-Đãnh phó Phước-kiến tỉnh thành hoàng tử nhậm '. (Vương chỉ thượng đế phong, Triệu Đãnh làm thành hoàng tỉnh Phước-kiến)
Cách ba bữa mùi hương đầy nhà. Triệu Đãnh tắm gội, thay y phục mới, ngồi xếp bằng mà mãn phần, con cháu thi đậu nhiều đời.

Trung-mạnh-Cầu làm quan Án-sát trấn tỉnh Hà-Nam, tánh ở thanh liêm có ân oai nhơn chánh. Có khắc bản Ngọc lịch, Âm-chất, văn giới sát của Liên-trì đại sư (nay đem chung vô Ngọc-Lịch rồi). Tánh ghét họa hình tục tĩu, bài thuốc tráng dương, bài thuốc phá thai và đồ nghề bài bạc. Nếu gặp thì hủy hết, ai cáo thì được hưởng. Năm nào thất mùa dân đói thì thí lúa, cho tới xứ khác nữa. Vợ cũng cầm đồ mà phụ với chồng in Ngọc-lịch và thiện thơ. Những kẻ nghèo bệnh đều nhờ ơn hai ông bà. Sanh năm trai đều thi đỗ làm quan.
Trương-xuân-Phố nhà giàu mà cần kiệm như nhà nghèo thấy thiện-thơ thì bảo con cháu sao tả cho người. Tánh ở thuần hậu, con cháu hay tả kinh, sau thi đậu tới đời chắt.

Tỉnh Chiết-giang phủ Hàng-châu, Từ-văn-Kỉnh làm đại thần mà hay giảng kinh sách tam-giáo, in Ngọc-lịch, có khắc thêm Kỉnh-tín-Lục là các bài nói trước đó mà cho đời. Mẹ ngày nào cũng niệm Phật Quan-Âm. Năm đói thời thí lúa. Sau con làm tới Chủng-tể, các cháu thi đỗ làm quan.

Trần-thị là họ lớn tại huyện Hải-ninh lập trại hàng thí quan khách, thí thuốc, thí đất cúng, tối trời thấp đèn ngoài đường đi, thí Ngọc-lịch. Con cháu thi đậu, nổi danh tỉnh Chiết-giang.
Tại tỉnh Chiết-giang, phủ Hàng-châu, có bốn họ đại phú là: họ Quan, họ Uông, họ Tôn, họ Triệu, đều nối đời nhơn đức bố thí nên giàu bền không cổi. Họ Quan, cha con thi rồi, về lo giải thiện-thơ, kế nghe báo, cha con đều đậu. Còn họ Uông tới đời nay còn thí thuốc Tử Hà, giàu hoài không cổi. Họ Tôn thí Ngọc-lịch và các thiện-thơ. Họ Triệu thí quan quách quần áo, Bốn họ ấy giàu bền, lại phát quan, là nhờ bố thí làm phước.




Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày June 6th 2011, 4:17 pm với 1 lần trong tổng số.

Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
Lưu-học-Triều ở huyện San-âm, năm Bính Thân, trào Càn-Long dắt gia quyến đến kinh đô đợi bổ ra làm quan. Dọc đường gặp đàn bà bận áo đỏ, nói: ' Hồi tôi còn sống, muốn in Ngọc-lịch một trăm bộ, bị ông cản trở hại tôi bây giờ mắc tội dưới Âm-phủ '. Lưu học-Triều hãi kinh nhìn lại, là nàng họ Trịnh vợ của người đầy tớ cũ. Đi tới kinh phát bịnh, hay thấy hồn nàng họ Trịnh đến gây hoài. Vợ là họ Khương hay sự ấy, vái in hai trăm bộ thí cho họ Trịnh. Lưu-học Triều vùng nói: ' May nhờ ơn Phật tôi được siêu độ '. Nghe in vọng nàng họ Trịnh! Khương thị càng tin, lo in lập tức cúng tại am cô vãi. Cách nửa tháng, hai vợ chồng đồng thấy nàng họ Trịnh về lạy tạ rằng:' Nhờ ơn in Ngọc-lịch, tôi đặng đầu thai, Diêm vương chia phước cho bà phân nửa, sau gặp nhiều sự may '. Lưu-học-Triều thức dậy, liền mạnh.

Cầu-phục-Sơ ở tỉnh Nam-kinh là người chí hiếu với cha mẹ, Vợ chết, có con là Đại Vinh cũng có hiếu. Tánh Phục-Sơ không tin có quỉ thần địa ngục. Ngày kia đi buôn bán đặng cuốn Ngọc-lịch đem về, cha con coi với nhau, cha gọi nói huyễn nên bỏ dẹp trên gát! Con là Đại Vinh mộ lắm, muốn kiếm bản in ra lưu truyền, sợ cha quở nên không dám. Phục-Sơ bịnh nặng, ngó thấy nhiều con quỉ dị hình tới phá, bèn kêu con mà than rằng: ' Nay mới biết có quỉ ma địa ngục, ăn năn xưa không tin Ngọc-lịch mà ở theo! Đại -Vinh nghe nói, liền vái in ba trăm cuốn mà lưu truyền, cầu cha mau mạnh. Phục-Sơ nghe quỉ nói:' Ông Táo đã đề hai chữ Thuận Tuân trên trán Phục-Sơ, không bao lâu sẽ có chiếu chỉ Ngọc đế đến, chúng ta trốn trước cho mau, kẻo nữa bị quở '. Phục-Sơ liền mạnh.

Hạ-kiến-Mô tự Hữu-kiều, ở huyện Tiền-đường, thuật chuyện chiêm bao rằng:' Năm Mậu Dần ta dạy học tại nhà họ Cao, Lúc tháng tư, ta soạn sách cũ trên gác, gặp cuốn Ngọc-lịch, coi rồi thì xét lẽ dạy thì phải, song không chắc thiệt sự như vậy. Nhưng mà thấy lời nói rẽ ròi, tuy kẻ dốt đàn bà nghe cũng dễ hiểu, vậy là một lẽ chánh, khuyên đời làm lành răn dữ như sách nho. Vả lại giá in cũng rẻ nên vái in thí một trăm cuốn. Cách vài ngày xem lại, thấy nhiều lời nói quái gở, mình là người học nho, không lẽ nói cho ai nghe. Nghĩ như vậy nên tính lại không in Đã gần đi thi, không rảnh đâu mà suy xét việc ấy. Vào thi nạp quyển rổi, về nhà ngẫm nghĩ mình đặt hai câu chưa êm, e khi phải rớt, nên trong bụng buồn bực, nằm mơ màng thấy một ông cao lớn, ăn mặc đồ xưa, gò má có triều, râu dài như hình ông Tô-đông -Pha vậy. Ta lấy não bài vở trong trường đưa xin xem thử đâu rớt. Ngài dạy rằng:' Ta biết tánh chàng đủ tài đức, khoa nầy chắc đậu còn ngại nỗi gì! Song ngươi đã gặp Ngọc-lịch, sao không in mà cho thiên hạ? ' Ta nhớ trực lại, thưa rằng:' Ngọc lịch e sợ không thiệt chăng? ' Ông già nói:' Địa ngục dưới Âm phủ, là tại lòng người làm phạm các tội nơi địa ngục. Nếu lòng người chẳng phạm các điều ấy thì có địa ngục cũng như không. Mình thông lý sao còn chưa hiểu mà nghi không thiệt? Mau in mà thí, đừng dụ dự hồ nghi nữa? Ta thức dậy, chưa dám nói với ai. Thiệt tới kêu tên mới biết chắc đậu nên in một trăm cuốn và phụ thêm sự chiêm bao vô đây.

Tôi là Cao-Lan, tự Nhơn-Hòa ngày 11 tôi qua mừng cậu tôi là Hạ-hữu-Kiều thi đỗ. Cậu tôi thuật chuyện chiêm bao điềm lạ... và đưa bài tự thuật cho tôi xem, tôi cũng lấy làm lạ! Khi ấy con tôi là Hiển Tăng có đậu ba bốn ngày mà không tốt. Đến rằm vợ tôi là Phùng thị, con gái tôi là Trinh-Khanh cũng có đậu nữa. Kế một tên học trò, một con tỉ tất cũng có đậu, tôi lấy làm hãi kinh! Đêm ấy thắp hương đốt sớ chịu ăn năn chừa lỗi, nguyện in ba trăm cuốn Ngọc-lịch cho người và thả 30 muôn vạn cá. Vái rồi không đầy mười ngày mà bốn người mạnh. Còn Hiển Tăng yếu đuối nên chậm hơn, sau ra mũ lỗ tai rồi cũng mạnh. Lấy làm lạ điều nầy: vợ tôi đậu rựng mọc, mà mọc không đặng, thầy thuốc sợ nhập vô làm khổ, kể từ tôi đốt sớ ba ngày, ra mồ hôi ba lần, rồi tiêu mất! Nhờ ơn thần phò hộ bình an là vì vái in Ngọc-lịch mà linh nghiệm như vậy mới tin cậu tôi thấy chiêm bao là điềm thiệt, nên khắc thêm sự tôi vào đây, cho thiên hạ biết. Nhằm tháng 9, vua Gia-Khánh 23.

Kinh Ngọc-lịch lưu truyền đã lâu. Ông nội tôi là Văn-Kỉnh có khắc bản in thí, ai tin làm theo đặng gặp phước đều khắc thêm vào đây rồi. Năm ngoái Hạ-hữu-Kiều thấy chiêm bao, in một trăm bộ. đưa cho tôi một cuốn, tôi động lòng muốn in thêm, ngặt lúc không dự, Năm nay thi đỗ, thân hữu lễ mừng, tôi đều lấy mà in một trăm cuốn và khắc thêm lời nầy vào đây. Từ-Chương ở huyện Tiền-đường, ghi tháng mười, năm Kỉ-Mảo Năm Mậu-Dần, Hạ-hữu-Kiều làm chức Hiếu liêm, qua Tô-châu cho tôi một bổn Ngọc-lịch, tôi coi tới câu: ' Địa ngục là tại lòng.' Tôi ngẫm nghĩ ra lý quả báo. Qua năm Kỉ-Mão cháu lớn tôi bịnh nặng tôi vái in Ngọc-lịch cầu cho cháu mạnh, thiệt quả đặng sống. Tháng hai năm nay, con trai lớn tôi là Lượng-Dần đau chứng yết hầu gần chết, tôi vái trời xin cho con mạnh, thì in Ngọc-lịch phái liền. May ra mồ hôi mà mạnh đổi họa ra phước, nên cám ơn trời phật thánh thần. Khi trước tôi gởi cho bằng hữu qua Hàng-châu in ba trăm bổn nữa, có khắc in thêm khoản nầy cho các nơi khác. Kinh nầy đáng kính, nên tôi ghi vài lời xin các vị thiện tâm rán rủ in ra khuyên đời, thì đặng phước nhiều lắm. Khi ấy niên hiệu vua Đạo Quang năm thứ nhứt là Tân-tị, tháng tám. Cát-võ Điền hiệu Du -nhuận đương ngụ ở Tô Châu đề.

Niên hiệu Dạo-Quang năm Quí-Tị, mùa thu, tôi là Phan-quang Thọ ở sông Tiền đường, bởi em bạn dì tôi là Châu-phước-Tăng, Táo-thủ-Tăng khắc bản khuyên tiếc lúa gạo, trọng giấy chữ, lại tính khắc Ngọc lịch in cho đời. Tôi nói: ' Sự địa ngục là u minh, không đáng tin. Vả lại muốn lượm giấy chữ đà tốn hao, khắc bản tốn nhiều, vô ích '. Hai anh em nghe tôi nói thôi làm. Qua mồng ba tháng giêng, năm Giáp Thân (năm sau), tôi chiêm bao đến chùa Văn Xương đế quân, kêu tên thì vào hầu. Tôi vào quì lạy. Phán quan nói lớn rằng:' Ngươi đã chẳng tin thì thôi, sau cản người làm lành? '
Tôi tâu rằng:' Thuở nay tôi không cản ai làm việc lành '. Phán quan hét lớn rằng: ' Ngươi quên sự cản khắc bản Ngọc-lịch sao? Ngươi hãy nói nhiều chuyện nên trễ đậu tú tài đã mười năm và chết nhiều đời vợ; nếu còn nói điên như vậy, thì thấy chết yểu! Như biết ăn năn, nguyện khắc bản kinh, khuyên đặng ngàn người chừa lỗi làm lành sắp lên, thì tiêu tội trước, mà được phước sau '. Ta giựt mình thức dậy, mồ hôi dầm mình! Song còn nghi mộng mị không chắc. Vả lại nhằm dịp Tết, bằng hữu rủ chơi bời, nên chưa lo khắc bản. Qua 27 tháng sau, ta thổ huyết hai búng, mệt xỉu! Thấy phán quan khi trước, mặt giận nạt rằng: ' Ngươi mới ăn năn rồi cũng quên nữa, nay họa đến rồi! Bữa sau tôi kêu hai người em mà nói các điềm ấy nguyện ăn chay bảy ngày, mướn nhiều thợ khắc rút, mười ngày rồi bản nầy, khắc thêm sự mình in luôn cho người, xin thiện nam tín nữ rán khuyên đời ăn năn hoặc vẽ ra bức Thập điện theo trong kinh mà treo trên vách, ngó thấy mà giựt mình, năng coi năng đọc Ngọc lịch mà sửa lòng chừa lỗi, làm lành lâu ngày thì có phước. Nếu chẳng tin. e phải bị gương tôi. Phan-quan-Thọ ở huyện Tiền-đường đề.
Tiên Phật hay nói nhơn quả, còn kẻ học nho hay chê là dị đoan! Sao chẳng xét? Thích là Phật, đạo là tiên tuy dạy khác đạo Nho của thánh song cũng dạy người làm lành như nhau, nên tam giáo như một. Tôi xem hết cuốn Ngọc-lịch, ý dạy cũng như sách Nho, mà nói rành rẽ dễ hiểu, không cần văn chương đối đáp, miễn cho đời dễ hiểu mà ở thì hơn, tới đám đàn bà con nít cũng nghe chung đặng nữa. Người đời ít kẻ văn học nên bảo ở nhơn nghĩa trung hiếu thì mấy ai hiểu thấu mà làm, chi bằng Ngọc-lịch nói sự báo ứng, làm điều chi được phước, ở làm sao thì mang họa, người thấy giựt mình mà hồi tâm. Mới coi thì là lời khuyên răn, xét kỹ thiệt dạy đường đạo đức, phải là gìn lòng sửa nết cho nên người trung hiếu nhơn nghĩa chăng? Như vậy thì công lớn lắm, có phải thua sách nho đâu? Niên-hiệu Gia-Khánh 22 là năm Dinh-Sửu, mùa xuân ghi lời bạt (không để tên).




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
KHUYÊN PHỤ ÍT LỜI
(cũng không đề tên)
Lành dữ người đã làm, phước họa trời không vị. Biết lành đáng làm mà không làm, sao phải người lành. Biết dữ đáng chừa mà không chừa, thiệt là tội dữ. Sự quả báo ai mà không hiểu? Sao lại không làm phải can tâm làm quấy mà chịu trầm luôn! Người đời nhờ cơm mà sống nếu có hơi muốn thiu, thì đem đổ, có khi đạp. cơm cháo cũng không sợ tội. Nếu kẻ ăn mày, đặng cơm cháo thiu ấy mà ăn, cũng sống đỡ một lát. Đồ ăn ngon vào bụng thì hóa đồ dơ, sao lại chê cơm nguội! Huống chi kẻ làm ruộng gần bên lúa gạo cực khổ trăm bề, mình có mà ăn, lại hủy hoại như vậy, tội biết chừng nào? Họ ăn mì hay đổ nước, sao không nghĩ đồ vụn, cũng là cơm cháo, nếu chừa cặn, thì tôi tớ nó đổ nơi chỗ dơ! Nếu không ăn nước, thì vớt mì vụn mà ăn cho hết. Nếu huỷ -hoại cơm cháo vật thực thái quá, e bị Lôi -công. Kinh nói cữ sát sanh, hoặc phóng sanh, là nói vật lớn: còn ta nhắc vật mọn cho đời nhớ. Người hay nuôi chim, như chim quyên nhồng sảnh keo két cưỡng sáo, các loài chim hay ăn trùng dế cào -cào, châu chấu v. v. .. thường ngày phải bắt vật các ấy mà nuôi nó kêu nó nói cho êm tai mà thôi, chẳng kể giết không biết mấy muôn ngàn mạng vật mọn mà nuôi nó, trong lương tâm đành đoạn hay sao? Còn người gọi ốc là rẻ nên hay ăn song thiếu chi vật rẻ tiền, mà phải ăn ốc? Một bữa ăn hơn vài trăm mạng! Đáng lẽ đã cữ, lại mua ốc mà phóng sanh, đặng chuộc tội trước. Còn ăn cá là thường, song những cá nhiều trứng, nếu trứng cá tươi, chưa vấy muối, để lâu cũng còn nở. Sao không dặn kẻ nấu ăn, nếu làm cá gặp trứng thì lấy bao đất mà bỏ xuống sông, mình nhín ăn một đũa mà phóng cả ngàn mạng cá con (ấy là lời ông Lữ đồng Tân giáng cơ có dạy). Phóng sanh thế ấy khỏi tốn tiền mà phước lớn lắm. Nếu vì một miếng ăn mà chết trăm ngàn trứng cá sao đành, dầu vật mọn cũng vậy. 

KHUYÊN ĐỪNG MÊ TỬU SẮC TÀI KHÍ

Rượu chớ uống nhiều, nhiều thì say, say thì hư việc cả. 
Sắc chớ ngó nhìn, nhìn thì mê, mê thì mắc tội đầu. 
Bạc chớ tập đánh, đánh thì tham, tham thì thâm vốn liếng. 
Giận chớ làm dữ, dữ thì đánh, đánh thì bị lao tù (củ).
(Phủ): Kiêng rượu không say, giữ tánh thường. 
Đừng mê hoa nguyệt, chẳng tai ương,
Không theo bài bạc, còn gia sản. 
Giận tức mà dằn, hoạ khỏi vương (Hành tố).

TÍCH NGƯỜI KHÔNG TIN GIÁNG CƠ

có người kia thấy thỉnh cơ thì không tin, nói bày đặt lên giả. Lúc đó cơ lên xưng Ngọc -Hổ tiên sanh. Va cười! Cơ viết bài thơ 8 câu, va thất sắc, quì lạy. Cơ nói nàng ấy đã thôi ở lầu xanh, có chồng rồi, ngươi đặt thơ gởi âm phủ có lục bài thơ, ta thấy làm án nặng, viết cho ngươi sửa nết, y hoảng, vì mới đặt não chưa gởi mà thần tiên hay. Năm sau y thác. Tám câu thơ y sau đây: Tử quỉ bay hoảng khóc tàn canh. 
Đoái lại Chương đài cụm liễu xanh. 
Hoa nở có kỳ tằm ruột đứt,
Mây tan không ngỡ bướm hồn đoanh (giấc điệp)
Nhớ chừng ngõ phớt xô khuôn cửa. 
Quá chén cười mơn nựng bức tranh. 
Còn ấp tì bà năm trước chẳng?
Tầm Dương tình cũ trả lời rành?

BÀI THỜ KẾT:

Trần làm gia chánh sách nêu danh:
Hành thiện tu tâm tại học hành. 
Tố vị giàu nghèo dùng phải tố. 
Thanh liêm phận sự giữ cho thanh. 
Phước nhiều bởi dạ làm lành lắm. 
Đạo cả nhờ kinh giảng nghĩa rành. 
Nhơn đạo xong rồi tiên đạo có. 
Kỳ công chừa quá bước mây xanh. 

PHỤ DỊCH

LỜI TỰA DƯƠNG-PHÁP -TRÌNH IN KINH NGỌC LỊCH

Quan-đế giáng bút tại đàn nhà Dương-pháp -Trình, bảo in Ngọc lịch phải thêm 20 khoản hựu tội của Lữ Tổ xin phép Đại -Sĩ với Địa tạng mà giáng cơ và có các tiên giáng. 

LỮ TỔ PHỤNG SẮC GIÁNG BÚT

và chú giải 20 khoản
Ta là Thuần -Dương đặt 20 khoản xin ân xá, nhờ Quan-âm Địa -Tạng nhận lời tâu lại, nên truyền chỉ cho ta phải phụng chỉ Thế -tôn Như lai truyền dụ 20 xá khoản. Nếu ai lương thiện, làm theo 20 khoản ầy, thì thành Phất tiên thánh, hiền. Nếu kẻ dữ, thấy 20 khoản nầy, thề cải ác, ở theo điều lệ đây, thì khỏi luân hồi trả quả. Ta giáng bút sau đây:

1. HIẾU: Con có hiếu với cha mẹ là điều lành trước hết, học trò có hiếu thì thi đỗ. Nếu ai bất hiếu thì trời phạt khốn khổ, tai nạn, chết tật bịnh, chết yểu (chết cách dữ). Dầu người tu tam giáo cũng vậy, hiếu thì siêu, bất hiếu thì đoạ. Sự hiếu đã hết lòng phụng dưỡng, biết có cha mẹ chớ không biết có mình, phải cung kỉnh chịu lụy thiệt tình cho song thân đẹp ý. Nếu cha mẹ bất bình thì con mang bất hiếu. 

2. KỈNH: Kính sợ trời Phật thánh thần, nên không dám làm việc quấy, lòng kiêng sợ là kỉnh, không phải lạy cúng là kỉnh. Như kỉnh kiêng phép nước, không dám phạm phép luật, chớ không quì lạy. 

3. TRUNG: Như tôi ra trận, liều mình trả ơn chúa. Còn quan gián nghị can vua không tiếc mạng. Quan Trấn thanh liêm, thương dân, mảng lo việc nước mà quên việc nhà, vì hết lòng hết sức. Tôi tớ phải hết lòng trung với chủ nhà. Bạn bè trung tín với chủ tiệm. Người thay mặt trung với chủ. Còn như tá điền lo lúa ruộng, dân lo xâu thuế nước, cũng gọi là trung (hết lòng).

4. NGHĨA: Là sự phải lẽ, không làm trái lẽ, chẳng dám quên ơn, không làm việc quấy. Xử cho phải nghĩa là quân tử. 

5. THỦ: Giữ bổn phận bền chí cho qua thời, không vì nghèo nàn mà đổi tiết, Phải thủ thân vì trọng, không dám làm cho hư thân thể mình, thủ khẩu không dám nói tổn đức. 

6. NHẪN: Nhịn dằn thì được phược khỏi hoạ. Như Lâu sư Đức, Trương công Nghệ, Lưu Khoan. Nếu không nhịn, thì chẳng hoà. 

7. ĐOAN: Ngay thẳng, một sự ngay thẳng thì không tội. không nhập bọn tà vạy, cứ chánh trực công bình, sẽ thành thần thánh. 

8. PHƯƠNG: (Vuông): Ở có mực thước, làm việc vuông tròn. 

9. NHƠN: Ở có nhơn là hay thương xót, chẳng nỡ hại người hại vật, mình no mà người đói không đành, hay làm ơn phước. 

10. HẬU: Ở có hậu, thì không vong ân bạc ngãi, không khắc bạc ai hết. Người có ân hậu là người hiền lành lắm. 

11. BẤT KIÊU BẤT TRÁ: Chẳng kiêu chẳng gạt: giàu cũng không khoe khoang, giỏi cũng không kiêu ngạo. Châu-công là bực thánh, làm ngự đệ mà còn chẳng dám kiêu. Kiêu như Thạch -sùng, giàu cũng mắc họa. Còn không dối thì là chơn thiệt, chẳng gạt ai, chẳng thất ngôn thất tín thì khỏi phạm vọng ngữ, chơn thiệt mới thành. 

12. BẤT THAM BẤT SÂN: không tham không giận, Tham thì sanh giận, giận thì sanh dữ, nên tam giáo đêu cấm hai điều ấy. Qang-âm nói:

Sân thị tâm trung hỏa, năng thiêu công đức lâm,
Dục hành bồ tát đạo, nhẫn nhục hộ chơn âm. 


Thích nôm:

Giận thiệt lửa trong lòng, như thiêu hết đức công. 
Muốn theo bồ tát dạy, dằn nhịn dạ như không. 


13. BẤT KHÍ BẤT VÕNG: Không dối, không ngang. Không dối thì lòng công, không ngang thì khỏi phạm thượng, giữ tánh khiêm nhường. 

14. BẤT TÀ BẤT DÂM: không vạy, không tà dâm. Lòng không chánh là tà, không phải thê thiếp mình, mà muốn là tà dâm (dâm ác) chẳng nên thấy sắc tốt mà sanh lòng tà dâm vọng tưởng. 

15. TƯƠNG THÂN TƯƠNG MỤC: Thương nhau, hòa nhau. Lòng thân là tưởng không ghét ai, hòa là không gây tung với ai. Coi bốn biển như một nhà, coi thân ai như thân này. thương người như thể thương ta. 

16. ĐỒNG THIÊN ĐỒNG THÀNH: Mình lành khuyên người làm lành, mình thiệt tình, khuyên người thiệt tình cũng hết lòng thành như mình. 

17. HÓA KỶ HÓA NHƠN: Sửa mình cho thành đức, rồi lo dạy người sửa người đặng đức hạnh như mình, không tiếc công dạy. 

18. HÓA ĐẠO HÓA NGHĨA: Giữ theo đạo luân hồi, xử cho phải nghĩa,
hay trượng nghĩa giúp người, nhứt là bằng hữu sửa lỗi nhau. 

19. QẢNG KHUYẾN QUẢNG HÀNH: Rộng khuyên, rộng làm. Mình khuyên người làm lành làm phải, mà mình cũng làm ơn làm phước cho nhiều. 

20. VÔ PHI, VÔ THỊ: Không sanh việc thị phi. Nếu lòng ở công, không phân người phân ta, nói người phải mình quấy, thì không sanh việc thị phi. 
Nên giữ được 20 điều ân xá thì siêu. 



Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày June 6th 2011, 4:18 pm với 1 lần trong tổng số.

Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
ĐỊA -TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT GIÁNG BÚT
(Tựa Công-quá-cách)
Người đời không cho con học chữ nho, nên không thông đạo lý. Cứ tưởng cúng chùa dưng hương là lành, rước sãi thầy tu tụng kinh làm chay thì siêu độ vong hồn đặng! Các điều ấy có phải làm lành làm phước đâu? Làm lành là làm phải lý, lại khuyên người làm phải, thì trời xuống phước. Ta thấy người đời ở với cha mẹ không hiếu gì, cha mẹ mãn phần thì nói: ' Sa địa ngục rồi! Phải rước sãi làm siêu độ! ' Các sãi bày ra làm mị, như gởi kho vàng bạc, phá ngục, bong đầu phướng đặng tiếp dẫn vong hồn lên Tây phương. Có lẽ gì thọc cây tre mà phá đặng địa ngục? Nếu quả như vậy, thì kẻ giàu sang làm dữ, thác rồi con cháu rước đông sãi tụng kinh niệm Phật thì vong ra khỏi ngục sao? Người hiền lành mà nghèo, không tiền rước sãi làm như vậy, thì không ra khỏi ngục sao? Như vậy trời đất cũng vị nhà giàu mà hà hiếp nhà khó hay sao?
Còn như Phật ở Tây phương, công đâu mà vị nhà có tiền phải cứu vớt? Tâm là Phật, tâm là thiên đường, lòng lành thuận lòng trời thì cầu vong khỏi tội, lòng chẳng lành nghịch lòng trời thì cầu không đặng. Nếu không làm phước cứ mỗi ngày rước thầy tụng kinh cầu siêu hoài, Phật muốn cứu cũng không lẽ cứu được. Ta cũng là Phật lẽ đâu không hiểu phép. Làm lành tuy không cầu Phật mà Phật cũng phò hộ. Nếu làm dữ, có lạy Phật cho đến sói đầu, cầu cũng không đặng. Ta khuyên đời nghe lời ta, cứ ở theo luật Công quá cách, đừng làm các điều dị đoan trái lẽ, tuy chẳng cầu ta cũng độ vọng, không cần rước sãi.

VĂN-ĐẾ BÁ-TỰ-MINH (GHI TRĂM CHỮ DẠY ĐỜI)

Quả dục tinh thần sảng Dục ít tinh thần khoẻ.
Đa tư huyết khí suy, Lo nhiều khí huyết phai.
Thiểu bôi bất loạn tánh. Vài chung khôn loạn tánh.
Nhẫn khí miễn thương tài. Một nhịn khỏi hao tài.
Quí tự tân cần đắc. Sang tại siêng năng, đổ.
Phú tùng kiệm ước lai. Giàu nhờ tiện tặn dai.
On nhu chung hữu ích. Dịu mềm sau có ích.
Cường bạo tất chiêu tai, Hung dữ sẽ mang tai.

Thuận xử chơn quân tử.
Khiêu toa thị họa tại.
Am trung hưu sử tiễn.
Qai lý Phóng ta ngai.
Dưỡng tánh nghi tu thiện
Khi tâm mạt ngật trai,
Nha môn hưu xuất nhập
Hương đảng yếu hòa hài.
An phận thân vô nhục.
Nhàn phi khẩu vật khai.
Thế nhơn y thử khuyến.
Nạn thối phước tin hồi.
Khéo xử nên quân tử,
Xui mưu rấm họa thai.
Chốn thầm đừng bắn lén
Cảnh nghịch giả ngây hoài.
Tánh tốt gìn tam thiện.
Lòng gian uổng thập trai.
Nha môn đừng kiện cáo
Làng xóm chớ chê bai.
Bổn phận nương cơ tạo.
Thị phi lấp lỗ tai.
Lời nầy ai giữ đặng.
Nạn khỏi phước lâu dài.


ĐƯƠNG -THỦ TRAI -KỲ
(một năm ăn chay 61 ngày vía lớn)

Bốn ngày tháng giêng: mồng 1, lệ tế trời và vía Phật Di -Lạc, (vái...) Mồng 8 vía Ngũ -điện Diêm La Vương (vía ăn năn làm lành như mồng 1). Mồng 9 vía Ngọc-hoàng thượng đế (bái cải quá...) Rằm Thiên quan đại đế.
Sáu ngày tháng hai: Mồng 1 vía Nhứt điện Tân -quáng vương (nguyên y Ngọc lịch). Mồng 2 vía Thổ địa chánh-thần. Mồng 3 vía Tử -đồng Văn -xương đế quân. Mồng 8 vía Tam điện Tống đế vương (vái...). Rằm vía Thái thượng Nhạc nguyên soái (tụng Cảm ứng). 19 Quan-âm, (tụng Phổ môn Cứu khổ, Cao-vương).
Sáu ngày tháng ba: Mồng 1 vía Nhị -điện Sở-giang-vương (vía...). Mồng 2 Chơn -Võ Huyền thiên thượng đế (nguyện tụng kinh Báo ân). Mồng 8 vía Lục điện Biện -thành -vương (vái...). Rằm Lôi -đình đại tướng. 16 vía Chuẩn -đề Bồ -tát. 27 Thất điện: Thái sơn vương, 28 Đông -nhạc đại -đế.
Năm ngày tháng tư: Mồng 1 Bát đẳng vương (vái...) Mồng 8 Cửu điện Đô thị vương (vái...) 14 Lữ Tổ Rằm Thích -ca Như -lai (tụng Kim -cang). 17 Thập -điện Chuyển -luân xương (vái...)
Sáu ngày tháng năm: Mồng 1 Nam-cực tiên ông. Mồng 5
Lôi đình Đặng thiên quân, 11 Đô-thành - hoàng. 13 Quan Thái tử, (14, rằm 2 ngày cấm phòng).
Bốn ngày tháng sáu: Mồng 1 Rằm 19 Quan-âm thành. 23 Quan đế Linh quan. 
Bốn ngày tháng bảy; Mồng 1 ngày sóc. Rằm Địa -quang đại đế. 18 Diêu-trì Tây vương mẫu. 30 Địa tạng vương (vái. ..).
Bốn ngày tháng tám: Mồng 1 Diệu -tế chơn-quân, Mồng 3 Táo -quân (tụng kinh. ..) Rằm Thái âm hoàng hậu (tụng thái -âm). 24 Táo mẫu (bà Táo) tụng kinh ông Táo).
Bốn ngày tháng chín: Mồng 1 Nam-đẩu. Mồng 9 Phong đô đại đế, 13 vía Mạnh -bà. Rằm ngày vọng. 
Năm ngày tháng mười: Mồng 1 Đông-hoàng đại -đế. Mồng 8 Niết bàn (phóng sanh). Mồng 10 ngày cấm phòng. Rằm Thủy quan đại đế. 30 Châu tướng quân (ông Châu).
Bảy ngày tháng mười một: Mồng 1 ngày sóc. Mồng 4 Khổng tử thánh nhơn. Mồng 6 Tây nhạc đại đế. Rằm ngày vọng. 17 A Di Đà Phật (tụng Di Đà). 19 Thái dương (tụng kinh Thái dương), 23 Trương tiên (Phàm vía này, vía Linh quan Thái tử, ông Châu, vía ông Quan đế, đều tụng kinh ông; Minh thánh Vĩnh Mạng).
Sáu ngày tháng chạp: Mồng 1 ngày sóc. Mồng 8 Thích ca. Rằm ngày vọng, 23 đưa ông Táo chánh vía 24, 30 chư Phật giáng thế. 
Tháng nào thiếu, 29 thế 30. Tháng nhuần tính theo tháng trước. 
Nếu ai ăn chay vía trước nhiều không nổi, thì giữ chay nầy. 

BÀI SÁM HỐI QUÁ, TIÊU TỘI NHỰT KỲ

Trần -huyền -Trang là thầy Tam-Tạng thỉnh kinh Tây-phương về, có dưng sớ cho vua Đường Thái -Tôn, mỗi tháng có một ngày nhằm giờ lay sám hối cho nhằm hướng chư Phật hội nghị. Vái nguyện ăn năn chừa lỗi cữ và nguyện làm phước mới cho tiêu tội. Chẳng phải lạy không mà trừ tội đặng. Phật cho hối quá tùng thiện. 
Tháng giêng, tảng sáng ngày mùng 1, lạy hướng nam 4 lạy, vái. ' 2, mùng 9, 5 giờ sáng, lạy hướng nam 4 lạy, nguyện. ' 3, ' 7, tối 10 giờ, lạy hướng tây 4 lạy, tháng 4, mùng 8, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng đông 4 lạy, nguyện '
' 5, ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 6, ' 7, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng nam 4 lạy, '
' 7, ' 6, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 8, ' 8, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 9, ' 9, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 10, ' 1, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 11, ' 3, đỏ đền, lạy hướng tây 9 lạy, '
' chạp ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng tây 9 lạy, '

Ngày ấy ăn chay niệm thầm: Nam mô A-di-đà Phật, đặng lấy câu lạy mấy câu. Chừng lạy, thắp nhang ba cây, căm trên hương, nhắc ghế (bàn) để ngay hướng đó, có đèn cũng đủ, à quả tự ý, không ngơ cũng được. Bận áo dài, đứng chắp tay iệm 6 chữ Di-đà 100 câu, ít nữa 10 câu. Rồi vái tên họn mình gày nay nguyện cải ác tùng thiện. Ở theo Công-quá -cách, cầu êu tội cũ, mà nhờ phước trời Phật thánh thần cho, rồi lạy y số. ân hương, dẹp bàn ghế, niệm Phật. Làm được như vậy ba ăm, thì cảm động bề trên, trong nhà bình an, tai qua nạn khỏi, làm hoài chung thân, sống được phước, thác khỏi tội. Cũng như lặt bàn lạy vía Thập -vương, lạy Thập -vương cứ hướng bắc. 


VĂN-XƯƠNG ĐẾ QUÂN GIÁNG CƠ DẠY CẦN GẤP

Ta đã thấy chiếu chỉ Thượng -đế ban cho Bắc -đế (Huyền hiên Thượng -đế) nội tháng chạp, dẫn âm binh đi tra xét tội bất hiếu mà phạt, có hiếu thưởng phước, là xét các mồ mả tử tế, thì là coi con cháu là tên họ gì mà lo cho cha mẹ ông bà, thì hưởng phước lộc thọ gọi là thưởng thiện (hiếu). Nếu mả nào hoang lạnh, tồi tệ, bỏ bê thì tra ra con cháu bất hiếu, thì phạt tai hoạ, bịnh hoạn, nghèo khổ thác yểu. Tùy theo hư nhiều ít; mà hạt nặng nhẹ. Tại con cháu không biết cội rễ, nên phạt gia đạo hông an. Vì Huyền -thiên thượng -đế là giáo chủ việc báo ân, nên in thưởng có hiếu và phạt bất hiếu. Nên ta cho đời hay trước là giữ. 



Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
KHẮC BẢN NGỌC -LỊCH, THỈNH TIÊN CHO TỰA

Lữ Tổ giáng bút:

Người đời làm dữ thái quá, nhờ ơn Địa -tạng truyền chỉ Phong-đô, Thập -vương dọn Ngọc -lịch, xin chỉ Thượng -đế, ban phát trung giới cho người ăn năn chừa lỗi, làm phước đền tội. Lúc đời Tống, nhằm nước Liêu niên hiệu Thái -bình năm Canh-ngũ, sãi nước Liêu là Đạm Si lãnh về, giao cho Phạm nhứt Chơn là Vật Mê đạo -nhơn truyền cho đời. Sau ta đã dọn 20 khoảng xin chỉ ân -xá, giáng bút đem vào sau Ngọc -lịch. Thượng -đế truyền chỉ các thành hoàng mỗi ngày Canh-thân sai du thần đi xét những người tin Ngọc -lịch ăn năn chừa lỗi làm lành, thì cho tiêu tội, ai khắc bản in thí thì cho phước, có bịnh hứa in mà cầu tiêu bịnh lượng theo số mà cho. Bất luận cầu việc chi, cũng cho nguyện in thứ Ngọc -lịch cho nhiều thì đặng. Nay khắc bản thêm, xin ta cho tựa ta nói thêm ít lời. Sự thiên -đường địa -ngục rõ ràng, đừng nghi không có, cứ làm dữ mà mang khổ. Y theo Ngọc -lịch, ăn năn chừa lỗi, làm lành làm phước chuộc tội, công lớn thì theo tiên Phật thánh thần, dư phước đức con cháu được hiển vinh miên viễn. Lành ít sau khỏi sa địa -ngục, đầu thai hưởng phước. Khuyên đời chớ hồ nghi. 

LIỄU -TIÊN GIÁNG CƠ TỰA CHÓT

Thượng -đế cho tựa kinh nầy là Từ -ân Ngọc -lịch, nghĩa là như lịch ngọc thường ngày xem, ban ân xá, tha tội kẻ ăn năn. Nếu làm một phước cho trừ hai tội cũ. Làm dư phước thì Táo -quân tâu thưởng nhiều sự may, vân vân. 


HỒI -DƯƠNG BIÊN HOẶC

Trào Thanh Nhơn -quả Hồi -dương,
Tự -Kỳ tâu hỏi, Minh -vương phán rành:
Là vua Nhứt -điện U-minh (Tần -quảng -vương)
Dạy việc tu hành chỉ nẻo siêu thăng:
' Ngũ -luân là đạo lẽ hằng,
Tam cang, huynh đệ, hữu bằng năm phe,
Thảo, ngay, chồng bảo vợ nghe,
Anh em yêu mến bạn bè thiệt tin. 
1. TRUNG: Làm quan trung với triều đình,
Quên nhà vì nước, quên mình vì dân,
Công bình chẳng vị tư ân,
Xứng ngôi chức phận, vẹn phần thanh liêm. 
Còn như dân dã trọn niềm:
Lo xong xâu thuế, giữ nghiêm luật điều. 
Gìn lòng trung tín mến yêu,
Không lời phạm thượng, giữ điều tôn quân. 
Khuyên người noi đạo Ngũ -luân,
Sửa nền phong hoá, dạy lần ngu ngoan. 
2. HIẾU: Cha con đứng giữa tam cang,
Đạo làm cha mẹ, dạy đàn trẻ thơ. 
Đừng cho hoang đảng bạc cờ,
Nông thương nghề nghiệp, thi thơ học hành. 
Cưng hư thời uổng công sanh,
Dạy nên là việc tu hành với con. 
Làm con chữ hiếu vuông tròn,
Một lo thi đỗ, tông môn rỡ ràng. 
Hai lo thần tĩnh mộ khan,
Giàu ra công khó, nghèo càng dưỡng nuôi,
Kính thờ cha mẹ đồng vui,
Hết lòng hết sức, lo nuôi lo đền. 
Thần mình cha mẹ gầy nên,
Giữ cho toàn vẹn, như đền cù lao. 
3. HÒA: Thứ ba chồng vợ làm sao?
Chồng ra xử thế, vợ vào tề gia. 
Giàu nghèo cũng ở thuận hoà,
Xướng tuỳ phải đạo, vào ra giữ lời. 
Phần chồng dạy vợ ở đời,
Làm dâu vẹn thảo, đãi người trọn ân. 
Bạn dâu hòa thuận mười phần,
Bà con yêu dấu, xa gần ngợi khen,
Lòng chồng chớ ở bạc đen,
Nhan sắc là hèn, đức hạnh là hơn. 
Chớ mê tiếng quyển tiếng đờn,
Cũ vong mới chuộng, đèn hơn trăng lờ. 
Đàn bà giữ vẹn một thờ,
Tháng đợi năm chờ, chồng chúa vợ tôi. 
Kinh chồng, hiền đức vô hồi. 
Sắt cầm hoà thuận, đắp bồi gia cang. 
4. ĐỄ: Thứ tư huynh đệ yêu đương,
Ấy là chữ đễ, cũng ngang chữ hoà. 
Thịt xương một chỗ mà ra,
Anh dầu bị khổ, em đà chẳng an. 
Em may anh nở lá gan,
Anh mà đau nhức, em càng xót xa. 
Anh em yêu mến thuận hoà,
Mẹ cha đẹp ý, ông bà mát gan. 
Mồ côi càng chạnh trăm đàng,
Nhìn xem thủ túc, mơ màng xuân huyên. 
Thương anh như mến cha hiền,
Nếu phiền huynh đệ, như phiền mẹ cha. 
Anh em ai dẫu bất hòa,
Bị người đánh chửi, cũng ra binh liền. 
Bởi vì thiên hiệp tự nhiên,
Anh em cha mẹ căn nguyên tại trời. 
Trời xanh không thế đổi dời,
Khó tìm cha mẹ, không rời anh em. 
Vợ, con, người chọn mắt xem,
Nối đây dễ quá, sanh thêm khó gì?
Ấy là nhơn hiệp lạ chi,
Chớ khinh huynh đệ mà vì vợ con. 
Mẹ cha anh chị vuông tròn,
Anh em bực nhứt, vợ con bực nhì. 
5. TÍN: Thứ năm bằng hữu trọn nghì. 
Giúp giùm sửa lỗi, yêu vì khuyên nhau. 
Nội nhà ngộ biến lòng đau,
Có khi bằng hữu giúp nhau được toàn. 
Việc nhà khó nỗi trở đang,
Có khi bằng hữu giúp cang đặng hòa. 
Vậy nên chỉ tín đừng ngoa,
Càng lâu càng mặn, rán la rán giùm
Chọn người tài đức yêu dùng,
Khuyên lơn làm phải, chung cùng giúp nhau
Năm điều vẹn giữ trước nhau
Tu ròng ngũ đạt, đạo mầu nhứt tâm
Năm điều giữ vẹn chẳng lầm. 
Thì là hành đạo phải tầm kiếm đâu?
Trẫm đà truyền đủ đạo mầu,
Người khuyên thiên hạ rán tu cho thành,
Ấy là chánh phép tu hành,
Tại gia cũng đủ bao đành xuất gia. 
Gái trai lớn bé trẻ già,
Sang hèn giàu khó đều là phải tu. 
Gồm tam giáo: Thích, Đạo, nhu (nho),
Ai tu cũng đặng người tu thời thành. 
Làm người tùy sức tu hành,
Cảnh nào cũng vậy lòng lành bấy nhiêu. 
Tuy giàu, nhưng khó chẳng kiêu,
Dầu nghèo như khá, chẳng điều gian hung,
Ở đời biết xét hay dung,
Trị nhà nhẫn nhịn, đủ dùng tu thân,
Sự nào mình phải mười phần. 
Xét ra còn lỗi một phân sửa liền. 
Việc chi người quấy cả thiên,
Tìm ra lẽ phải không phiền chấp chi. 
Siêng làm ra của khó gì,
Biết lo tiện tăn, mấy khi nghèo nàn. 
Gốc là Hiếu Đễ giữ ràng,
Thảo cha kính mẹ, yêu đang ruột rà. 
Ở đời phương tiện mới là,
Người lo chẳng tiện, ta thà giúp phương. 
Làm lành là gốc thiên đường,
Tùy cơ bố thí chánh phương tu hành. 
Trọn đời như vậy là lành,
Công đầy quả đủ thì thành chẳng ngoa. 
An chay niệm Phật thêm lòa,
Bằng không cũng đặng theo khoa thánh thần. 
Tự -Kỳ còn ngại tâu rằng:
' Khó bề bố thí, vì thân nghèo nàn! '
Tần -quảng -vương phán rõ ràng,
' Nhiều phương bố thí, lắm đàng tế nhân. 
Trừ ra túng ngặt cơ bần,
Mình đành thí của, cứu lần gian nguy. 
Chớ như đói khát một khi,
Bữa cơm bát nước, tốn gì bao nhiêu?
Người đời lo sợ chít chiu,
Mình khuyên bớt ngại cũng đều tế nhân. 
Người mê lầm lỗi cõi trần,
Mình khuyên tu niệm đặng phần siêu thăng. 
Giúp điều phương tiện bủa giăng,
Ra công, mỏi miệng, cũng bằng thí thiên. 
Người gây tụng, kẻ thù riêng. 
Giải hòa thôi kiện, răn khuyên hết rầy. 
Tuy nghèo thương chúng chẳng khuây,
Cũng là bố thí lựa chi có tiền '
Tự Kỳ còn ngại tâu liền:
Sãi gọi tu thiền, niệm Phật ăn chay '.
Đức vua Tần Quảng phán ngay:
' Bày ra niệm Phật ăn chay sửa lòng
Ăn chay không ích Thế tôn (Thích -ca).
Công chi với Phật, mà hòng ỷ chay?
Dẫu cho niệm Phật đêm ngày,
Ích chi cho chúng, rằng hay tu hành?
Phép tu gốc tại làm lành,
Đừng vương việc dữ thời thành xưa nay
Dẫu cho niệm Phật ăn chay,
Tránh làm lành dữ, tội đày đọa sâu. 
Mới giam mấy sãi chẳng lâu,
Hòa thượng khẩn cầu, niệm Phật ăn chay!
Lòng chẳng tịnh, tánh không ngay,
Đời niệm Phật, ròng chay cũng cầm. 
Ngũ luân tu nhứt chẳng lầm,
Chay bố thí, niệm thầm thứ hai
Trí tại tâm, chẳng tại tài,
Lòng chay khó lắm, miệng ngoài có chi
Một đồng nhà khó thí đi,
Phước ấy dám bì giàu thí một phiên
Giàu sang một bữa chay tuyền,
Cũng bằng nhà khó chay liền một trăng. 
Vì suy chỗ khó làm căn,
Khó mà làm đặng, thiệt bằng lòng tu '.




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
GIÁC MÊ DIỄN CA

Từ mở mang trời đất những nay,
Cũng có cuộc tang thương canh cải. 
Ngươn ba ngươn tuần huờn dựng lại. 
Hội mười hai cho đủ mới rằng. 
Cõi hồng trần còn hỡi lăng xăng,
Người lành phải chịu bề cay đắng,
Chữ tam đạt thì lòng phải gắng,
Muốn lên bờ phải thác bến mê,
Học Phật gia niệm chữ từ bi,
Tu tiên đạo giữ câu cảm ứng. 
Trung thứ này cho là bằng chứng,
Phật Thánh Tiên tam giáo một lòng,
Dọn chông gai đường cả mới thông,
Chịu tân khổ gọi là thượng trí
Người trượng phu phải gìn tam qui,
Đứng anh hùng đừng bỏ cửu tư,
Đạo tiên thiên lập đảnh an lư,
Hạng cũng có trong hư ngoài thiệt. 
Tánh tòng bá phải y một tiết,
Nếu đổi dời khổ đọa trầm -luân. 
Nhắn với ai qui giới phải tuân,
Một phen khổ muôn đời thong thả,
Nợ tiền khiên buổi nầy phải trả,
Nợ trả rồi vật ngoại thảnh thơi
Mặc dầu trong trời đất vui chơi,
Năm hồ rộng thần tiên thú lạ. 
Muốn nên mình phải bền chí cả,
Công cho dày thì quả mới cao. 
Dốc lòng đền chín chữ cù lao,
Hành chánh đạo dương danh hậu thế. 
Ấy vậy mới tứ ân bất phế. 
Hỡi đạo người đừng bỏ nghĩa nhơn,
Làm sao cho tiệp thủy đăng sơn. 
Chữ Hầm cốc cùng ông Tương -Tử,
Công danh lợi thì mình phải xử. 
Cuộc phù hoa nhắm cũng cheo leo,
Tần -Thỉ -Hoàng tiếng hỡi còn nêu,
Thâu lục quốc phàn sơ khanh sĩ,
Núi Thú -dương Di -Tề danh để. 
Giữa một lòng tiết nghĩa mà thôi,
Làm chi Tần -Ngụy cao ngôi,
Thanh sử tạc muôn đời cho tệ. 
Đậu yên sơn ngũ chi đơn quế,
Bởi vì chàng cải quá tự tân,
Người đời lấy đức tu thân,
Đừng học thói vua Tần mà bất nghĩa,
Trắc ẩn chi tâm tùng thiên lý,
Nỡ lòng nào giết vật cho đành. 
Người úy tử vật lại tham sanh,
Gẫm người vật máu xương không khác. 
Thấy thửa sống không đành thửa thác,
Lời Mạnh -kha sách để hẳn hòi,
Xin hiền lương xét lại mà coi,
Sao là phải, sao là chẳng phải. 
Sách có câu quá nhi tất cải,
Tử -Lộ xưa nghe lỗi thì mừng,
Võ -Vương làm thiên hạ chi quân,
Còn phải văn thiện ngôn tắc bái,
Nói ra thì tai nghe cũng trái,
Bởi vì nhơn sự cách thiên cơ. 
Việc thị phi tai phải làm ngơ,
Học Nhan -tử đai cơm bầu nước. 
Đạo muốn cao tỏ đường sau trước,
Cách chỉ mành nào có xa đâu. 
Cõi nam đà mở rộng cửa lần,
Đèn trí huệ hào quang chói chói,
Thuyền bát nhã nghinh ngang bốn biển. 
Nước ma ha rửa sạch ba lòng,
Rượu Quỳnh hoa mời khách tây đông. 
Ngựa không bóng rước người Nam Bắc,
Máy sau lưng xảy bày trước mặt. 
Nửa hông nồi nấu khắp non sông. 
Muốn cho thấy đặng chủ nhơn ông,
Non vô ảnh âu tâm mới hãn,
Trong hang thần đừng cho gián đoạn,
Độc mộc kiều có gã Quỳnh nương,
Cõi nê hoàn mua rượu Quỳnh tương
Đặng một chén uống thời bất lão,
Việc tu hành phải suy mùi đạo. 
Nếu bơ thờ quả vị khó trông,
Tiếng đờn thì tai lóng cho thông,
Chơn như thể giai không ngũ uẫn,
Thập tam ma khuyên đừng lấp lửng,
Gươm huệ mài trừ nó mới an,
Giảng cho thông tứ cú kim -cang,
Thời mới thấy bổn lai diện mục,
Tuy sắc thân hỡi còn ở tục,
Lòng cho riêng mới gọi là thần,
Ai còn mang những thói tham sân,
E khó nỗi luân hồi lục đạo,
Hoạ phước vô môn nhơn tự triệu,
Muốn hi hiền phải liễu phàm tâm,
Đạo Như-Li vô thượng thậm thâm,
Biển cho lặng minh châu mới hiện,
Ngọc cửu khúc gắng công giồi huyện,
Tầm thư hùng hái nước non nam. 
Mười hai giờ quyền hộ phải tham,
Thiên giao thời pháp luân thường chuyển. 
Rồng trên non cọp kia xuống biển. 
Đầy ba xe chở những vàng ròng,
Làm sao rằng lôi phục thiên phong. 
Buôn sáu hiệp thâu vào lại gắn. 
Thuốc ba phẩm công phu luyện chính
Muốn đơn thành văn võ phải toan,
Ai dốc lòng đến núi linh san
Đóng sáu cửa cho bền then khóa. 
Cửu cửu ma thử lòng vàng đá. 
Ấy mới rằng biết giả biết chơn. 
Thầy Huyền -Trang tiệp thủy đăng sơn. 
Trái tám mối Lôi Âm mới tới. 
Lòng Bồ -đề không dời không đổi. 
Tánh yêu ma còn tiếc nhục phòng,
Bởi chưng qui gới chưa thông. 
Căn duyên nợ năm dây khó dứt,
Đạo muốn cao phải bồi chí đức,
Đạo đức toàn quỉ phục thần khâm. 
Trời đâu có phụ đạo tâm,
Nghiệm kim cổ người lành mắc nạn. 
Việc tu hành phải soi cho rạng,
Nếu không minh ắt chẳng đốc hành,
Đạo Phật Tiên có chí thì thành,
Người bao thuở thủy cầu chung đãi. 
Nương phép thuyền mà qua khổ hải. 
Sóng muôn trùng còn đoái làm chi. 
Bền một lòng niệm chữ A-di
Sau cũng đặng thảnh thơi muôn kiếp. 
Máy quang âm lẹ thoi như nhíp,
Người trăm năm chẳng khác chiêm bao. 
Cõi bờ này sóng bủa lao xao,
Cuộc danh lợi gẫm như bọt nước,
Đọc sách kinh nhớ người đời trước. 
Ông Thạch -Sùng giàu có muôn xe. 
Qua đời này tiếng hỡi còn nghe,
Sao chẳng thấy mặt trường sanh thọ hưởng. 
Hàn -Tín xưa là mưu thần chi tướng. 
Cũng chưa nên mười mặt phô trương,
Người ở đời lấy đó mà răn,
Kim như thị cổ hà như thị. 
Xử thế phải biết liêm biết sĩ,
Tu thân thời vô lự vô tư,
An một lòng mau ốc thảo lư. 
Đừng học thói Triệu Tần mộ Sở. 
Đường Huỳnh -Đạo trời đà rộng mở. 
Khách Tây -du sớm nhớ quày đầu. 
Kiếp duyên khương sáu vạn dư niên,
Dưng thiên mạng kíp truyền y-bát. 
Sông Ai-hà khuyên người kíp thoát. 
Khỏi lưới trần cực lạc cũng xinh. 
Cuộc diêm -phù nhiều nỗi nhục vinh. 
Không lại có, giàu sang dời đổi. 
Thú thảnh thơi màu thoàn quen dõi. 
Đất Bồ -đề sớm tối xuê-xoang. 
Chữ Danh lợi, sao bằng chữ nhàn. 
Cửa Bát nhã vào ra thong thả. 
Trống Đại Hùng đà thâu ý mã. 
Chuông linh sơn hỡi toả tâm duyên. 
Ngọc mu ni há dễ khinh truyền. 
Kinh Bạch tư dám đâu vọng triết. 
Địch không lỗ có duyên mới biết. 
Đờn không dây vô phước khó nghe. 
Rượu đề hồ chứa để đầy ve. 
Say một cuộc bất tri nhơn sự. 
Ngâm chỉ huyền say cùng ông Lữ. 
Đọc tỉnh mê say với ông La. 
Kim huỳnh -đình rảnh đọc năm ba. 
Vô bồng tháp buồn xem tạo hóa. 
Ngó Nam lãnh vui màu tòng bá,
Nhìn Bắc Hà rùa cá lội vởn vơ. 
Chốn Đơn phòng tỏ nỗi huyền cơ. 
Mặc dầu kẻ ngộ cùng không ngộ. 
Có duyên gặp tam kỳ phổ độ. 
Muôn đời còn Tử phủ nên danh,
Ba ngàn công quả đặng viên thành,
Đơn thơ chiếu hiển vinh thiên tước. 
Chín phẩm sen vàng khai thấy Phật. 
Cữu huyền thất tổ đặng tiêu diêu. 

THẬP NGOẠT CA

Hiệu đề thập ngoạt hoài thai,
Tam niên nhủ bộ ai ai cho tường. 
Kể ra mỗi việc trăm đường,
Nghe thời phải gắng cho thường chớ sai. 
Dặn dò già trẻ gái trai,
Tưởng ơn cha khổ, nhớ hoài mẹ lao. 
Trước thưa anh chị nhậm ngôn,
Sau cùng thiện tín bát phương đạo tình. 
Khá ăn chay niệm Phật tụng kinh,
Tuân qui giới đền ơn thiênđịa
Người trượng phu phải gìn chữ nghĩa. 
Đứng anh hùng trung hiếu đừng sai. 
Anh đừng quên thập ngoạt hoài thai,
Chị phải nhớ tam niên nhủ bộ. 
Lòng tưởng tới cửu huyền thất tổ. 
Dạ khăng khăng báo bổ song thân. 
Làm sao cho báo đáp tứ ân. 
Lo những cứu tam đồ chi khổ. 
Ơn phụ mẫu sanh con quá khổ. 
Mẹ đặt con vào dạ thêm lo. 
Chín tháng trường chẳng dám ăn no. 
Năm canh ấy ngủ không ngon giấc. 
Chưn mẹ không rời dưới đất,
Dạ cưu mang lật đật dám đâu. 
Tưởng chừng nào lụy nhỏ thâm bâu,
Chạnh nhớ đến ruột đau từ đoạn. 
Việc sanh đẻ mẹ đà xuất hạng. 
Tán loạn lo sanh tử không chừng. 
Vì chậm sổ thời cha vái tưng bừng,
Bằng trì huỡn phụ vào bái tử. 
Chốn ô uế đứng trong giường cữ,
Cúi đầu chờ con sổ cho mau. 
Đến bây giờ phải nghĩ trước sau. 
Ơn nghĩa ấy tương rau cũng đáng. 
Huyết ô trì mẹ nằm một tháng,
Bởi vì con, thịt nát dạ càng,
Trên thời vầy nồi nước vung thang,
Nơi phía dưới lửa vây hừng hực. 
Chịu cay đắng mẹ không than cực,
Đạo làm con phải nhớ sanh thành. 
Thập ngoạt đà nhứt tử nhứt sanh,
Tam niên ấy ốm gầy mình mẹ. 
Nuôi con trẻ không cho tiếng khóc,
Hễ khóc lên lật đật chạy quay
Công mẹ rày giặt rửa liền tay. 
Vì con trẻ bao nài khai thúi. 
Mới ngon giấc ỉa ra lụi hụi,
Cha đốt đèn mẹ lại rửa trôn. 




Lòng Trắc Ẩn
khoảng 1 10 năm trước
MƯỜI -CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT

* Một là, những tội lỗi đã tao từ trước, nhe thì được tiêu từ. nàng thì chuyền thành nhe. 
* Hai là, thường được các thiên thần ùng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù,
* Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này. 
* Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hảm hại. 
Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộnh. Diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt. 
* Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ gia đình hoà thuận, phước lộc đời đời. 
* Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen. 
* Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khoẻ, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhâm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân. 
* Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy. 
* Mười là, hay vỉ tất cả chúng sanh trồng các cân lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Phép, phước huệ rông lớn, chúng đạt lục thông, sớm thành Phật quả. 

ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY:

Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tặt bịnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc. 

ẤN TỐNG KINH

Chúng con góp lòng thành Tâm Ấn Tống 1000 cuốn Kinh Nhơn Quả, Nghiệp và Luân Hồi để cầu an và cầu siêu.

Nam Mô bổn sư thích ca Mâu Ni Phật
Nam Mô a Di đà Phật. 
Nam Mô đương lai hạ sanh di lặc Tôn Phật. 
Nam Mô Quang Thế Âm Bồ Tát. 

Cầu An

Nguyện cầu hồng ân tam bảo. Thế giới Hoà Bình an lạc thịch vượng và Gia Hộ toàn thể thân bằng quyến thuộc Nội Ngoại, Ông Bà Cha Mẹ, Cô Chú Dì Dượng, Anh Chị Em con cháu Thân Tầm thường an lạc, Bồ đề tâm tân trưởng, Tu hành kinh tiến. 


Cầu Siêu

Cầu nguyện Hồi hướng công đức đến bảy đời phụ mẫu và tất cả Chư Vong Linh đồng bào tử nạn khắp cõi hoàn cầu được siêu sanh tịnh độ. 

Nam Mô đại nguyện địa Tạn Vương bồ tát Ma Ha Tát. 

CÁC NGÀY KỶ NIỆM
(Tính theo Âm-lịch)

THÁNG GIÊNG

Ngày 1.- Vía đức Di-Lặc. 
22.- Tổ Thập -Tháp (Phước -Huệ,chứng -minh Đạo sư Hội
Phật -giáo Trung-Phần) viên tích. 
23.- Tổ Khánh -Anh (Thượng -thủ Giáo -hội Tăng-Già toàn
quốc V.N. niên khóa II. Pháp -chủ Gióa -hội Tăng -già
V.N. niên khóa II) viên tịch 30.

THÁNG HAI:

Ngày 8.- Vía Phật Thích -Ca xuất -gia. 
15.- Vía Phật Thích -Ca nhập - diệt. 
19.- Vía Phật Quán -Thế -Âm Bồ -Tát. 
20.- Vía Đức Phổ -Hiền Bồ -Tát. 


THÁNG BA:
Ngày 16.- Vía Đức Chuẩn -Đề Bồ -Tát. 

THÁNG TƯ:

Ngày 3.- Tổ Tuệ -Tạng (Thượng -thủ Giáo -hội Tâng già toàn
quốc V.N. niên khóa I) viên tịch. 
04.- Vía Đức Vân -Thù Bồ Tát. 
15.- Vía Phật Thích -Ca Giáng -sanh. 
20.- Bồ Tát Thích Quảng -Đức vị pháp thiêu thân
(nhằm 11-6-1963). 20.-

THÁNG SÁU:

Ngày 15.- Đại -Thích -Nguyên-Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 4-8-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát. 
19.- Tổ Khánh -Hòa (Sơ-tổ Phong-trào Chấn -hưng
Phật giáo miền Nam) viên tịch. 
24.- Đại -đức Thích -Thanh-Tuệ vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
26.- Thích -nử Diệu -Quang vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
27.- Đại -đức Thích -Tiêu -Diêu vị pháp thiêu thân
(nhằm 16-8-1963).

THÁNG BẢY:

Ngày 13.- Vía Đức Đại -Thế -Chí Bồ -tát. 
15.- Lễ Vu -Lan Bồn. 

30.- Vía Đức Địa -Tạng Bồ -tát. 

THÁNG CHÍN:
Ngày 02.- Đại đức Thích -Quãng -Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 5-10-1963).
11.- Đại đức Thích -Thiện -Mỹ vị pháp thiêu thân
(nhằm ngày 27-10-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -tát. 
30.- Vía Phật Dược -Sư. 

THÁNG MƯỜI MỘT:

Ngày 01.- Tổ Huệ -Quang (pháp chủ G.H.T.G.N.V. niên khóa I)
viên tịch. 
07.- Vía Phật -A-Di-Đà. 

THÁNG CHẠP:

Ngày 08.- Vía Phật Thích -Ca thành đạo. 
08.- Tổ Vĩnh -Nghiêm (Thiên-gia Pháp -chủ Giáo hội Tăng -
già BV) viên tịch. 

NHỮNG NGÀY TRAI

Thập trai: Mổi tháng mười ngày:
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30. 
(nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
Lục trai: Mổi tháng sáu ngày:
Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30. 

Tứ trai: Mỗi tháng bốn ngày:

Mồng 1, 14, 15, 30. 

Nhị trai: Mỗi tháng hai ngày:
Mồng 1, 15. 

Tam ngoạt trai: Một năm ba tháng:
Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười. 

*** Những ngày trai không nên dùng các món
gia-vị như: hành, hẹ, nên, tỏi, tổi tây v.v...

*** Người tu hành ăn các món này thì tụng kinh
trì chú không linh nghiệm và khiêu gợi dục tình,
sanh thêm các tánh hung dữ. 

---------------- 



----------------           
****************  
----------------           

Chương 1: Lai Lịch Của "Ngọc Lịch Bửu Phiêu"
Số từ: 970
Địa Tạng Vương Bồ Tát Giáo hóa thế giới chúng sinh u minh, trong ngày vía của Ngài, thập điện Diêm Vương và các thần minh đều đến tham dự chúc mừng. Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi nói:

“Tôi dựa vào nguyện lực của lòng từ bi mà đến cứu độ chúng sinh. Làm sao mà người thế gian hành thiện quá ít, làm việc ác nhiều, hết kẻ này đi, kẻ khác lại đến. Khi cứu độ chúng sinh không có kết quả thì phải dùng cách nào để cho con người tin vào nhân quả, biết hối cải tội lỗi, không làm việc ác, cố gắng làm việc thiện, cải tâm hướng Phật, dần dần thoát khỏi quy luật sinh tử luân hồi. Một mặt có thể chấm dứt nghiệp quả tại địa ngục, mặt khác có thể làm cho chúng sinh tại nhân gian nhờ dựa vào công đức của con cháu mà được siêu thoát”.

Sau khi bàn bạc, thập điện Diêm Vương thưa với Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Người trong nhân gian, nếu từ nhỏ biết dụng tâm hành thiện, không ngừng tích lũy công đức, sau khi chết đi có thể lên thiên đàng, hoặc vào tiên giới. Người có công đức và tội như nhau, sau khi chết đi không phải vào Tam Ác Đạo chịu khổ, cho họ đầu thai làm người, kết thúc duyên nợ trong quá khứ. Người làm việc thiện ít, làm việc xấu nhiều, sẽ phải chịu khổ hình tại các địa ngục, sau đó căn cứ theo việc làm lúc còn sống, mà đầu thai cho họ thành người giàu sang, hoặc người nghèo khổ, hoặc người đoản mệnh, hoặc người bệnh tật đến hết đời, hoặc người chết vì bệnh, cuối cùng xem xét tâm tính thiện ác của họ, người thiện được đầu thai nơi phước lành, kẻ ác phải vào địa ngục chịu khổ hình, hoặc đầu thai thành người cực nghèo cực khổ, lúc sống thì gặp tai ương, sau khi chết sẽ phải vào địa ngục. Những kẻ bất trung bất hiếu, xem thường tính mạng mà tự sát, thích sát sinh, sát hại sinh linh, không tin nhân quả sau khi chết đều bị giam vĩnh viễn trong địa ngục chịu khổ hình.

Có người cho rằng, sau khi chết thì hết, vô tri vô giác, làm gì có chuyện chết đi rồi còn phải chịu khổ. Người dương gian không biết rằng, tuy thân xác này mất đi nhưng hồn kia vẫn còn, lúc sống làm biết bao tội ác, sau khi chết sẽ gặp quả báo. Phàm những kẻ không tin vào nhân quả báo ứng mà làm chuyện ác, sau khi chết sẽ bị khổ hình trong địa ngục. Có người được các tôn giáo và các bậc Thánh Hiền khuyên nhủ hành thiện lại cho rằng nó chỉ là giả dối tầm thường, như thế thực sự là phụ ân nghĩa của trời đất, người như vậy là cố chấp, biết mà không sửa, do vậy phải nghiêm khắc trị tội, tăng thêm hình phạt.

Hôm nay, Địa Tạng Vương Bồ Tát dùng từ bi giáo hóa, qua nghiên cứu bàn bạc tôi cho rằng: phàm là người già, trẻ, gái, trai khỏe, yếu, trong quá khứ đã làm việc xấu nếu biết hối hận, phát nguyện ăn chay, bảo đảm sau này không làm việc ác hoặc cố gắng kiên trì hết sức làm một hai việc tốt thì sau khi chết đi đến âm phủ được miễn không phải chịu những hình phạt nặng. Trừ những kẻ làm quân mà bất trung, làm con mà bất hiếu, tự sát hoặc âm mưu hãm hại người tốt; kẻ bị thiên lôi đánh chết hoặc chết vì nước, lửa, hổ, lang rắn độc thì sẽ được đưa đến các ngục để thẩm tra, đánh giá công đức dày mỏng, cân nhắc miễn giảm các khổ cực trong các kiếp. Ngoài ra, còn suy xét đến các quy tắc người thế gian đã phạm những tội gì thì khi xuống âm phủ sẽ bị những hình phạt tại địa ngục nào. Sau đó dùng câu chữ rõ ràng rành mạch để người thế gian hiểu được, đợi người có đức hạnh đến lưu truyền thiên hạ, làm cho người thế gian hiểu và khuyên giải họ.

Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: “Đúng, nếu làm như vậy thì rất tốt, rất tốt!”. Ngày 8 tháng 3, cùng với Thập Đại Diêm Vương và các Thần minh đã đưa ra tấu nghị rất hay này trình lên Ngọc Hoàng Đại Đế. Ngọc Hoàng Đại Đế sau khi xem xong nói: “Rất tốt! Rất tốt!". Từ giờ về sau tất cả các thần giám sát nhân gian, nếu có người phát nguyện hướng thiện, lúc sinh thời làm việc sai trái mà biết hối cải, không tái phạm nữa thì sẽ đền được hai tội; nếu hối hận, cố gắng hết sức làm 5 việc tốt thì tất các tội hình sẽ được miễn xá, người nam sẽ được đầu thai vào nơi phước lành, nữ được đầu thai thành nam giới; nếu sau khi hối cải mà làm trên 5 việc tốt thì chuẩn tấu cho họ lúc tại dương gian có thể hồi hướng công đức cho tổ tiên, siêu độ được cho các vong linh thoát khỏi khổ não.

Nhanh chóng đưa các phép tắc và phương pháp đã tấu trình này biên tập trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thông báo cho các Thần Hoàng Thành, Thần Thổ Địa, Thần Môn, Thần Táo Quân và chúng quỷ thần được biết. Từ giờ trở đi, phải tuân thủ các điều luật ghi trong sách, tất cả phải cung phục và nghiêm khắc chấp hành.


----------------           

Chương 2 - Mục 1: “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” làm sao truyền hạ thế gian
Số từ: 749
Chương 2: Quá Trình Lưu Truyền "Ngọc Lịch Bửu Phiêu"

Mục 1: “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” làm sao truyền hạ thế gian “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” truyền ra là do một vị tu sĩ nghèo mà tu hành có đạo đức, tên là Đạm Si. Sau đây là chuyện sự thật do đích thân ông từng trải.

Thời gian vào năm Thái Bình, mùa thu năm Canh Ngọ, ngày mồng chín (Trùng Cửu), ngày Mậu Thìn. Đạm Si một mình leo lên núi cao, tản bộ du ngoạn giữa núi rừng. Trong chốc lát nhìn thấy một bia đá, trên bia đá có khắc một bài triện thư kiểu chữ Thể của ngôn kệ, tổng cộng có 56 chữ lớn:

“Đại đạo vô vi, thanh tịnh nhất chân
Lục đạo chúng sinh, giai nhân vọng thành
Duyên vọng tạp nghiệp, thiện ác du phân
Nhân quả bất sảng, hào ly phân minh
Tâm niệm tài động, nghiệp tương dĩ hình
Nhân tuy bất kiến, thần quỷ tảo minh
Vật vị ám thất, quả báo nạn tuần”

Đáng kinh ngạc, xoay mình lại nhìn thấy một cung điện trang hoàng lấp lánh, trước cửa màu đỏ, dùng cây đinh màu vàng treo một tấm bảng, trên có ghi bốn chữ lớn: “Xuất sinh nhập tử”. Trong lúc ông đang đứng nhìn ngơ ngác, trong cửa màu đỏ đi ra một người sứ giả mặc áo xanh lá kéo ông từ góc cửa vào bên trong, đi tới bậc thềm màu đỏ tham bái. Bái xong đi xuống bậc thềm. Trong chánh điện đèn sáng, nến chiếu rực rỡ, tràn đầy niềm vui, hóa ra là chúng thần đang mừng thọ Đại Đế Phong Đô, Thập điện Diêm Vương trong địa phủ, dẫn dắt phán quan của các độ đến chánh điện mừng thọ cho Đại Đế.

Chúc mừng xong, Đại Đế Phong Đô nói: “Địa Tạng Vương từ bi Bồ Tát muốn siêu thoát cho tất cả hồn ma trong âm phủ, để cho người trên thế gian không làm chuyện ác nữa, khỏi bị tọa lạc địa ngục chịu cực hình đau khổ. Cho nên, ân huệ cho tất cả hồn ma tuy trên trần gian có phạm nhiều lỗi lầm mà biết thành tâm hối cải, tu sửa và hành thiện nhiều hơn, thì sẽ được thay thế cho những nghiệp tội đã gây ra, có thể tha thứ để giảm tội, không chịu nhiều cực hình đau khổ. Ân huệ này, các độ thần linh đã tập hợp, trình báo lên cho Ngọc Hoàng Đại Đế. Ngọc Hoàng Đại Đế ban chỉ soạn ghi trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, ban ân phát hành truyền bá đến hạ giới, tuân thủ chấp hành. Nhưng cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” từ khi ban phát đến bổn điện này đã nhiều năm nhưng không gặp được một người mang thân xác phàm trên trần gian có tu tâm hành đức để có thể đi xuống âm phủ đem cuốn sách này về trần gian công cáo cho người trên thế nhân. Hiện tại, người tu hành tên Đạm Si đứng trên bậc thềm, hoàn toàn có thể được giao trọng trách này, mở rộng truyền bá cho thế gian. Khi đã tìm được người, xin các phán quan nhanh đưa cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và ngôn lộc của các chư thần, sao chép thành sách”.

Tiếp đó, Phong Đô Đại Đế lại nói: “Trước khi sao chép tuân theo chỉ thị của Ngọc Hoàng Đại Đế ban: các báo cáo và các câu phồn văn trước sau và lý lịch của các thần linh, họ tên phải bôi xóa hết. Chỉ được ghi Mậu Đế Vương, Mậu Bồ Tát, Mậu Điện Diêm Vương, Mậu Phán quan, hoặc những từ đồng nghĩa, tiếp đó thuật lại các nghị luận và các hàng câu ngữ. Mỗi câu đều phải chấm phẩy rõ ràng, không được ngắt bỏ câu. Có thể để cho nam nữ trên trần gian dễ dàng hiểu, hy vọng được tuân thủ thi hành. Ngoài ra, còn có thể hóa truyền biện minh cho những văn chương khác trên trần gian. Vào mùa xuân năm Nhâm Ngọ, tháng ba ngày Giáp Thìn sẽ trình lên báo cáo cho Ngọc Hoàng Đại Đế và nhằm soạn vào một phần trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Thập điện Diêm Vương sau khi nghe xong phấn khởi cầm bút lên, viết và bổ sung bộ phận biện minh vào sách.


----------------           


Chương 2 - Mục 2: Biện minh cho những bộ phận thế gian truyền lệch
Số từ: 2116
1. Nhân duyên của thành chết oan

Phong Đô Đại Đế nói rằng, thành chết oan xoay quanh bên phải trong điện. Người trên trần gian đều ngộ nhận những hồn ma bị thương chết oan ức đều quy vào thành này. Những tin đồn tuyên truyền sai lệch khắp nơi, mỗi nơi một khác.

Thực ra, những người chết oan ức, sao có thể ghép thêm các hình phạt oan cho họ. Sự thật là những hồn ma bị chết oan ức, phải chờ đến hung thủ sát hại họ chết và đưa đến âm phủ tra hỏi, tận mắt nhìn thấy hung thủ chịu cực hình đau khổ, lòng hận trong tâm mới có thể phai.

Mà những hồn ma bị hại chết oan này, đợi ngày được đi đầu thai mới đưa ra hung thủ, áp giải đến địa ngục của các điện, dựa vào tội ác, cầm tù hoặc giải đi chịu cực hình. Không phải tất cả những hồn ma bị hại chết oan đều gom hết vào thành chết oan chịu tội.

Nếu như là người trung nghĩa, hiếu thảo, những quân nhân hy sinh vì nước nhà và những người vì công chúng hy sinh, những người này có danh phẩm tốt và có biểu hiện tinh thần anh dũng sớm đã thành thần thì ít nhất cũng được có khuôn mặt trang nghiêm, tứ chi hoàn mỹ đến nơi phước lộc để đầu thai. Đâu có đạo lý nào phải đưa những người này xuống thành chết oan để chịu hình phạt đau khổ.

2. Nhân duyên của hồ máu bẩn

Hồ máu bẩn được thiết lập tại đằng sau, bên trái trong điện. Người trên thế gian nghe những bà phù thủy, đạo cô nói lung tung mà ngộ nhận là tất cả phụ nữ trong lúc sanh con chảy máu là máu bẩn, là có tội. Họ sau khi chết đều phải vào hồ máu bẩn này chịu cực hình. Đúng là một sai lầm lớn! Phụ nữ sinh con là một chuyện đương nhiên, có sanh khó chết đi cũng không vì nguyên nhân này mà phải vô hồ máu bẩn. Phải đưa vô hồ này chịu tội gồm có:

2.1. Sau khi sanh con không quá 20 ngày, đi gần đến giếng nước, bếp giặt quần áo, đem phơi những quần áo dơ bẩn bị dính máu bẩn, phơi ra ngoài trời, gây ô nhục đến thần linh. Tội này qui cho gia trưởng trong nhà 3 phần, người phụ nữ đó chiếm 7 phần tội.

2.2. Bất kể nam hay nữ, không kiêng kỵ trước mặt tượng Phật, gần tượng Phật quan hệ tùy tiện, hoặc không kỵ ngày giờ ví dụ: vào ngày 14 và rằm mười lăm tháng năm, mùng ba và ngày mười ba tháng tám, mùng mười tháng mười, năm ngày này nghiêm cấm quan hệ phòng the.

Những người trong hai loại hình trên, Thần linh sẽ giáng xuống cho người đó ác bệnh mà chết, sau khi chết phải chịu các cực hình trong địa ngục. Ngoài ra, còn phải ngâm mình vĩnh viễn trong hồ máu bẩn, khó mà ngẩng đầu lên.

2.3. Bất kể nam hay nữ, sống trên trần gian hay sát sanh động vật, để cho máu ô nhiễm bếp hoặc bàn thờ Phật đường (nhà có lập Phật đường mà sát sanh), kinh điển, sách, văn chương, những giấy có chữ và đồ vật cúng bái. Những loại người này sau khi phải chịu những hình phạt đau khổ trong địa ngục bị áp giải đến hồ máu bẩn, ngâm mình trong hồ, không được đi lên dễ dàng.

2.4. Nếu như những người thân quyến trên trần gian có thể lập lời thề, thay thế cho người này mà kiêng sát sanh, mua động vật mang đi phóng sanh. Đợi khi nào phóng sanh đến số lượng nhất định, phải ăn chay, cung dưỡng thần Phật và sám hối, đọc những kinh điển để hóa giải khi đã từng làm ô nhiễm máu bẩn. Lúc này, mới có thể cho họ siêu thoát khỏi cực hình trong địa ngục.

3. Nhân duyên của sơn tinh thủy quái

Nam nữ trên trần gian vi phạm vào những tội sau đây sẽ đầu thai làm sơn tinh thủy quái:

3.1. Nhìn và nghe thấy có người mắc nạn cầu cứu, trong khi thấy mình có đầy đủ sức lực điều kiện để cứu giúp, nhưng không đến cứu.

3.2. Có nhận ân huệ của người khác mà cố ý quên đi, vả lại còn gây oán thù muốn hại ân nhân.

Hai loại người như trên, nếu có tích lũy công đức, niệm Phật, bố thí người nghèo khổ, hy vọng nhờ những công đức này, khi chết sẽ được đưa lên đạo Tiên, đạo Phật được miễn đưa vào các địa ngục chịu hình phạt đau khổ; nhưng cũng phải bị phạt thành quỷ quái, yêu tinh, thần cây, thủy quái, hồn du vọng hoặc là đưa linh hồn đó nhập vào thân con chó sói, gấu, rắn độc, có khi vài chục năm hoặc vài trăm năm không chừng.

Nếu như có thể tỉnh ngộ những sai lầm trước kia, gắng sức giúp người gặp nạn, biết ơn báo đức, mượn công đức tu dưỡng thì kiếp này có thể quy hồi bản tính và được đến nơi phước lành đầu thai.

Ngược lại, sau khi bị trừng phạt thành sơn tinh thủy quái mà không tu tâm sửa đổi, mà còn tận dụng phép thần hiện hóa để mê hoặc người trần gian, hoặc hù dọa người trần gian. Như thế, khi đã hết ngày chịu tội quái ác, nhất định phải bị sét đánh chết. Sẽ hóa thân thành “tiệp” (ma chết đi thành tiệp) sẽ vĩnh viễn không được siêu thoát.

4. Nhân duyên của quỷ thần hiện linh

Người trên trần gian luôn ngộ nhận những quỷ thần thường hiện linh là chánh thần. Do vậy, đã tôn kính bái phục, thật là một sai lầm lớn. Thật ra, đây đa số là những người sống trên thế gian để tiền tài chôn giấu dưới lòng đất, sau khi chết đi tiếc của, hồn ma luôn quanh quẩn lân cận nơi chôn dấu tài sản. Do lo sợ bị người đào bới, nên thường hiện lên hồn ma để hù dọa người. Cho nên, nhân chúng ngộ nhận cho là hiện tượng của thần hiện linh. Một số người yếu bóng vía, dương khí yếu thường bị hù đến phát bệnh hoặc bị bệnh đến tử vong.

Thật ra những ưu hồn này thường là những người làm quan hoặc nhà quyền quý thời Đường, do đời đời kiếp kiếp mê muội, không minh bạch được đạo lý biến hóa vô thường ở trên thế gian nên mới cố chấp như thế. Những thần linh, quỷ phán dưới âm phủ vì nghĩ họ là những người còn sống lúc sanh tiền trên thế gian không phạm vào tội gì, nên cho phép họ được bảo quản lại số tài sản báu vật của kiếp trước để lại. Họ thật sự là những hồn ma có tiếng về hám tài.

Nhất thiết phải đợi đến sau khi họ nghe được đạo lý của Phật giáo chỉ rõ và giáo hóa mới nghĩ thông ra là, cuối cùng không chỉ thân xác không phải sở hữu của mình, kể cả những vật dụng có hình có sắc, tất cả các cảm giác vui buồn, suy nghĩ thiện với ác, tất cả các hành vi và ý thức phân biệt, cuối cùng sẽ tan biến mất không còn tồn tại, mới tỉnh giấc thấu hiểu thân xác không phải là một vật cuối cùng có thể sở hữu được, nói chi đến tiền tài báu vật? Cho nên buông bỏ tiền tài của kiếp trước thì như vậy mới có thể đầu thai đến nơi phước lành.

Vẫn có một số quỷ hám tài còn mê hoặc, cố chấp giữ đến chết, sau khi biến thành “tiệp” mới không thể nào khác được mới chịu buông tha rồi đi. Đợi đến khi nào có người tích phước tích thiện xuất hiện, tự nhiên sẽ lấy được những món tài sản này. Người trên thế gian, nếu như tại nơi vừa mới nhìn thấy và nghe hồn ma xuất hiện, có thể lập lời thề tôn trọng và xin thề, thêm vào những lời vái:

“Đồng ý lấy số tài sản đó, chia 1/3 ra để làm việc công đức, đem đi
làm việc tốt, tích phước và lấy thêm 1/3 nữa đi mua sinh linh động vật mang đi phóng sanh; 1/10 đem đi tặng quà cho người nghèo khổ, 1/3 còn lại mới giữ cho riêng mình”.

Sau khi phát lời thề như vậy, mới lấy sài cho mình thì sẽ được thần thánh phù hộ, có thề thì bảo đảm khi sử dụng số tài sản này sẽ không còn sợ bị ma quỷ trừng phạt.

5. Quả báo khác biệt giữa khi làm quân lính chết và khi làm
cướp bị đánh chết

Tất cả những người lúc sống trên trần gian, làm quân lính, trừ khi tuân theo mệnh lệnh đem quân lên chiến trường để đánh giặc và quân thù, nếu như trung thành cố gắng đánh giặc, không bao giờ làm qua những chuyện tội lỗi như hãm hiếp, tà dâm, đốt cháy nhà của bá tánh muôn dân. Những người này tuy bị chết trên chiến trường, thân xác bị phân ly, tan nát, dù cho trước kia đã từng phạm qua lỗi lầm, nhưng trong âm phủ vẫn cho miễn chịu tất cả các hình phạt, vẫn cho phép họ được khôi phục thân xác toàn diện nguyên hình.

Từ điện thứ nhất, điểm danh xong, tức khắc giao cho điện thứ mười, đưa đến điểm phước lành, đầu thai thành nam hoặc nữ, suốt đời bình an vô sự, chết nơi an lành. Nếu như là đánh lộn, sát hại nhau mà chết hoặc là làm cướp bị hành hung đánh chết, những loại người như vậy sau khi chết sẽ bị cộng thêm tội, căn cứ theo những tội đã vi phạm ở kiếp trước, đưa vô các địa ngục để chịu hình phạt đau khổ.

6. Sự lầm tưởng về mười tám tầng địa ngục

Người trên thế gian đều nói dưới âm phủ chỉ có mười tám tầng địa ngục, đây là sai lầm. Thực ra phải gọi là tám trọng địa ngục. Như đại địa ngục trong điện thứ hai; đại địa ngục “dây đen” trong điện thứ ba; đại địa ngục “hợp” trong điện thứ tư; đại địa ngục “gọi to” trong điện thứ năm; đại địa ngục “hét to” trong điện thứ sáu; đại địa ngục “nhiệt lão” trong điện thứ bảy; đại địa ngục “đại nhiệt lão” trong điện thứ tám; đại địa ngục “A Tỳ” trong điện thứ chín.

Ngoài tám trọng đại địa ngục ra, còn có mười sáu trọng tiểu địa ngục, cộng thêm trong điện có hồ máu bẩn, thành chết oan, lớn nhỏ tổng cộng có 138 chỗ. Ngoài ra, còn có trụ đồng, lửa đốt là những điểm để phân biệt, thi hành tăng nặng hình phạt của tội. Tất cả những người có tội bị phân tán đi các điểm chịu cực hình, tuy bị đốt cháy đến thịt cháy da nát nứt gân xương vụn, máu chảy đầm đìa đến rùng mình; nếu như còn bị áp giải đi địa ngục khác chịu hình phạt, sẽ hoàn toàn trở lại như lúc mới chết, sẽ bị lại những cực hình trên thân xác, phải chịu lại đau khổ, mỗi một điện, mỗi một địa ngục cũng đều bị cực hình như vậy.

Đừng nên tưởng chỉ có mười tám tầng địa ngục thôi. Một kiếp trăm năm rất dễ dàng trải qua. Nếu như sáng tác, tuyên truyền văn thư khiêu dâm, tiểu thuyết khiêu dâm, miêu thuật và vẽ những tranh tà dâm, quay hoặc sao chép những phim ảnh dâm tục, cung cấp dịch vụ, thuốc nạo phá thai, thuốc bùa mê. Chỉ cần những bản gốc, tranh, ảnh, phim như trên không bị hủy, thì trải qua một thiên vạn kiếp cũng khó mà thoát khỏi các hình phạt đau khổ trong các địa ngục của âm phủ.

Những tài liệu như trên, Thập điện Diêm Vương điền chép hoàn tất, ban phát cho phán quan, phân biệt sao chép thành sách, biên soạn nội dung vào trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

----------------           

Chương 2 - Mục 3: Biên soạn và truyền bá “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
Số từ: 445
Những Diêm quân của Thập điện và các chủ quản hồ máu bẩn, những tuần thành phán quan trong các thành chết oan trình sổ sách của mình, tụ hợp thành “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Từ khi ban phát “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đến nay, đối với những tội phạm ma quỷ trong địa ngục tiến hành điều tra chỉ mới nghe thấy những người trong chợ và trong đám đông có nói đến chuyện nhân quả báo, tuy chưa phải là thành tâm tuyên truyền giáo hóa nhưng cũng có thể mượn cớ hóa đạo, có khi gặp được người thiện đức. Sau khi nghe được từ trong lòng thức tỉnh cảnh báo, từ từ tu sửa sai lầm một việc, hai việc rồi ba việc, bốn việc và nhiều hơn thế nữa. Đó là một công đức lớn lao, căn cứ theo thiện đức khi khuyên người biết sám hối, cân đối giảm nhẹ các hình phạt tội phải chịu.

Những hồn ma như vậy có tổng cộng 50480 tên, Thập điện Diêm Vương sẽ tụ hợp lại và phán quyết nơi đầu thai của họ, phân biệt đầu thai thành nam hoặc nữ, nghèo tiện, bệnh tật, đều đi đầu thai đến trần gian chịu khổ và xuống làm con cháu những nhà ác độc. Sau đó, toàn bộ bị đẩy đến đài quên lãng, lập tức phải uống canh quên lãng chuẩn bị đi đầu thai và sẽ liệt kê ra tất cả danh sách, trình lên Phong Đô Đại Đế xem xét.

Sau khi Phong Đô Đại Đế xem xét xong và ký phát tài liệu, lệnh các văn võ phán quan triệu tập tất cả tội phạm ma quỷ, dẫn dắt lính quỷ tản đi bát phương, cầm cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đọc một lần nhằm để cho họ nhớ nội dung chủ yếu. Sau khi lính quỷ nghe xong, tỉnh ngộ ra, đây chính là do những tội ác mà kiếp trước mình đã gây ra mới bị trả báo khổ như ngày hôm nay. Đồng thời cảm ơn sự từ bi đại xá của Phong Đô Đại Đế để cho họ biết được nội dung “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có thể cho họ mang đến trần gian truyền cáo cho nhân loại để lấy công chuộc tội. Mỗi lính quỷ đều xin thề: “Sau này khi đến trần gian, chỉ cần không điếc, không mù và có chút tri thức mà nghe được và nhìn được “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” sẽ thề nhất định tuân theo “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” mà triệt để thi hành, tu chỉnh, đồng thời nhận trách nhiệm ban hành, truyền bá”.


----------------           

Chương 2 - Mục 4: Quan Thế Âm Bồ Tát khai thị ban hành công đức triển khai truyền bá “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
Số từ: 845
Khi tội phạm ma quỷ xin thề xong, liền thấy khắp nơi ngũ sắc rực rỡ, Quan Thế Âm Bồ Tát từ trên trời giáng xuống, Đại Đế và Thập Điện Diêm Vương đến bên bậc thềm cung điện, cúi đầu kính phụng đảnh lễ.

Bồ Tát xuất hiện với khuôn mặt cháy đen của quỷ vương với trượng lục kim thân, pháp tướng trang nghiêm và nói: “Phong Đô Đại Đế và Thập điện Diêm Vương, các người và các thần linh dưới âm phủ khi trình báo lên việc ban phát “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là tuân theo chỉ thị nguyện lực của đại từ đại bi Địa Tạng Vương Bồ Tát. Cho nên, gia ân ban phát “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để cho những nam nữ trên thế gian đã từng hành ác, khi biết được mà biết tu tỉnh không tái phạm, cho phép họ được chuộc lại những lỗi lầm quá khứ đã phạm, giảm miễn tội khổ. Sở dĩ bỏ đao xuống, lập địa thành Phật, chính là ý nghĩa này. Nếu làm được đến như vậy, tôi rất là hoan hỉ”.

Tuy nhiên, nhờ có Đạm Si hồi lại trần dương truyền bá “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho biết:

1. Trồng nhân nào, được quả báo đó: trồng bí được bí, trồng đậu được đậu. Những định luật của sự nhân quả báo ứng, dù là chư Phật Như Lai cũng không được thay đổi.

2. Báo ứng của nhân quả không phải là trồng một được một, trồng mười được mười, mà như là nông dân canh tác, mùa xuân gieo xuống một tẩu hạt giống, mùa thu sẽ thu hoạch một trăm tẩu lúa.

3. Sự báo ứng của nhân quả được thuần thục còn phải mượn sự hỗ trợ của nhân duyên. Cũng như hạt giống phải nhờ vào các điều kiện hỗ trợ như ánh sáng mặt trời, mưa gió, đất, mùa… sau khi chín mùi mới có thể nảy mầm, đơm hoa, kết trái.

4. Thuận tòng ác quán không sửa đổi, cũng giống như lúa chín, hạt giống thu được đem gieo trồng lại thành lúa mới. Như vậy, có sự tuần hoàn liên quan, duyên duyên tương nghiệp, từ những tội ác đó nảy sinh ra những đau khổ sau này, nhất định sẽ nghiêm trọng hơn bốn ngàn lần so với hậu quả một tẩu hạt giống gieo trồng ra một trăm tẩu lúa. Khi nảy sinh ra những khổ báo này thì không thể còn là một con số thông thường có thể tính toán ra.

5. Đạm Si tuy biết: hiện tại, những gì đã biết về các cực hình nơi địa ngục không nhiều, chỉ đủ để người trên biết mà thận trọng trong suy nghĩ, hành động. Thực ra, ở trên thế gian có bao nhiêu tội ác thì tương ứng ở phía dưới địa ngục có bấy nhiêu ác báo tương ứng. Mà sự báo ứng nhanh hay chậm còn phải xem điều kiện có được chín mùi hay không. Các chủng loại ác báo dưới địa ngục hoàn toàn dựa theo ác niệm và ác hành của người lúc sống mà tăng hay giảm, để hoàn trả những số lần tội ác mình đã gây ra.

6. Thiện ác trên thế gian hình thành đồng thời với những phước họa tương ứng, chúng luôn luôn tuần hoàn tương ứng lẫn nhau. Người nào hành thiện thì sẽ được phước, sau khi được phước lại gây ra tội lỗi mới, có tội lỗi mới lại gây thêm họa. Như vậy, phước họa, thiện ác biến hóa không ngừng, vĩnh viễn không dứt được. Cho nên, không tìm cách giải thoát khỏi vòng sinh tử thì sẽ vĩnh viễn luân hồi như thế. Hy vọng khuyên giáo được nam nữ trên thế gian phải biết giác ngộ, phát tâm bồ đề, giữ vững lòng tin, chấp hành Phật Pháp chánh đạo. Cố gắng phổ biến truyền đạt đạo lý của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Sau đó, tiến một bước theo đuổi Phật Pháp, tự lợi cho mình và cho cả chúng sanh, để cho địa ngục biến thành hoang trống. Như thế, người đó nhất định sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Phong Đô Đại Đế và Thập Điện Diêm Vương, các vị Thần linh nghe được giáo luận của Bồ Tát đều chắp tay và nói: “Nhất định
thành Phật!”.

Bồ Tát lại khai thị nói: “Trên thế gian này nếu như có thiện nam, thiện nữ sau khi nhìn thấy, nghe được “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, có thể giữa nơi ăn ở, ngồi ngủ, thường xuyên khống chế vọng niệm của chính mình và phát tâm bồ đề, khuyến hóa những chúng sanh hữu duyên với mình, để cho mọi người biết sám hối, học tập Phật Pháp, tấm lòng bình đẳng với nhau, để quảng độ chúng sanh, người đó nhất định sẽ thành tựu tất cả chủng trí”.

Lúc này, đại chúng chấp tay và nói: “Nhất định thành Phật!”.


----------------           


Chương 2 - Mục 5: Lời căn dặn sau cùng
Số từ: 367
Sau khi Quan Thế Âm Bồ Tát khai thị trọn vẹn, hiện trở lại nguyên hình với mặt từ bi, tưới ba lần nước cam lộ, giá mây thăng thiên. Thập điện Diêm Vương cũng cáo từ trở về địa phủ của chính mình, Đại Đế lui điện.

Phán quan lại đưa những lời vàng ngôn của Bồ Tát như trên và những lời ngữ đáp của Thần linh ghi vào cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này, đồng thời kêu Đạm Si đạo nhân-người mà đang đứng kế bên bàn của Phán quan tự tay ghi chép vào. Do Phán quan kiểm hạch lại một lần rồi giao cho đạo nhân Đạm Si, đem theo và sẽ lưu truyền đến trần gian dương thế để lợi ích cho chúng sanh.

Lúc rời khỏi, Phán quan nói: “Một số Thần linh và hồn ma đang giữ chức vụ dưới Diêm phủ, rất nhiều người là mới chết trong thời đại này, cũng có không ít là ông cũng quen biết đến. Ông lần này trở về trần gian, không được tiết lộ tên thật của chúng ta. Vì sợ những nam nữ trên trần gian biết được có tổ tiên, thân quyến hiện tại đang làm Thần và giữ chức vụ dưới Diêm phủ, mỗi khi có bệnh, gặp chuyện tai nạn, đáng lẽ phải sám hối, làm việc thiện để bù đắp nghiệp tội. Họ không những không làm thế mà ngược lại còn sát sanh, cúng bái, loạn thiêu đốt thông văn (giấy cúng) cầu xin phù hộ. Các điện dưới Diêm Phủ sẽ tăng thêm nhiều phiền phức vô ích và bị mưu phạm. Vả lại, đã tuân theo chỉ thị của Ngọc Hoàng Đại Đế, xóa đi lý lịch của bổn điện Đại Đế và chư thần, huống chi tên tuổi của các Phán quan chúng ta?

Tại vì thế nhân thời nay lòng dạ khó đoán được. Nếu như tên tuổi của chúng ta mà bị lợi dụng đem đi lừa gạt, sinh chuyện gây rối loạn. Như vậy, ông và chúng tôi, nhất định khó mà thoát khỏi sự trừng phạt của Trời, ngàn vạn lần căn dặn, không được lơ là”.

----------------           



Chương 2 - Mục 6: Hậu ký của Phó Mê đạo nhân
Số từ: 856
Đệ tử của Đạm Si, Phó Mê đạo nhân (thời cổ xưa người ta không phân biệt đạo giáo nào, đều gọi chung là đạo nhân), trong lúc soạn in “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, ghi lại một đoạn câu nói của Đạm Si và cảm tưởng của mình.

Ông nói: “Tôi vào năm Tuất Thân mùa hè tháng sáu, lúc du hành đến Tứ Xuyên, ở ngoại ô của huyện Song Lưu, gặp được sư phụ của tôi là đạo nhân Đạm Si. Sư phụ của tôi chỉ thị nói: “Tôi đã từng đích thân vào trong lục đạo luân hồi, từ sống ra chết, người mà từ dưới âm phủ quay trở về, ngươi có thể truyền cáo cho người thế gian là, trong trần gian, những người già trẻ, tàn tật, bệnh nặng, phụ nữ, những người này phạm tội thì đều có thể chuộc tội như trong luật quy định. Có lúc được Hoàng Đế ân huệ đặc biệt đại ân xá, có thể giảm nhẹ hoặc miễn các cực hình. Thậm chí chỉ cần một vài quan hệ hoặc gặp quan xét xử nhân từ, có thể xóa đi một vài tội, khước từ hoặc thoát khỏi một phần hình phạt. Những sự kiện như thế này, từ xưa đến nay rất nhiều, nhưng trong âm phủ, tất cả các tội lỗi không được bỏ sót; đồng thời cũng không có khả năng để ân xá hoặc miễn giảm. Chỉ có thông qua sự hối hận của bản thân, làm việc thiện mới có thể tiêu tội, đền tội”.

Tiếc rằng, người trên thế gian đối với chuyện này có cái nhìn không chính xác, dẫn đến người này người nọ khởi khởi diệt diệt ác niệm, hình thành luân hồi giữa người và thú, người tội lỗi sẽ lưu lạc trường cửu trong đạo súc sinh.

Trước đây, trong những người đã từng phạm tội, trong 100 người phụ nữ thì có một hai người tỉnh ngộ hối cải; 1000 người nam thì không có vị nào biết tỉnh ngộ, hối cải. Tội nghiệp thêm là có người sắp chết đến nơi còn không chịu hối cải, cam lòng chờ đợi sự trừng phạt của Diêm Phủ. May mắn thay, hiện nay, nhờ Bồ Tát từ bi, Ngọc Hoàng Đại Đế ban ân, cho phép ban truyền cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để chuộc tội ác. Có thể nói, đây là âm phủ đại khai cánh cửa từ bi, tôi bây giờ khuyến cáo người trên trần gian là phải biết được đầu thai thành thân người là rất gian khó. Nhân lúc đang còn sống, có thể hối cải hướng về thiện, đây mới là một việc thực sự cần phải thực hiện, phải cố gắng làm. Tại vì ngươi có sẵn tâm trí khuyến cáo người hành thiện nên bây giờ, ta sẽ đưa “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” truyền thụ cho ngươi, ngươi phải nhanh chóng đưa cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này truyền bá đến thế gian”.

Tôi nghe xong lời dạy bảo của sư phụ, quỳ xuống nhận cuốn sách này, không bao lâu sư phụ tôi đã thành đạo mà đi. Tôi dựa theo cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” không ngừng sao chép, không ngừng sao lại tặng cho người khác, để khuyến cáo nhân loại hối cải nghiệp tội, đồng tâm hướng thiện. Mỗi khi đến các ngày lễ vía của Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát, tôi sẽ xin thề hối cải lỗi lầm, thực hành hướng thiện và sẽ in ấn cuốn sách này mang đi truyền bá để mở rộng khuyến hóa người thế gian. Chỉ cần khuyến hóa được một người tu cải hành thiện thì được giảm trừ tội lỗi, và có công đức lớn.

Mong rằng những nam nữ trên thế gian sau khi xem, nghe xong nếu đã từng làm những chuyện thất đức, vô lương tâm, phải lập tức cải chính; nếu không có thì đừng tự tăng thêm tội nghiệp. Đừng để đến khi tọa xuống địa ngục rồi, lòng muốn hối cải thì đã là không kịp, nếu muốn cầu xin được làm lại thân người là không thể có được. Vào ngày rằm tháng bảy là hoan hỉ của Phật, Phó Mê đạo nhân cung kính ghi lại nội dung như trên.

Vào mùa hè tháng sáu năm Tuất, Phó Mê đạo nhân đưa “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho Đông Vực đi soạn in. Vào Tết trung nguyên năm Canh Tuất, lúc đến Tam Trúc thắp hương, Phó Mê đạo nhân đã đưa cuốn sách này và kèm theo các ngày lễ vía của chư Thánh, giao cho Võ Lâm đi in ấn lưu truyền. Ông hy vọng các thiện nam tín nữ, vui vẻ tùy duyên quyên góp tiền để in ấn, mở rộng truyền bá không cần biết phải biết là trợ giúp in vạn cuốn, ngàn cuốn, trăm cuốn, chục cuốn hoặc vài cuốn cũng được, rồi truyền đi khắp nơi, đánh thức nhân loại biết sám hối sửa đổi, thực là công đức vô lượng.



----------------           

Chương 2 - Mục 7: Kính kèm lịch các ngày vía của chư Thánh
Số từ: 587
Tháng giêng:
- Mùng một: Ngày vía Thiên lạp, ngày vía của Di Lạc Bồ Tát, ngày này sẽ tuyên thề nguyện kính ngưỡng Phật giáo.
- Mùng sáu: Ngày vía của Định Quang Cát Phật.
- Mùng tám: Ngày vía của Thiên Tử Diêm Vương điện thứ năm, phải lập lời nguyện sám hối.
- Mùng chín: Ngày vía của Ngọc Hoàng Đại Đế, tuyên thề nguyện trung thành báo quốc.

Tháng hai:
- Mùng một: Ngày vía của Tần Quảng Vương điện thứ nhất.
- Mùng hai: Ngày vía của Thổ điện chánh thần, tuyên thề nguyện vĩnh viễn không dám vu khống tam bảo (Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo).
- Mùng tám: Ngày vía Tống Đế Vương của điện thứ ba.
- Mười lăm: Ngày nhập Niết Bàn của Đức Phật Thích Ca.
- Mười tám: Ngày vía của Ngũ Quan Vương điện thứ tư.
- Mười chín: Ngày vía của Quan Thế Âm Bồ Tát, tuyên thề nguyện khuyến thiện, phóng sanh, kiêng sát sinh.
- Hai mươi mốt: Ngày vía của Phổ Hiền Bồ Tát.

Tháng ba:
- Mùng một: Ngày vía của Sở Giang Vương của điện thứ hai.
- Mùng tám: Ngày vía của Kha Thành Vương của điện thứ sáu.
- Hai mươi bảy: Ngày vía của Tần Sơn Vương của điện thứ bảy.

Tháng tư:
- Mùng một: Ngày vía của Đô Thị Vương của điện thứ tám.
- Mùng tám: Ngày vía của Phật Thích Ca tuyên thệ hành thiện, không làm chuyện ác.
- Mười lăm: Ngày vía của Bình Đẳng Vương của điện thứ chín, không nên chặt đốn cỏ cây.
- Mười bảy: Ngày vía của Luân Chuyển Vương của điện thứ mười.

Tháng năm:
- Mười một: Ngày vía của thiên hạ Đô Thành Vương. Tuyên thề nguyện khuyên người dừng đến miếu than phát lời nguyền rủa.

Tháng sáu:
- Mười ba: Ngày vía của hộ pháp Vĩ Đà Bồ Tát.
- Mười chín: Ngày thành đạo của Quan Thế Âm Bồ Tát, tuyên thề nguyện khuyên người niệm kinh Phật.

Tháng bảy:
- Mười ba: Ngày vía của Đại Thế Trí Bồ Tát.
- Ba mươi: Ngày vía của Địa Tạng Vương Bồ Tát, tuyên thề nguyện hỗ trợ siêu thoát cho tất cả các cô hồn thập phương.

Tháng tám:
- Mùng ba: Ngày vía của Thần Táo Quân, tuyên thề nguyện không sát sinh và khóc lóc, đùa giỡn, đánh lộn, vứt bỏ các đồ ăn dư, và không nấu nướng những sinh vật như con lươn, con cá trong bếp.

Tháng chín:
- Mùng chín: Ngày vía của Phong Đô Đại Đế, tuyên thề nguyện Đại Đế ân xá cho thế nhân đã hối cải hành thiện.
- Mười ba: Ngày vía của Bà Mẩn Tôn Thánh, tuyên thề nguyện khuyên người ăn chay niệm Phật.

Tháng mười một:
- Mười bảy: Ngày vía của Phật A Di Đà.

Tháng mười hai:
- Mùng tám: Ngày thành Phật của Phật Thích Ca Như Lai, tuyên thề nguyện bố thí cứu nạn chúng sanh.
- Hai mươi bốn: Ngày các hộ gia đình tuân mệnh đưa Thần Ông Táo Quân lên thiên đình, tuyên thề nguyện phải chú ý đến chuyện lửa cháy và thà để người hại mình, đừng để mình đi hại người ta.

Mùng một và rằm mười lăm mỗi tháng, đa số là ngày vía của các Phật Bồ Tát và các chư Thần Thánh, Thần tiên nên đều phải ăn
chay, hành thiện.


----------------           


Chương 3 - Điện thứ nhất: Tần Quảng Vương
Số từ: 1326
Chức trách của Tần Quảng Vương là chuyên quản thọ mạng ngắn dài của người trên nhân gian, sổ sinh tử và phán quỷ phụ trách
cát hung. Bổn điện (tức chỗ làm việc) có vị trí dưới lòng biển, chỗ đá ngầm, trên đường Hắc Hoàng Tuyền ở phương Chánh Tây.

Tất cả người thiện sau khi mãn thọ sẽ có số được dẫn lên thiên đàng, hoặc được tiếp dẫn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu như là nam hoặc nữ có công đức và tội lỗi, mỗi thứ đều nhau thì sau khi chết sẽ giao họ đến điện thứ mười, vẫn để cho họ được đầu thai lên trần gian. Có người nam chuyển hóa thành nữ, có người nữ chuyển hóa thành nam tùy theo các hành vi lúc họ đã làm khi còn sống trên trần gian, do nhân duyên nên có sự phân biệt khác nhau về việc nhận quả báo trên trần gian.

Tất cả những người lúc sống trên trần gian, làm việc ác nhiều, việc thiện ít sẽ được dẫn lên một đài cao ở trong điện, đài đó có tên là Nghiệt Kính Đài. Đài cao một trượng, có chiếc kính lớn bằng mười người ôm, kính treo bên hướng đông. Trên kính viết một hàng ngang bảy chữ: “Nghiệt Kính Đài Tiền Vô Hảo Nhân”. (Đứng trước nghiệt kính đài là người không tốt)

Những ma quỷ bị áp giải lên đài, soi vào kính, tự nhiên như đang xem lại bộ phim cuộc đời mình, quay lại những cảnh gian hiểm hung tàn cùng tất cả việc xấu đã làm của chính mình lúc sống trên trần gian và sau khi chết đi phải chịu những thảm cảnh trong địa ngục. Đến lúc này mới biết được: vạn lượng bạc vàng và các thứ tiền tài châu báu, các phước lợi danh tiếng, vật chất đều không thể đem xuống đây, chỉ có những nghiệp tội của chính mình đi theo đến địa ngục. Sau khi soi kiếng xong sẽ bị đưa đến điện thứ hai, bắt đầu phân giải phạm nhân đến các địa ngục; dùng các dụng cụ cực hình để những người làm việc ác phải chịu các loại hình phạt đau khổ. Việc kết tội chịu phạt chi tiết như sau:

(1): TỘI HÌNH CỦA NHỮNG KẺ TỰ SÁT

Nếu như có những người trên trần gian, không nghĩ về đạo lý thiên địa sinh nhân và ân dưỡng dục của mẹ cha mà được một thân thể là trân trọng biết bao. Ân trọng như núi, ơn cha mẹ, ơn chúng sanh, ơn tổ quốc, ơn Tam Bảo và các loại ân tình khác chưa báo đáp, chưa nhận được lời kêu gọi dưới địa đạo âm phủ thì tự nguyện quyên sinh, sử dụng các phương pháp như treo cổ, nhảy lầu, uống thuốc độc, nhảy sông... để tự tử. Ngoại trừ ra những người mà vì trung hiếu tiết nghĩa mà hy sinh tính mạng, sau khi chết có thể làm Thần, nếu như chỉ vì một oán hận nhỏ hoặc do làm những việc xấu mà phạm tội và bị phát giác ra mà đi tự tử, thì xem xét các tội hình của họ đã vi phạm, chưa dẫn đến phải kết tội chết; hoặc những kẻ muốn hãm hại và gây họa cho người khác dẫn đến từ giả ra thật mà chết đi.

Những tình huống như trên, Thần Môn, Thần Táo Quân sẽ áp giải họ đến bổn điện, giam giải đến nhà lao đói khát. Những ma quỷ tự sát này, mỗi khi đến ngày Tuất, Hợi hoàn toàn đau khổ giống như lúc chết, tất cả các cảnh tượng đau khổ, căn cứ như lúc chết ban đầu, tái xuất hiện lần nữa. Có một số là sau 70 ngày, có một số sau một đến hai năm, hồn phách của họ bị áp giải quay lại địa phương nơi họ tự sát, để họ đau khổ mà hối hận nhưng không được nhận các đồ cúng bái như cơm canh, giấy tiền và vàng bạc.

Nếu như những hồn ma tự sát mà biết sám hối, cam tâm ẩn mình, không xuất hiện hình ma để hù dọa người, cũng không tìm người thế thân loạn xạ. Như vậy, chờ đến lúc người mà do họ gây ra bị liên lụy đã thoát khỏi đau khổ thì Thần Môn, Thần Táo Quân sẽ áp giải những tội phạm ma đến bổn điện, rồi sẽ chuyển tiếp đến điện thứ hai, sau đó kiểm tra lại quá khứ và công đức của họ, gia tăng hình phạt, chuyển đến các điện kế tiếp, đưa đi các địa ngục chịu hình phạt.

Nếu như hồn ma đã hiện hồn ma quỷ hù dọa người và có tâm tư muốn tìm người thế thân hoặc dùng các ngôn ngữ hù dọa hoặc lừa gạt người, tuy chưa dẫn đến thiệt mạng người, cho dù trước đấy có làm việc thiện, nhưng địa ngục vẫn không cho phép miễn hoặc giảm các hình phạt cho họ nữa.

Nếu như sau khi tự tử chết đi, không ẩn giấu, lại hiện hình ma quỷ, hù dọa người dẫn đến thiệt mạng thì hồn ma đó lập tức bị lính quỷ nhe nanh mặt xanh móc đi đến các địa ngục chịu hình phạt đau khổ. Sau khi đủ 100 ngày, đưa đến A Tỳ đại địa ngục, vĩnh viễn bị dây xích xiềng và treo lên, không được siêu thoát.

(2): TỘI HÌNH KHI TỤNG KINH THIẾU SÓT CÂU TỪ

Tất cả những hòa thượng xuất gia, đạo sĩ, tiếp nhận tiền tài của người khác, thay người cúng bái tụng kinh, thiếu sót từ ngữ, hoặc số trang sẽ bị dẫn đến bổn điện, đưa họ vô “Sở Bù Kinh” - phòng bảo tồn sách kinh, trong một phòng tối tăm. Ngoài những từ ngữ mà họ đã tụng thiếu ra, tất cả đều sao chép, bù tụng rõ ràng. Nơi này có đốt đèn mà dầu dự trữ chỉ vài chục cân. Bấc đèn lại nhỏ như sợi chỉ, khi sáng khi tối, không thể một hơi có thể bù chép hoàn tất nhanh chóng được.

(3): TỘI HÌNH NGƯỜI TU HÀNH THAM ĐỒ CÚNG DƯỜNG

Nếu như một người xuất gia tu hành thanh tịnh hoặc đạo sĩ, nảy sinh lòng tham, cố cầu xin tiền cúng ngưỡng để hưởng thụ, cũng phải đến nơi này bù kinh.

(4): LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI THÀNH TÂM TU HÀNH, HOẰNG DƯƠNG PHẬT PHÁP

Một số thiện nam tín nữ tự tu hành tại gia, rất nhất tâm hành trì, bái niệm tất cả kinh, câu chú, hồng danh, dù có sai sót, nhưng trọng vào thành tâm mà không phải ở câu chữ. Những người có thành ý tu tâm này, Phật sẽ giáng chỉ, không cần bù kinh, mùng một của mỗi tháng, sẽ ghi lại công đức vào trong sổ tích thiện.

Người trên thế gian, nếu như vào mùng một tháng hai mỗi năm, thanh tịnh tu chay, quay mặt về hướng Tây, thành tâm thành ý lập lời thề nguyện: chuyện ác không làm, hành thiện tích đức, nhờ vào thiện niệm này mà miễn phải vào địa ngục. Nếu cố gắng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hồng danh, lập lời nguyện lớn, xin cầu kiếp này sẽ được đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, lại in ấn sách và truyền bá sách này giúp cho nhiều người hối cải hướng thiện, đồng thời hành thiện tích đức niệm Phật hồi hướng xin về Tây Phương Cực Lạc, như thế, người này sau khi mãn thọ chết đi, Thanh Y Đồng Tử lập tức đưa đến Tây Phương Cực Lạc, hoặc lập tức được Phật Bồ Tát tiếp nhận đến nơi cực lạc.

----------------           


Chương 3 - Điện thứ hai: Sở Giang Vương
Số từ: 693
Sở Giang Vương chủ quản dưới đáy biển, dưới ngầm đá hướng chánh nam một đại địa ngục. Địa ngục này ngang dọc tám ngàn lý có tên “Đẳng Hoạt”. Ở dưới có xây mười sáu tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục cát gió đen.
2. Tiểu địa ngục đất phân và nước tiểu.
3. Tiểu địa ngục ngũ xiên.
4. Tiểu địa ngục đói ăn.
5. Tiểu địa ngục đói khát.
6. Tiểu địa ngục máu mủ.
7. Tiểu địa ngục búa đồng.
8. Tiểu địa ngục đa búa đồng.
9. Tiểu địa ngục vì thiết (mài cắt).
10. Tiểu địa ngục Bân Lượng (tên một đất nước cổ xưa).
11. Tiểu địa ngục gà.
12. Tiểu địa ngục sông đen.
13. Tiểu địa ngục búa chém cuốc xẻng.
14. Tiểu địa ngục kiếm đâm.
15. Tiểu địa ngục chó sói.
16. Tiểu địa ngục hàn lạnh.

Nếu như trên trần gian đã phạm vào những tội ác sau đây sẽ bị giam cầm trong các địa ngục này:

1. Lừa gạt thiếu niên nam nữ.
2. Gạt chiếm tài sản người khác.
3. Hủy hoại tổn thương mắt, tai và tay chân người khác.
4. Vì lợi ích riêng tư vô đạo đức giới thiệu y bác sĩ và thuốc thang trị bệnh không hiệu quả.
5. Người hầu hạ, đã đủ tuổi trưởng thành, không cho người nhà chuộc lại, không khôi phục tự do cho họ.
6. Trong lúc bàn luận chuyện hôn nhân hai gia đình, vì lợi ích tham tiền tài địa vị của đối phương, cố ý giấu tuổi tác thật của mình để lừa gạt hôn nhân.
7. Trước khi hai gia đình chưa thành hôn, đã xác định được bên nam hoặc bên nữ đã có sẵn bệnh tật, hoặc dâm tà, trộm cắp, danh phẩm thấp. Vì muốn hưởng tiền môi giới, gạt bỏ lương tâm, che giấu cho qua đi, không nói ra sự thật, ảnh hưởng đến hạnh phúc của đối phương.

Những sự kiện tội ác như trên, khảo sát xem đã từng phạm bao nhiêu tội, thời gian bao lâu, có gây ra tai họa hoặc vì chuyện mình gây ra dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Nếu như có, sẽ điều những ma quỷ hung ác dữ tợn, đưa vô đại địa ngục chịu hình phạt đau khổ. Ngoài ra, cũng căn cứ theo tội vi phạm chuyện lớn hay nhỏ, đưa xuống tiểu địa ngục chịu hành hình. Những hình phạt như trên đã mãn kỳ, sẽ giao tiếp đến điện thứ ba gia tăng hình phạt, điều đi địa ngục của điện này mà chịu khổ.

Tất cả những thiện nam tín nữ trên thế gian, nếu như có những hành thiện sau đây:

1. Thường đưa nội dung của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” thuyết giảng cho người khác biết được để cho họ biết thức tỉnh cảnh giác.
2. Hoặc đưa cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” in ấn biếu tặng mở rộng truyền lưu.
3. Thấy có người bệnh, giúp họ tìm y bác sĩ điều trị, hoặc biếu tặng thuốc tốt, hi vọng họ sớm được lành bệnh.
4. Khi gặp người nghèo khổ, khó khăn, nấu cơm cháo, mua thức ăn, mua thực phẩm cung cấp cho họ hoặc bố thí tiền bạc, để
cứu trợ cho nhiều người.

Những người có hành thiện như trên, nếu đồng thời biết hối cải sai lầm trước kia sẽ đặc biệt cho họ lấy công chuộc tội. Tới chuyển giao sẽ đưa đến điện thứ mười, số người này được đưa xuống đạo người chân quý để đầu thai.

Nếu như biết thương tiếc chúng sinh, không đem lòng sát hại sinh linh động vật; chỉ dẫn, khuyên bảo trẻ con không được giết hại các tiểu động vật như sâu bọ; vào ngày mùng một tháng ba lập lời thề nguyện, phải kiêng sát sinh, năng phóng sanh. Nếu thực hiện ba loại hành thiện như trên, sau khi chết, không cần phải vô tất cả các địa ngục, lập tức giao đến điện thứ mười, đưa đến nơi phước hậu đầu thai.

----------------           

Chương 3 - Điện thứ ba: Tống Đế Vương
Số từ: 779
Tống Đế Vương là chủ quản dưới đáy biển đại dương, Hắc Thằng (dây đen) đại địa ngục dưới ngầm đá phía Đông Nam. Ngục rộng khoảng tám ngàn lý, cũng có thiết lập mười sáu tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục bả muối.
2. Tiểu địa ngục gông xiềng.
3. Tiểu địa ngục xuyên sườn.
4. Tiểu địa ngục đồng thiết tát mặt.
5. Tiểu địa ngục tát ngón.
6. Tiểu địa ngục kèm kẹp tim gan.
7. Tiểu địa ngục móc mắt.
8. Tiểu địa ngục lột da.
9. Tiểu địa ngục chặt chân.
10. Tiểu địa ngục nhổ móng tay chân.
11. Tiểu địa ngục hút máu.
12. Tiểu địa ngục treo ngược.
13. Tiểu địa ngục phân tách cốt.
14. Tiểu địa ngục dòi cắn.
15. Tiểu địa ngục tháo khớp.
16. Tiểu địa ngục khoét tim.

Lúc trên trần gian đã phạm những tội ác sau sẽ bị đưa vào địa ngục này:

1. Không công nhận ơn đức lãnh đạo, tổ quốc, chủ quản, sinh mạng, trọng yếu nhất là: những người làm quan có chức quyền, địa
vị, lương bổng của quốc gia nhưng lại bất trung hoặc có tâm bất trung phản bội, không chịu thương tiếc sinh mạng của cấp dưới.

2. Những người chấp hành công vụ khi thấy có lợi ích, đã quên đi đạo nghĩa và trách nhiệm, thiếu sót lòng yêu nước và thương dân.

3. Thân phận làm chồng mà không tròn đạo nghĩa, thân phận làm vợ mà lời nói và hành vi không hiền thuận.

4. Phận làm con nuôi, được ân huệ dưỡng dục lâu dài của cha mẹ nuôi, đến khi được tài sản, đã quên ơn bội nghĩa, quay lại vòng tay của cha mẹ ruột mình.

5. Người làm mướn, người làm công, hoặc nhận công việc được ủy thác nhưng không tròn nghĩa vụ mà làm phản lại.

6. Nhân viên và những sỹ quan binh lính, phản bội lại chủ quản hoặc trưởng quản.

7. Làm việc cho chủ mà cùng đồng nghiệp gạt tài của gia chủ.

8. Phạm tội vào tù mà vượt ngục trốn trại; khi những quân sĩ áp giải đã từng kí tên bảo lãnh cho những tội phạm bị áp giải đến nơi khác, giữa đường chạy trốn; dẫn đến liên lụy cho những sĩ quan và thân quyến của họ, trải qua thời gian dài, không sám hối với chủ quản, không bồi thường tổn thất. Dù sau này có làm việc thiện nhiều đi nữa, vẫn phải đưa vô địa ngục, chịu các hình phạt trong địa ngục.

9. Vì xem trọng phong thủy và năm tuổi, cản trở tang gia làm lễ tang và chôn cất cho thân nhân đã chết, tạo cho người chết không được nhập thổ an lành.

10. Lúc thi công đào hố hoặc xây mồ mả, khi nhìn thấy trong lòng đất có hòm và hài cốt, không lập tức tạm ngưng, xử lý hoàn tất, hoặc đổi huyệt khác, gây tổn hại đến hài cốt của họ.

11. Khi giúp người khác làm việc lại trộm cắp tiền tài, lương thực người khác.

12. Mồ mả của tổ tiên không đi cúng bái tảo mộ, làm cho thời gian dài bị mất tích.

13. Dụ dỗ người khác phạm pháp, gây thêm thị phi, gây xáo trộn, lừa gạt người, thưa kiện gây mất hòa khí của họ.

14. Che đậy danh thư để vu khống người khác.

15. Ghi chép thông cáo, văn chương bậy bạ, hủy hoại uy tín của người khác.

16. Làm giả chứng cứ hồi hôn để giúp họ từ hôn.

17. Làm những hợp đồng giao dịch hoặc văn thư giả mạo để lừa gạt tài sản và những khoản nợ, vật dụng của người khác.

18. Giả mạo chữ kí và làm dấu giả, văn thư giả để tăng giảm, chỉnh sửa sổ sách, gây cho người khác bị thiệt hại.

Những người phạm vào những tội như trên, tra xét phạm tội nặng hoặc nhẹ, trước tiên đưa cho quỷ mạnh lực đẩy họ vào đại địa ngục chịu tội rồi căn cứ theo những tội phạm có liên quan, đưa vào các tiểu địa ngục chịu tội. Khi đã mãn hạn thời gian, giao tiếp vào điện thứ tư, gia tăng hình phạt, thu vào địa ngục trả tội.

Người trên thế gian, nếu có thể vào ngày mùng tám tháng hai lập lời thề nguyện, vĩnh viễn không tái phạm. Sau khi chết cho phép họ được chuyển đến nơi phước lành khác, không cần phải vào địa ngục chịu tội.


----------------           


Chương 3 - Điện thứ tư: Ngũ Quan Vương
Số từ: 737
Ngũ Quan Vương cai quản địa ngục “Chúng Hợp” dưới đáy biển, dưới ngầm đá bên hướng đông là hợp Đại Địa ngục. Địa ngục này rộng khoảng tám ngàn lý, cũng có thiết lập mười sáu tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục thác (sức nước chảy từ khe đá rất mạnh).
2. Tiểu địa ngục thiền (quỳ bái lâu dài).
3. Tiểu địa ngục nóng phỏng cháy da.
4. Tiểu địa ngục tát sưng mặt.
5. Tiểu địa ngục đứt gân gãy xương.
6. Tiểu địa ngục lạng da.
7. Tiểu địa ngục chiên da.
8. Tiểu địa ngục ong chích.
9. Tiểu địa ngục áo sắt.
10. Tiểu địa ngục bị gỗ, đá, đất ngói đè.
11. Tiểu địa ngục chọt mắt.
12. Tiểu địa ngục bụi bặm mịt mù.
13. Tiểu địa ngục nhét thuốc đắng.
14. Tiểu địa ngục bị dầu nhớt trơn té.
15. Tiểu địa ngục đâm miệng.
16. Tiểu địa ngục đá vụn đè thân.

Trên trần gian phạm sai những tội ác sau sẽ bị đưa vào địa ngục này:

1. Trốn thuế không trả.

2. Cố tình không thanh toán tiền thuê.

3. Bán hàng cân thiếu để lừa gạt người.

4. Làm thuốc giả để bán như thuốc thiệt, gây bệnh thêm cho người.

5. Gạo đã ẩm, mốc hoặc biến chất, vẫn bán cho người như gạo tốt.

6. Khi mua hàng sử dụng tiền giả, hoặc tiền dư lại không thối.

7. Bán một số hàng phi pháp để mê hoặc người khác như dầu thơm, phấn, tơ lụa, vv...

8. Khi đi đường hoặc đi bộ nhìn thấy người già yếu hoặc khuyết tật, phụ nữ có thai, không nhường đường nhường chỗ.

9. Chiếm đoạt một số tiền lời từ người kém văn hóa ở thôn quê, hoặc người già, trẻ thơ và những người buôn gánh bán bưng có thu nhập thấp.

10. Đảm nhận gửi dùm thư từ cho người khác mà không nhanh chóng giao cho đối phương, gây cho công việc bị chậm trễ.

11. Trộm cắp những đá gạch hoặc đèn đường chiếu sáng, tạo nguy hiểm cho giao thông.

12. Người nghèo không an phận đi theo chánh đạo mà có ý đồ tham của bất ngờ.

13. Người giàu có không thương tiếc giúp đỡ người già neo đơn, không cứu trợ người nghèo khổ.

14. Nếu như có người đến xin vay mượn tiền, lúc ban đầu đồng ý cho mượn nhưng đến lúc đó lại từ chối, làm cản trở đại sự của họ.

15. Khi thấy có người bị bệnh, trong nhà có thuốc trị bệnh, mà không đưa cho họ.

16. Có bài thuốc tốt trị bệnh hiệu quả mà cất giấu không truyền cho người khác.

17. Những thuốc đã sắc hoặc rác, máy móc hư, bỏ lộn xộn ngoài đường hoặc đường đi bộ, ảnh hưởng đến xe và người đi bộ.

18. Chăn nuôi lừa, ngựa và các loài thú khác, để cho phân thải bừa bãi ảnh hưởng đến môi trường và người đi bộ.

19. Có ruộng đất không trồng trọt, không cho người khác thuê để cho ruộng đất bị bỏ hoang.

20. Phá hoại tường nhà của người khác.

21. Sử dụng phép thuật và câu thần chú thúc đẩy ma quỷ đến quậy phá người.

22. Bịa ra những chuyện kinh dị để hù dọa người.

Những người phạm vào những tội như trên: tra xét phạm tội nặng hay nhẹ, trước tiên đưa cho lính quỷ đẩy họ vào các đại địa ngục chịu tội, rồi căn cứ theo những tội phạm có liên quan đưa vào các tiểu địa ngục chịu tội. Khi đã mãn thời hạn, giao tiếp vào điện thứ năm tra xét và khảo sát công quá khứ của họ.

Nếu như người trên thế gian có thể vào ngày mười tám tháng hai của mỗi năm, phát lời thề nguyện xin hối cải, không tái phạm nữa, có thể miễn vô bổn điện các địa ngục để chịu hình phạt. Giả sử sao chép và in ấn “Ngọc Lịch Bưu Phiêu” hoặc tiếp tục thêm vào các sự kiện về nhân quả báo ứng, dựa theo những quy định của các điện, khuyên người làm thiện, lưu truyền hậu thế, để người đọc biết hối cải, không tái phạm, như vậy tự nhiên sẽ có công đức.

----------------           


Chương 3 - Điện thứ năm: Diêm La Thiên Tử
Số từ: 1886
Diêm La Thiên Tử nói: “Đúng ra tôi là quản lý điện thứ nhất, nhưng vì thương hại cho những oan hồn, đưa họ tái trở lại trần gian để minh oan, rửa sạch oán hờn cho nên bị giáng chức cai quản đại địa ngục “Khiếu Hoán” dưới đáy biển, quản lý 16 tiểu địa ngục”.

Tất cả những tội phạm ma quỷ khi bị giải đến bổn điện, đều đã trải qua chịu tội hình phạt trong các địa ngục một thời gian khá dài. Nếu như đi qua bốn điện trước mà xét duyệt không có những sai lầm lớn, mỗi người có thời hạn bảy ngày, áp giải đến bổn điện. Những người này, trong bổn điện cũng không xét ra tội tình gì, thân xác của họ trên trần thế sau năm ngày, bảy ngày cũng không bị phân hủy.

Những tội phạm ma quỷ này nói:” Trên trần gian còn có thiện duyên chưa hoàn thành”. Có người thưa phải tu sửa, xây tự viện, cầu, đường phố; mở rộng rạch, đào giếng; hoặc biên soạn các loại sách khuyên thiện và các việc thiện,v.v... chưa hoàn thành; hoặc là số lượng phóng sanh chưa trọn vẹn; chưa hoàn thành các việc chôn cất xây mộ chu đáo cho cha mẹ song thân; hoặc có ơn chưa báo đáp.

Vì những chuyện như trên, họ năn nỉ cho họ trở về trần gian đồng thời lập thề nguyện, nhất định sẽ làm người tốt. Diêm La Thiên Tử sau khi nghe xong và nói:” Các ngươi lúc còn trên trần gian đã làm nhiều chuyện ác, quỷ thần biết rất rõ ràng. Hiện tại như con thuyền đang đến giữa sông, phát hiện lỗ thủng, muốn vá thì đã chậm rồi. Cho thấy, dưới âm phủ nếu không có những hồn ma bị oan ức, thì trần gian sẽ ít đi người thù oán. Thật là khó có người trên trần gian muốn tu tâm tích đức”.

Những ma quỷ khi đến bổn điện, sau khi soi qua Nghiệt Kính, tự nhiên biết mình là loại ác. Không cần nói nhiều, sẽ do đầu trâu mặt ngưạ áp giải lên bậc cao mà nhìn lại quê hương! Sở dĩ xây bậc thềm cao, có tên gọi là Vọng Hương đài. Mặt bằng của Vọng Hương đài có hình nửa vòng tròn, chiếu về ba hướng Đông, Tây, Nam. Bậc cao đài này có mặt cong 81 lý, đằng sau cao đài bằng phẳng như dây cung. Hướng Bắc, dùng kiếm xây thành tường, đài cao 49 trượng. Dùng dao làm dốc núi, làm thành 63 bậc thang. Người lương thiện không cần lên cao đài này; người có nửa công, đã cho đi chuyển kiếp luân hồi.

Chỉ có những người làm nhiều chuyện ác mới cho lên đài này để nhìn thấy quê hương như đang ở trước mắt, tất cả mọi người trong gia đình, những câu nói và hành vi của người thân, đều có thể nhìn thấy và nghe thấy. Nhìn thấy tất cả già trẻ, đều không tuân thủ những lời căn dặn của mình trước khi chết, tất cả những quyết định của mình thay đổi hoàn toàn, những tài sản của mình phải rất khó khăn mới dành dụm được, bị dọn đi sạch hết; chồng thì đi cưới vợ bé, vợ thì bước nữa; ruộng đất, tài sản bị chia tán hết; những sổ sách trước đây giờ này bị tham ô không còn đồng nào; những khoản nợ người chết, nợ người sống khó mà qua được; người sống nợ ta, do mất hết bằng chứng, không còn gì để truy cứu; tất cả những sai lầm, tội ác, toàn kết tội hết cho những người đã chết; cha, mẹ, vợ, tất cả bà con họ hàng, đều bình luận oán trách mình; con cái người nào cũng mang lòng ích kỉ; mất đi lòng tin trong bạn bè; số bà con thân thiết, nể tình lúc mình còn sống, còn tưởng niệm khóc lóc mấy tiếng, khi quay đầu thì cười chế giễu.

Lúc còn sống làm những chuyện ác, từ từ xuất hiện ác báo; con trai do phạm tội bị bắt vào tù, hoặc gặp bạn xấu lôi kéo hư hỏng; con gái lại sanh bệnh tật, hoặc bị hãm hiếp; sự nghiệp đổ vỡ, nhà cửa đem cầm cố hoặc bán đi, những tài sản lớn lớn nhỏ nhỏ rồi sẽ tiêu tan sạch hết. Thực ra, làm ác bị ác báo, đâu chỉ có những vong hồn này? Có số người trên trần gian cũng chịu sự ác báo của chính mình.

Tất cả những tội phạm ma quỷ sau khi xem xong những tình cảnh như trên, bị áp giải vô trong đại địa ngục. Thần quỷ quan phán xem xét họ phạm vào những tội gì mới phân tán họ xuống các tiểu địa ngục để chịu hình phạt đau khổ. Trong tiểu địa ngục, các nơi có cài những bẫy nguy hiểm; sử dụng rắn đồng làm dây xích; những con chó sắt để làm đống đất. Đưa họ vô trói lại và đè cả tay chân, dùng thêm dao nhỏ, mổ xẻ bụng ra, móc trái tim ra, xẻ ra thành từng miếng, tim sẽ cho rắn ăn, ruột cho chó ăn. Cứ như vậy chịu cực hình đến hết thời hạn, ngưng đau đớn, thân xác khôi phục hoàn toàn thì được áp giải đến điện tiếp theo vào các địa ngục để chịu hình phạt:

1. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ và nghi ngờ nhân quả báo và không kính nể thần quỷ.

2. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ vì sát hại sinh mạng.

3. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ vì chưa hoàn thành việc thiện mà đi làm chuyện ác trước.

4. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ vì đã tiếp cận tà ác, hành vi sai lầm, quay ngược với lý chính, có tâm ích kỉ ham lợi.

5. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ vì ức hiếp người lương thiện sợ ác, có tâm tà ác muốn người khác mau chết.

6. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ người chỉ vì xem trọng danh lợi, thị phi để giáng họa cho người khác.

7. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ những kẻ hãm hiếp phụ nữ, mưu kế làm mất trinh tiết của phụ nữ, dụ dỗ phụ nữ để thỏa mãn lòng dâm tà của mình hoặc bất luận hại người hại vật, đi làm chuyện tà dâm với phụ nữ.

8. Tiểu địa ngục cắt bỏ kẻ có lòng dạ hại người lợi mình.

9. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ tham lam, không chịu bố thí cho những người nghèo khổ và cứu giúp cho những người hoạn nạn, sắp chết.

10. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ trộm cắp, cướp giật tài sản người khác, che giấu lương tâm, khất nợ không trả.

11. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ quên ơn bội nghĩa, lấy oán trả ơn.

12. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ háo thắng, ham cờ bạc làm liên lụy đến người khác.

13. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ vì danh lợi mà đi lừa gạt, dụ dỗ chúng sanh.

14. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ người tuy không đích thân gây ra tác hại cho người khác nhưng lại ác độc hướng dẫn người khác phạm tội.

15. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ ganh tị người lương thiện.

16. Tiểu địa ngục cắt bỏ lòng dạ kẻ không biết hối cải.

Lúc trên trần gian đã phạm những tội ác như sau sẽ bị đưa vào địa ngục này:

1. Không tin quả báo, cản trở người khác làm việc thiện.

2. Đi chùa thắp nhang cúng bái lại nói xấu chuyện người khác.

3. Thiêu hủy các văn chương sách thiện và các loại tiểu phẩm tuyên truyền cho việc thiện.

4. Lễ bái, cúng Phật mà dùng đồ hăng cay, không dùng đồ chay.

5. Ghét bỏ người ăn chay niệm Phật.

6. Vu khống người học Phật, tu đạo và người có đạo đức.

7. Người có văn hóa biết chữ nghĩa, nhưng lại không chịu nói về chuyện quả báo, nhân quả cho những người không biết chữ nghe.

8. Đào bới mồ mả của người khác, lấp lại để phi tang.

9. Phóng lửa thiêu hủy rừng cây, hoặc không phòng ngừa để gây cháy cho hàng xóm.

10. Dùng cung tên và súng bắn các loài thú.

11. Dụ dỗ hoặc cưỡng bức những người bệnh tật ốm yếu để thách đấu với họ, gây cho họ sự tự ti và bị tổn thương.

12. Cách tường rào mà vứt rác và đá gạch ra ngoài, làm người khác bị thương.

13. Dùng thuốc độc thả xuống hồ để bắt cá.

14. Đốt những vật liệu có hại (cao su, nhựa) rác ô nhiễm môi trường, hoặc đưa những vật dụng có hại (bình điện, túi nylon, kiếng, sơn, xăng, hóa chất), tùy tiện để bừa bãi hoặc đổ xuống sông hồ gây ô nhiễm vệ sinh môi trường.

15. Cài bẫy thú để săn bắt các loại chim, cá hoặc bỏ thuốc sát trùng vào thân cây.

16. Nhìn thấy có xác mèo chết hoặc các loài rắn độc, không xử lí đem chôn cho cẩn thận, dẫn đến có người moi ra, gây ô nhiễm môi trường truyền nhiễm dịch bệnh, hại người thiệt mạng.

17. Mùa đông lạnh đi đào bới khai hoang gây cho những sâu bọ bị cúm lạnh chết, hoặc phá tường sửa bếp dẫn đến người khác chịu đói rét.

18. Việc riêng tư, lại sử dụng danh nghĩa công để xử lý, dùng quyền thế để chiếm dụng tài sản, đất đai của người dân.

19. Vô cớ đắp giếng, đắp rạch, đóng đầu mối dẫn nước, dẫn đến loài người dùng đến nguồn nước bất tiện.

Nếu như vi phạm vào các tội như trên bị áp giải đến đài Vọng Hương, rồi đưa vô các đại địa ngục để chịu tội, sau khi chịu xong cực hình, bị móc tim ra rồi cho các tiểu địa ngục để chịu tội, mãn hạn chuyển đến điện thứ sáu, tra xét xem còn phạm tội khác không.

Người sống trên trần gian, không cần biết có hoặc không phạm những tội như trên, nhưng nếu có thể vào ngày mùng tám tháng giêng ăn chay, miệng lưỡi trong sạch, xin thề nguyện không tái phạm nữa, bổn điện có thể không chỉ miễn giảm hình phạt trong các địa ngục mà còn có thể cầu xin điện thứ sáu giảm nhẹ hình phạt.

Ngoại trừ những người sát sinh, dính líu tà đạo; làm việc bất chính; nam hãm hiếp sát hại phụ nữ; nữ ham tà dâm, làm tổn hại danh tiết người phụ nữ, vong ơn bội nghĩa; lúc còn sống lại đam mê không tỉnh ngộ, nhìn thấy các câu văn chương khuyên hành thiện, không chịu hối cải. Còn lại tất cả đều được miễn.

----------------           

Chương 3 - Điện thứ sáu: Biện Thành Vương
Số từ: 516
Biện Thành Vương, cai quản một đại địa ngục Đại Khiếu Hoán dưới ngầm đá bên hướng bắc dưới đáy biển, rộng khoảng tám ngàn lý. Xung quanh bốn phía có thiết lập 16 tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục quỳ cát sắt.
2. Tiểu địa ngục ngâm mình dưới hố phân.
3. Tiểu địa ngục đẩy mài đến chảy máu.
4. Tiểu địa ngục kìm miệng ngậm kim.
5. Tiểu địa ngục cắt thận, chuột cắn.
6. Tiểu địa ngục lưới gai.
7. Tiểu địa ngục bầm thịt.
8. Tiểu địa ngục nứt thịt toét da.
9. Tiểu địa ngục lửa đốt cổ họng.
10. Tiểu địa ngục lò sấy thân xác.
11. Tiểu địa ngục phân uế dơ bẩn.
12. Tiểu địa ngục trâu ngựa đá đạp.
13. Tiểu địa ngục kim đâm.
14. Tiểu địa ngục đập đầu lột xác.
15. Tiểu địa ngục chém mình.
16. Tiểu địa ngục lột da.

Bị áp giải đến ngục này do phạm các tội sau đây:

1. Oán trời, oán đất, chửi mắng mặt trời, oán hận mặt trăng, ghét gió, nguyền rủa sét đánh, thích trời đẹp, chán trời mưa.

2. Đối mặt nơi hướng Bắc đại tiểu tiểu tiện, phóng uế, khóc lóc.

3. Trộm cắp đồ vật để trong tượng Phật.

4. Lấy cắp vàng bạc châu báu trên tượng Phật.

5. Không tôn trọng, gọi hồng danh tên Thần Thánh.

6. Không tôn kính những sách, kinh Phật.

7. Tích tụ đồ dơ và vứt rác tại những nơi miếu, chùa.

8. Trong nhà có thờ tượng Phật nhưng lại không dọn dẹp sạch sẽ trong nhà bếp, không kiêng ăn thịt bò, thịt chó và thịt rắn, thịt rùa.

9. Trong nhà tồn trữ các đồ vật sách truyện đồi bại tà dâm. Thiêu hủy kinh sách, thiện thư.

10. Vẽ và may thêu, điêu khắc những hình Phật và các Thánh Mẫu và Bồ Tát trên tất cả các nơi như giường, tủ, bàn ghế, quần áo.

11. Thêu hình long, phụng trên quần áo.

12. Lãng phí hao tốn ngũ cốc và lương thực.

13. Tích trữ lương thực và gạo, chờ thời cơ lên giá.

Nếu như vi phạm vào những tội như trên, áp giải đưa vô đại địa ngục, tra xét tất cả các tội đã vi phạm, phân giải đến các tiểu địa ngục chịu tội. Sau khi mãn hạn chuyển tiếp đến điện thứ bảy, kiểm tra xem có phạm những tội ác do điện này quản lý trừng phạt.

Người trên thế gian, nếu như có thể vào ngày mùng tám tháng ba ăn chay, thanh tịnh khẩu nghiệp, phát lời thề nguyện: sau này sẽ không tái phạm những lỗi lầm như trên và có thể không quan hệ chuyện phòng the vào những ngày rằm mười bốn, mười năm, mười sáu tháng năm và mùng mười tháng mười âm lịch; đồng thời, thề nguyện sau này khuyên giải người khác giữ giới. Như vậy, có thể cho phép được miễn chịu các loại hình phạt trong tiểu địa ngục.


----------------           

Chương 3 - Điện thứ bảy: Thái Sơn Vương
Số từ: 1758
Thái Sơn Vương cai quản địa ngục dưới đáy biển bên hướng Tây Bắc có tên là Nhiệt Não đại địa ngục. Địa ngục này có diện tích khoảng tám ngàn lý, cũng có thiết lập 16 tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục đập chùy chảy máu mũi.
2. Tiểu địa ngục kẹp đùi.
3. Tiểu địa ngục mổ lồng ngực.
4. Tiểu địa ngục mài dũa.
5. Tiểu địa ngục cạp xương.
6. Tiểu địa ngục bị đá chọi.
7. Tiểu địa ngục tra đánh.
8. Tiểu địa ngục bị chó cắn.
9. Tiểu địa ngục lột da cho heo kéo đi.
10. Tiểu địa ngục bị các loại thú cắn.
11. Tiểu địa ngục bị treo lơ lửng.
12. Tiểu địa ngục móc lưỡi.
13. Tiểu địa ngục móc ruột.
14. Tiểu địa ngục bị thú dữ cắn nát.
15. Tiểu địa ngục đốt ngón tay.
16. Tiểu địa ngục dầu sôi.

Tất cả những người sống trên trần gian đã từng phạm những tội sau đây, bị đưa xuống địa ngục này chịu cực hình:

1. Ăn thai nhi và các đồ vật để cường dương kích dục khiêu dâm để hãm hại người.

2. Nghiện rượu gây ra những chuyện suy đồi đạo lý, gây rối lung tung để cho người thân phải bận tâm.

3. Lãng phí không tiết kiệm, tiêu xài vô cớ làm cho những tài sản và sự nghiệp của người đời trước để lại bị tiêu tan hết.

4. Sử dụng các kiểu ăn chặn như lừa gạt, cướp giật tài sản của người khác.

5. Trộm cắp tài sản châu báu của người chết cất chôn trong hòm.

6. Trộm cắp xác và xương người chết để làm thuốc.

7. Chia cách những người yêu thương nhau, khiến họ nhớ nhung đau khổ.

8. Ghét con nuôi, bán cho người khác để làm đầy tớ và vợ bé, hủy hoại một đời hạnh phúc của họ.

9. Nghe lời vợ sau hành hạ hoặc làm chết con riêng của mình.

10. Rủ rê bạn bè cờ bạc, thua bạc, tán gia bại sản tạo cho gia đình nghèo khổ.

11. Phận làm thầy cô, không nghiêm khắc giáo dục học sinh cho tốt, gây cản trở đến tương lai của các em học sinh.

12. Không phân tích sự việc nguyên do nặng hay nhẹ đối với những học sinh, người mướn, người hầu đã mạnh tay chửi mắng đánh đập họ tàn nhẫn, tạo cho họ ôm hận, ức chế thành bệnh nặng, đau khổ suốt đời.

13. Cậy có quyền thế hùng hậu, mắng chửi ô nhục người cùng xóm cùng quê.

14. Không vâng lời, ngỗ nghịch trái đạo lý, làm cho trưởng bối, người thân tủi nhục đau khổ.

15. Ưa thích nói những chuyện tà ác và dựng chuyện thị phi, ly tán người khác dẫn đến hai bên ẩu đả, từ đó gây ra nhiều chuyện phiền phức.

Những tội ác như trên sẽ điều tra rõ ràng theo từng tội, đưa xuống đại địa ngục trị tội xong rồi sẽ áp giải đến các tiểu địa ngục có liên quan đi chịu cực hình. Mãn thời hạn, chuyển đến điện thứ tám, đưa vào trong địa ngục, điều tra xem có phạm vào những tội thuộc địa ngục này để trị tội.

Trần gian dùng thuốc, có loại thuốc nào mà không thể lấy để trị bệnh được? Đó là phải giết chết những sinh mạng cầm thú để làm thuốc trị bệnh, trái ngược thiên lý hiếu sanh của trời; ăn những thứ như nhau thai nhi, cuống rốn, v.v... Vậy có phải là còn ác tâm hơn không. Khi đã ăn những thứ dơ bẩn này, tuy trên thế gian có đa phương hành thiện, tụng kinh, không chỉ không có công quả mà còn bị tội nặng hơn. Diêm vương tuyệt đối không tha cho những hạng người như thế, khi những người có những thói quen đó. Sau khi nghe được những lời khuyên trên phải nhanh chóng tu sửa sám hối.

Chỉ có thể mua hàng vạn sinh vật trở lên để phóng sanh hoặc từ nay về sau không sát sinh, mỗi buổi sáng súc miệng xong phải niệm kinh Phật, lúc hấp hối mới có Tịnh Nghiệt sứ giả, lấy đèn chiếu sáng rọi vào để loại bỏ ra những mùi hôi thối và dơ bẩn trong mình; như thế, mới tiêu hết được những tội ác kể trên.

Trộm cắp những hài cốt của những người bị lửa thiêu chết và da thịt của các thai nhi khi phá thai bỏ ra để sử dụng chế tạo tạo thành thuốc; trộm cắp những đầu lâu của xác chết, hài cốt bán cho các thầy đông y để làm thuốc. Những hạng người như vậy, lúc còn sống, dù có làm qua biết bao công quả cho trần gian, sau khi chết bị móc đến âm phủ. Tất cả những công quả họ làm, chỉ có thể gắng chịu một phần tội lỗi khác của họ. Còn về lỗi này, Diêm Vương sẽ không dễ dàng bỏ qua hoặc miễn giảm cho họ, lập tức đưa qua vô đại địa ngục chịu các cực hình; hoặc tiếp tục chuyển đến các tiểu địa ngục có liên quan. Sau đó chuyển tiếp đến điện thứ mười, khi đến lúc chuyển đi đầu thai, sẽ bị cắt đi các loại như tai, mắt, ngón tay, môi miệng, lỗ mũi. v.v..., để cho họ bị thiếu hụt một phần trên cơ thể, là sự trả báo về tội ác họ đã từng làm.

Nếu như người trên trần gian đã phạm vào những tội như trên, lập tức chịu sám hối, không tái phạm nữa; và nếu như gặp những người nghèo khổ có thân nhân chết không tiền chôn cất hoặc hỏa táng, mình có thể phát tâm mua hòm hoặc khuyên giải người thân của mình giúp họ khai niệm và an táng, làm những công quả như vậy nhiều lần. Vì thế, Thần Táo quân của nhà mình sẽ điểm một chấm đen trên bảng của quỷ móc hồn, có thể miễn chịu quả báo như trên.

Trên trần gian, có những nơi đôi khi bị thiên tai và thu hoạch ngũ cốc thất mùa, một số người do đói mà chết đi. Có một số thương gia vô lương tâm, trong lúc đói khát chưa chết đang hấp hối mà cắt thịt của họ làm thành nhân bánh bao và các loại bánh bột để bán lại cho người khác. Như vậy rất ác tâm, những thương gia này, khi chết bị áp giải, Diêm Vương lập tức ra lệnh cho quỷ phạm áp giải họ đến các địa ngục, tăng thêm tội hình, trừng phạt thêm 49 ngày, chịu các loại hình dao búa. Sau đó thông báo cho Diêm Vương điện thứ mười ghi trong sổ sách, chuyển cho Diêm Vương điện thứ nhất, liệt kê thêm vào trong sổ sống chết, kiếp sau nếu được luân hồi vào đạo làm người, cho họ đầu thai vào những nơi đói nghèo và bị đói đến chết. Nếu chuyển làm đạo súc sinh, dù có thấy những cơm thừa dư hoặc những đồ ăn vứt ra vẫn không ăn nổi. Trả báo họ để bị đói đến chết.

Những hồn ma tội phạm này, ngoại trừ không cho phép họ lấy những công quả đã làm để bù trừ vẫn không cách nào thoát khỏi sự trả báo bị đói khát, tất cả những người ăn nhầm những bánh bao nhân thịt người mà sau khi hết cảnh đói khát lại vẫn cứ ăn thì kiếp sau khi chuyển luân hồi vào đạo làm người hoặc súc sinh, sẽ bị quả báo là thường đau cổ họng, đau bụng, dù bụng có đói cơm nước vẫn khó nuốt vào, để phải chịu ác báo đói khát đến chết.

Những người đã phạm vào những tội lỗi trên, đến những nơi vụ mùa thất thu dân tình đói khát, quyên góp tiền để cứu trợ hoặc bố thí cơm cháo cho người đói nghèo, hoặc đem một phần gạo chia sẻ cho người nghèo khổ; hoặc nấu canh đậu và canh gừng đặt ở bên đường cứu tế người bị thiên tai qua cơn đói khát. Nếu thật sự làm được công quả đại chúng lớn như vậy, không chỉ có thể xóa hết những tội lỗi như trên, mà còn có thể tăng thêm phước lộc thiện báo cho kiếp này, phước lộc và trường thọ cho cả kiếp sau.

Những phương pháp cho ba điều phạm tội và trừ tội như trên, trong đó có hai điều đã được văn võ phán quan của bổn điện chọn ra hai điều và do sứ giả của đại địa ngục chọn ra một điều cùng với các phán quan và các quan viên có liên quan cùng đem vào tâu với Ngọc Hoàng Đại Đế. Sau khi được phê duyệt cùng ghi vào trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Đồng thời phát lệnh thông qua trong địa ngục để các phán quan làm căn cứ thăng chức, ban thưởng cho các phán quan, sử quan trong địa ngục.

Tất cả những chi tiết gây nghiệp và tội trên trần gian, các thần linh cũng đã họp bàn, định sẵn các điều khoản luật định đối với việc quả báo. Ngoài ra, nếu phạm các tội liên quan đến chính trị, quân đội hoặc tham ô tư lợi tương đối nhỏ mà không có trong luật âm phủ quy định thì tất cả sẽ trị tội theo luật pháp đương thời tại các quốc gia trên trần thế.

Trong quá trình trị tội, nếu có người muốn trốn tránh truy cứu, đào tẩu hoặc vượt ngục dẫn đến liên lụy cho người khác sẽ lập tức thông báo cho các quỷ phán, được sử dụng thần thông để truy tìm và đưa ra trừng trị. Tất cả thần linh đều phải tuân thủ chấp hành những điều trên.

Các nam nữ trên trần gian, nếu có thể vào ngày 27 tháng ba âm lịch ăn chay, thanh tịnh khẩu nghiệp, quay mặt ra hướng Bắc phát lời thề xin sám hối và sẽ đưa cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” in tặng cho người khác, khuyên hóa người người hành thiện thì cho phép họ được miễn các hình phạt trong địa ngục này.


----------------           

Chương 3 - Điện thứ tám: Đô Thị Vương
Số từ: 674
Đô Thị Vương cai quản địa ngục Đại Nhiệt Não ở phương chính Tây dưới đáy biển. Địa ngục này rộng tám ngàn lý, cũng có thiết lập 16 tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục bị xe đụng.
2. Tiểu địa ngục chảo buồn nôn.
3. Tiểu địa ngục cán nát.
4. Tiểu địa ngục bế tắc lỗ.
5. Tiểu địa ngục cắt nát.
6. Tiểu địa ngục nhốt nhà cầu.
7. Tiểu địa ngục gãy chân.
8. Tiểu địa ngục chiên nội tạng.
9. Tiểu địa ngục đập thân xác.
10. Tiểu địa ngục móc ruột.
11. Tiểu địa ngục nấu cháy người.
12. Tiểu địa ngục mổ xẻ lồng ngực.
13. Tiểu địa ngục bị dao chém.
14. Tiểu địa ngục tan xác mất đầu.
15. Tiểu địa ngục mổ xẻ chém giết.
16. Tiểu địa ngục bị chĩa đồng đâm.

Những người trên trần gian mà phạm vào những tội sau đây sẽ bị đưa xuống địa ngục này trị tội:

Không hành hiếu đạo, không nuôi dưỡng các ông bà cha mẹ khi họ còn sống, làm cho họ phải sống một cuộc sống lo âu và sau khi cha mẹ mất không an táng cho đàng hoàng. Làm cho vong hồn của song thân bất an, nếu không nhanh chóng hối cải tiền sự đã gây, để một thời gian lâu, ông Thần Táo Quân tại nhà sẽ ghi lại tên tuổi của những nam nữ này, trình bày lên cho Ngọc Hoàng Đại Đế sẽ giảm bớt những tiền tài phước lộc của họ đang có và sẽ lệnh cho các tà ma nhập thân quậy phá, gây khó khăn trong công việc làm ăn của họ.

Sau khi chết phải chịu qua những cực hình của các điện trước xong, sẽ áp giải đến bổn điện: đầu trâu mặt ngựa sẽ đưa họ đến đại địa ngục chịu cực hình rồi sẽ đưa tiếp xuống các tiểu địa ngục chịu tội. Khi chịu xong các cực hình, áp giải vào trong phòng chuyển kiếp của điện thứ mười, thay hình đổi mặt, vĩnh viễn đầu thai vào đạo làm súc vật.

Nếu như những thiện nam tín nữ trên trần gian, tuân thủ “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nhanh chóng hối cải chuyện bất hiếu với cha mẹ và những hành vi không kính trọng người lớn tuổi, vào ngày mùng một tháng tư âm lịch, xin thề hối cải, không tái phạm vào bất cứ ngày nào tháng nào, buổi sáng hoặc buổi tối mặt hướng về phía ông Thần Táo Quân lập lời thề: “Từ nay về sau, biết sửa lỗi”. Bất kể lúc nào cũng không tái phạm nữa. Đến lúc sắp chết, ông Thần Táo Quân sẽ đưa ra ba bậc để xử lý: có cái thì ghi một chữ “Tôn”, có cái thì ghi chữ “Thuận”, còn cái thì ghi chữ “Cải” trên trán, giao cho các lính quỷ đến nhà để áp giải vào điện thứ nhất, theo thứ tự từng đợt đến điện thứ bảy.

Cho dù, có người đã phạm vào tội hình khác của các điện cũng sẽ được giảm đi một nửa tội hình và không cần phải đến bổn điện chịu tội, có thể được chuyển ngay đến điện thứ chín, khi tra xét thật sự không có phạm vào tội đầu độc người hoặc phóng lửa đốt nhà thì có thể chuyển tiếp vào điện thứ mười, phân biệt để chia ra đầu thai đến đạo làm người.

Ngọc Hoàng Đại Đế còn đặc biệt gia ân phê chuẩn: “Nếu như có thể sao chép in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” giúp cho người thế gian hiểu biết được mà hối cải, sửa chữa lỗi lầm, sẽ ân xá hết các cực hình từ điện thứ nhất đến điện thứ tám, nếu như họ không có phạm vào các tội hình trong điện thứ chín, có thể lập tức đưa đến điện thứ mười, đến những điểm có phước lành để đầu thai làm người”.


----------------           


Chương 3 - Điện thứ chín: Bình Đẳng Vương
Số từ: 916
Bình Đẳng Vương cai quản ngục A Tỳ hướng Tây Nam, có một đại địa ngục. Địa ngục này rộng tám ngàn lý, rào bằng lưới sắt tầng tầng lớp lớp, chia ra thành 16 tiểu địa ngục:

1. Tiểu địa ngục thiêu xác gõ xương.
2. Tiểu địa ngục rút gân đập xương.
3. Tiểu địa ngục cho quạ ăn tim gan.
4. Tiểu địa ngục cho chó cắn ruột phổi.
5. Tiểu địa ngục ngâm mình trong dầu nóng.
6. Tiểu địa ngục đập não le lưỡi.
7. Tiểu địa ngục móc não.
8. Tiểu địa ngục hấp não móc lưỡi.
9. Tiểu địa ngục làm tan xác.
10. Tiểu địa ngục dùng gỗ kẹp tay chân.
11. Tiểu địa ngục mài nát tim.
12. Tiểu địa ngục bị nước sôi tạt vào người.
13. Tiểu địa ngục bị ong chích.
14. Tiểu địa ngục muỗi đốt tan xác.
15. Tiểu địa ngục sâu bọ dậm lên người.
16. Tiểu địa ngục bị rắn độc xuyên thịt.

Những người trên trần gian mà phạm vào những tội sau đây sẽ bị đưa xuống địa ngục này trị tội:

1. Vi phạm điều lệ quy định của Pháp luật quốc gia, phải chịu các loại ác báo như: chém đầu, giam tù, xử bắn. Những quỷ tù này đã phải chịu trước những cực hình tại các điện trước xong, mới áp giải đến bổn điện chịu cực hình.

2. Phóng lửa đốt cháy nhà cửa, hủy hoại tài sản tính mạng của người khác.

3. Chế tạo các loại thuốc có chất gây nghiện và kích thích (như thuốc phiện, thuốc lắc, heroin, ma túy, v.v...).

4. Chuyên phá thai cho người khác.

5. Người dụ dỗ trẻ thành niên vào con đường tội lỗi hoặc hiếp dâm thiếu nữ chưa thành niên.

6. Vẽ những tranh họa tà dâm, sách, quay những phim khiêu dâm. Gây cho tâm hồn người khác bị xáo trộn, dẫn đến không có tâm trí học tập, người tu hành mất lòng từ bi, hoặc gây cho người bị bệnh, không yên phận đi theo con đường chánh đạo.

7. Bào chế những thuốc gây hại cho xã hội như thuốc mê, các loại thuốc gây mất cảm giác, không tự chủ được năng lực trí nhớ và thuốc phá thai.

Nếu như những người phạm vào những tội hình trên, từ khi đọc và nghe nội dung trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có thể lập tức tiêu hủy sách tà dâm, hủy bỏ bản in, không in ấn nữa; đưa phương pháp bào chế thuốc nghiêm cấm hủy bỏ và đình chỉ sản xuất, khống chế được ý tưởng tà dâm, không truyền bá những việc tà dâm như trên. Nếu làm được như vậy, sẽ được miễn chịu các loại cực hình, nhanh chóng được đưa đến điện thứ mười, phái đi đầu thai vào đạo làm người.

Ngược lại, nếu sau khi nghe và biết được nội dung chuyện báo ứng trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” vẫn phạm những tội hình như trên, tội sẽ không được khoan dung mà còn phải chịu cực hình bắt đầu từ điện thứ hai cho đến bổn điện. Tăng nặng hình phạt, ví dụ như: đốt nóng những cây trụ sắt ghép vào tim gan, dùng dây xích khóa tay chân, ôm vào cột nóng để nướng tan dần những khái niệm tà dâm.

Sau khi họ đã chịu xong những cực hình của các điện, đưa tiếp xuống đại địa ngục chịu tiếp cực hình như: dao xuyên tim gan, ngực móc nội tạng ra để cho họ đau đớn vô hạn. Đến khi người bị hại được trở lại bình thường và tự tay hủy hết các loại sách, tranh vẽ, thuốc phiện thì mới rời khỏi đại địa ngục, áp giải đến điện thứ mười, đầu thai lại làm người.

Nếu người trên thế gian không phạm vào các tội ác như trên, có thể vào những ngày như mùng tám tháng tư âm lịch và mùng một, rằm mười lăm mỗi tháng ăn chay và tu niệm tam nghiệp như: tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh ý. Lập lời thề nguyện thu gom các loại sách, tranh vẽ, phim truyện tà dâm để thiêu hủy hoặc sao chép, in ấn truyền bá cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này để khuyên giải cho tất cả mọi người. Như thế, khi lúc hấp hối, ông Thần Táo Quân sẽ đánh hai chữ “chấp hành” lên trán. Thì từ điện thứ hai cho đến bổn điện, dù có vi phạm các tội hình nhưng do có làm qua công đức như trên, đều được giảm nhẹ tội hình.

Những người giàu và có quyền chức nếu như nghiêm khắc xử tội đối với những kẻ phóng hỏa; tịch thu các loại sách, phim truyện tà dâm và các hàng nghiêm cấm, công khai thiêu hủy, ngăn chặn hàng cấm có tính chất hủy hoại tính mạng thì con cháu của họ trong kiếp này sẽ được phù hộ, sự nghiệp thịnh vượng, thông minh khỏe mạnh, phú quý song toàn.

Những người già yếu bệnh tật, nghèo khổ, cô độc, nếu chịu hết mình nhờ người khác in ấn, sao chép, tuyên giảng cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để khuyên giải người trần gian, sau khi chết cho phép họ được lập tức chuyển đến điện thứ mười, phát đi nơi phước lành để đầu thai.

----------------           


Chương 3 - Điện thứ mười: Chuyển Luân Vương
Số từ: 1626
Luân Chuyển Vương phụ trách điện thứ mười, nằm ngoài biển bên hướng chính đông đối mặt với thế gian ngũ trược. Trong điện có 6 cây cầu: Vàng, Bạc, Ngọc, Đá, Gỗ và Nại Hà chuyên phụ trách phân loại những quỷ tù bị áp giải đến đây, quyết định phước tội lớn nhỏ để chuyển đến nơi thích hợp đầu thai. Cho họ đầu thai thành nam hoặc nữ, trường thọ hoặc đoản thọ, được đầu thai nơi giàu sang hay nghèo khổ.

Tất cả các trường hợp đầu thai đều được ghi lại chi tiết, mỗi tháng tổng hợp lại, thông báo đến điện thứ nhất, sau khi đăng ký, trình lên cho Phong Đô Đại Đế. Căn cứ pháp luật dưới Diêm phủ, dựa theo tình hình tội và phước lớn nhỏ của họ, lần lượt đầu thai, đặt ra phương thức đầu thai như: sanh bằng thai, bằng trứng, sanh ướt, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân các loại v.v...

Các loại sinh linh, sau khi chết sẽ thành ma, căn cứ theo tội và phước lớn nhỏ của họ, theo lượt mà đầu thai. Có loại một năm hoặc một quý thì chết; có loại sáng sinh chiều chết, theo tội mà biến đổi lập đi lập lại. Không cần biết chết thế nào, một khi đã vào cõi luân hồi, tất cả đưa vào trong phòng chuyển kiếp, khảo tra, tính toán tội tình của họ đã vi phạm trên trần gian, phân phát đi các nơi để chịu báo ứng. Đến lúc tuổi cuối đời, thu gom tình hình quả báo, đưa đến Phong Đô Diêm phủ để thụ án.

Một số người hay tụng Kinh trên trần gian hoặc các tăng ni đạo sĩ siêng năng tụng Kinh, phạm tội bị giải xuống Diêm phủ, do có tụng thông dị kinh, chú ngôn, cho nên các địa ngục không được dùng cực hình để họ chịu khổ báo, sẽ áp giải họ đến bổn điện. Dựa theo tên tuổi, ghi rõ tội hình đã phạm, sẽ vẽ ra bản mặt xưa của họ, căn cứ theo cuốn sổ có tên gọi là “Sổ Đọa Lạc” áp giải giao cho Tôn Thần Bà Mẩn lên đài Quên Lãng, cho họ uống canh mê hồn, đưa cho lính quỷ đem đi đầu thai thành người, trong lúc để họ chuyển kiếp, chết ngay trong bụng mẹ, hoặc chết sau khi mới sinh ra một đến hai ngày, hoặc mười ngày, một trăm ngày, một năm, hai năm, cho chết nhanh chóng để cho họ mau quên hết lúc trên trần gian đã học các nho ngữ, đạo của tôn giáo và thông kinh. Sau đó, đưa tiếp họ cho các lính quỷ hung dữ, đưa họ trở về với các địa ngục, thẩm tra những chuyện ác mà kiếp trước họ đã làm, bổ sung thêm khổ báo.

Tất cả những hồn ma có công ít mà lỗi lầm nhiều và đã đủ kì hạn chịu tội. Lập tức được cân đối công và tội của họ, xác định phước báo của kiếp sau. Để họ đi đầu thai: có số kiếp sau sẽ được xinh đẹp, có số xấu xí, có số đời sống an vui, có số nghèo khổ. Đã xác định xong địa điểm loại hình nào phú quý giàu sang hoặc gia đình nghèo khổ để đầu thai, sau đó đưa đến bậc đài Quên Lãng của Bà Mẩn để uống canh mê hồn rồi đi đầu thai… Khi điểm danh tại bổn điện chuẩn bị đưa đi đầu thai thành người, thường có những phụ nữ khóc lóc năn nỉ cầu xin thà làm quỷ đói chứ không muốn làm người, vì còn thù oán chưa trả báo.

Sau khi tra hỏi tội hình phát hiện: đa số là những cô gái chưa có gia đình hoặc một số cô gái có tính giữ trinh tiết, đã cho số thanh thiếu niên bất lương không học, trung học sinh, hoặc đại học thương yêu, ham sắc đẹp và muốn lừa gạt tiền tài của họ. Đã dùng đủ mưu kế và thủ đoạn để chiếm đoạt. Có số đã nói tôi chưa vợ, hoặc đã ly dị vợ, tôi nhất định sẽ cưới cô làm vợ; có số thì hứa sẽ nuôi dưỡng song thân già yếu của họ hoặc hứa sẽ nuôi dưỡng con của chồng đời trước. Nói chung, người xưa có kiểu cách lừa gạt của người xưa, người hiện đại cũng có kiểu của người hiện đại. Đều nói lời ngọt ngào để dụ dỗ tình cảm của phái nữ, tạo cho họ dâng hiến cả đời và nghe theo yêu cầu của đàn ông đó.

Sau khi họ đã trao thân, họ đùa bỡn một thời gian, nảy sinh sự nhàm chán sẽ bỏ quên chuyện hôn nhân như đã hứa hẹn, không chịu thực hiện lời hứa. Còn nói ngược nói xuôi tung tin bậy bạ, làm mất uy tín của họ, làm cho cha mẹ anh chị em bạn bè bên nhà gái biết được dẫn đến bị người xung quanh khinh thường, trách móc. Không nơi để giải oan khuất, dẫn đến phải tự vẫn hoặc do uất ức thành bệnh mà chết đi. Sau khi chết xuống âm phủ mới biết được, hắn là một tên phản bội lừa gạt. Lần này lại được thi đậu trúng tuyển, cho nên căm hận trong lòng, mới cầu xin ở lại để bắt hắn đền mạng.

Sau khi Diêm Vương điều tra, quả nhiên đúng sự thật nhưng do thọ dương của hắn chưa hết. Đồng thời phước đức của tổ tiên để lại cho hắn lại chưa hưởng hết. Bổn điện sẽ cho phép và cấp tạm giấy thông hành của Diêm phủ cho ma nữ này đi đến chỗ thi tuyển của hắn, cản trở quấy rối việc thi cử của hắn hoặc trao đổi danh sách trúng tuyển, chờ khi hắn đến ngày cuối đời sẽ cùng dẫn đến Diêm phủ tra hỏi, móc hồn đến điện thứ nhất phán xử tội tình nặng nhẹ.

Người trên thế gian, nếu có thể vào ngày mười bảy tháng tư, lập lời thề nguyện, tuân thủ nội dung của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, cảnh giác làm việc và thường đưa nội dung trên giới thiệu cho bà con thân thiết, khi kiếp sau đầu thai sẽ không bị người đời khinh bỉ, hình sự về các tai nạn lửa nước...

Địa điểm của Sở Chuyển Kiếp, có diện tích rộng một trăm mười một ngàn hai trăm dặm (111. 200), xung quanh đều có rào sắt. Trong đó chia ra thành 81 khu, mỗi khu đều có đình đài và Phán Quan và Sứ Giả ghi chép án sự. Ngoài hàng rào, có những đường nhỏ riêng biệt, tổng cộng có mười tám ngàn đường nhỏ, đường quanh co thông đến tứ đại bộ châu. Trên đường tối đến nỗi giơ tay mà không thấy được năm ngón, từ quỷ chết đến đầu thai đều phải đi qua con đường này. Nhưng từ ngoài nhìn vào thì trong như thủy tinh, tất cả sự việc không thể che giấu được. Phán quan sẽ phái sứ giả, lính quỷ thay phiên nhau canh gác, các ma quỷ ra vô đều hiện diện mạo lúc đầu, rất dễ phân biệt.

Tất cả những sứ giả quán xuyến công việc này đều là những người lúc trên trần gian sống có hiếu với cha mẹ và thương yêu trưởng bối và bà con thân thích, làm việc công khai. Đồng thời là người kiêng việc sát sinh, giữ giới, năng làm việc công đức, sau khi chết đưa vô xứ sở này, phụ trách quản lý tra xét các việc luân hồi, chuyển kiếp. Sau khi làm việc này hết năm năm, nếu như không có sai sót thì sẽ cho thăng quan tiến chức để ban thưởng. Nếu như làm việc lười biếng, chuyên quyền tự phụ, tuỳ tiện xử lý hoặc lạm dụng chức quyền để xử việc hoặc không chịu phối hợp các phán quan khác để phát sinh sự cố, gây cho các ma quỷ chạy trốn thì sẽ bị cách chức chịu phạt.

Tất cả những người khi sống trên trần gian mà không hiếu thảo với cha mẹ, các bà con trưởng bối, lại sát sinh, những linh hồn làm ác, sau khi đã chịu những cực hình trong các điện địa ngục xong, sẽ được đến Sở Chuyển Kiếp. Trước tiên sẽ bị dùng cây hoa đào đánh đến chết, sau khi chết sẽ biến thành “tiệp”, rồi cho họ thay hình đổi mặt đưa xuống đường lối nhỏ, sẽ đầu thai thành súc vật.

Tất cả các loại cầm thú, cá, sâu bọ, phải trải qua hàng ngàn hàng vạn lần chuyển kiếp luân hồi mới mãn hạn chịu khổ. Các loài vật như voi bò ngựa và các súc vật thuộc loài đẻ trứng như rùa, rắn, chim bướm, ong các loài sâu bọ đều không ngừng trải qua nhiều lần chuyển kiếp luân hồi, không được thoát khỏi tứ sanh này, đợi đến khi mãn số kiếp, nếu liên tục ba đời không sát hại sinh mạng, mới được đầu thai làm người.

Những số từ động vật chuyển đầu thai thành người, được liệt kê danh sách trong sổ sách rõ ràng, trình lên điện thứ nhất để phán đoán nhân duyên của họ trong kiếp sau. Sau khi phước báo xong, mới chuyển đến trong tứ đại bộ châu, đầu thai thành nam hoặc nữ. Trước khi đầu thai, phải giao đến đài Quên Lãng.

----------------           


Chương 3 - Mục 11: Đài Quên Lãng và Mạnh Bà Thần
Số từ: 1235
Mạnh Bà Thần quản lý đài Quên Lãng

Mạnh Bà Thần ra đời vào thời kỳ Tây Hán, khi tuổi thơ luôn hăng say đọc tứ thư của nhà Nho, lúc tuổi thanh xuân đã đọc Kinh niệm Phật. Bà đã tu hành đến mức không quan tâm đến việc quá khứ và chuyện tương lai. Lúc còn sống trên trần gian, chuyên tâm khuyên răn người không sát sanh, phải ăn chay. Lúc năm tám mươi mốt tuổi, nhan sắc trở lại như thơ, còn giữ trinh nguyên. Bà chỉ nói là bà họ Mạnh, nên ai cũng đều gọi bà là Mạnh Bà A Nải. Sau khi vào trong núi sâu tu luyện, vẫn còn sống đến thời Đông Hán.

Trên thế gian có số người do có linh cơ thâm hậu, có thể đoán được nhân quả của kiếp trước, vì thích đùa giỡn khoe khoang thuật số, nên đã tiết lộ thiên cơ của âm dương, dẫn đến người trên thế gian nhìn thấy nhớ lại người thân kiếp trước của mình, gây xáo trộn trình tự nhân duyên của trần gian. Cho nên, Ngọc Hoàng Đại Đế kêu gọi mụ Mạnh Bà là tri thần của Diêm phủ, xây thành Quên Lãng, cho phép bà được sai lính quỷ trong Diêm phủ. Chỉ định và đưa đến điện thứ mười, những hồn ma được chuyển đi nơi nào sẽ tận dụng thuốc của trần thế, hợp lại một chất như rượu nhưng không phải là rượu, chia ra thành năm khẩu vị: cay, đắng, tân, chua, mặn.

Tất cả các ma quỷ trước khi đi chuyển kiếp đều phải uống loại thuốc này, để cho họ quên hết những chuyện của kiếp trước. Đồng thời, sức lực của thuốc sẽ duy trì đến trần gian, tạo cho họ phải có một số ít bệnh tật như lo lắng nhiều bị cảm phải chảy nước mũi, hoặc do cười vui và lao động nhiều phải toát mồ hôi, hoặc ưu sầu đau lòng phải chảy nước mắt. Người sống trên trần gian thường hành thiện, sẽ tạo cho họ tứ chi và mắt tinh tai thính hơn trước, mạnh khỏe hơn. Còn người làm ác thì đầu óc không minh mẫn phải tiêu hao tinh thần trí óc nhiều, nhanh chóng suy yếu và mệt mỏi nhằm cho họ tự suy nghĩ và biết sám hối. Sửa đổi tà ác, làm lại việc thiện.

Đài Quên Lãng đặt tại điện thứ mười, ngoài cầu lục của điện Diêm Vương, đài cao một trượng, xung quanh có tất cả một trăm lẻ tám gian phòng. Có một lối đi thông đến hướng Đông, tất cả các nam nữ ma quỷ được áp giải đến đây, được đưa vào các phòng. Trong phòng đều có ly để kêu họ uống vào loại thuốc đó, uống nhiều hay ít cũng được. Nếu như có những ma quỷ gian xảo và ngoan cố, không muốn nuốt vào loại thuốc đó thì chân của họ sẽ mọc ra dao móc. Móc chân họ lại và lính quỷ sẽ dùng ống đồng đâm vào cổ họng của họ, để cho họ bị đau đớn không được động đậy và sẽ ép họ uống thuốc đó vào.

Tất cả ma quỷ sau khi uống thuốc này vào, các phái lính quỷ sẽ dắt họ từ thông lộ đi ra, đẩy họ bước lên chiếc cầu treo thắt bằng dây thừng tên là cầu Khổ Trúc. Dưới cầu là một hang đá có dòng sông chảy xiết. Đứng trên cầu nhìn ra phía trước, trên bờ đối mặt có một tảng đá màu đỏ. Có bốn hàng chữ to màu vàng kim, chữ ghi:

Vi nhân dung dị tác nhân nan
Tái yêu vi nhân khổng càng nan
Dục sinh phuớc địa vô nan sở
Khẩu giữ tâm đồng tất bất nan.

(Sống làm người đã khó, làm người tốt còn khó hơn.
Chết rồi muốn trở lại làm người thì còn khó gấp bội
Muốn được đầu thai đến nơi phước lành không khó
Chỉ cần tâm khẩu đồng nhất thì được rồi)

Lúc những ma quỷ đang đứng xem và đọc, phía bờ bên kia đột ngột nhảy ra hai ma quỷ vừa cao vừa to lớn, nhảy xuống mặt nước, làm cho các ma quỷ ai ai cũng hốt hoảng đứng không vững. Nhìn kỹ lại, một ma quỷ thì đội mũ ô sa, thân mặc lễ phục, tay cầm bút và giấy, trên vai có một đao sắc, trên eo có treo dụng cụ tra tấn, mở to hai con mắt nhìn lên và cười ha ha rất to lớn, có tên gọi là “Hoạt Vô Thường”, còn một ma quỷ khác mặt nhìn dơ bẩn, chảy máu đầm đìa, thân mặc áo trắng, tay cầm bàn tính, trên vai vác một túi gạo, trước ngực đeo đầy giấy tiền vàng bạc, đôi mày co lại, hét rất to. Có tên gọi là “Tử Hữu Phân”.

Hai đại ma quỷ này, hối thúc những hồn ma quỷ và đẩy họ rớt xuống con sông có nước đỏ chảy ngang và đưa vô trong một hang đá. Những hồn ma có căn khí đạo hạnh mỏng thì vui mừng hoan hỷ vì sắp có thể được sanh thân người. Những người có căn khí đạo hạnh cao thì đau khổ khóc lóc kêu gào, tự hận mình lúc trên trần gian không tu tốt để có thể siêu thoát hồng trần để cho thân xác này không còn đau khổ trong luân hồi nữa.

Những hồn ma nam và nữ như vừa khờ vừa say từng bước dõi theo nhân duyên của họ, đến các nhà có người mang thai và chui vô bụng người thai phụ để chuẩn bị đầu thai. Do sự thay đổi của âm phủ và dương trần, không khí ngột ngạt, cộng thêm trong bào thai lật ngược, buồn bực cho nên dùng sức đôi chân đá một phát, đạp khỏi bào thai, rời khỏi bụng mẹ, hét lên một tiếng “Oa” và sẽ bắt đầu một đời mới của họ.

Tất cả chúng sinh, do suốt tháng quanh năm mê muội các thứ ngũ dục, mùi vị, nhất là sát sinh nhiều, ngày càng che khuất đi Như Lai Phật tánh của chúng sinh, phụ ơn đức của Phật Bồ Tát và Ngọc Hoàng Đại Đế, phụ ơn khuyên nhủ của các Thần minh, không chịu nghĩ phải làm thế nào để hoàn thiện mình, để có thể trở thành Phật Bồ Tát; làm như thế nào để khi chết không phải đọa lạc vào tam ác để chịu cực hình đau khổ; chưa bao giờ nghĩ đến tương lai của mình sẽ như thế nào khi kết thúc, để lặp đi lặp lại lao vào những ác nghiệp, cuối cùng lại thành ma quỷ, uổng công một đời trên thế gian của mình, vả lại còn phải đọa lạc vào địa ngục thành ma quỷ chịu cực hình đau khổ.

Những điều khoản và các quy luật như trên sau khi quan văn thư của đài Quên Lãng đã ghi nhận xong, cung kính trình lên cho Ngọc Hoàng Đại Đế và sẽ biên soạn vào trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thông hành đến trần gian, để người đời trên trần gian hiểu rõ, hành thiện trừ ác.

----------------           

Chương 4 - Mục 1: Ký sự về “Cầu Tự Tập Đường” ghi lại
Số từ: 2536
1. Năm người con đậu thủ khoa thành danh

Tại huyện Đại Hưng có ông Hoàng Phương Châu là người trong thời đại triều Thanh Khang Hy, làm quan tại huyện Hồi Dương, cùng phu nhân hay hành thiện tích đức làm công quả. Lúc ông đang giữ chức làm quan đã từng quyên góp tiền để in ấn mấy chục cuốn sách như “Kinh Kim Cang”, “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”, “Âm Định Văn Quảng Nghĩa” và phu nhân của ông cũng tùy hỷ góp tiền in ấn một ngàn cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để biếu tặng bố thí.

Vả lại, thường xuyên mua cá, chim để phóng sanh, số lượng cũng trên hàng trăm ngàn con, hai ông bà có năm người con trai: Thúc Lâm là Tham Hóa của thời Khang Hy, Thúc Kính là tiến sĩ, Thúc Kỳ là cử nhân, Thúc Hoàn cũng là tiến sĩ và Thúc Tuyên cũng là giáo sư tú tài, đều đạt được công danh và có học lực rất cao.

2. Con cháu được thăng quan tiến chức

Ông Liêu Quốc Duy là người của huyện Giang Tô, tiến sĩ thời Minh Triều nhưng ông ở tại gia không đi làm quan. Thường ngày ông hay mua những loại sách thiện nói về chuyện nhân quả báo, luôn sao chép lại để tặng cho người khác. Đối với những sách có rách đều tự tay vá lại cho hoàn chỉnh.

Có một năm, gặp mùa hạn, ngũ cốc thất thu, rất nhiều nhà phải chịu cảnh đói khát, ông lập tức bố thí lấy lương thực trong nhà ra để cứu trợ cho dân làng; gặp trong làng có bùng phát dịch bệnh, ông mua ngay thuốc phối ra có hiệu quả để cứu người, mở lòng miễn phí chữa trị bệnh cho dân làng.

Cho nên, cả nhà không ngừng thiện báo, con trai Huệ Viễn, Thuận Trị vào năm Đinh Mùi thi đậu vào cư vị tiến sĩ, cháu nội Liêu Đan cuối năm Đinh Mùi đã thi đậu làm trạng nguyên; con trai của Liêu Đan Nhựt Tháo là bảng nhãn của năm Đinh Mùi. Con trai của chú Liêu Đan, Liêu Kỷ là Hàn Lâm của năm Qúy Sửu; con trai của Nhựt Tháo, Chí Nhơn là hàn lâm của thời Càn Long; Đôn Nghĩa là tiến sĩ của năm cuối Bính Thìn. Con cháu mấy đời đều vinh hoa phú quý, tất cả đều là quả báo do sự hành thiện của ông.

Tại Duy Dương lưu truyền cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” trong đó có bảng sao chép của Liêu Đan.

3. Liên tiếp đậu trạng nguyên, đời đời phú quý

Bàng Nhất Am tiên sinh tại Trường Châu là một người hành thiện tu đức, gặp năm thu hoạch không tốt, ông nhất định ra sức cứu trợ; khi thấy những cuốn sách có ích chỉ dẫn cho người hành thiện tu đức, lợi ích cho xã hội; nhất định ông sẽ in tặng.

Con trai ông, ông Bàng Định Cầu cũng hành thiện, đã từng sao chép cả trăm cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để truyền lưu. Sau đó, ông trúng tuyển vào chức trạng nguyên. Cháu cố của ông, Tử Khải Phong cũng thi đậu cử nhân, trạng nguyên. Đến nay, con cháu vẫn phú quý dồi dào.

4. Tam quý tử đăng khoa vinh quang

Ông Từ Trúc Đình tại khuynh sơn là bạn đồng nghiệp với ông Nghiêm Văn Tịnh, khi ấy trong tỉnh Tô Giang, Triết Giang bị lũ lụt. Nhân dân chịu cảnh đói khát, ông kiến nghị với cấp trên mở kho dự trữ để cứu trợ đồng bào, cứu sống được rất nhiều người.

Con trai của ông tên Khai Tế, làm việc trong tôn đường Minh Thi. Gặp bọn cướp giam hơn trăm người phụ nữ, giam trong nhà họ Từ, kêu ông Khai Tế canh chừng. Kết quả ông đã lén lút tặng tiền lộ phí cho đám phụ nữ và thả họ về, vả lại còn tự đốt căn nhà của mình để cho bọn cướp khỏi sinh nghi, khỏi phải chạy rượt đuổi họ. Lúc phóng lửa, ông ôm cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” dẫn cả gia đình trốn bọn cướp đi đến huyện Thái Khang. Suốt đời ông đã in rất nhiều cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

5. Lâm chung thăng thiên, con cháu đậu trạng nguyên

Ông Thái Bội Lam tại Hồ Châu, bình thường rất kính hiếu với cha mẹ, từ thiện với mọi người, sống tiết kiệm, rất thích bố thí cứu trợ cho người nghèo khổ. Mỗi khi gặp những gia đình nghèo khổ có người lâm bệnh, ông nhất định bố thí thuốc men; nếu những nhà đơn chiếc nghèo khổ đến xin ông cho mượn tiền, ông cho mượn đều không ăn lời. Trên đường gặp phải phụ nữ, trẻ con làm rớt tiền tài, không dám về nhà gặp người lớn, ông đều tìm cách đền bù giùm họ.

Một ngày, ông phát hiện nội dung cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có thể khuyên giải cảnh tỉnh cho thế nhân, nên ông quyên góp tiền cho ông văn thư sao chép lại tặng cho mọi người để khuyên hóa thế nhân.

Ông hưởng thọ được tám mươi bốn tuổi, ông với tư thế ngồi thiền niệm Phật mà đi. Người hàng xóm nhìn thấy có gặp tiên đồng tiếp dẫn ông thăng thiên. Cháu cố của ông tên Tôn Khải Tuân, là trạng nguyên thời Khang Hy của năm Canh Mậu.

6. Con cháu nhập gia hiện quý

Ông Từ Văn Kính tại Hàn Quận, làm quan cao cấp tại triều đình, rành thuộc các đạo lý, lễ nghĩa tu đạo, thích nghiên cứu về Thích, Đạo, Nho các sự tích tam giáo thánh hiền. Thường ngày hay thu thập tài liệu và cho xuất bản các loại sách như “Tu Hành Kính Tín Lục” dẫn đạo thế nhân hành thiện.

Bà Thái phu nhân mỗi ngày đều tụng Kinh và thành kính niệm hồng danh của Quan Thế Âm Bồ Tát hàng ngàn lần, cũng thích bàn chuyện nhân quả báo với mọi người.

Ông đã từng phiên dịch ra cho phí Trung Đông những cuốn sách như “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và “Tri Bảo Toàn Tập” hy vọng người người biết hối cải hành thiện. Gặp những năm mất mùa, ngũ cốc bị thất thu, nhất định ông sẽ quyên góp tiền để cứu trợ cho thân tộc.

Con trai ông tên Bổng đạt thạc sĩ. Một con trai khác tên Kỷ, làm quan tuần võ; cháu nội tên Hào cũng giữ chức làm quan còn một cháu nội khác tên Hàn cũng giữ chức làm quan, cả họ con cháu của ông đều thi đậu vào khoa giáp.

7. Ba quý tử thi đỗ tiến sĩ

Ông Trương Mẫn Kỳ, đảm nhiệm chức trưởng quan của tỉnh Hà Nam, ông tại chức cùng hành với liêm chính ân uy. Việc ông thích thú nhất là in ấn các loại sách như “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, “Âm Định Văn Quản Nghĩa”, “Văn Chương Liên Trì Đại Sư Kiêng Sát Sanh”.

Ông ghét nhất là những cuốn sách truyện tranh tài liệu khiêu dâm, đồ vật cờ bạc, phá thai, tuyệt sản, tư liệu tà dâm. Mỗi khi điều tra ra có người sáng chế hoặc xuất bản những đồ vật này, ông đều tăng nặng hình phạt; đối với người mà vây bắt được những đối tượng như trên thì ông sẽ hậu hậu trọng thưởng. Khi có gia đình nào bị nạn đói khát, không cần phân biệt phải đi bao xa hoặc khác làng, ông đều đến tận nơi để cứu trợ.

Phu nhân của ông khi nghe nơi nào cần in hoặc sao chép sách Kinh và sách khuyên giải hành thiện, dù có phải bán đồ và trang sức của mình, cũng nhất định quyên góp.

Hai vợ chồng ông có năm người con trai, con cả tên Học Dượng là tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, con thư hai tên Ứng Tạo tiến sĩ khoa Kỷ Mùi, con thứ ba tên Thiệu Hiền cũng là tiến sĩ khoa Kỷ Sửu; con trai thứ tư tên là Xí Linh là cử nhân khoa Tuất Tý; còn con trai thứ năm tên Ôn Chánh là tú tài khoa Qúy Mậu.

8. In tặng sách thiện, con cháu phú quý

Ông Tưởng Xuân Phồ tại Trường Thục, gia cảnh tuy giàu có nhưng sống rất khiêm tốn, giản dị, là một người sống rất bình dân. Khi ông thấy những sách hoặc các văn chương khuyến thiện, ông nhất định kêu con cháu trong nhà sao chép hoặc in ấn, không bao giờ tiếc tiền, thật là một người có phẩm đức cao thượng.

Con cháu của ông ta cũng noi theo phước đức của tổ tiên, gặp việc hành thiện, không bao giờ chối từ. Như in những sách như “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, “Thái Thượng Cảm Ứng” và sách kiêng sát sanh, truyền bá và kính tặng, số lượng đếm không xuể.

Cháu nội tên là Phận; có công danh; cháu cố tên Ý, thi đậu tiến sĩ thời Khang Hy vào năm Qúy Sửu, cháu cố Trần Tiệt, năm Giáp Sửu thi đậu bằng tiến sĩ; Đình Tiệt, năm Qúy Mùi cũng thi đậu bằng tiến sĩ; do tín ngưỡng và in tặng sách thiện, con cháu đời sau của ông đều thi đậu trúng tuyển tiến sĩ, phú quý, thịnh vượng.

9. Bố thí thuốc men cứu người, vinh dự bổ nhiệm chức Thành Vương

Vào giữa năm Gia Thiện, ông Hồng Thiệu Đỉnh tại Nam Xương Phủ Tây Giang, lúc còn trẻ theo học y khoa môn nội ngoại khoa. Năm mười chín tuổi, đã từng đọc cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, khi đọc được trong điện thứ hai có nội dung nói “chỉ hạ bất minh” (tức khám bệnh cho người chỉ qua loa không kỹ), lấy thuốc trị bệnh để chuộc lợi thì bị chuyển tiếp đến tiểu địa ngục chịu cực hình tiếp. Tin và kính ngưỡng, đã bố thí thuốc men để trị bệnh cho rất nhiều người và sao chép cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nói cho người trên thế gian hiểu biết, hy vọng tất cả mọi người cảnh giác, biết sám hối.

Vừa phát đại lòng tin, trị bệnh không tính toán tiền bạc, không phân biệt giàu nghèo. Khi gặp có người bị bệnh nguy kịch, phải sử dụng nhân sâm, nếu người bệnh đó nghèo khổ, mua không nổi thì ông sẽ thái nhân sâm ra từng miếng nhỏ, trộn vào chung các loại thuốc khác, bán giá rẻ cho họ để trị bệnh. Tận dụng tiền thưởng thu được của người giàu có, cứu trợ cho các người bệnh nặng khó chữa. Nếu như gặp năm thất thu đói khát thì không ngồi kiệu mà đi bộ để khám bệnh cho bá tánh.

Phu nhân của ông rất hiền năng, luôn tuân thủ ý nguyện hành thiện của người chồng. Khi mùa đông, cho dù mặc áo quần bằng vải thô cũng không một trách hờn.

Trong ngày mừng thọ tám mươi tuổi, tự nhiên ông nhìn thấy trên trần cao của phòng khách treo lên một băng-rôn màu đỏ, trên có dòng chữ màu vàng: “Phùng Thiên Đế Mạng”, Hồng Thiệu Đỉnh đến tỉnh Phúc Kiến nhậm chức Thành Hoàng. Ba ngày sau, trong nhà khi đang thay áo tắm rửa, ông lìa đời trong trạng thái ngồi. Tất cả con cháu của ông trong sự nghiệp đều rất thành công và danh tiếng.

10. Đốt đèn cứu nạn, con nhập trung đường

Ông Trần Tiên Sinh là vọng tộc của huyện Hải Ninh. Vào buổi tối ông thường đốt đèn dầu treo trên các phố xá, để tiện cho những người về khuya đi đường. Đồng thời, bố thí thuốc men cho những người bị bệnh khó chữa, vừa xây nghĩa địa, mồ mả cho những người chết không người thân chôn cất, để tránh thi thể bị bỏ nơi hoang dã. Ông còn thường xuyên truyền bá cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và các loại sách khuyến thiện.

Ông trời trả báo cho gia đình ông Trần cũng rất to lớn: Con cháu phú quý, có rất nhiều vị đảm nhận chức vụ tiến sĩ, thạc sĩ trong trung đường. Đến nay, rất có danh tiếng trong tỉnh Triết Giang.

11. Tứ đại gia tộc, thiện đức khánh gia

Tại Triết Giang nơi Hàng Châu, được danh tiếng là giàu sang phú quý, thời Thanh Triều có bốn đại gia tộc là: họ Quan, Vong, Tôn, Triệu, gia tộc họ đều thuộc người chuyên lấy vạn vật và lợi ích, cứu trợ cho người gặp nạn, không than phiền, không chán nản.

Nói riêng về họ Quan, như ông nội của Quan Quy, lúc được thăng chức làm quan vẫn không ngừng cầm bút thêm chú thích cuốn sách thiện “Đan Quế Tập”.

Nhà họ Vong thì bố thí, biếu tặng “Tử Hà Đan” luôn bố thí thuốc men cho người nghèo khổ. Cả mấy đời vẫn không ngừng.

Nhà họ Tôn thì thường biếu tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để đánh thức cảnh tỉnh cho thế nhân.

Nhà hộ Triệu thì tôn kính tuân thủ chỉ thị trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. In tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và bố thí quan hòm giúp những người nghèo khi chết không tiền chôn cất, vào mùa đông còn biếu tặng áo ấm cho người bị cảm lạnh.

Bốn đại gia tộc như trên, luôn xem cứu giúp người là một chuyện phi thường. Cho nên, không chỉ hiện nay gia cảnh giàu sang phú quý và rất nhiều con cháu cũng giàu sang, tích lũy thiện hành, được trời ban phước lành, những sự kiện trên là một chứng cứ thực tế. Tôi rất thành tâm, thành ý đưa những gì tôi nhìn và nghe thấy ghi lại, để người đời tin tưởng làm việc thiện nhiều hơn.

12. Phát tâm in sách thiện, thăng chức

Ông Tiền Đường Dư từng nói: cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này, là một cuốn sách nói về luân hồi quả báo. Ông nội của tôi là Ông Văn Kính, đã từng in ấn sách này biếu tặng để mở rộng thiện tâm, được trời trả báo lại rất nhiều chuyện phước lành.

Mùa thu năm ngoái, có một người bạn cùng học chung tên là Hà Hữu Kiều, trong mơ nhận được khai thị, phải in ấn trăm cuốn sách biếu tặng cho người. Ông cũng tặng cho tôi một cuốn, khi tôi đọc được sách này, trong lòng rất có cảm xúc, muốn in ấn biếu tặng để mở rộng công đức nhưng không có đủ vốn để thực hành.

Vào mùa xuân năm nay, ông may mắn bất ngờ được thăng chức nhận được tiền chúc mừng của những người thân thiết, ông sử dụng số tiền đó in ấn ra năm trăm cuốn sách để mãn nguyện lòng mong muốn.


----------------           

Chương 4 - Mục 2: Ký sự ba điều thiện báo của “Kha Nhuận Đường”
Số từ: 879
1. In ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” thi đậu liên tiếp

Người đồng hương với tôi, ông Trần Trọng Trường, lâu nay rất ngưỡng mộ thiện lý trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Nhưng nghĩ gần những khu này không thể mua được cuốn sách này, rất hối tiếc.

Có một ngày, ông đi đến một miếu cổ trong thành thị Tô Châu để thắp hương, rất may mắn được biếu tặng một cuốn. Sau khi đọc xong, ông rất kinh ngạc, tóc dựng hết lên. Cho nên, nói với một ông sư xuất gia quen biết: “Sách Thiện trên thế gian, chưa từng thấy có cuốn sách hay như thế. Không chỉ các người có trí tuệ đọc xong có thể tỉnh ngộ mà một số người phổ biến khi nghe hay vẫn hiểu rõ đạo lý bên trong, cũng sẽ cẩn thận về hành vi của mình. Và sám hối những gì mình đã sai phạm”.

Nên ông phát tâm nguyện theo nguyên sách như ban đầu, giao cho một nhà xuất bản để in ấn, truyền bá đến lâu dài, thành tâm mong muốn người trên trần gian đều quy tụ với thiện đạo.

Ba năm sau khi in ấn, con trai ông tên Bửu Kiệm, tham gia thi cử trong tỉnh huyện, đã thi đậu cử nhân vào năm Giáp Tuất, tham gia hội thi cũng đậu hạng nhất, đã mang danh dự về cho cả làng xóm. Đấy chính là trời ban phước cho thiện nhân, có thể nói là rất lớn, rất nhanh và rất rõ ràng.

2. Bán bảo vật cứu người, thăng quan thượng thư

Ông Ưng Đại Hiến tại Triết Giang Đài Châu, khi ông còn đọc sách tại xóm làng bên vùng núi, có một ngày, đang đốt đèn dầu sao chép cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đột nhiên nghe được đám ma quỷ đang bàn tán và nói: “Tại nơi kia có người đàn bà, vì chồng đã thời gian lâu chưa về nhà, bố mẹ bên chồng ép gả bà ta cho người khác. Nhưng người đàn bà này sống rất trinh tiết, không bằng lòng, ngày mai nếu bị ép quá, sẽ treo cổ tự tử, chúng mình sẽ tìm được người thế thân rồi”.

Ngày hôm sau, ông Ưng Đại Hiến đi tìm hiểu và đúng sự thật như hôm qua mình nghe được. Ông trở về phòng đọc sách của mình, lén lút đem chiếc đàn hiệu và đồ cổ của ông nội để lại cho mình đi bán được bốn lượng tiền bạc. Lấy thân phận của chồng, viết ra một lá thư gửi về an ủi người phụ nữ kia và bố mẹ, vừa gửi số tiền đó cho gia đình họ. Khi bố mẹ họ nhận được thư và tiền, tin tưởng người con trai của họ bình an, cũng không còn ép gả người đàn bà kia lấy chồng khác, tự nhiên bà ta sẽ không còn muốn treo cổ tự tử nữa.

Thời gian không lâu, người chồng của bà ta trở về đoàn tụ với gia đình thật. Đối chiếu với nhau về chuyện trên, cũng không biết ai đã làm ra chuyện tốt như vậy.

Qua không lâu, ông lại nghe thấy bọn ma quỷ nói với nhau: “Theo thường lệ, chúng mình có thể tìm được người để thế thân, nhưng do ông tú tài này đã phá hoại chuyện tốt của mình, một con ma đứng bên cạnh mà nói:” Tại sao không gây họa cho ông ta để trả thù?” Con ma này lại nói: “Ông ta thường chép “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để khuyên thế gian, còn có lòng từ bi cứu giúp người, Ngọc Hoàng ban lệnh cho ông ta làm Âm Đức thượng thư, chúng mình còn có thể gây họa cho ông ta sao?”. Sau này ông Ưng Đại Hiến đã thực sự thăng quan làm thượng thư.

3. Kiêng ăn thịt bò, cầy được thăng quan giáp khoa

Ông Châu Thuần Phu lại Lư Châu, học thức cao nhưng công danh lại không thuận lợi, thi cử thường không đậu, tuổi tác thì cũng qua bốn mươi.

Có một ngày, tình cờ phát hiện sự thê thảm của việc mổ xẻ trâu bò và đọc được nội dung trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nói về ký sự trong điện thứ sáu. Trong đó, có điều liên quan đến việc kiêng ăn thịt bò, thịt cầy, cho nên cả nhà tuyên thề, không ăn thịt bò, thịt cầy nữa và sao chép truyền bá cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cảnh tỉnh người đời. Cũng trong năm đó, ông nhập học luyện thi, không bao lâu tham gia thi cử đã thi đậu giáp khoa. Đến nay, con cháu phú quý muôn ngàn.

Trong sách có ghi chú: ba chuyện trên đã nêu, đều là sự thật chính mắt nhìn thấy tai nghe được, không phải chuyện bịa đặt. Từ đó, cho thấy: sự phú quý vinh hoa của đời người, cũng tác động theo những việc hành thiện mà có, do mình đã âm thầm trồng quả phước lành. Một lần nữa khuyên mọi người thành khẩn tuân thủ quy luật trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.


----------------           

Chương 4 - Mục 3: Ký sự về cứu độ mẫu thân
Số từ: 2544
Doãn Đức Sơ là con trai của ông Doãn Cảnh An tại Tây Dương Châu tỉnh Tứ Xuyên. Mồ côi cha lúc 7 tuổi nhưng gia đình giàu có. Mẹ của ông mang họ Thiệu, thấy ông ốm yếu, bệnh thường xuyên, rất lo âu. Một ngày, nhìn thấy cuốn sách hướng dẫn nấu ăn; sử dụng canh hầm gà tơ có thể bổ nguyên khí. Từ nay về sau, mỗi bữa cơm đều giết mổ một đến hai con gà, hầm thành canh cho ông ăn. Vả lại còn nuôi rất nhiều gà con, mỗi ngày đào sâu bọ cho gà con ăn, đợi gà lớn rồi giết mổ.

Lúc ông Doãn Đức Sơ năm mười lăm tuổi, mẹ ông đột ngột bị bệnh da liễu, toàn thân như bị sâu ăn, gà mổ thành một đốm một đốm, chữa trị vô hiệu, đau đớn đến không ngồi dậy nổi nhưng do không hiểu rõ đạo lý của sự nhân quả báo, vẫn còn sai người làm giết mổ gà.

Đức Sơ đọc sách rất nhiều, nhìn thấy mẹ lâm bệnh sử dụng rất nhiều phương thức vẫn chữa trị không lành bệnh, thấu hiểu đây chính là sự trả báo của nghiệp tội. Lập tức nghiêm cấm người giết mổ gà và dẫn mẹ đến chỗ ở thời thơ ấu, nhìn thấy đống rác như ngọn núi nhỏ toàn xương và lông gà. Nhưng người mẹ không tin. Người mẹ lâm bệnh lâu ngày mà vẫn không có tiến triển tốt, đau đớn đến bảy năm rồi chết thảm. Trong lúc hấp hối, họng phát ra tiếng như gà gáy và tiếng sâu hét, còn dùng tay cào cào da thịt của chính mình, đau đớn đến lúc chết đi.

Ông Doãn Đức Sơ nhìn thấy cảnh thê thảm này, thầm nghĩ trong nước mắt: “Vì bổ dưỡng thân thể của mình mà sát hại biết bao sanh linh. Mẹ mình mới phải chịu sự trả báo chết một cách thê thảm như vậy. Tôi thật sự là người con bất hiếu, tôi quyết định phải kiêng sát sanh làm công quả, để chuộc tội bất hiếu của mình mới được. Như thế ông đã tuyên thề sẽ không sát sanh nữa”.

Một năm sau, có một cô Linh được gả đến nhà họ Tiền làm dâu, do lúc sinh đẻ bị băng huyết mà tử vong. Sau khi chết, vong hồn của cô ta bị chiêu đến điện thứ nhất. Diêm Vương xem hồ sơ của cô Linh trong cuốn sổ, xét thấy mạng sống đúng là phạm vào phải chết do sanh khó. Sau đó, lính quỷ chuẩn bị áp giải cô đến điện thứ hai để chịu tội. Lúc này, có một quan viên sau khi xem xét lại hồ sơ, đã kiến nghị và nói: “sau khi kiểm tra lại, cô Doãn này đã từng ba lần khuyên giải bố mẹ chồng không nên thiêu đốt những sâu bọ trong các cây bị khô héo và khuyên chồng tranh thủ in ấn sách “Sát Sanh Giới Diệu Hoa Kinh” năm ngàn tờ, quyên góp tiền hỗ trợ in ấn cuốn “Ngư Lam Quan Âm Phóng Sanh Kinh” ba ngàn tờ, Ông Thần Tào Quân của nhà họ tâu lên thiên đình và được phê duyệt tăng thọ thêm ba mươi lăm năm cho cô ta”. Diêm Vương sau khi nghe xong hợp tay lại nói: “được” lập tức sai lính quỷ áo xanh, đưa cô ta lại hoàn dương.

Vừa mới bước ra chánh điện, đi đến cửa đỏ, nghe thấy có tiếng kêu thảm thiết: “cô Linh” cứu tôi! Khi cô Linh định thần nhìn lại, thấy một người đàn bà đầu tóc bù xù, da thịt đầy máu đang kêu cô ta, nhìn kỹ lại mới biết đó là bà Thiệu, mẹ của Doãn Đức Sơ, vừa khóc vừa nói: tôi bị trả báo dưới âm phủ rất đau khổ, khi hoàn dương, nhất định phải nói với con trai tôi là Đức Sơ, làm việc thiện nhiều để giảm nhẹ tội cho tôi, tôi sẽ gặp nó trong mộng để chứng minh. Nói xong, có một người đầu tóc màu đỏ, tay cầm chĩa nhọn, đâm vào cổ họng của bà ta mà kéo đi.

Cô Linh hốt hoảng, hồn quy nhập xác, đột ngột thức tỉnh, liền đem chuyện đã thấy trong âm phủ nói cho Doãn Đức Sơ biết. Ông Đức Sơ lập tức cầu siêu vong linh cho mẹ và thành tâm khấn Phật, mỗi mùng một và rằm mười lăm đều thắp nhang cầu Phật Tam bảo phù hộ cho mẹ được thoát khỏi cảnh đau khổ. Nhưng trong mười chín năm nay, cũng không gặp được mẹ trong mộng.

Vợ của ông Đức Sơ họ Thi, tổ tiên bên nhà nàng kiêng việc sát sanh, hay in ấn kinh sách. Có một ngày, Đức Sơ đến nhà họ làm khách, tự nhiên trong đống tủ sách tìm thấy cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” bản cổ xưa, rất vui mừng, đem về nhà sao chép, tổng cộng sao chép thành một trăm hai mươi cuốn. Khi biếu tặng đến một trăm lẻ tám cuốn sách, vừa đúng là ngày Lễ Nguyên Tiêu của năm Canh Ngọ.

Đang nằm nghỉ ngơi, mơ thấy mẹ dùng bàn tay vuốt lên lưng bàn tay của mình và nói: “Đức Sơ, con rất có hiếu! Hôm nay mẹ mới được thoát khỏi sự đau khổ trong địa ngục, hoàn toàn do công đức của con làm là truyền bá cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, nam nữ trên trần gian đã có 4 người, khi đọc được sách của con mà biết thức tỉnh hoàn thiện. Bây giờ, Diêm Vương dưới âm phủ đã cho phép ta được báo mộng về cho con, để chứng minh hành vi thiện đức của con và cho phép hồn ta được trở về nơi chôn cất, (tối đa hạn chót vào 23 giờ cho đến 1 giờ khuya ngày mười tám) đưa đến nơi phước lành để đầu thai. Đức Sơ có thể nhờ vào công đức này mà tăng cường tuổi thọ!”.

Đức Sơ vừa khóc vừa hỏi hiện cha mình đầu thai nơi xứ nào? Mẹ trả lời: cha con do lúc còn sống giàu có, đã hưởng thụ quá nhiều phước phần nên đầu thai làm một thư sinh nghèo nàn. Nhưng do từ nhỏ đến lớn luôn tìm hiểu và biên tập những cuốn sách về nhân quả, nay trở thành giàu sang phú quý rồi. Lại hỏi thêm sống tại tỉnh nào? Huyện nào? Thì không được nghe trả lời mà thấy bị đẩy đi và tỉnh giấc.

Nhìn thấy vợ mình ngồi kề bên, kể hết tình tiết trong mộng cho vợ nghe, người vợ không tin và nói: “do ông suốt ngày ngồi viết cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” mà bị ma nhập trong tim, mới có những cơn mộng ly kỳ quái dị như thế”. Khi trời sáng, Đức Sơ vì muốn minh chứng sự thật, đi và đứng trước mộ của mẹ, thắp nhang cầu và vái nói: “Hôm qua con mơ gặp mẹ nhưng không biết chuyện mơ là thật hay giả, nếu như có thể mơ thêm một lần nữa để minh chứng thì con sẽ có lòng tin hơn”.

Ngay đêm hôm đó, Đức Sơ lại gặp mẹ trong mơ, rất giận dữ chỉ vào mặt nàng dâu mà trách “người trách chồng mình cả ngày lo sao chép cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” không thời gian chăm sóc cô và đã từng lén lút xé nát năm cuốn, những việc thiện có thể sắp bị cô hủy hoại. Bây giờ, tai họa sẽ rời cô không xa, còn dám nghi ngờ cảnh trong mộng của chồng! Cô thật là một người đàn bà không tốt!”.

Khi Đức Sơ thức tỉnh, hỏi người vợ có chuyện đã từng xé bỏ năm cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Cô ta biện minh mà nói “Đức Sơ à, ông đúng là bị ma nhập rồi. Chuyện của ông có ba điều tôi không thể tin được:

+ Thứ nhất: Nhà của ta thuộc kiêng sát sanh, không bao giờ mua những sinh linh động vật còn sống về bếp làm, thanh tịnh trong sạch như người xuất gia.

+ Thứ hai: Gia đình ta hôm nay thắp nhang, ngày mai cũng thắp nhang, vừa mời thầy sưu đạo sĩ đến tụng kinh cúng bái. Theo tôi, thấy ăn chay niệm Phật là một chuyện tốn tiền tốn phí không có tác dụng gì cả, chứ không tại sao có người chết mười mấy năm mà còn phải chịu cực hình trong âm Phủ? Ông chỉ nhờ công đức sao chép có mấy cuốn sách thiện mà cứu độ được mẹ. Xem giống như là bộ mặt từ thiện của Quan Thế Âm Bồ Tát vậy, rất là buồn cười!

+ Thứ ba: Nói tôi xé rách năm cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”? Những cuốn sách đó ông sao chép. Cũng chính tay ông chép lại, biếu tặng tận tay cho người đời, còn dư lại cũng chính tay ông đem khóa lại.

Đức Sơ sau khi nghe xong nửa tin nửa nghi. Đến buổi tối ngày mười bảy, bà Thiệu lại báo mộng cho gia đình bên nàng dâu và cô Linh, bà ta nói: “Sở dĩ con trai ta không mấy tin lời của ta vì do tác động của người vợ”.

Tiếp đó hồn ma của bà Thiệu quay về nhà, đi vào trong mộng của Đức Sơ và gọi nàng dâu đi đến trước mặt mình, trách móc mà nói: Đồ đê tiện! Mùng sáu tháng bảy của năm ngoái, ngươi cùng với người hàng xóm - Cô Châu Phụng, đang làm nữ công trong nhà ta, đã đem một cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” lén lút bỏ vào giày mẫu. Qua ngày hôm sau, cô giận hờn vì không cho phép cô Châu Phụng vào nhà, đã tức giận xé bỏ năm cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Qua hôm sau buổi sáng ngày mồng tám, em trai của cô tên Thi Phục, đến nhà đã phát hiện chuyện xấu của cô làm, lén lút dùng vải gói lại đống giấy rách, rồi nói với Đức Sơ là đem đi phân phát cho người khác. Về nhà đã chăm chú dán từng miếng giấy lại, cũng may cho sách không bị rách dẫn đến mất nội dung, đấy chính là cử chỉ thiện tâm của Thi Phục, trong âm phủ đã ghi vô sổ lập đại công cho Thi Phục về chuyện này.

Sau đó, do con trai ta Đức Sơ đem cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” giấu kỹ, mới không để lọt vào tay cô để bị hủy hoại. Bây giờ, cô còn nói dối là ba điều không tin nổi của chồng cô không? Tội của cô nặng lắm. Ông Thổ Địa trong nhà đã không còn cản trở các tà ma nhập môn để phá phách, tai họa của cô đang đứng trước mặt rồi. Tôi không nhẫn tâm nhìn thấy cô phải chịu tội chịu khổ!

Nói xong, bước qua giường rồi biến mất, Đức Sơ đã thức giấc ngủ, thị Thi cũng một phen hú hồn vía dựng con mắt lên. Đức Sơ bước xuống giường, mặc áo lại, đốt đèn lên và hỏi vợ lại thêm lần nữa, có chuyện xảy ra như thế, người vợ vẫn còn cứng đầu trả lời “tin thì có, không tin thì không có”.

Vừa nói xong, đột nhiên nhìn thấy có một đống màu đen lăn vào trong giường, người vợ lạnh run cả người miệng đớ đớ nói với chồng: “Sau này ông phải tận tâm sao chép nhiều cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” thôi! Tôi thà tin có còn hơn không có. Đức Sơ sau khi nghe xong, biết được người vợ đúng là có hủy hoại sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, vậy chuyện mẹ mình báo mộng cũng là có thật; đã thầm mừng trong bụng vì mẹ mình đã được đầu thai đến nơi phước lành, thoát khỏi đạo ma quỷ. Về sau càng tin tưởng hơn về cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Đồng thời, người vợ đã mang thai, vừa sợ vợ họa đến trước mắt, mẹ con bất an. Đúng là vừa mừng vừa lo.

Ngày hôm nay, toàn thân người của thị Thi bị sốt cả, đau lưng rất khó chịu. Liền mời bác sĩ phụ khoa đến bắt mạch. Khi bác sĩ khám xong lại nói không phải bệnh phụ khoa nên lại đi mời bác sĩ ngoại khoa đến khám (ngoại khoa của Đông y là chẩn đoán bệnh ngoài da), bác sĩ khám xong chẩn đoán bệnh: “Ngoài da bị nổi đốm đỏ, có máu bầm, mặt lại xanh xao, bệnh tình như thế rất khó chữa trị, vả lại đang mang thai, không tiện phối thuốc để chữa trị”.

Trong khi Đức Sơ đang suy tính, em trai của vợ Thi Phục đến nhà, chị họ cô Linh cũng đến, nhìn thấy thị Thi bị nhiễm bệnh cấp tính, rất kinh ngạc. Cho nên, họ tường thuật lại giấc mộng của họ đêm qua, hai người đều trùng khớp với nhau. Thi Phục nói: “Xé rách năm cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là chuyện có thật. Tội rất lớn, nên phải cầu xin thần linh khoan dung”.

Đức Sơ nghe xong liền đi vào nhà bếp, đứng trước ông Thần Táo Quân tuyên thề: “Xin đại diện cho người vợ sao chép trăm cuốn sách để lưu truyền, chuộc lại tội lỗi trước kia của vợ”.

Lúc đó: Người thị Thi trong cơn hôn mê thức tỉnh lại, hạ quỳ và miệng hô lớn: “Từ nay về sau tôi xin kính ngưỡng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, lấy tiền làm nữ công cho khách và nữ trang của người khác biếu tặng trong ngày cưới bán hết. Mướn người sao chép “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để chuộc lại tội lỗi cho mình.

Vừa nói xong, bỗng dung thấy một người mặc áo đen đi vào trong, đưa tay phớt lên một cái thì bóng đen biến mất. Buổi chiều hôm đó, thân thể thị Thi hạ sốt. Khối u bên lưng cũng biến mất, không còn đau đớn nữa. Sang ngày thứ hai, thị Thi sanh được một cậu con trai kháu khỉnh, được mẹ tròn con vuông.

Sự việc xảy ra như vậy Đức Sơ không dám giấu ai. Mỗi lần sao chép cuốn sách đều nêu sự việc này vào trang cuối của sách, để người người sau khi xem xong biết cảnh tỉnh, tất cả đều tuân thủ và tín ngưỡng: Thị Thi đang là người có tội trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” lại trở thành người chủ công quả của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Sự kiện trên được ghi nhận lại trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” ở huyện Tôn Nghĩa. Ông Qúy Lương nói: lúc tôi ở tại tỉnh Qúy Châu, huyện Tôn Nghĩa nhìn thấy trong trang cuối của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có ghi lại sự kiện như trên.


----------------           

Chương 4 - Mục 4: In ấn sách, mơ thấy tương lai
Số từ: 517
Hà Kiến Mạc, Tự Hữu Kiều là cử nhân có danh tiếng tại Đường Tiền, ông tự ghi lại ký sự từng trải qua của mình khi in ấn cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nội dung như sau:

Vào năm Tuất Dần, giữa tháng tư, tôi làm khách tại nhà họ Cao, đang lật sách trên kệ, tìm thấy cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, sao chép lại một cuốn, khi đọc xong, cảm nhận được đạo lý trong sách, những tình tiết nội dung trong sách, không thể phủ nhận là chuyện không có thật. Vả lại, từ ngữ rất dễ đọc, cho dù người văn hóa không cao cũng có thể đọc hiểu. Cho nên, lập tức nguyện in tặng 100 cuốn.

Qua mấy ngày sau, đọc thêm mấy lần, lại cảm thấy có nhiều sự kiện viết ra hơi quái lạ, không thể hoàn toàn tin hết, đây không phải là điều người không có thể bàn luận và tin tưởng. Nên ước nguyện của mấy hôm trước bị dập tắt, trong lòng không còn quan tâm đến chuyện này.

Khi đến kỳ thi tuyển, vội vàng bước vào phòng thi, đâu còn tâm nghĩ đến chuyện thề nguyện in ấn sách? Khi thi xong ba đợt thi tuyển, về đến nhà, suy nghĩ lại những câu thuật ngữ lúc dự thi, cảm thấy có hai ba câu không thỏa đáng, sợ bị thi rớt, trong lòng rất bối rối. Nghĩ vậy thì mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi. Trong mơ thấy một văn nhân mặc áo chỉnh tề, đội khăn cao trên đầu, có bộ râu dài, nhìn hơi giống ông Tô Đông Ba văn sĩ trong thời đại Tống. Tôi liền kể hết tất cả sự việc trong thi cử và ước mơ tương lai để xin ý kiến ông ta.

Ông ta nói: “Bản tính của ngươi, thường ngày tôi đã quen thuộc rồi, chuyện thi cử của ngươi nhất định trúng tuyển, đừng lo âu. Mấy hôm trước đó ngươi đã thấy cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và có thề nguyện chuyện in ấn biếu tặng, tại sao không thực hiện sớm, tặng cho đại chúng, để quảng khuyên giải thế nhân?”

Tôi quên hết chuyện này đã lâu, khi ông nhắc đến mới hốt hoảng mà nói: “Nội dung của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” sợ không nhất định và có thật”.

Người văn nhân này nói: “Địa ngục trong âm phủ, tức là địa ngục trong lòng người. Nếu như trong lòng người không có những khái niệm ác tâm dẫn đến phải tọa lạc địa ngục thì địa ngục mới trở thành trống không. Ngươi minh bạch đạo lý thì tại sao lại không thấu hiểu chân lý này? Đừng nghi ngờ nữa mà nhanh chân đi in sách!

Tôi choàng tỉnh giấc trong sự kinh hoàng, không dám nói với ai, chờ đến khi công bố kết quả thi tuyển, quả nhiên thi đậu. Cho nên, tôi đã nhanh in ấn 100 cuốn sách và ghi nhận thêm sự kiện trong mộng để làm minh chứng.


----------------           


Chương 4 - Mục 5: Mười điều kỳ nghiệm cầu qua bệnh nguy
Số từ: 3092
1. Cứu cả nhà bị bệnh phát ban

Ông Cao Nhàn tiên sinh của Nhân Hòa tường thuật lại:

Bà mợ của tôi tại Hà Hữu Kiều, năm ngoái tham gia thi cử nhân trong làng. Ngày 11 tháng 9, khi công bố trúng tuyển, tôi đến chúc mừng trúng tuyển cho cậu mợ và có nghe cậu nhắc đến chuyện khi in ấn biếu sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” biếu tặng gặp sự thần kỳ hiệu nghiệm và miêu tả lại sự kiện trong mộng. Sau khi nghe xong rất kinh ngạc. Lúc này, con trai tôi tên Đỉnh Tăng, bị bệnh ban đỏ đã ba bốn ngày rồi vẫn còn chưa ra hết. Mười lăm ngày sau, vợ tôi Thị Phùng và con gái cũng bị bệnh ban đỏ; không bao lâu một học sinh và cô đầy tớ cũng bị bệnh luôn. Trong nhà đang gặp nguy cơ bệnh tật.

Qua ngày hôm sau, tôi đốt nhang và ghi lại một bài văn thư, lực cầu sám hối và xin lập nguyện in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 400 cuốn, mua 300 ngàn sinh linh để phóng sanh. Không đến mười ngày, đã có bốn người hết bệnh. Chỉ có Đỉnh Tăng do sức khỏe yếu, không nhanh chóng thải hết độc tố trong người. Cục bướu bên tai trái cũng từ từ lành bệnh. Thần kỳ nhất là vợ tôi Thị Phùng, đáng lẽ bệnh ban đỏ chỉ là bệnh bình thường thôi, do bình thường làm việc quá sức, trong người tổn thương nặng nên bác sĩ sợ bệnh biến chứng âm tính. Nhưng sau khi tôi đọc văn thư cầu xin, vợ tôi đã toát mồ hôi ra ba lần, ban đỏ hoàn toàn biến mất và đã khỏi bệnh.

Tín ngưỡng Thần linh cầu Phật phù hộ, cả nhà bình an, đã cho thấy sự linh nghiệm của sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Linh nghiệm nhanh như vừa nghe bên tai nên rất tin vào sự kiện ly kỳ trong mộng của cậu Hữu Kiều, thực sự không bị sai lầm.

2. Nghiệm chứng cứu con bệnh hầu phong

Ông Quách Vũ Điền tiên sinh tại Tô Châu nói:

Hà Hữu Kiều là một cử nhân danh tiếng tại Hàn Châu. Vào năm Nhâm Dần, lúc ông đến nhà tôi làm khách, biếu tặng một cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho tôi. Khi tôi đọc đến câu địa ngục trong âm phủ là địa ngục của lòng người, cảm thấy rất kinh ngạc và cho là có lý. Vì thấu hiểu về chuyện nhân quả báo chứ không phải do mê tín dị đoan. Năm Kỷ Mão, cháu trưởng lâm bệnh nguy cấp, tôi đã thắp nhang từ sáng đến chiều để cầu khẩn và thề nguyện in ấn sách này. Khi vừa lập nguyện xong, bệnh tình cháu trưởng có chuyển biến tốt.

Vào tháng hai năm Tân Kỷ này, trai trưởng Dần Lương lâm bệnh viêm họng nghiêm trọng (tên xưa gọi bệnh hầu phong) bệnh tình rất nguy hiểm, trong tình thế cấp bách không biết xử lý ra sao, chỉ còn biết thắp nhang cầu trời cứu nạn, nguyện thề in ấn sách biếu tặng, cầu xin mau được khỏi bệnh. Khi cầu xin xong, con trai trưởng toát mồ hôi xong, nguy chuyển thành an, hiệu quả rất kỳ nghiệm.

Nên để tạ ơn Thần phật đã phù hộ, vì trước kia đã nhờ bạn bè tại Hàng Châu in 300 cuốn sách và đã biếu tặng hết, tiếp theo in thêm 300 cuốn ra ngoài tỉnh biếu tặng, để quảng bá lưu truyền. Tiện cơ hội này để công bố cho các vị quân tử từ thiện, nên triển chuyển khuyên giải, kính ngưỡng sách này, được phước vô biên.

3. Cản người in tặng sách, hồn ma âm phủ đến quấy

Ông La Lượng Phong tại Trúc Tây đã từng ghi chú lại một đoạn văn chương trong cuốn “Tự cầu đường tập” bên nhà họ Lý:

Vào năm Bính Thìn, ông Lưu Hạc Triều tại huyện Sơn Âm, dẫn cả gia đình vào kinh hầu tuyển. Một ngày nọ, dọc đường gặp một phụ nữ mặc áo hồng nói với ông ta: “Lúc tôi còn trên trần gian, muốn in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn. Lúc đó, ông nói in sách này chẳng có tác dụng gì và đã cản trở tôi, làm cho tôi sau khi chết đi không thể thoát khỏi sự tội hình đau khổ trong âm phủ”. Sau khi nói xong chớp mắt đã biến mất.

Ông Lưu sau một hồi rất kinh ngạc và suy nghĩ lại, mới nhớ ra Trịnh Ma Ma là người lúc trước làm mướn cho nhà ông. Hốt hoảng lên! Về đến nhà thì bị phát bệnh. Lúc đang bệnh thường mơ thấy hồn của Trịnh Ma Ma đến quấy rối. Bà vợ Thị Khương biết được sự tình, mau thề nguyện đồng ý in gấp hai lần số lượng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để truyền bá. Miệng ông Lưu Hạc Triều phát ra tiếng nói giống y như tiếng của Trịnh Ma Ma và nói: “Bệnh của chủ nhân là do đã mãn thọ. Cho nên, một mặt tôi đến để báo trước sự việc, mặt khác tôi đến dẫn ông ấy đi xuống âm phủ. Nay do đồng ý vì tôi in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để truyền bá, tôi sẽ dựa vào công đức này tâu dưới diêm phủ để được phước, có thể được siêu thoát, kiếp sau đầu thai thành người. Nếu như có thể tăng số lượng in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” không chừng chủ nhân có thể tăng thọ”.

Thị Khương lại quyên góp tiền để in thêm 400 cuốn sách, phát đi tứ phương bá tánh để truyền bá khuyến thiện. Nửa tháng sau, hai vợ chồng đều mơ thấy Trịnh Ma Ma đến tạ ơn và cung kính nói: “Nhờ cuốn sách thiện này truyền bá, rất may mắn được sám hối tội lỗi trong quá khứ, địa ngục dưới âm phủ đã cho phép tôi được đầu thai thành người. Với lại chủ nhân ông cũng được kéo dài thọ sống và công đức của bà chủ cũng không ít, sau này nhất định được báo phước muôn ngàn”.

Sau khi vợ chồng thức giấc, tường thuật lại thấy chuyện trong mơ đều giống nhau. Vả lại, bệnh tình của ông Lưu cũng có chuyển biến tốt và đã mau chóng khỏi bệnh.

4. Sám hối chuyện quá khứ, hồn ma siêu thoát

Trong cuốn “Tự cầu đường tập” có một đoạn do ông Khầu Đại Vinh nói với ông Lâm Xuân:

Cha tôi là ông Khầu Phục Sơ tại Nam Kinh, sống rất hiếu thảo với ông bà nội của tôi. Mẹ tôi qua đời sớm, tôi là con trai ông tên là Khầu Đại Vinh, cũng rất hiếu thảo, đồng thời thích hành thiện làm việc tốt lành. Nhưng cha tôi Khầu Phục Sơ lại không tin là có quỷ thần và có địa ngục.

Vào năm Nhâm Tý, tôi có đi Tô Châu buôn bán, đem về một cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, tôi cùng cha xem chung với nhau. Cha tôi vừa cười vừa nói: “thật là hoang đường!”. Vừa nói xong đã vứt cuốn sách vào trong hộc tủ. Nhưng tôi lại rất kính ngưỡng, muốn tìm người để in ấn biếu tặng truyền bá, lại sợ cha biết được sẽ mắng chửi, nên đành buông xuôi.

Năm Qúy Sửu, khi cha tôi lâm trọng bệnh và than thở nói với con trai: “Gần đây, ta thường nhìn thấy các ma quỷ tụ tập trong nhà mình phá phách, ta mới tin thật sự là có ma, theo ta nghĩ chắc là cũng có địa ngục. Ta rất hối hận khi không tín ngưỡng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Sau khi nghe được cha tôi nói. Trong lòng mọi ưu sầu đều biến mất, lập tức thề nguyện in ấn 300 cuốn sách để truyền bá. Lúc này, Phục Sơ nghe được phía ma quỷ nói: “Ông ta tuy sắp chết đến nơi rồi nhưng Thần Táo Quân đã ghi lên trán ông ta chữ “Thuân Tuân” lại nghe thấy các ma quỷ khác đang hét lên và nói: “Ngọc chỉ sắp đến rồi, ta mau rời khỏi nơi này, không sẽ bị trừng phạt”.

Bệnh tình của Phục Sơ quả nhiên không bao lâu thì khỏi bệnh, hiệu quả đúng nhanh như thế, không thể để cho người ta không tín ngưỡng vào cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

5. In tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, bệnh nặng khỏi đột ngột

Trong ghi nhận “Nhuận Đường Tập” của Thị Hà nói:

Ông Lưu Đặc Thiện tại huyện Cảnh Lăng Hà Bắc, sinh ra một con trai tên là Thiên Dư, mới được có một ngày, Thiên Dư đã bị bệnh rất nặng, bách dược đều vô hiệu, Bác sĩ nói, Thiên Dư: “Cho dù chim hạc tái thế, cũng khó mà phục sanh, hết cứu được rồi”. Cả nhà rất bàng hoàng nhưng cũng đành phải chịu thôi.

Ông Đặc Thiện xưa nay sống thiện tâm kiên vững, cho nên ông đã thành tâm hướng Trời thỉnh cầu: “Tôi nguyện in tặng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” trăm cuốn để khuyên thế nhân, hi vọng con trai tôi được nhanh lành bệnh”.

Sau khi thỉnh cầu xong, kỳ tích đã xuất hiện. Trong chớp mắt, thân xác con trai đã từ từ khôi phục và khỏe lên, kể cả ông bác sĩ đã từng trị liệu cho cháu cũng kinh ngạc mà nói: “Làm sao có thể như vậy được, làm sao có thể như vậy được”. Tại sao bệnh tình từ sáng đến chiều có thể thay đổi lớn như thế, thật là không thể ngờ.

Như vậy, trải qua điều trị thêm 10 ngày, con trai ông đã hoàn toàn khỏi bệnh. Sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” thật là ân huệ to lớn.

6. In tặng không kịp thời, thọ sống bị ngắn lại

Ông Trần Khắc Hoan tại huyện Thượng Nguyên hay tin bà con của ông tên Phan Cảnh Phong đang bệnh nặng sợ không qua khỏi. Khắc Hoan đã khuyên ông in tặng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” truyền bá, để dựa vào công đức này tiêu trừ nợ oan nghiệp quấy rối.

Lúc này, ông Cảnh Phong đang trong tình trạng hấp hối, hôn mê không nói ra lời, một thoáng mây u ám bay đến và dìu dắt ông ta xuống âm phủ. Trong âm phủ, ông gặp được Thần Đại Sĩ của Quan Thế Âm mà ông nhớ tại nhà nói: “Thọ dương của ông đã hết, nếu muốn kéo dài thọ sống, nhất định ông phải in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” trên 10 ngàn cuốn”.

Cảnh Phong rất là vui mừng, hồi tỉnh lại, đưa lời nói đại sĩ của Quan Thế Âm thuật lại cho người nhà nghe. Người trong nhà cảm thấy rất kinh ngạc, hướng mặt lên trời hứa lập lời thề nguyện in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Nhưng gia đình rất là nghèo khổ, không thể nhanh chóng in theo số lượng yêu cầu. Ông Cảnh Phong hối thúc mỗi ngày nhưng vợ là một người đàn bà, con gái lại thơ dại. Cho dù muốn sao chép, cũng khó mà hoàn thành yêu cầu. Cho nên, đã khóc lóc cầu trời, không biết phải làm sao. Họ không biết là số lượng mình thề nguyện, có thể chia ra thành nhiều đợt nhiều năm in tặng, không nhất định phải in hoàn thành trong cùng một thời điểm.

Do không biết cầu xin được chia ra thành nhiều đợt hoàn thành, nên đã trễ đến mười ngày, Cảnh Phong tự nhiên than phiền mà nói: “nãy giờ đại sĩ của Quan Thế Âm nói: Dưới âm phủ đã chờ đợi mười ngày đã qua, không thấy có một cuốn sách nào đã lưu truyền. Cho nên, không có công đức nào để mà có thể kéo dài thọ sống cho tôi, không còn cách nào cứu nổi”. Sau này, hay tin ông Cảnh Phong từ trần, hỏi thăm sự việc, thật là hối tiếc không nguôi.

Như vậy, sự kiện này cả huyện Kim Lăng đều biết. Thời gian một năm nay, khi có ai lâm bệnh nặng hoặc gặp chuyện gian nan đều lập thề nguyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” người nào có cầu cũng có ứng.

Ông Khắc Hoan không dám nói nhảm, nên đã công khai sự kiện này, để làm minh chứng khuyên thiện thiên hạ.

7. Quyên góp in tặng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, mộng thấy được trị bệnh

Ông Tuyên Hoàn Chương tại Bửu Sơn, trường kỳ bị bệnh trĩ, trị liệu khắp phương đều vô hiệu, rất là đau khổ. Vào tháng ba năm Tuất Thìn, tự nhiên ông đọc được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, ngay lập tức ông phát lên lòng tín ngưỡng. Ông lập tức đứng trước đền thờ Thần Táo Quân, lập nguyện in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và “Tiếc Chữ Thuyết”, “Tập Kính Táo” vv… cầu xin tiêu trừ bệnh trĩ.

Một thời gian, sau khi âm thầm cầu vái. Vào một buổi tối, ông mơ thấy một ông hòa thượng, tay cầm kiếm sắt, đi đến trước mặt ông và nói: “Để tôi chặt đứt cục trĩ của ông!”. Nói xong giơ kiếm lên và chém một phát xuống, ông hốt hoảng thức giấc. Không bao lâu, phát hiện bệnh trĩ của mình cũng biến mất từ nay.

Đây là sự kiện được ghi lại do ông Lưu Bửu Sơ tường thuật lại với ông Qúy Lương.

8. Bệnh nặng sắp chết, in “Bửu Phiêu” được khỏi bệnh

Ông Lô Thiệu Hồng tại Từ Châu, do mẹ bị bệnh nặng đã mời bác sĩ đến chữa bệnh. Bác sĩ nói: “Bệnh tình của mẹ anh rất nặng, không thể nào trị khỏi”.

Nên ông đã thành tâm cầu Phật Tổ từ bi phù hộ và thề nguyện in tặng 200 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, cầu xin bệnh tình của mẹ được thuyên giảm và khỏi bệnh.

Kết quả, không đến thời gian nửa tháng, quả nhiên không cần đến thuốc men mà vẫn khỏi bệnh. Sự kiện như trên là do ông Thiệu Hồng đích thân nói với ông Quý Lượng ghi nhận lại.

9. Hành ác giảm lộc, sách thiện tiêu trừ tội

Ông Trần Quân tại huyện Như Tuyền, năm nay 39 tuổi, làm giáo sư tại huyện Vọng Giang. Vào ngày 11 tháng 6 năm Canh Tuất, trong mơ đi đến trước cửa chùa Địa Tạng Bồ Tát tại huyện Như Tuyền.

Trong chùa có một ông quan viên mặc bộ áo đen, dẫn giải ông ta đến một sảnh chánh điện, nhìn thấy trong chánh điện đang khói nhang mịt mù. Ngoài hành lang che mưa, lính quỷ đứng tấp nập. Trần Quân đứng dưới bậc thềm, đột nhiên, nghe thấy tiếng nói trang nghiêm của Bồ Tát tuyên bố với ông: “Gia đình ông xưa nay sống rất có hậu, nhất là mẫu thân của ông, trinh tiết thanh tịnh, hiếu thảo với cha mẹ, đồng kính Thần lễ Phật. Những thiện hành như vậy, đáng lẽ phù hộ được ông thi đậu khoa minh kinh tú tài, vả lại còn có một cơ hội trúng tuyển vào tiến sĩ khoa giáp đợt một.

Nhưng do ông thường ngày sống tác oai tác quái, không chút hành thiện, đã sớm cho thần linh tước đi hết phước lộc được hưởng của ông. Sau khi ông bốn mươi tuổi trở lên, từ từ ông sẽ gánh chịu những ác báo do chính ông tạo ra. Trước kia, việc không thể tha thứ nhất là trước đây không lâu, có người tặng một cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” ông đã không tín ngưỡng, còn đem giấu những cuốn sách mà người khác nhờ đem truyền bá lại, cản trở việc hành thiện của người đó, tội này của ông rất nghiêm trọng. Sắp tới ông sẽ mất mạng vào tháng tám, không thể nào được miễn tội!”.

Trần Quân sợ hãi giật mình, đã thức giấc. Nghĩ lại lúc ông đi tham gia thi cử tại Kim Năng, có một cậu con trai của giáo sư Huỳnh Vinh Tăng, đã từng tặng ông cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, nhờ ông chuyển đến cho hai vị thí sinh cùng phòng. Do sắp đến kỳ thi cử, không kịp chuyển đưa, đem về huyện Vọng Giang luôn, bỏ trong hộc đựng sách, đã quên chuyện này lâu rồi, đến bây giờ mới sực nhớ đến, đã xong rồi. Nhưng chuyện trong mơ, vừa mơ màng vừa như thật, không thể không tin, cho nên trong lòng nửa nghi nửa tin. Vào ngày 1 tháng giờ Thìn (Buổi sáng 7 giờ đến 9 giờ), đột nhiên ông cảm thấy tay chân lạnh cúm, trong lòng rối loạn, người toát mồ hôi như mưa. Trong cơn mơ màng, cuối cùng ông tin giấc mơ trước kia là có thật chứ không phải giả tưởng.

Nhưng suy nghĩ lại, tội ác tuy nặng, sám hối không chừng có thể miễn được tai họa. Suy nghĩ như vậy, trong lòng cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Cho nên, xin thề được sám hối chuyện trước kia đã làm và lập thề nguyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, “Âm Định Văn Quảng Nghị”, vv… Sau khi viết xong ông đọc ba lần, rồi đốt tờ giấy đó để tâu thần linh.

Ngay đêm hôm đó, mơ thấy một vị thần linh, dẫn ông ta đến một cung điện lớn. Người hầu của thần linh ngoài cửa đi vô, hình như là truyền đạt lại việc sám hối của ông. Một lát sau đi ra, kêu ông tạm thời đi về. Ông có cảm giác giống như là vừa được thoát khỏi tội chết và dặn dò ông ta: “Lời nguyện thề của mình đã phát đi thì phải kiên quyết thực hành, không được buông lãng bỏ quên!”.

Qua buổi sáng ngày hôm sau, tinh thần của ông hình như rất thanh thản, bệnh tình khỏe lại sau khi được điều trị tốt. Những sự kiện như trên là do ông tự tay ghi lại.

----------------           

Chương 4 - Mục 6: Tái bản sách quý được kỳ phương khỏi bệnh
Số từ: 583
Dưới đây là lời tự thuật của cư sĩ Diệu Nghiêm tại Bích Vân tường. Vào tháng năm năm Qúy Dậu, trường của tôi đặt in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, phải đến thời gian một tháng mới hoàn thành, sau đó chi trả tiền in sách. Lúc ấy, con dâu thứ hai sanh đẻ, đang mừng vì được cháu nội. Không ngờ trong vòng bảy ngày nay, cháu bé đêm khuya khóc suốt không ngừng, không chịu bú sữa, mắt chuyển vàng từ từ. Mặt và sống mũi đã biến sắc. Bác sĩ chẩn đoán chỉ là bệnh nhiệt đới. Không hiểu biết là bệnh khẩu ren rốn phong, tức là bệnh phong đòn gánh.

Khi tôi đọc hết các loại sách kiến thức về bệnh lý, đột nhiên tìm thấy một đoạn nói về trị bệnh phong cho trẻ con, nội dung có ghi:

“Tất cả các trẻ sơ sinh, trong rốn có một cọng gân xanh, đi viền theo đến miệng, mắt mũi, chuyển thành màu vàng: bệnh đó được gọi là rốn phong. Có thể trị cấp cứu bằng một cọng dây ngải cứu để trên bụng trước lỗ rốn có gân màu xanh đốt từng đợt, gân xanh tự nhiên rút lại được hơn một tấc; rồi lại bỏ lên chỗ gân rút lại đốt lần nữa, cứ như vậy làm, gân xanh sẽ biến mất. Nếu như gân xanh đã chạy đến lồng ngực thì khó có thể chữa trị được”.

Tôi liền đi kiểm tra kỹ mình của cháu bé, quả nhiên có cọng gân xanh đi lên, sắp đến lòng ngực, nhanh tay trị bằng hướng dẫn của sách thì gân xanh quả nhiên biến mất. Đã thế, bệnh rẹn gây vàng da cũng chưa thuyên giảm, cả nhà rất lo lắng.

Cho nên, con trai thứ Kỳ Sâm mặt hướng Táo Thần cầu xin, thề nguyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 300 cuốn, phù hộ con trai tôi được khỏe mạnh. Sau khi cầu xin xong, mặt của cháu bé chuyển thành màu tím. May cho ông có người phụ nữ thôn quê đến nhà thăm, nhiệt tâm lấy kim đâm nhẹ vào nú răng của cháu bé mấy lần, cháu bé đã bắt đầu chịu bú bình thường, sắc thêm thuốc thang trị liệu, đã hoàn toàn khỏi bệnh. Trong lòng nghĩ, lật sách tìm thấy phương pháp trị bệnh đã là chuyện không ngờ, việc người phụ nữ thôn quê đến nhà càng là chuyện bất ngờ. Những chuyện bất ngờ như thế, không người chỉ dẫn nhưng do thần linh phù hộ cũng có thể là có thật. Nói chung có chuyện bất ngờ xảy ra là có thật.

Sau khi cháu nội của ông sắp đầy tháng thì cháu nội lớn lại sốt cao, đã mười ngày mà không thấy hạ sốt. Tứ chi đã nổi lên từng đốm đỏ, nhìn giống ban đỏ. Sau khi uống thuốc cũng không thấy có chuyển biến tốt. Như thế, con trai trưởng cũng hướng về Táo Thần cầu xin và thề nguyện in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn. Qua ngày hôm sau, con trai quả nhiên bình phục từ từ.

Đây là ký sự phát sinh trong hai đứa con trai của tôi là có thật, để thuyết minh cho cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cảm ứng như có thần linh. Tất cả sự việc như trên đều là sự thật, chúng tôi không dám bịa chuyện.


----------------           


Chương 4 - Mục 7: “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” giải oan hóa thù
Số từ: 1318
1. Giết người không nhận tội, hồn ma lấy mạng

Ông Nghiêm Trặc Lâm là người của Vi Châu, đã hai mươi mốt tuổi xuân. Người bác của ông xưa nay giúp việc buôn bán mậu dịch cho tiệm tại thị trấn Tô Tùng Mậu, Trặc Lâm cũng đi theo học tập việc buôn bán giao dịch. Người bác của ông đang ở tại căn nhà của tổ đường họ Ôn, Trặc Lâm mỗi đêm về đây tá túc.

Có một buổi tối, đột nhiên ông phát điên lên hét to và nói:

“Tôi họ Vương, tên là Vương Thúy, nhập xác để thổ lộ oan tình: Trước kia, chồng tôi cũng họ Vương, tên là Vương Viên, là người của Triết Giang. Nghiêm Trặc kiếp trước tên là Ngô Diệu Trân, là người của Triết Giang, huyện Gia Hân. Khi Ngô Diệu Trân đến làm khách tại Triết Giang, đã làm quen với Vương Viên, hai người thân tình rất tốt. Vương Viên đã từng giao cho Ngô Diệu Trân một ngàn lượng để làm ăn với nhau. Mấy năm sau, khi Vương Viên đến gặp Diệu Trân để đòi lại số tiền, nào ngờ Diệu Trân đã chối không nhận là mình có lấy số vốn đó của ông Vương Thúy. Làm cho ông Vương tức giận lấy dao muốn giết ông Ngô Diệu Trân. Ông Ngô Diệu Trân bắt được con dao, quay ngược lại giết chết ông Vương Viên, trốn về Nam Xương. Tôi, Vương Thúy đã đến huyện Gia Khánh, để tố giác ông Ngô, đã cầm các chứng từ có liên quan cùng với quan sứ đến Nam Xương, bắt ông Ngô về xử án, sau đó tra hỏi định tội và xử phạt toàn quân. Đấy là chuyện lúc thời Càn Long năm thứ 59.

Đến Gia Hưng 6 năm, ông Ngô Diệu Trân được Hoàng Đế ân xá, thả về nhà. Tôi, Vương Thúy do chồng mất, không tiền của, không người nương tựa, khi hay tin ông Ngô về, đã đến nhà ông đòi lại một ngàn lượng. Nhưng ông Ngô vẫn không chịu trả lại một xu nào, thậm chí còn đóng cửa không cho tôi vô, tôi đơn chiếc một mình, không nhà không cửa, trước sự tức giận, đã treo cổ trước cửa nhà ông Ngô. Khi ông Ngô Diệu Trân nhìn thấy rất là sợ hãi, trốn đi xứ khác. Không đến hai năm thì chết.

Đến niên độ năm Gia Khánh thứ 19, Ngô Diệu Trân đầu thai vào nhà họ Nghiêm, tức là Nghiêm Trặc Lâm ngày nay. Oan hồn tôi Vương Thúy lưu lạc tại thành chết oan, không chịu đầu thai. Ba chục năm nay, do ôm oan ức trong lòng, một lòng muốn tìm cơ hội trả thù. Một mạng cô hồn, tìm khắp tứ phương cũng tìm không thấy. Hôm nay, tôi đi đến thị trấn này, đã cho ta tìm được, nhất định phải lấy mạng của Nghiêm Trặc Lâm về gánh tội, để giải oan hận”.

Mỗi khi đến buổi tối, Thị Vương đều nhập xác ông ta mấy lần, làm cho Nghiêm Trặc Lâm tự tay đấm vào cổ, hoặc tự cắn vào bàn tay, gây cho đầu, tay cổ nứt thịt chảy máu đầm đìa. Người nào nhìn thấy cũng sợ hãi tột cùng. Lúc ấy, có một ông tên là Ôn Đình Lãng, năm nay đã ngoài bảy mươi tuổi. Biết được chuyện này và đi đến nhà ông Nghiêm ở, khuyên giải thị Vương: “Sau khi nghe được, biết được chuyện này là có thật. Nhưng mà, oan được giải mà không được dứt, oan oan tương báo, tuần hoàn không nguôi, không biết kết thúc lúc nào không xong. Như đã nói, tiền vàng chưa trả, oan hồn chưa được quy tụ. Tôi đồng ý mời cao Tăng hoặc Đạo sĩ có tu hành, đến cầu phước dưới Diêm phủ, một mặt để được cứu mạng cho Nghiêm Trặc Lâm, một mặt có thể cầu siêu thoát cho người được đến nơi phước lành, như vầy là tốt cho cả hai không?”

Thị Vương miễn cưỡng đồng ý và nói: “Tôi đến cùng chồng, thuyền thì đậu ngay bên sông gần nhà ông Châu. Rất cảm ơn về việc ông giải oan cho chúng tôi nhưng phải đưa tiễn chúng tôi đến nơi đến chốn, phải làm cho tôi chiếc thuyền lớn, dầy tấc hai đôi, tiền bạc đến một trăm ngàn. Ngoài ra, trước khi lên thuyền, phải cầu xin thần linh, nhờ thủy thần giúp đỡ”.

Như thế, việc ông Ôn đã làm theo lời dặn của Thị Vương, hoàn thành xong việc chưa đầy hai ngày, Thị Vương lại nhập xác vào thân thể ông Nghiêm mà nói: “Vọng phu Vương Tiên, đã nhận lệnh đầu thai, vì đang ngưng giữa đường đầu thai, phải chờ đến chỉ thị của âm phủ đưa ra, mới được thả ra đi đầu thai. Oan mạng của tôi còn chưa dứt được, hôm nay tôi đến, nhất định phải lấy mạng của ông Nghiêm Trặc Lâm về”.

Sau này, tình hình mỗi ngày càng nghiêm trọng hơn. Khi mắt nhìn thấy mạng sống ông Nghiêm không giữ được, may cho có một ông tên Thiệt Canh, sau khi nghe được chuyện này, đã đến bàn lại với ông Ôn Lãng Đình: “Tôi thấy chuyện kết oan như vậy, không dùng phương pháp in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là giải quyết không được, lúc trước tôi đã từng in 500 cuốn sách này để cầu siêu thoát cho mẹ. Và mơ thấy mẹ đã được chuyển thế làm người; ông Thiệu Tử Văn đã từng vì mẹ lâm trọng bệnh mà nguyện thề in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 500 cuốn, thì được khỏi bệnh. Như vậy, chuyện này có thể thực thi. Tuy tiền tài của ông Nghiêm Trặc Lâm không đủ sức, chúng ta có thể cùng nhau giúp đỡ”, như thế đại diện cho ông Nghiêm viết một văn thư, đốt đi và nguyện thề in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 500 cuốn, tặng thêm “Cứu khổ Chân kinh” và “Phóng Diêm Khẩu” để giải oan sầu.

Không bao lâu, vào đêm 28 tháng 6, Thị Vương lại nhập xác ông và nói: “Ngọc Hoàng đã ban văn thư đến, tôi đã được đầu thoát, đầu thai đến tỉnh này, oan ức giữa tôi và Nghiêm Trặc Lâm đã được giải quyết”.

Mùng một tháng bảy, ông Hồ Thiện Bồi dẫn một tốp người, mời một đạo sĩ có tu hành đến tụng Kinh cho ông Nghiêm. Đến ngày mùng sáu, tụng Kinh hoàn tất. Ngay ngày hôm đó, khi ông Nghiêm đang ngủ, linh hồn đi theo Thị Vương đến trước mặt thần linh, sau khi chịu 30 đòn roi xong, Thị Vương đã tự tay thụ lý kết oan hoàn tất. Khi ông Nghiêm tỉnh dậy, đối mặt với đại chúng thì thấy hai bên đùi đỏ chót và sưng lên, dấu vết còn đây. Từ nay về sau, oan hồn thị Vương đã biệt tích.

2. Kiếp trước gian dâm, ma đánh thổ huyết

Ông Dương Thành Trai nói:

“Nghĩ lúc trước trong thôn quê có một phụ nữ, ban ngày bị ma đánh đến thổ huyết, bà ta tự nói: “Kiếp trước làm người, đã từng hiếp dâm một bé đồng tử, đồng tử sợ hãi, xấu hổ, đã tự tử mà chết. Bây giờ hiện hồn đến đòi mạng của tôi, sợ không thoát khỏi rồi”.

Ông chồng bà ta lập tức nguyện in ấn ba trăm cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thay thế cầu siêu thoát cho họ và lập bàn hoa quả bánh chay niệm “Cứu khổ chân kinh”. Trải qua 3 ngày, quả nhiên khỏi bệnh”. Sự kiện này trùng khớp với sự kiện của Nghiêm Trặc Lâm.

----------------           

Chương 4 - Mục 8: Tiếp tục sự ứng nghiệm của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
Số từ: 1940
1. Mơ gặp phương thức chữa bệnh, chữa khỏi bệnh đường huyết

Ông Lý Toàn Thái tại huyện Hà Giang nói:

“Tôi trường kỳ bị chứng bệnh đường huyết, mùa đông năm ngoái đã tái bệnh, bệnh tình thật là nguy kịch. Ông anh Giang Hoài Thanh đến trị bệnh cho tôi, có nhắc đến chuyện có cảm ứng khi in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đồng thời bàn đến vụ án oan ức của Nghiêm Trặc Lâm, sau khi nghe tôi rất là kinh ngạc. Lập tức nghĩ đến cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” mà trước kia bạn mình biếu tặng, bấy lâu nay bỏ quên cất trên tủ sách. Sau khi đọc, lập tức đồng ý, in tặng, khi nói xong người rất khỏe, bệnh nghẹt đường huyết cũng tạm ngừng.

Thật là một khái niệm cảm ứng thật lòng, nên lập nguyện in ấn 50 cuốn sách và viết tờ sớ đứng trước bàn thờ Thần Táo Quân thành tâm cầu thỉnh, không bao lâu bệnh tình thuyên giảm được một nửa. Trong lòng nghĩ: Thần và người tương ứng cùng tồn tại với nhau, “tâm tức thần” là ý nghĩa như vậy.

Cho nên, trong lòng cầu thỉnh: “Nếu trong vòng thời gian gần đây mà có thể tiêu tan các sự đau khổ của bệnh tật, tôi nhất định in thêm 100 cuốn”.

Trong lòng nghĩ xong thì ngủ thiếp lúc nào không hay. Khi ngủ nằm mơ thấy một vị bác sĩ nói với mình: “Bệnh của ngươi phải uống thuốc bốn món, một ngày 4 lần”. Khi thức dậy rất là kinh ngạc phương thuốc của Thần chỉ bảo, chính là toa thuốc của ông anh mang đến cho mình, nên tuân theo lời chỉ dẫn mà uống. Không đến 10 ngày sau, kể cả những bệnh trước đây như đốm đỏ trên vòng cổ và bệnh hen suyễn hoàn toàn biến mất, ăn uống cũng trở lại bình thường. Tốc độ cảm ứng của cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” quả nhiên thật là nhanh."

2. In sách kiêng thịt, liên tục khỏi nhiều bệnh

Ông Lưu Tổ Thái tại huyện Hán Dương nói:

“Lúc tôi năm hai mươi tuổi, tôi bị chứng bệnh thổ huyết, một ngày phát bệnh đến ba bốn lần, kéo dài đã ba năm nay, trăm phương ngàn thuốc đều vô hiệu quả. Sau này, xem sách thiện trong đó có ghi kiêng ăn thịt bò, thịt chó có thể giữ không sinh bách bệnh, tức thì lập lời thề nguyện kiêng ăn thịt bò, thịt cầy. Không đến mười ngày, đã khỏi chứng bệnh thổ ra huyết”.

Sau này, cho đến năm 28 tuổi, vẫn chưa có con. Nên thành tâm thương kính chữ và giấy, luôn không dẫm đạp lên những giấy có viết chữ, luôn xếp gọn vào nơi sạch sẽ và đốt đi. Trải qua thời gian 2 năm, quả nhiên sanh được một đứa con trai. Nhưng không đến một tuổi, con trai đột nhiên phát bệnh, thuốc trị vô hiệu, cả nhà hoang mang lo sợ. Ngay đêm hôm đó, cầu xin ông Thần Táo Quân, nguyện in 10 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, xin vào ngày mùng một phát tâm biếu tặng, sau khi phát nguyện xong, ngày hôm sau thì phát bệnh, khi đến ngày mồng một, do chưa chuẩn bị xong, không kịp cấp phát ngay ngày hôm đó, bệnh của con trai lại tái phát. Tôi lại đứng cầu Thần Táo quân, nhất định sẽ phát tặng vào ngày mồng 4, ngày hôm sau, bệnh của con lại hết.

Đến buổi sáng ngày mồng 4, thời tiết âm u, tôi dự định đến tỉnh thành mua sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, khi qua thuyền, ông lái thuyền nói với tôi, gió rất lớn. Do tâm đã quyết, tôi vẫn lên tàu xuất phát. Khi tàu đến giữa sông, đột nhiên sóng tó gió lớn ào tới, mưa rất to. Lan can của chiếc thuyền bị gãy, trong tâm tôi âm thầm nguyện cầu vái thần linh phù hộ, thuyền đừng bị chìm. Không bao lâu, mưa gió đã ngưng, trời sáng lại, đến tối tôi mới đến tỉnh thành, khi chờ lấy sách và phát tặng xong về đến nhà đã thấy con trai tôi ngồi chơi trước cửa.

Sự kiện này chứng tỏ sự hiệu nghiệm khi tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thực sự cứu nguy giải khó, tạo cho người được may tránh nạn. Ký sự này để làm chứng cho những người ưa thích hành thiện.

3. Bệnh ban, hen suyễn, in sách khỏi bệnh

Ông Lưu Quốc Chấn nói:

“Tôi đồng hương với ông Lưu Tổ Thái. Đã từng nghe nói con trai ông ta bị bệnh hoa ban, do in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, lập tức từ nguy chuyển sang lành. Vào tháng 12, cháu tôi cũng bị bệnh hoa ban, sử dụng nhân sâm, các loại thuốc bổ, thuốc quý, đều vô hiệu. Lại thêm bệnh hen suyễn, không ăn uống được, ăn uống đều nôn ra, mệt đến không nói ra lời.

Người nhà rất là lo âu. Ông Vương Tâm Đình khuyên tôi nên in sách thiện tặng thiên hạ. Chợt tôi nghĩ đến chuyện con trai ông Tổ Thái, như trong giấc mơ thức tỉnh lại. Lập tức, hướng về trời cầu vái thần linh, nguyện in 20 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và sách “Âm Định Văn Chú Thích”, 30 cuốn sách biếu tặng thiên hạ.

Không bao lâu, bệnh hen suyễn và bệnh ban đều tan biến nhưng lại mọc ra những mụn nước, trong sách bệnh lý gọi là “Tử cứu mẫu” là những chứng bệnh mang đến tốt lành. Ông Tâm Đình rất là vui mừng, nói: “Nên sửa tên của cháu ông thành tên Tái Sanh”. Như thế tên của cháu tôi đã sửa thành “Tái Sanh”.

Trên trời lúc nào cũng ban phước cho những người có lòng thiện tâm và công đức, cho nên sự báo ứng rất là rõ rệt”.

4. Ký sự trị bệnh khỏi chân

Ông Vương Đình Quang tại huyện Hán Dương nói:

“Tôi lúc nhỏ đã học tập “Kinh Dịch” và “Bát Quái”, cho nên đã hiểu được đạo lý thần ma trong âm dương, mấu chốt cảm ứng sự hung và lành. Sau khi đọc xong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, chuyên lý luận nguyên lý việc nhân quả báo. Những sự việc như trên tuy nhiên liên quan đến chuyện thần linh và hồn ma, không thể chứng minh và chứng kiến hiện thời nhưng trong đạo lý có nói, quả thật chính xác không rời, nhân quả báo Dịch”, ngũ hành, Bát quái âm dương, có thể làm chứng cứ bù đắp quá khứ.

Cháu của tôi tên là Dương Phàm, bị bệnh chân đã từ lâu. Một ngày, tôi ghi một tờ sớ đốt lên cho Thần Táo Quân, xin hứa chia đợt in tặng 500 cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và tặng trước 100 cuốn. Từ đó, bệnh chân dần dần khỏi. Đến khi in tặng đủ số lượng thì bệnh hoàn toàn dứt, thật là một kỳ tích!”

5. Ký sự thoát hiểm bệnh hoa ban

Ông Lưu Đức Hậu nói:

“Trong huyện Hán Dương của chúng ta đang có bệnh dịch, trẻ em bị bệnh hoa ban. Mỗi khi đến mùa xuân là phát bệnh. Vào ngày 22 tháng 12, con trai tôi tên là Tân Nhân, tự nhiên bị nhiễm bệnh hoa ban, đến ngày mùng 2 tháng giêng, tiêm thuốc vẫn không hết bệnh, cả nhà rất là lo sợ. Mau hướng trời cầu cứu, xin nguyện in tặng 20 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đến giờ Ngọ ngày mùng 5, bệnh càng trầm trọng thêm, người bị tái tím, tưởng như là không qua khỏi được.

Ông Đồng Hương Phù khuyên tôi nên cầu cứu thần linh và in tặng thêm 20 cuốn sách thiện, tổng cộng là 40 cuốn, để tăng thêm công đức. Đến giờ Mùi (một giờ trưa), người trở hồng lại. Sau đó, qua cơn nguy kịch, uống thuốc đạt hiệu quả, vài hôm sau, bệnh hoàn toàn khỏi hẳn, không để lại thẹo”.

Đặc biệt ghi lại sự kiện này, để phát ra sức mạnh khi thần linh ban phước.

6. Ký sự về hồn ma lính quỷ bỏ thuốc để móc hồn

Ông Giản Tống Kiệt bị bệnh nặng, không ngờ sau khi sắc thuốc uống xong, người toát mồ hôi lạnh rồi tử vong. Sau khi chết, đột nhiên ông thấy hai lính quỷ tay cầm danh sách dẫn giải đi, ông mặc áo chỉnh tề ngồi lên xe. Khi ngồi trên xe, ông nghe có một người phụ nữ đang chửi bới không ngừng.

Không bao lâu, đến trước cửa một giống như quan phủ, nhìn thấy một vị quan ngồi trên quan đường hỏi, nhìn rất là uy nghiêm. Hai lính quỷ quỳ xuống trình báo sự việc. Khi ông quan hỏi cung gọi đến tên ông Giản Tống Kiệt và truyền ông ta đến trước sảnh, tra hỏi lý lịch quê quán của ông ta.

Ông Giản rất kính nể mà trả lời: “Tôi là Tiến sĩ, người của Vân Nam Côn Minh, hiện tại đang giữ chức trong một quan phủ”.

Ông quan lập tức thoát lên và nói: “Sai rồi! Sai rồi! Đáng lẽ phải là ông quan bên tỉnh Hồ Nam, lính quỷ nhanh tay đưa về trần dương”.

Ông Giản hỏi thăm và nói: “Đưa tôi hồi dương sao, lấy gì làm bằng chứng?”

Ông quan trả lời: “Lúc ông bệnh, bác sĩ cho toa thuốc, trong đó mạ vàng ba phân nhưng lính quỷ theo ông đến tiệm thuốc, dùng tay che mắt ông sửa thành 3 chỉ, đây chính là chứng cứ”.

Khi ông Giản ra khỏi quan phủ, hỏi lính quỷ: “Ông quan trên phủ là ai? Nhìn mặt rất quen”.

Lính quỷ nói: “Ông là một quan viên lúc trên trần gian, vì sống trên trần gian rất liêm chính. Sau khi chết, được Ngọc Hoàng Đại Đế phái đảm nhiệm chức quan tại đây”.

Không bao lâu, hồn của ông trở lại trần gian về đến nhà, ông nhìn thấy người thân và bà con đang ngồi bàn việc ma chay cho ông. Ông cảm thấy người ông ấm lại, tay chân cử động được. Ông thét lên gọi người nhà: “Tôi sống trở lại rồi, mang đem canh nóng cho ta uống!”

Sau khi khỏi bệnh, ông hỏi thăm phu nhân kiểm tra lại toa thuốc, trong đó món mạ vàng cân lại, quả nhiên là 3 chỉ. Rồi kiểm tra lại toa thuốc của bác sĩ, trong đó ghi chỉ có 3 phân thôi.

Phu nhân của ông rất hối hận mà nói: “Khi đem thuốc về, không thời gian kiểm tra kỹ lại, nên mới xảy ra sự cố như trên”.

Ông Giản Tống Kiết nói: “Không phải chuyện do bà gây ra!”

Nên đã kể hết chuyện mình đã từng trải qua cho bà vợ nghe. Mấy hôm sau, ông hàng xóm, người Hồ Nam quả nhiên qua đời. Ông đi tìm hiểu, đúng là ông ta giữ chức quan như ông nghe thấy. Ông Giản Tống Kiệt, đưa chuyện này lưu truyền phát hành, đặc biệt là góp tiền in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để khuyên thế gian. Từ đây về sau ông không ngừng làm việc tốt, vừa được thăng quan. Và con trai ông đã thi đậu vào khoa tiến sĩ.


----------------           

Chương 4 - Mục 9: Những ký sự về việc in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” được khỏi bệnh
Số từ: 2640
1. Phát nguyện in sách - Thần linh tặng thuốc

Con dâu thứ của tôi là Thị Lưu, đã từng bị nhiễm dịch bệnh, cả thân thể nổi lên chấm đỏ. Uống thuốc cũng vô hiệu, bệnh ngày càng nghiêm trọng. Đến ngày thứ 12, bác sĩ nói: “Độc tố của bệnh đã di chuyển vô tim, mạch khí đã tuyệt, rất nguy kịch trong nay mai”, cả nhà đã bó tay. Cho nên, tôi gấp rút đến đền thờ Thần Táo Quân đốt nhang cầu vái: “Nếu như bệnh tình dâu thứ của tôi được khỏi bệnh, tôi đồng ý in tặng 100 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, vả lại khuyên giải người đời kính ngưỡng cuốn sách này để cải thiện”.

Đến giờ khuya canh hai, lại đến trước đền thờ Thần Táo Quân cầu vái thật lâu. Đến giờ canh bốn, cùng với con trai thứ âm thầm cầu vái trong phòng: “Nếu Ngọc Hoàng Đại Đế từ bi, có thể cứu được bệnh của dâu và vợ của chúng con, có thể khỏi bệnh, chúng con cố gắng hết sức mình để khuyên độ thế nhân kính ngưỡng đạo lý của sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”“.

Đến lúc giờ canh năm, người nhà ngủ thiếp đi tại bếp, trong mơ nghe thấy tiếng người gõ cửa. Khi mở cửa ra, nhìn thấy có một lão già, trong tay cầm một viên thuốc màu đen, nói là đến trị bệnh cho Thị Lưu. Vừa nói xong, bước thẳng vô nhà, cùng với con trai thứ cho thị Lưu uống thuốc. Cả nhà đứng ở phòng ngoài mong đợi, đột nhiên nghe trong phòng có tiếng nói: “Phải cử động nhiều!”, ngay lập tức nhìn thấy có một người hầu tay bưng thùng ra. Đột ngột rớt xuống, làm đổ thùng phân, để phân văng đầy mình của người nhà, giật mình thức tỉnh. Chạy vào trong phòng, nghe bệnh tình của dâu thứ khỏe lên nhiều. Sau khi trời sáng, mời bác sĩ đến khám, phát hiện mạch nguyệt đã hồi sinh. Uống thuốc thêm mấy liều, đã khỏi bệnh.

Đây chính là thần linh đã âm thầm phù hộ, là chuyện có cầu có ứng. Ban cho các quân tử thích hành thiện, nếu thấy cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nhất định phải thành thật ban hành chân lý trong sách. Hoặc sao chép in ấn, truyền tặng cho người khác: hoặc truyền cáo những sự kiện như vậy cho người khác hiểu, dùng để khuyên giải đời người cải hóa lòng thiện, nhất định nhận được vô lượng phước báo.

2. Nguy cấp cầu cứu hiện linh ứng

Cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” ghi lại các sự kiện về báo ứng của họa và phước, một mặt để khuyên giải thế nhân, một mặt để hỗ trợ cho người, giải quyết các nguy khó thực tế và cầu vái, thật là một cuốn sách thiện bửu điển có lợi cho nhiều mặt, cho nên tôi rất là kính ngưỡng. Trong nhiều năm qua, tôi liên tục quyên góp tiền để in tặng sách. Vừa tận tay mình cầm bút chú thích, dẫn đạo người vì thiện.

Lúc ban đầu, tôi chỉ cảm nhận những sự kiện trong sách nêu về phước họa báo ứng, hoàn toàn là do tác giả muốn viết ra để khuyên thế gian hành thiện; rất là khả kính, thật sự là mình cũng chưa tận mắt nhìn thấy. Con gái thứ của tôi, gả cho họ Lăng làm dâu, tức là con trai trưởng của Lăng San Hoài, Lăng Trọng Thanh làm vợ. Sui gia bên San Hoài là tú tài gia tộc, cho nên được mời đến gia phủ của ông Triệu Chi Hương làm gia sư, cả gia đình đều dọn đến nơi ấy lập nghiệp.

Ngày 12 tháng 2 mùa xuân năm ấy, thứ nữ đột ngột đau bụng dữ dội, những người nghe được đều không đành lòng. Ông sui cũng thông về đạo y thuật nhưng liên tục uống mấy liều thuốc cũng không thuyên giảm. Trọng Thanh nhìn thấy vợ mình đau đớn như thế, khổ tâm đến rơi cả nước mắt. Khi phu nhân của tôi nghe tin con gái, lập tức lên đường cùng cậu con trai thứ ba ngồi kiệu đến thăm, mẹ con gặp nhau, chỉ có thể cùng khóc òa lên. Phu niệm thê, mẫu niệm con, đệ niệm tỷ, một cảnh nhìn rất thảm khóc, cho dù là lòng dạ sắt đá cũng thương tâm. Con rể khi nhớ đến trời đã tối, mau mời tôi về thôn quê nhưng đã không kịp.

Đột nhiên, con rể của tôi nhớ tôi đã từng nói: in ấn tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” rất có công hiệu khi cầu cứu. Cho nên, nhanh đến trước đền thờ của Thần Táo Quân quỳ cuống cầu vái: “Nguyện in tặng 60 cuốn sách mong cho vợ được khỏi bệnh”.

Sau khi thề nguyện xong, trải qua nửa tiếng đồng hồ, tuy bệnh có chuyển biến tốt nhưng vẫn không giảm đau. Con rể đang suy tính, đột nhiên nghe thấy vợ mình hét lên nói: “Ai cho tôi uống viên thuốc, kẹt trong cổ họng không nuốt được?” Khi nói xong, viên thuốc đã lọt vào trong bụng. Không bao lâu, bụng đã hết đau. Suy nghĩ lại lúc này, trong phòng người thân đều cạnh bên giường, không thấy có ai cho cô ta uống thuốc gì cả.

Đến ngày thứ hai thì bệnh hoàn toàn khỏi, con rể tường thuật lại sự kiện như trên cho tôi nghe. Tôi nói: “Đây chính là linh cảm khi in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thần linh đã ban thuốc thần, con phải cảm tạ lòng từ bi của Thần Phật cứu độ”.

Con rể tôi nói: “Dạ, dạ!”

Thuật lại những sự kiện linh nghiệm như trên, khi dùng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để cứu bệnh, dùng để chứng nghiệm linh cảm của cuốn sách này, đưa cho các vị thiện nhân quân tử, tạo cho người có lòng tin kiên cố. Phổ biến quảng bá, hành thiện cho nhiều, trên trời sẽ ban phước phần cho người có lòng thiện tâm. Cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” so sánh với những cuốn sách khác, thật là có khác biệt rất lớn.

3. In tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” sinh đẻ bình an

Thị Bao là vợ của ông Trần Đạo Mẫn tại Cảnh huyện. Trong năm nay, ngày 20 tháng giêng, đột ngột sanh non với bào thai tháng thứ năm. Đau bụng dữ dội, khi cuống rốn thai đã lòi ra, thật là nguy kịch.

Ông Trần đứng nhìn bối rối, tức thì đến trước Thần ông Táo Quân để cầu vái, thề nguyện in tặng 200 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Sau đó, hài nhi sanh ra an toàn, Thị Bao cũng bình an. Tiếp tục in tặng thêm 200 cuốn sách, thân thể bình phục nhanh chóng.

Đây chính là linh nghiệm của sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Cho nên, tôi ghi nhận lại, để cho những người thích hành thiện tăng thêm một minh chứng.

4. Khi bị bệnh u mắt, in tặng sách được bình phục

Người sống trên đời, chỉ cầu sống đúng với lương tâm là được. Vì lương tâm chính là chân lý, chân lý chính là ý trời. Nếu đúng được với lương tâm của chính mình thì đúng với ý trời. Phải đối mặt làm sao mới đúng ý trời đây? Hành thiện chính là đúng với ý trời, nếu đúng được ý trời, cõi trời nhất định sẽ hỗ trợ cho mình; nếu làm trái ý trời, cõi trời nhất định ban xuống thảm họa chết chóc, đạo lý như thế luôn không thay đổi.

Lúc tôi thời thanh niên, tầm nhìn chưa được thông thoáng tinh vi, tuy hiểu được làm việc tốt là đúng với đạo lý của cõi trời, nhưng đối với chuyện báo ứng của thiện ác, vẫn còn nửa nghi nửa tin. Trong một cơ hội ngẫu nhiên, tôi có được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” sau khi đọc. Thấu hiểu việc thiện không thể không làm, tại vì báo ứng của thiện và ác quả thật không sai. Trong số việc thiện mình cần phải làm; không gì bằng và lớn hơn là khuyên giải được đời người hành thiện và hơn cả việc khuyên giải người hành thiện là bố thí hoặc in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Vợ tôi Thị Giang, năm nay năm mươi tuổi, thường ngày có tâm từ bi, rất là kính ngưỡng cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Trong năm, vào giữa tháng 7, đột nhiên mắc bệnh mắt, hai con mắt mọc lên khối u che hết phần mắt, rất là đau đớn, ngồi nằm không yên, không ăn uống được, tầm nhìn bị kém đi. Tôi nghĩ, bệnh mắt là một chứng bệnh có thật, chứ không phải là do tâm lý gây ra, sử dụng thuốc để đắp, rửa, nhỏ thuốc có thể có hiệu quả chăng. Nhưng đã trải qua 10 ngày, tất cả các phương thức đều vô hiệu, đã hết cách.

Đang trong tình thế không biết phải làm sao, vợ tôi đột nhiên nhớ đến chuyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có cảm ứng trị lành bệnh tật, kêu con trai đến trước đền thờ Thần Táo Quân cầu vái, thề nguyện in tặng 100 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Lập tức, cơn đau giảm đi và ngủ thiếp đi. Đến buổi sáng ngày hôm sau, mắt bớt sưng và mở mắt ra, nhìn hơi rõ. Từ từ cũng dần khỏi bệnh, thông qua sức mạnh của lời thề để đạt được mục đích là phương pháp linh nghiệm hay không linh nghiệm, báo ứng là có hiệu hay vô hiệu, thật rõ ràng, rất là có sức thuyết phục.

Tôi vốn là người huyện An Ưu của Sơn Đông, dẫn dắt vợ con lưu trú đến Thẩm Dương. Lập nghiệp bằng nghề gia sư, nên kinh tế rất là nghèo khó. Nhưng có tâm thích làm việc thiện, mọi khi cầu vái lập lời nguyện, đều không dám thất hứa không trả. Cả nhà ăn ở bình dân, siêng năng làm việc, mới tiết kiệm được một ít tiền, mua một số sách thiện tặng cho người có duyên, hy vọng ai ai đều tin tưởng mà truyền bá với nhau, cùng quy với Thiện đạo.

5. In ấn sách thiện, sự nghiệp thuận lợi

Ông Thăng Văn Khiêm là người huyện Tung Linh của Tứ Xuyên, buôn bán tiệm cơm tại khu phố giới Nhật Bản đường Hậu Vinh “Tứ Thời Xuân”. Ngày 28 tháng 4 năm Canh Thân, vì thay đổi chính sách quản lý, chuyện buôn bán không thuận lợi, nên tắm sạch sẽ, đốt nhang khấn vái: “Nếu như việc làm của tôi làm được thành công, tôi nguyện in tặng 100 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” “.

Rất là kỳ lạ, không đến mấy hôm sau, các việc mình đang làm đều thành công hết. Tôi rất kính ngưỡng bố thí, để trả đáp Thần Phật trên cõi trời ban phước. Và ghi lại sự kiện như thế chủ yếu để khuyên giải thế nhân hành thiện.

6. Tặng sách hóa giải được con cháu phản nghịch

Lúc tôi trung niên thì vợ đột ngột qua đời, để lại cho tôi đứa con trai còn trẻ thơ: vì mưu sinh, tôi đã bỏ nghề gia sư, đi làm nghề bán thuốc, vì nghĩ nghề bán thuốc có thể tự phòng thân, vừa có thể cứu người, làm ăn phất lên, ai ngờ con trai dại khờ, phản nghịch.

Tôi nghĩ, thời xưa, cổ nhân có câu “giữ tiền tài để lại cho con cháu bất hiếu, chỉ làm tăng thêm tội lỗi và hại cho con cháu mà thôi, nếu người biết suy nghĩ, sẽ không làm như vậy”. Cho nên, thà để tiền tài làm chuyện thiện, in tặng sách thiện, mong trời phù hộ ban phước lành cho con cháu đời sau được yên lành. Khi gặp hãng in xuất bản sách thiện, tôi lập tức quyên góp tiền in tặng “Tam Thánh Kinh”, “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” mấy trăm cuốn, sau này lại in thêm 100 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Sau khi in, không ngại ngùng gian khó, vượt núi qua sông, tự tay truyền lưu biếu tặng đến khắp nơi. Đến nay mới ba năm, tôi thầm nghĩ rất là linh nghiệm. Tuổi già, sức khỏe của tôi đã từ từ bình phục, sự nghiệp thì đã được toại nguyện, cả nhà người bình an vô sự, kể cả đứa con trai phản nghịch lại tôi cũng từ từ chuyển hóa hiếu thảo với tôi.

Chuyện không thể ngờ nhất là: lúc ấy, trên địa bàn thường xuất hiện thổ phỉ cướp giật khắp nơi, bà con trong làng nhà nào cũng bị gây rối, tổn hại rất thê thảm. Nhưng có cái lạ là, khi thổ phỉ đi ngang qua đến trước cửa nhà tôi, không hề dám bước vô nhà tôi để cướp và xâm phạm gây rối, theo tôi nghĩ, nếu như không phải kính ngưỡng sự cảm ứng của sách thiện “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, không thể nào được bình yên như vậy.

Bởi cho thấy, khi hành thiện nhiều được trời ban phước, Thần Phật phù hộ. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện như trên để cùng những thiện sĩ khuyến khích cho thiên hạ.

7. Truyền lưu “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” giải trừ thân thể suy yếu

Ông Hồ Lê Hiền tại huyện Lâm Giang, tỉnh Giang Tây, do lo làm ăn buôn bán quá gắng sức nên đã lâm bệnh nặng. Tuy uống thuốc bệnh có thuyên giảm nhưng thân thể rất yếu ớt, khó bình phục như xưa.

Vào một buổi tối ngày 30 tháng 11 năm Nhâm Tuất, ông đứng trước đền thờ Thần Táo Quân cầu vái, nguyện được in ấn 200 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” khuyên thế gian.

Từ đó về sau, tinh thần rất là khỏe, nửa năm sau, quả nhiên bách bệnh biến mất, nên cho thấy linh nghiệm khi in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là không sai chút nào. Xin ghi dựng lại sự kiện.

8. Phụ in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” việc thuận bệnh tan

Tôi tên là Hoàng Anh, làm buôn bán nhỏ. Sau khi xem được xem được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cảm nhận được cuốn sách này có thể cảnh tỉnh người, nên đã quyên góp 300 đồng in sách và giúp nhà sách in ấn bản thảo để in sách lưu thông đến thiên hạ.

Một tháng sau, có một vị khách cũ đột nhiên đến yêu cầu đặt 200 ngàn tiền hàng, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên, vì khách hàng này mỗi năm chỉ đặt giá trị khoảng 100 ngàn đồng tiền hàng, tại sao lại đột nhiên tăng lên gấp đôi?

Không bao lâu, lại thêm một chuyện rất là kinh ngạc: Tôi có cục bướu lớn bằng ngón tay mọc ở phía đùi, đã liên hệ bệnh viện để chuẩn bị làm phẫu thuật, không hiểu tại sao lại tự nhiên biến mất, hai sự kiện như vậy đều phát sinh sau khi tôi hỗ trợ in ấn sách thiện “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Rất làm cho tôi không thể không kính phục.

Tôi đặc biệt nêu ra sự kiện như trên, nếu có nửa lời nói dối, tôi sẽ mang tội về lừa thần gạt thế gian và chịu sự trừng phạt.


----------------           


Chương 4 - Mục 10: Những sự kiện có thật trong thời hiện đại
Số từ: 4661
1. Sám hối in sách, bệnh bại liệt kháng phục

Tôi tên là Tần Bác Cầu, người Quảng Đông Phật Sơn, sinh năm 1930. Mười mấy năm nay tôi bị bệnh sung huyết não, năm 1999 tôi bắt đầu bị liệt nửa thân người, đã tốn rất nhiều tiền và tìm rất nhiều cách chữa trị đều không có chuyển biến tốt.

Sau khi học Phật lý, tôi mới hiểu được đây chính là sự ác báo của tôi, vì lúc tôi còn trẻ có thể nói là đủ cả ngũ độc ác, sát sanh, trộm cướp, ác khẩu đã gây ra rất nhiều ác nghiệp. Bởi vậy, mới phải chịu ác báo trong kiếp này.

Để sám hối ác nghiệp của mình, tôi đã chuyển qua ăn chay trường, mỗi năm phóng sanh một lần, mỗi buổi sáng, chiều, tối đều lạy Phật, in tặng sách thiện, cúng sam “Lương Hoàng Bửu Sam”, niệm kinh “Đại Bi Chú” và luôn niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” xin cầu sanh tịnh thổ.

Trải qua tu hành sám hối, bệnh tình của tôi quả nhiên có cải thiện, cơ thịt phía đùi có thể hoạt động, chi bị tê liệt đã có thể tự chủ động, khi bước chân hơi nhẹ nhàng.

Vào mùa xuân năm 2003, khi tôi được xem cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã thấu hiểu sự nhân quả báo ứng là có thật, nên tôi nguyện in 4000 cuốn để biếu tặng cho bạn bè và bà con thân thiết và gửi bằng đường bưu điện đến các chùa miếu lưu thông truyền bá.

Không ngờ đến tháng 6, bệnh tình của tôi cải thiện càng rõ hơn, có thể tự đi được nhưng vẫn còn bập bễnh. Đến tháng 10, nửa thân người bị liệt của tôi hoàn toàn bình phục, có thể tự đi lại sinh hoạt, tay chân cũng linh hoạt khỏe khoắn, đi đứng như người bình thường, mặt sáng như hồng quang, tinh thần khỏe mạnh, bác sĩ và bà con đều thấy ngạc nhiên, kể cả chính bản thân tôi còn thấy lạ kỳ, làm sao có thể có phép thần đến mức này? Nhưng đây là là sự thật, tôi càng tín ngưỡng hơn về sự hiệu nghiệm của cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Bây giờ, tôi thường phát tâm tuyên giảng về nhân quả báo ứng cho người có duyên cùng hiểu, khuyên người hãy tin tưởng, in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đồng thời phát tâm học Phật lý, quy y tam bảo.

2. Tuyên giảng “Bửu Phiêu” - Giải khó thoát nghèo

Huyện Dương Tuyền tỉnh Sơn Tây có một bà nông dân tên Lý Đông Mai, năm nay 32 tuổi, học lực văn hóa chỉ đến bậc trung học, người chồng đã mất mấy năm trước do bị bệnh. Một mình bà ta một tay nuôi con một trai một gái và người mẹ chồng đã hơn 70 tuổi, dậy sớm về khuya siêng năng làm việc, cuộc sống rất là khó khăn.

Vào một dịp ngẫu nhiên, bà ta ở nhà người bạn thấy được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và “Ký Sự Nhân Quả Báo Ứng”, liền mượn về đọc, một số đoạn đọc không hiểu thì hỏi thăm những hàng xóm có văn hóa biết chữ nghĩa, những người này nói bà ta mê tín, kêu bà ta không nên tin tưởng, khi bà ta đọc xong đã trả lại cho người bạn. Trong lòng nghĩ: đời mình thật là khổ, đã sớm trở thành quả phụ rồi, hai đứa con còn thơ ngây, công việc cày ruộng vừa cực nhọc vừa mệt người, lại phải lo con cái theo học, phải làm sao bây giờ? Đời sống sau này chắc còn khốn khổ hơn nữa, nghĩ đến như thế, không kiềm chế được nước mắt tuôn ra, khóc không thành tiếng.

Bà ta nghĩ ra trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” tuyên truyền những sự kiện về nhân quả báo ứng nếu tích cực công đức nhiều cũng có thể thay đổi số mạng, nên quyết tâm thử một lần.

Ngày hôm sau khi ăn cơm tối xong, đi tắm rửa, thay một bộ đồ sạch sẽ, bày một chén cháo, một đĩa cải mặn, 3 củ khoai lang đặt trên bàn bếp và quỳ xuống lập lời thề, tôi xin được lấy những gì tôi có thể nhớ ra các sự kiện về nhân quả báo ứng trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nói cho 20 người nghe trong vòng thời gian nửa năm, vả lại sẽ không bao giờ ăn thịt bò, thịt chó, sẽ không lấy nồi chảo nhà bếp của mình nấu thịt bò và thịt chó. Hy vọng Thần Táo Quân sẽ phù hộ tôi có thể vượt qua gian nan khó này.

Mỗi buổi sáng, tôi vẫn đi làm ruộng, tối về có thời gian gửi con cho mẹ chồng trông coi, nhanh chạy sang nơi thường ngày hay lui tới trò chuyện với những bạn gái, từ từ đem những chuyện nhân quả báo ứng trong sách truyền lại cho họ nghe, không ngờ sau khi họ nghe xong, họ kể lại những sự kiện về thiện báo ác báo xảy ra ở những nơi gần xóm của họ cho bà ta nghe. Và kết hợp lại nói chung với cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

10 ngày sau, khi bà ta đang nói với người thứ 3 xong. Qua ngày hôm sau, người em trai đã mất liên lạc đã 7 năm đột nhiên đến thăm bà, tặng cho bà 500 quan tiền (thời điểm đó thu nhập bình quân của một người nông dân bình quân 300 quan tiền mỗi năm) và tặng cả mì ăn, đường, bánh… ở lại một đêm thì đi về.

2 tháng sau, sau khi bà ta nói xong cho người thứ 10 nghe, một người bạn cũ ở tỉnh khác gửi thư cho bà, nói là chồng của cô ta đang thành lập một nhóm tổ chức “công trình hy vọng” góp vốn xây dựng trường cho các trẻ em nghèo được đi học, từ tiểu học cho đến trung học, tất cả đều được tài trợ miễn phí, mong muốn bà ta cũng gửi đơn điền đầy đủ thông tin gửi đến chính quyền trong xóm đóng dấu là được đi học. Sau khi xem xong, bà ta rất là vui mừng, cảm thấy cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” thật là linh nghiệm, ngay tối hôm đó, bà ta đứng trước đền thờ Thần Táo Quân tạ lễ bà biểu hiện quyết tâm tuyên truyền tiếp sự kiện và đạo lý về thiện ác nhân quả báo ứng.

Trải qua một tháng sau, bà ta đã hoàn thành việc nói cho 20 người nghe về đạo lý của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Nhưng vẫn không tạm ngừng tuyên giảng về chuyện nhân quả báo ứng.

Sau nửa năm, có người đến giới thiệu cho bà ta một người đàn ông đã góa vợ, tuy có dắt theo một người con riêng, nhưng gia cảnh rất giàu có, hai người cũng hợp duyên. Như vậy, bà Lý Đông Mai nói tôi rất tin vào nhân quả báo ứng và tôi sẽ không ăn, không nấu thịt bò, chó. Người đàn ông đó khi biết được bà ta tin tưởng về quả báo của thiện ác, cảm thấy người phụ nữ như vậy nhất định là một người sống hiền từ và chỉnh chạc, càng vui mừng hơn. Không bao lâu, hai người đã thành hôn, người đàn ông đó đối xử với hai đứa con và bà mẹ chồng của bà ta rất tốt, hiện giờ cả nhà sống cuộc sống rất là mỹ mãn và hạnh phúc.

3. Có cầu có ứng, linh nghiệm như thế

Tôi là người của thị trấn Văn Đăng tại tỉnh Sơn Đông, tên là là Tòng Thụ Đức. Vợ tôi là Thị Trương, vào tháng tư đột nhiên bị đau
tức ngực, đau đến khóc suốt cả ngày lẫn đêm, chữa trị vô hiệu, không ăn không ngủ.

Trong lúc hoang mang, nghĩ đến đã đọc cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có ghi lại nếu thành khẩn tin tưởng này thì có thể cầu phước cầu thọ, cầu con, cầu lành bệnh… Vả lại không có việc nào mà không toại nguyện. Cho nên, tôi âm thầm ngửng mặt lên trời cầu xin: Nếu như vợ tôi có thể khỏi bệnh, tôi sẽ kính ngưỡng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và sẽ in tặng 150 cuốn sách, không ngờ qua ngày hôm sau, cơn đau của vợ tôi đã bớt đi ¼. Qua mấy hôm sau thì khỏi hẳn, quả là linh nghiệm đến thế!

Nên tôi xin ghi lại cho đại chúng biết sự thật là như thế, để tất cả các vị đều biết sự linh nghiệm của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

4. Chia đợt in tặng, vẫn được toại nguyện

Vợ ông Kim Triệu Hưng Thị Phò tại huyện Thông Hóa, vào tháng 7 bị bệnh nặng, trị liệu bằng thuốc và châm cứu đều không thấy có hiệu quả, bác sĩ cũng bó tay.

Khi ông nhớ đến có đọc qua cuốn sách thiện “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” trong đó có nói sự linh nghiệm về trị bệnh, nên ông đứng trước tượng Phật cầu vái: nếu như bệnh của vợ tôi có thể trị khỏi, tôi xin in tặng 1000 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Sau khi cầu vái xong, bệnh của vợ có chút chuyển biến tốt, mời thêm bác sĩ về khám, uống thuốc thêm hai ba thang thì khỏi bệnh.

Vì trong địa bàn của mình không có nơi in ấn sách, cho nên tôi chưa được in sách thiện biếu tặng như lúc lập lời thề nguyện. Đến mùa xuân năm sau, bệnh của vợ tôi lại tái phát, nghĩ đến lần trước đã hứa in sách vẫn chưa thực hiện, lòng áy náy bất yên. Lần này lại thành tâm cầu vái xin Thần Phật phù hộ vợ tôi được khỏi bệnh, tôi sẽ phân ra thành nhiều đợt in sách biếu tặng.

Sau khi cầu xong, vợ của ông ta lại đột nhiên khỏi bệnh, mấy hôm sau có thể ăn uống và đi lại bình thường. Nên ông rủ thêm mấy người bạn có thiện tâm cùng nhau góp tiền in sách như “Kinh Quan Thế Âm” 1200 cuốn, “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 900 cuốn. Do không đủ tiền, số còn lại chia ra mỗi năm một ít, đến khi hoàn thành số lượng mình đã lập lời nguyện.

5. In tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, vạn sự thuận ý

Tôi tên là Tiêu Hồng Đào, gia cảnh rất là nghèo khổ, lúc 3 tuổi mẹ qua đời, do cha nuôi nấng. Năm 14 tuổi, mới được vào học đường theo học, năm 20 tuổi đã đi lính bộ đội, từ sỹ binh rồi đến nhóm trưởng, liên trưởng rồi phó doanh trưởng, cảm thấy rất thuận lợi. Không ngờ, bị người hãm hại, bị hạ chức xuống làm nhóm trưởng, mất rất lâu thời gian mới khôi phục được chức liên trưởng.

Những năm nay, tư tưởng bị chèn ép, tinh thần đau khổ, thân xác mệt mỏi, trị liệu thời gian dài vẫn vô hiệu quả, sau này khi đến nhà người bạn đọc sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” góp tiền in 50 cuốn sách cầu xin Thần Phật phù hộ, khi làm việc công việc tư đều rất thuận lợi.

Cho thấy cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có cầu có ứng và hiệu quả linh nghiệm của việc in tặng sách thiện rất rõ rệt.

6. Cứu nguy trị bệnh, an khang cát tường

Tôi tên là Lý Tử Chinh, năm nay đã 72 tuổi, ngụ tại Sơn Hải Quan. Vì chân có bệnh nên đi lại có vấn đề, biết được sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có linh diệu, nên đứng trước bàn thờ Thần Táo Quân lập lại lời nguyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn, mấy hôm sau bệnh đau chân đã biến mất, đi lại như người bình thường. Tiếp theo lại đi cầu xin được khỏe mạnh. Gia đạo bình an, kính tặng thêm sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 200 cuốn.

Bạn thân của tôi họ Dương, tháng 8 năm ngoái lâm bệnh nặng thường hay trở nên nguy kịch, nên đã cầu vái trước Thần Táo Quân và lập lời nguyện, đồng ý in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn, ngay ngày hôm đó đã khỏi bệnh.

Lại đến con trai trưởng bị đau chân, con trai thứ nhỏ tuổi ốm yếu hay bệnh, nên mỗi người in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn để cầu bình an, đều được toại nguyện. Hiện giờ, cả nhà đều bình an vô sự, cũng đều là linh nghiệm của việc in tặng sách thiện.

7. Ký sự tăng thọ khi in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”

Ông Trần Ưu Dung tại thôn Đại Nghĩa tỉnh Phúc Kiến, bốn anh em đều buôn bán, Trần Ưu Dung làm công tay đại lý khí đốt, ông biết được người bạn có cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và mượn để đọc.

Mẫu thân của ông ta đã 82 tuổi, vào tháng 5 năm 1992, bà phát bệnh nặng, bác sĩ đã tuyên không thể trị khỏi nên ông về nhà mau chuẩn bị hậu sự cho bà.

Ông tưởng nhớ đến ơn đức của mẹ, rất đau buồn lại không làm gì được, đột nhiên ông nhớ ra cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có ghi lại một số ký sự cầu xin tăng thọ và trị bệnh rất là kinh nghiệm. Tối hôm đó, ông đứng ngay trước bàn thờ Thần Táo Quân thành tâm cầu khẩn, lòng nguyện in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để cầu xin mẹ tăng thêm tuổi thọ.

Hai hôm sau, vào một buổi tối, ông Trần Ưu Dung nằm mơ thấy mình đi đến một quan phủ, hơi giống như quan phủ của Thành Hoàng. Ưu Dung thấy mẹ mình đang đi đi lại lại trong đó, trên sảnh không thấy có người, chỉ có một người đang cầm cuốn sổ đang kêu tên Ưu Dung và nói với ông, trời sắp tối rồi, sẽ đóng cửa thôi. Ưu Dung rất hốt hoảng, hét to kêu cháu gái đến rước mẹ đi về. Người đó ngăn lại và kêu ông không được lên tiếng. Ưu Dung như thế đã dắt mẹ trở về nhà.

Sau khi thức giấc, ông đến ngay đầu giường của mẹ để xem, chưa đợi đến Ưu Dung mở miệng, bà mẹ với tiếng yếu ớt kể lại chuyện giấc mộng của bà cho Ưu Dung nghe, không ngờ giấc mộng của hai người hoàn toàn giống nhau. Từ nay về sau, bệnh tình của bà mẹ ngày một khỏe hơn, sau này hoàn toàn khỏe mạnh lại. Cả nhà anh em rất vui mừng, thề nguyện in tặng thêm sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

8. In sách hiếu thảo với người thân, bệnh lành an khang

Tên của tôi là Châu Trị An, người Ba Nhiên, làm nhóm trưởng trong đội quân 18. Năm ngoái, từ Ha Li Ban về quê nhà, nửa đường có người tặng một cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho tôi, sau khi xem rồi, thấy trong sách có ghi lại rất nhiều sự kiện linh nghiệm, nghĩ đến cha mẹ già yếu của mình, mang bệnh trong người đã lâu năm không khỏi, về đến nhà liền đến trước đền thờ Thần Táo Quân đốt nhang cầu vái và thành tâm lập thề nguyện, muốn in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” 100 cuốn, hy vọng có thể phù hộ cha mẹ mình sức khỏe được dồi dào.

Không ngờ, mới in tặng sách xong không bao lâu, bệnh cũ của cha mẹ đã khỏi, sức khỏe từ từ bình phục và khỏe lên, tôi cảm thấy “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” rất là thần kỳ, mình đưa ra không bao nhiêu, nhưng hiệu quả mình thu về vừa nhanh vừa lớn. Cho nên, tôi lại phát tâm in tặng thêm 100 cuốn, hy vọng bệnh khó trị của vợ tôi được trị khỏi. Không bao lâu, bệnh của vợ tôi cũng trị khỏi. Một nhà ba miệng của gia đình, đều được tận hưởng ích lộc của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Cho nên, tôi tường thuật lại sự kiện có thật này và đưa cho các vị có thiện tín cùng xem, đừng bao giờ xem cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là một cuốn sách mang tính chất mê tín mà để mất đi cơ duyên làm phước và tránh nạn.

9. Lập nguyện hỗ trợ in sách, nhanh được chứng thực

Tôi tên là Lý Yến Quỳnh, con trai tôi tên Hoàng Kiến một lòng muốn xuất ngoại du học, ủy thác cho công ty chuyên làm hồ sơ du học để thụ lý, tuy đầy đủ điều kiện và thủ tục nhưng đã hai năm cũng biệt tin không được phê duyệt, đã trải qua biết bao cố gắng vẫn không lấy được chứng thực.

Vào giữa tháng 11 năm 2003, ông cư sĩ Tường Trân kêu tôi thử trợ giúp in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để cầu xin cho việc này. Tôi đến Phật đường trong nhà đốt nhang cầu vái, lập nguyện nếu lấy được chứng thực cho con trai, tôi xin góp 1500 đồng để in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Không thể ngờ, mới đến đầu tháng 12 thì được nhận chứng thực xuất ngoại du học. Vì vậy, tôi thật lòng cảm tạ ơn đức của Bồ Tát, đồng thời vợ chồng chúng tôi mỗi người quyên góp 600 đồng để trợ giúp in sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

10. Truyền mượn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thay đổi số mạng

Ông Kim Minh tại Vân Nam, không thi đậu vào tốt nghiệp trung học, chờ việc tại gia, hai năm nay không có việc gì để làm, rất buồn.

Một ngày, anh đi cùng bạn đến thăm một ngôi chùa, trong phòng đọc sách thấy và đọc được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, tôi cảm thấy cuốn sách có thể cải thiện số mạng của mình, nên xin được một cuốn về nhà.

Anh ta muốn bắt chước theo trong sách mà ghi lại về việc in tặng sách để cầu xin mình được may mắn hơn, nhưng nhà nghèo, còn phải nuôi một người em ăn học, mình lại không có thu nhập nào, cha mẹ mình chưa chắc đã tin tưởng mình. Cho nên, anh ta muốn dùng cách đưa cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho người khác mượn để đọc.

Vào mùng một, anh đến đền thờ Táo quân, nói ý muốn của mình, trong vòng 3 tháng sẽ đưa cho 50 người mượn sách này xem, anh còn chạy đến sau nhà hướng lên trời nói lớn thêm lần nữa. Trong lòng anh ta cũng cầu xin chính mình phải sửa đổi tinh thần hăng hái lên, tỏ ra có lòng tự tin với cuộc đời và số mạng.

Từ nay, anh chuyên giảng thuyết và cho mượn sách cho các bạn học và những người thân của mình biết về nội dung cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, sau khi xem xong lại cho người khác mượn xem, khi anh ta biết được người quen hoặc bạn bè có người bệnh hoặc gặp nạn thì kêu họ dùng cách lập nguyện in tặng sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu để khẩn cầu, quả nhiên đạt hiệu quả.

Sau này, có người mượn sách đã lâu mà chưa trả, trong tay anh ta chỉ còn có một cuốn, ảnh hưởng đến tốc độ cho mượn sách của mình nên lại đi đến chùa xin thêm cuốn Ngọc Lịch Bửu Phiêu. Như vậy, có thể xoay chuyển công việc truyền bá sẽ có hiệu quả hơn.

Sau hai tháng, anh ta đã truyền, cho mượn được 37 đợt người xem, lúc này một người bạn đến tìm anh ta, bà con của người bạn này làm việc tại Thượng Hải, nói Phố Đông mở rộng tuyển gấp các loại nhân tài, kêu gọi anh ta mau tìm mấy người đồng hương đến làm bảo vệ, lương một tháng 800 đồng, được bao ở, không bao ăn, người bạn này trước tiên là nghĩ đến anh ta.

Anh Kim Minh cảm thấy cơ hội khó mà đến, nhất định là cuốn sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu bắt đầu có hiệu nghiệm. Nên cáo từ với cha mẹ, đem theo cuốn sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu cùng với mấy người bạn lên đường đi Thượng Hải. Khi trên xe lửa, anh có thừa thời gian và lợi dụng cơ hội đưa cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” giới thiệu cho hành khách trên xe xem và có tặng hai cuốn sách này cho hai người khách hợp duyên.

Sau khi ổn định công việc, anh ta lợi dụng thời gian nghỉ đến trường dạy nghề để học thêm nghề sửa chữa điện nước và đã lấy được chứng chỉ. Vả lại, còn tuân thủ nguyên tắc trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để làm việc, giúp người là vui nên có duyên hợp với mọi người.

Sau hai năm, có người giới thiệu anh ta đến một doanh nghiệp đầu tư nước ngoài làm thợ điện, lương tháng lãnh cao hơn, điều kiện làm việc cũng tốt hơn, để cảm tạ đức huệ của cõi trời ban cho, anh ta vẫn tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho mọi người hiểu biết, kêu gọi cha mẹ và em trai phải tín ngưỡng cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, anh ta còn vì em trai cầu xin được thi đậu đại học, lập nguyện in tặng 1000 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

2 năm sau, em trai anh ta quả nhiên thi đậu đại học thuận lợi, cả nhà vui mừng đối với công đức của cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, cảm ơn vô cùng.

11. Chia đợt tặng sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu, con mau lành bệnh

Ông Trần Thiếu Thu tại Phúc Kiến được công ty điều đi Thẩm Quyến bàn công việc. Lúc trên tàu hỏa, người ngồi kế bên đang cầm cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” xem một cách say mê.

Trong lúc ăn trưa, Thiếu Thu có hỏi anh ta về nội dung của cuốn sách này, ông nói có thể cho anh ta mượn xem sau khi ăn cơm xong, anh có xem lướt qua, cảm thấy nửa tin nửa ngờ, cũng không cảm thấy có gì đặc biệt.

Sau khi đến Thẩm Quyến làm việc xong, anh được người bạn địa phương dẫn đi khắp nơi tham quan, vui chơi, tại nơi tuyên truyền Kinh Phật cũng thấy được cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nhưng không có xin lấy. Đến ngày hôm sau thì quay về Phúc Kiến.

Sau nửa năm, con trai của anh bị bệnh nặng, tiêm chích và uống thuốc đã hai tháng trời vẫn vô hiệu quả, anh rất sốt ruột. Lúc này, anh nhớ đến cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” nên liên tục 3 đêm đốt nhang cho Thần Táo Quân xin lập lời nguyện, muốn tặng 30 cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để cầu xin cho con trai được mau khỏi bệnh. Anh lại gọi điện thoại cho người bạn tại Thẩm Quyến, nhờ người bạn đến chùa mua giùm 30 cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” gửi về nhanh cho mình.

Mấy ngày sau, sách đã gửi về, anh ta lập tức đem sách tặng cho các bạn bè và người thân, và đồng nghiệp, và khuyên họ phải xem một lần. Sau khi phát được 20 cuốn, bệnh tình của con trai anh ta ổn định nhiều. Sau đó, tìm được một người thầy Đông y, sắc mấy thang thuốc thì hết bệnh. Cả nhà đều không tin được, nên đã tường thuật lại cảm ứng này để quảng bá lưu truyền.

12. Phát tâm in tặng sách được thoát nạn sông biển

Vào năm 1940, tôi tại chức tại Phúc Kiến, ông Mã của công ty thuốc lá có tặng tôi một cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, sau khi đọc xong, cảm thấy là một thuốc bổ để cứu thế gian, rất là quý báu.

Trước hai ngày, khi đưa tiễn vợ tôi về Thượng Hải, tôi mơ thấy có một người mặc bộ đồ màu đen nói với tôi: “Cuốn sách này rất tốt, nếu mà có thể in tặng 1000 ngàn, sẽ trợ giúp cho anh rất nhiều”.

Khi thức tỉnh anh dặn dò vợ mình, sau khi về đến Thượng Hải nhớ in sách biếu tặng.

Lúc ấy, con sông Giáp Giang do chiến tranh bị quân lính phong tỏa, những người đi tàu đều phải đến cảng Phúc Thanh để đáp tàu chuyển tải, người đến Thượng Hải mà đáp thuyền buồm đã chen đầy bảy chiếc thuyền buồm. Trong đó, đã có 6 chiếc gặp sóng gió bị chìm, chỉ có chiếc thuyền mà vợ anh ngồi được đi bình an.

Thật là chuyện không thể ngờ được. Thật là do Thần Phật phù hộ. Y như trong cuốn “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên” đã nói: khái niệm thiện tâm đã dạy trong lòng, tuy vẫn chưa thực hiện bằng hành động, thì đã được ban phước lành, thật là chuyện không sai chút nào, tôi đưa câu chuyện đích thân tôi từng trải, nếu như có nửa lời nói dối, tôi sẽ bị cho xuống địa ngục chịu hình phạt đau khổ.

13. Phát nguyện in truyền sách, được tái hồi sinh

Bà ngoại của tôi tên là Ưu Quỳnh Phân năm nay 78 tuổi, bị tai biến mạch máu não đã liệt nửa người hai mươi mấy năm trời, gần đây lại phát hiện bị bệnh tiểu đường. Vào ngày mồng 9 tháng 5 năm 2004, bà đến bệnh viện của thị trấn Lê Đường khám bệnh. Khi truyền dịch không được bao lâu thì xuất hiện tình trạng khó chịu bất an, tiếp theo sắc mặt trở nên tím tái, không tự chủ được đại tiểu tiện. Hai mắt lật lên, bất tỉnh hôn mê. Cấp cứu không hiệu quả nên chuyển đến bệnh viện Uy Hiệu cấp cứu, cấp cứu khoảng 2 tiếng đồng hồ, bác sĩ nói đã ngưng thở, hết cứu chữa được nữa, kêu người nhà chuẩn bị hậu sự cho bà. Bắt đầu, rút ống khí ô-xy, dọn dẹp các thiết bị cấp cứu.

Thì vào lúc này, tôi nhận được cú điện thoại của người em trai, nói bà ngoại không được rồi, mau trở về nhà. Khi đó, tôi nhớ ra nhiều sự kiện trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, tôi có ý niệm thử xem, tôi liền bước đến nhà bếp cầu xin Ngọc Hoàng Đại Đế, Thần Táo Quân, và các Thần Phật phù hộ cho bà ngoại được chuyển nguy thành an. Và phát nguyện in tặng 100 cuốn sách và cố sức truyền bá lưu thông.

Không ngờ, chỉ trong giây phút đầu, người bà ngoại còn nằm trong giường bệnh như vừa thức tỉnh, hét lên một tiếng yếu ớt. Quả nhiên tỉnh lại! Bác sĩ cũng cảm thấy chuyện rất ly kỳ nên bắt đầu tiến hành trị liệu cho bà, không bao lâu, bà được xuất viện ra về. Đây chính là sự kiện có thật đích thân tôi từng trải, không nửa câu dối trá đặt chuyện.

----------------           

Chương 5 - Mục 1: Quả báo khi Phan Ngưỡng khinh thường “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
Số từ: 510
Phan Ngưỡng là một người có học tại huyện Quế Đông, thường hay vu khống hủy hoại sách thiện, hay phát ngôn sai lầm “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, khi đọc đến điểm chương một có câu “có thấy tử quỷ tay còng” anh lấy viết phê ở kế bên một câu 3 chữ “là chi chí”: lấy bút đen tô mất chữ “Điện thứ bảy”, lại dùng viết nâu tô thêm 2 chữ “mắc cười” vào kế bên chữ “nghiện rượu”, dùng viết màu đen ghi thêm mấy chữ “phụ nữ tự tìm cái chết”, đâu liên quan gì với đàn ông trong chữ “sở chuyển kiếp”, lấy bút nâu ghi lên 2 chữ “nói bậy”.

Trong chữ “Mạnh Bà Thần” lấy bút đen chấm mất mấy hàng chữ. Trong câu “khổ căn khó dứt” khoanh tròn 4 chữ lại, những nội dung sau không đánh chéo thì xóa mất, khi tô đến đoạn “ánh hồng đầy trời khi Quan Thế Âm Bồ Tát giáng trần” thì không biết do nguyên do gì mà nhà đột nhiên lửa bùng cháy lên. Hốt hoảng sợ hãi, nhảy ra cửa sổ mà tháo chạy. Ra được phía ngoài, đột nhiên hai tay bò dưới đất, hai chân lật ngược lại, lật đổ ghế gỗ, không cử động được, giống y bị trói lại.

Vợ anh ta là Thị Tín, thức giấc trong mộng sợ hãi, đã khỏa thân tháo chạy lấy mạng, bước qua người Phan Ngưỡng. Khi con trai anh ta nghe tiếng la hét, không hiểu sao ngơ ngác bước ra tay cầm cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” giao cho ông hàng xóm Lão tiên sinh, nhưng lại bước trở vô trong để lấy tài sản, đã bị lửa thiêu chết.

Lúc ấy, Ngưỡng Chi đã bị trúng lửa, biết mình nghiệp tội rất nặng khó thoát nạn này, thở một hơi dài và nói với đại chúng: “Người trên thế gian chớ nên chua chát như tôi, tự cho không có nhân quả báo ứng, cho mình là đúng, không nên vu khống và hủy hoại sách thiện như “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, để phải gánh chịu tai họa ác báo như tôi hiện giờ”. Nói xong thì tắt thở. Xác thịt trên người bị lửa thiêu cháy nát hết, bị chó tranh giành cắn xé.

Người vợ của anh ta, sau khi thoát ra khỏi, cảm thấy không còn mặt mũi ở tiếp nơi này nên đã rời đi khỏi, trên đường tá túc đã hoang dâm với kẻ ăn mày. Bà ta mới tuổi 33, nhan sắc cũng được, nhưng vì thông dâm với kẻ ăn mày rồi, nên muốn tái giá cũng chẳng có ai dám lấy, bà con thân thiết cũng không nhìn. Không bao lâu, kẻ ăn mày lìa đời, bà ta lại cùng với người hầu trước kia dọn đến nơi xứ xa. Từ nay về sau không ai biết được tin tức của bà ta.

Những sự kiện như trên ghi lại vào trong một phần của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.


----------------           


Chương 5 - Mục 2: Những ác báo mang đến khi tăng đạo ganh ghét và hủy diệt Ngọc Lịch Bửu Phiêu
Số từ: 1605
Có một người xuất gia tên là Đạt Viễn ở trong miếu thổ địa tại đồi Tây Hương Sĩ. Có một hôm, ông cùng với một đạo sĩ của Am Thuần Dương tên Quan Tiên, nhìn thấy nội dung trong cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có bàn điều lệ về tăng ni, đạo sĩ phạm sai lầm:

Điện thứ nhất nội dung có nói: “Tăng đạo sĩ khi nhận tiền tài, thay thế người đời tụng Kinh sám hối, thất thoát chữ nghĩa và số trang, đến bổn điện, phải bổ sung tụng những kinh mà mình tụng sót, không được một hơi tức tốc tụng hết…”.

Trong điện thứ mười có: “Người tăng đạo có tụng Kinh, móc đến âm phủ, niệm tụng Kinh Thánh hiền để trong địa ngục hành hình…”.

Đạt Viễn nói với Quan Tiên: “Tôi và người đều đã tụng thuộc một số Kinh, khi đến lúc chuyển kiếp, tự nhiên biết cân đối tình hình để tận dụng. Vả lại cuộc sống của mình hiện nay là nhờ vào tụng Kinh giùm chủ nhân, cúng sám hối để duy trì cuộc sống. Nếu như cuốn sách này lưu truyền ra ngoài, như vậy thu nhập làm ăn của mình nhất định giảm đi. Nhưng nếu như có thiêu hủy thì hủy được bao nhiêu cuốn? Lúc nào mới thiêu hủy hết?”.

Quan Tiên trả lời và nói: “Tôi phải sử dụng thủ đoạn, làm bộ là mời được đại thần đại thánh nhập thân, truyền bá vu khống cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho các tín sĩ cùng đạo. Chỉ cần có người đến hỏi Thần thánh, tôi sẽ bịa ra một số tin đồn nhảm, để tạo cho người ta không tin vào cuốn sách này. Như vậy, còn sợ gì nghề tụng Kinh của mình sau không hái ra tiền được nhỉ?”.

Đạt Viễn và Quan Tiên tung tin cho tứ phương là trong Thuần Dương Am Miếu có một đạo sĩ có phép thuật rất cao, có thể mời được chim Tiên Loan (một loại chim thần) nhập thân, hỏi thăm một số chuyện về hên xui may rủi, rất là linh nghiệm. Hôm nay là ngày 14 tháng 4, Lữ Thuần Dương tổ sư giáng lâm, chỉ cần cúng nhiều chút tiền nhang đèn thì có thể biết được chuyện hên xui may rủi của thế gian.

Sáng sớm ngày 14 tháng 4, Quan Tiên và Đạt Viên làm một bàn cúng, đốt nhang sẵn, trang trí sắp đặt sẵn. Đến chiều hoàng hôn, một số tục tăng, thiện nam, tín nữ cùng đến và bước vô, quỳ bái tại ngoài chờ đợi để hỏi thăm sự việc. Một lát sau, người trong đó báo cáo: “Chim Loan động rồi!”, kêu gọi các đệ tử, đưa ông ta đặt lên trên bàn có trải mâm cát, bắt đầu vẽ chữ. Lại kêu một người biết chữ nghĩa lên để đọc những chữ ghi trên mâm cát, ghi ra dòng chữ “Tôi là Thuần Dương chân nhân đã đến, người muốn hỏi chuyện, nhanh đến mà hỏi”.

Sau khi người quỳ ở ngoài nghe người nhìn chữ đọc xong, đều lên hỏi thăm chuyện tương lai về phước họa của mình, những tăng đạo cộng sự đâu để cho những người kia hỏi thăm trước, chỉ để cho hòa thượng Đạt Viễn tiếp cận đến đàn cúng quỳ xuống và nói:

“Xin cho hỏi trên trần gian có bao nhiêu, có bao nhiêu chuyện tốt nhất trên đời?”

Quan Tiên nói: “Chim Loan lại động rồi, các ngươi không được ồn ào, yên lặng mà chờ đợi ta viết”. Lại kêu một ông đoán chữ nghĩa ở gần am miếu, thay đèn dầu.

Không bao lâu thì nhìn thấy thầy trò đứng trên đàn vẽ lung tung không ngừng, ông đoán chữ sau khi thay xong nhang đèn thì bước lên trên đàn cúng, nhìn thấy trên mâm cát ghi ra rất nhiều hàng chữ ngay ngắn như:

“Thứ nhất phải kính Đạo gia, thứ hai phải tôn trọng tăng ni. Đạo sĩ có thể cung trình sự việc lên cõi Trời, có thể bảo tồn trường sinh; hòa thượng có thể cầu siêu thoát cho vong hồn, có thể đưa lên thế giới Tây thiên. Người làm tỉnh thế gian. Nói chỉ cần cải thiện và biết sám hối, tất cả các tội lỗi mình ác trên trần gian, chỉ sợ là tiếc của tiền tài, không bố thí tiền nhang đèn, thỉnh bùa bái sam, cho nên mới bị tai nạn chết chóc.

Hiện giờ, có một cuốn sách ngụy trang sách thiện, tựa là “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” truyền bá lưu thông để cảnh tỉnh thế gian. Nói chỉ cẩn cải thiện và biết sám hối, tất cả các tội lỗi mình gây ra đều được xóa và miễn giảm gấp bội lần, trong âm phủ đâu có chuyện dễ dàng như vậy. Gần đây, có nhiều người quyên góp tiền in cuốn sách này để truyền bá, gây bao thiệt hại cho những người ngu dốt,… khi thấy được cuốn sách này, mau đem đi thiêu hủy thì sẽ được công đức rất lớn”.

Ông đoán chữ vừa mới ghi đến câu này, đột nhiên thấy một luồng ánh sáng màu xanh bích ngọc xâm nhập vào. Ông Quan Tiên cảm thấy lạnh người và hắt xì, từ trên đàn cúng tế đi xuống, miệng méo mắt lệch, mặt tái mét bò đến kế bên Đạt Viễn, cùng quỳ với nhau.

Lúc này, ông đoán chữ đột nhiên mắt trợn lên và ngơ ngác không nói được thành lời, đứng lên một lúc, mới nói:

“Tôi là Liễu Tiên được tổ sư truyền dụ: người sống trên thế gian không biết tích đức tu hành, thường phạm tội ác, rất may là Ngọc Hoàng Đại Đế phê duyệt các chư Thần Bồ Tát, ban phát “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để khuyên bảo thế gian, để cho người thế gian biết sửa lỗi lầm trước đã phạm, đổi ác thành thiện, ngoài ban thêm ơn huệ, còn được miễn giảm một số tội lỗi do mình gây ra. Đạt Viễn và Quan Tiên do ganh tị với cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” gây cản trở việc làm ăn của họ nên muốn vu khống, giả mượn cớ Thần Tiên nhập thân, mê hoặc lòng người, tội ác của hai người này đáng đọa lạc vào địa ngục để chịu hình phạt đau khổ và dựa theo tâm niệm hành vi tà ác của họ chuyển sanh tương ứng với ác đạo. Khảo tra sau khi mãn kỳ hạn chịu cực hình trong địa ngục rồi chuyển kiếp xuống địa ngục A Tỳ vĩnh viễn không siêu thoát.

Sau này, còn có tăng nhân đạo sĩ ganh tị vu khống, hủy hoại cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, vẫn xử lý y như báo ứng của Viễn Đạt, Quan Tiên”, nói xong người ta nhìn thấy ông đoán chữ lui sau cúi đầu lạy tạ Tổ Sư.

Lúc này, các tín sĩ nam nữ đều bước đến đàn cúng, quỳ xuống cúi đầu bái, cầu xin đại Tiên ban cho phương thức trị lành bệnh. Chỉ thấy mâm cát trên bàn không đẩy mà tự rung, viết xong, đèn dần sáng và rõ hơn, những người biết chữ bước lên xem, trên mâm cát viết:

“Bệnh tâm lý phải trị bằng tâm, ăn ít đồ thịt tanh; Trong sách tự có Ba La Mật, có thể giải thoát được oan nghiệt. Tạ, Liễu Tiên khứ dã”.

Tổng cộng có 33 chữ, tiên sinh đoán chữ cúi đầu lạy xong và nói:

“Tôi viết chữ trên mâm cát, khi viết đến câu: Người công đức lớn nhất, mơ mơ màng màng, tôi tận mắt nhìn thấy một luồng ánh sáng màu xanh ngọc bích, thổi lên trên sàn. Lẽ ra ở bên hông pháp thân của tổ sư, có một vị thần tiên đang ngồi: Mặt xanh môi nâu, lông mày trắng tinh, nhãn kim vàng, thân mặc áo xanh, ống tay lớn, tay trái cầm một bình ngọc, tay phải cầm cây râu tiên, chân đạp trên bông sen, sai tôi truyền lại lời nói của tổ sư. Lúc này, tôi vô cảm giác mà làm theo sự chỉ bảo, đợi đến khi Thần Tiên đứng dậy, rời khỏi thì tôi chỉ biết cúi đầu lạy tiễn đưa. Khi các người bước lên xin phương thức trị bệnh thì thần tiên đã rời khỏi sàn thờ cúng rồi”.

Khi nói đến đây đã là nửa đêm, tất cả các thiện nam tín nữ đều lưu trú lại trong am miếu, đứng trên bậc thềm có sơn màu nâu, đợi đến trời sáng. Những tăng ni đạo sĩ, cộng sự có trong am miếu đợi để hỏi rõ sự tình, tự cảm thấy mất hứng và rời khỏi.

Đạt Viễn và Quan Tiên bị đuổi ra khỏi miếu, trong ba hôm sau, Đạt Viễn và Quan Tiên không ăn uống được, gào thét trương phình đến chết.

Từ đó về sau, tất cả nam nữ trong làng không ai mà không tôn kính cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, còn đưa thêm sự kiện này ghi thêm vào trong sách để truyền bá cho thế gian biết, để người người biết được là họa do mình tự tạo, công thiện không ai được tước đoạt mất của mình, để làm căn cứ tham khảo cho người đời sau muốn hủy hoại sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” sẽ phải tự gánh lấy tai họa.

----------------           


Chương 5 - Mục 3: Ký sự án hình trong địa ngục của Thôi Mộng Luân
Số từ: 1178
Dương Khải Chiêu, người huyện Tổ Cường, vì gia đình năm nay mùa màng bị thất thu nên đã rời quê hương đến kinh sư tìm việc làm, kiếm được việc làm tại Khánh Trung Đường. Cá tính thẳng thắn, ưa thích uống rượu. Vào một mùa xuân của năm thứ mười bốn Gia Khánh triều Thanh, anh lượm được một tờ ngân phiếu trước cửa miếu Chân Võ, trị giá tờ bạc là tám ngàn quan tiền. Khi đi đến xá mè đen Hồ Đồng, nhìn thấy có một người đang nắm lấy một thiếu niên, đấm đá rất dữ. Hỏi thăm nguyên do, hỏi kỹ hơn số tiền mà họ đánh mất trùng khớp với mình vừa nhặt được thì liền trả lại tiền cho họ. Tôi (Thôi Mộng Luân) khi nghe được chuyện này, khen ngợi không ngừng. Nhưng chưa làm quen được người này.

Đến tháng 9, Khải Chiêu thông qua một người giới thiệu, đích thân tự đến nhà tôi để kể lại mọi sự từng trải của mình. Vì muốn chứng minh về nhân quả báo ứng, tôi hỏi kỹ anh ta, mới biết được anh ta bị bệnh thương hàn vào tháng ba vừa rồi, trong lúc hôn mê gặp được người cha đã quá cố của mình dẫn anh ta đến một cung điện nguy nga, trên cửa cung điện có 3 dòng chữ lớn “Đông Nhạc Phủ”, hai bên có viết hai dòng chữ đối:

Dương thế gian hùng vĩ thiên hại lý là do mình;
Âm phủ báo ứng xưa đến nay có buông tha ai?

Nét chữ màu ánh vàng nhìn rất huy hoàng, khi bước vô, thấy một quan viên, hóa ra là ông Chương-nhạc phụ đã mất của mình. Ông Chương trước kia là tú tài tại Hà Giang, ông nói: “Đáng lẽ mạng của tôi chỉ thọ đến 59 tuổi, nhưng vì tôi đã cưới một người đàn bà có chồng con làm vợ bé, bị giảm thọ đi 10 năm; sau này chủ trương cho cô thím trong gia tộc tái giá lại bớt đi 10 năm thọ. Khi chết năm 39 tuổi, vì không có phạm vào các nghiệp tội khác, mới được điều đến đây để làm quản lý văn thư án sự dưới âm phủ”, khi ông Chương nói hết, kêu lính quỷ dẫn Khải Chiêu đến địa phủ xem các cảnh cực hình xử tội dưới âm phủ.

Khi đi đến đây, nhìn thấy trên trụ có cột lại một người phụ nữ, đang cho lính quỷ xẻ lồng ngực, móc ra quả tim, gào thét rất ghê sợ. Nhìn kỹ lại, hóa ra là vợ của quản gia tại Khánh Gia. Đến nơi khác, nhìn thấy một người bị trói tay chân lại nằm dưới đất,có một lính quỷ đang cầm cây rước đốt vào lưng người đó. Khải Chiêu nhớ ra người này chính là người gác cổng cho Khánh Gia, đi đến nơi khác, nhìn thấy một người bị cột hai vai lại và treo lơ lửng trên trụ cột. Trên đầu có cắm một cây cờ, ghi: “Buôn lậu trốn thuế quốc gia Huỳnh Nhất Long”, do thân xác bị treo lên và đẩy đưa, nên gào thét rất là đau khổ, người này Khải Chiêu cũng quen biết ông ta, đó chính là người chuyên bán rượu lậu có tên là Huỳnh Ngầu Chẩy, lại không biết ông ta có cái tên là Huỳnh Nhất Long.

Tiếp theo, lại nhìn thấy ông Lâm là bà con với Khải Chiêu, trên vai cột lên hai cây đinh sắt. Không bao lâu, nhìn thấy một cái chuông lớn, rất là lớn, đình chuông mới xây, trên trụ cột còn chưa lợp mái ngói. Khải Chiêu đi đến đó, muốn lấy hai tay ôm lấy để thử sức nặng của chuông, mới phát hiện trên đó có khắc rất nhiều tên người, nhìn kỹ lại thấy có cả tên mình trong đó “Dương Khải Chiêu trợ giúp tiền bạc”, bên hông còn ghi là “dẫn đạo hướng thiện Thôi Mộng Luân”.

Lại đi đến một nơi khác, nhìn thấy một người cỡi trên lưng con bò, dùng roi đánh vào lưng bò, người cỡi trên lưng bò lại la hét đau đớn, anh ta tự nói nhân quả báo ứng vì kiếp trước thích ăn thịt bò. Nơi khác nữa, nội thất trang trí rất trang hoàng và trang nghiêm, trên có treo “Kinh Kim Cang”, “Tâm Kinh”, mỗi thứ một cuốn. Vô số thiện nam thiện nữ, tay cầm xâu chuỗi đang niệm kinh. Đi đến cửa sau, thấy núi cao, khi nhìn lên, lại thấy biển trời màu đen, rất là kinh ngạc, trong lòng như đang bị lửa đốt đứng ngồi không yên.

Lúc này, lại nhìn thấy một lu nước sạch, trong lu lại có gầu múc nước nữa. Thấy vậy bèn cầm gáo lên uống một ngụm nước, cảm thấy rất là tươi mát thấm vào tận đáy lòng, nên đã thức giấc, mở mắt nhìn. Hóa ra mình đã ngủ liên tục hết 17 ngày đêm.

Nghĩ lại những gì mình đã thấy trong âm phủ, đi hỏi thăm: “Vợ của ông quản gia kia hiện giờ ra sao?”, người nhà trả lời: “Đã bị bệnh tim mất rồi”.

Và hỏi: “Còn ông Hàn?”

Trả lời: “Ông ta bị nổi khối u ác tính trên lưng, không bao nhiêu ngày sau cũng mất rồi”.

Đến giữa tháng 7, thấy người trong làng hỏi thăm tình hình ông Huỳnh Ngầu Chẩy ra sao, cũng nói đã chết rồi. Nhưng bệnh tình của ông rất là kỳ quái: “Đêm nào cũng la hét đau đớn, phải kêu người dùng dây thừng cột chéo người lại rồi treo lên trụ cột mới cảm thấy thoải mái trong người”. Còn nói với ông Lâm lúc dưới âm phủ nhìn thấy ông bị hai cây đinh đóng trên vai, hiện giờ đang làm quan tại Hồ Quảng.

Đến cuối tháng 7, người nhà gửi thư lên nói: vào mùa xuân, ông bị một trận bệnh lớn và đã qua đời, những sự việc như trên đều linh nghiệm hết. Chỉ là mình không hiểu chuyện khắc tên trong quả chuông là có ý gì, sau khi hết bệnh, ông ta nghĩ đến chuông có khắc tên của tôi, cứ tưởng nghĩ thế là đến hỏi tôi thì sẽ rõ nên đã đích thân đến thăm tôi, muốn hỏi đây là nhân quả gì?

Lúc đầu, tôi cũng không hiểu gì, sau này suy nghĩ chuyện của 3 năm trước, trong miếu dự định làm một chuông đồng, tôi chỉ lãnh giấy thông báo của miếu để hóa duyên khắp nơi và đã tậu được 2000 đồng tiền kinh. Nhưng lúc đó, tôi lại không có góp xu nào, chỉ thông báo khắp nơi đến hành thiện, như vậy, dưới âm phủ lại ghi lên tên của mình, có thể cho thấy nhân quả của thiện và ác đều được báo ứng, thật là đáng kinh sợ.

----------------           

Chương 5 - Mục 4: Châm biếm “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” bị cướp và tai nạn gãy tay
Số từ: 209
Một nhân viên đánh máy tại một xưởng in họ Hà, vừa sắp xếp bản soạn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” vừa châm biếm “nội dung này đều là do những người mê tín đặt ra để lừa thiên hạ, sự thật đâu có những chuyện như vậy… ” Cô ta còn chế giễu một người bạn quyên góp tiền phụ giúp in sách: “Cô đưa tiền cho tôi, chúng mình còn có thể đi ăn được một chầu. Cô thật mê tín quá… ”.

Hai ngày sau, cô ta đang đi trên đường thì chiếc điện thoại di động đời mới của cô ta bị giật mất. Qua mấy ngày sau, đang chạy xe trên đường bị té xe hư hỏng nặng và bị gãy tay, chữa trị cả tháng trời tốn biết bao nhiêu tiền vẫn chưa bình phục, sau này còn thành tật nữa.

Nên tại đây xin răn những người thích phát biểu lung tung: “Đối với những sách và các văn chương khuyến người bỏ ác hành thiện, tuy chính mình không hiểu rõ, không đồng tình cũng đừng nên châm biếm hoặc chế giễu hủy hoại, càng không nên cản trở người khác hành thiện tích đức, để khỏi phải chịu sự quả báo”.


----------------           


Chương 5 - Mục 5: Các án hình trong địa ngục của Từ Thăng Am
Số từ: 982
1. Tăng bất hoằng pháp, bị nhọt ác tính tử vong

Ông Long Hùng tại Thông Châu làm Tri Phủ, rất tín ngưỡng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Trong phạm vi ông cai quản có một ngôi miếu tên là Đông Nhạc, xưa nay rất là linh thiêng, thường có tin đồn mỗi khi trời tối, nghe thấy có tiếng roi đánh. Có một ngày, vào lúc sáng sớm, Long Hùng đi đến ngôi chùa cúng bái nhưng lại yên tĩnh vô cùng. Người hầu mới nói: “Thành tâm chờ lúc đêm đến, nhất định có thể nghe thấy”.

Long Hùng làm theo ý của ông ta, vừa mở cửa lớn thì trong mờ ảo nhìn thấy có lính quỷ đang đốt lò than cháy đỏ, đốt vào lưng của ông hòa thượng. Long Hùng hỏi lính quỷ: “Hắn ta là ai?”, trả lời: “Người này là hòa thượng của một ngôi chùa, do lấy cắp tiền cúng dường của bá tánh đi chi tiêu vào mua rượu, thịt, mua dâm, cờ bạc, du hý, không dùng để tu sửa chùa chiền, in sách kinh, cứu trợ cho người nghèo khổ và hoằng dương Phật pháp, nên phải chịu sự trừng phạt như thế”.

Qua ngày hôm sau, Long Hùng cho người đi đến miếu đó điều tra, quả nhiên trên lưng người hòa thượng kia có cục nhọt ác tính, không bao lâu thì tử vong.

2. Thành thạo kinh chú, chuyển kiếp thụ hình

Ông Tái Cử Nhân tại Ngô Huyện, thường ngày gây nghiệp rất nhiều, nhưng ông ta cúng bái Quan Thế Âm Bồ Tát rất thành tâm, lại không ngừng niệm kinh “Đại Bi Chú”. Đến một ngày, ông ta lâm bệnh và qua đời, được mấy bữa, có người hàng xóm qua đời cùng thời điểm đó nhưng không bao lâu lại sống lại.

Ông hàng xóm nói: “Đáng lẽ, tuổi thọ của tôi đã hết nhưng vì tôi vào ba hôm trước khuyên giải được một đôi vợ chồng hòa hợp như xưa nên được tăng thọ thêm 12 năm”, lại nói tôi đã từng gặp được ông Tái Cử Nhân tại âm phủ, trên người bị xiềng chân xiết cổ, quan viên trong âm phủ nói với hắn:

“Dựa theo tội lỗi dâm ác của nhà ngươi cho thấy, đáng lẽ phải chịu cực hình cho vào chảo dầu! Lúc này, một lính quỷ bưng một chảo to đi đến, dùng lửa to nấu dầu sôi lên, đẩy Cử Nhân xuống chảo, hắn ta trong lúc sợ hãi, không còn cách nào, chỉ biết mở miệng to tiếng niệm kinh “Đại Bi Chú”. Khi niệm kinh chú lên, đột nhiên thấy trong điện rung động, chảo dầu tan hết, dưới đất mọc ra đóa sen trắng. Quan phủ đứng lên, nói với lính quỷ đang khiếu nại:

“Hắn biết niệm kinh chú chân ngôn, địa ngục tạm thời không thể giam bắt hắn được, cho hắn đi đầu thai chuyển kiếp đi!” Nhưng
lính quỷ kiên quyết không chịu buông tha.

Quan Diêm phủ nói: “Ông Ngô tại Gia Hưng, làm việc ác nhiều. Gần đây, vì muốn cầu xin sanh được thằng con trai nên đã làm được một số việc thiện nên để cho hắn đầu thai xuống nhà họ Ngô, đợi khi hắn hưởng thụ vinh hoa phú quý trên trần gian xong, chuyển kiếp, sau khi quên Kinh “Đại Bi Chú”, lúc đó, có thể xử hắn”.

Tôi lần này được sống lại là muốn đi đến Gia Hưng nhà họ Ngô xem sao, xem có phải họ sanh được một thằng con trai”. Sau này, họ cùng nhau đến Gia Hưng hỏi thăm, quả nhiên, nhà họ Ngô mới sanh được một đứa con trai.

3. Ăn hối lộ xử án sai, chuyển kiếp thành con lừa

Có một tiến sĩ họ Trưởng, đảm nhiệm chức vụ quản lý an ninh trật tự tại tỉnh Sơn Đông. Đến một ngày, hai anh em vì tranh giành gia tài của tổ tiên để lại đến thưa kiện. Người anh đưa hai trăm lượng vàng để hối lộ cho ông Trưởng, yêu cầu xét cho anh ta được thắng kiện; người em lại đưa cho hắn ba trăm lượng vàng để hối lộ, cũng yêu cầu mình được thắng kiện. Ông Trưởng thu hết hai bên, vì người em đưa hơn một trăm lượng vàng, nên xét được thắng hưởng gia tài của tổ tiên để lại, người anh tức giận thành bệnh, không bao lâu thì qua đời. Sau này, ông Trưởng cũng qua đời.

Trong làng có một thân sĩ, sau khi chết đi được 3 hôm, ông hồi dương lại. Kêu người đến mời con trai của ông Trưởng đến, nói với anh ta: “Khi xuống Diêm phủ, tôi nhìn thấy ba cậu, ông ta sắp đầu thai thành con lừa, hiện giờ, sẽ đầu thai xuống một nhà kia”, con trai của ông Trưởng không tin.

Ông thân sĩ nói: “Trong lúc cha ông làm quan tại tỉnh Sơn Đông, do nhận hối lộ đã xử oan cho người ta, tiền hối lộ là thông qua người hầu của nhà ngươi nhận, nếu như anh không tin, có thể về hỏi thăm xem”. Khi hỏi, quả nhiên là như thế.

Thân sĩ lại nói: “Phụ thân của ngươi nhờ tôi truyền lại cho anh; nhất định phải trả lại số tiền nhận hối lộ, đồng thời phải in tặng sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để giảm nhẹ tội cho ông”.

Con trai của ông Trưởng sau khi nghe xong, lập tức làm theo lời chỉ dẫn của phụ thân và đi đến nơi cha mình đã đầu thai mua về con lừa, gửi nuôi vào nơi am phóng sanh tại Dương Châu, mướn hai người làm chăm sóc. Trải qua thời gian ba năm, con lừa mới chết.

----------------           


Chương 6 - Mục 1: Lão tăng khai thị, hiếu kính cha mẹ
Số từ: 649
Bách Thiện Hiếu Tiên Phước Tối Thắng
(Hiếu thảo là việc thiện được phước cao quý nhất)

Dương Phổ là người của huyện Thái Hòa, tỉnh An Vi. Ông nghe nói tại Tứ Xuyên có ông cao tăng Vô Tế Đại Sư đạo hạnh rất cao, nên từ biệt song thân, đến Tứ Xuyên thăm Đại Sư và cầu đạo. Mới vừa đến địa phận của tỉnh Tứ Xuyên, gặp được một người hòa thượng khuôn mặt nhìn rất hiền hòa, ông lão hòa thượng hỏi ông ta:

“Ông từ đâu đến? Đến Tứ Xuyên để làm gì?”.

Ông ta trả lời: “Tôi từ tỉnh An Vi, đến Tứ Xuyên muốn hỏi thăm cao tăng Vô tế Đại Sư, tu học Phật Pháp Đại Đạo”.

Lão hòa thượng nói: “Ông muốn gặp Vô tế Đại Sư còn khó hơn là đi gặp Phật”.

Dương Phổ hỏi: “Tôi cũng muốn gặp Phật nhưng không biết ở đâu, cầu xin lão hòa thượng chỉ thị cho tôi, được không?”.

Lão hòa thượng nói: “Được, bây giờ ông mau trở về nhà, nhìn thấy một người trên vai đắp tấm mền lớn, chân đi giày ngược, đó là Phật rồi”.

Dương Phổ nghe xong lời nói của lão hòa thượng, không một chút nghi ngờ, thuê thuyền đi về quê, trên đường lặn lội vất vả cả tháng trời. Ngày về đến nhà, đã là chiều tối, ông gõ cửa lớn nhà mình, kêu gọi mẹ ra mở cửa, mẹ ông ta nghe thấy con trai yêu quí của mình đã về, mừng đến nhảy từ trên giường xuống, không kịp mặc quần áo, chỉ lấy cái mền chùm trên vai, lúc hấp tấp đã mang giày bị ngược, mau mau bước ra mở cửa, tiếp đón con trai cưng của mình.

Dương Phổ nhìn thấy cảnh luộm thuộm của người mẹ, mới tỉnh ngộ lời của lão hòa thượng nói cha mẹ mới là Phật sống. Từ nay về sau, hết mình hiếu thảo với cha mẹ, về mặt vật chất, cố gắng dẫn đạo cho cha mẹ tin ăn chay niệm Phật, tu dưỡng tâm tính.

Sau này, Dương Phổ già đã hưởng thọ đến 86 tuổi, trong lúc lâm chung, miệng niệm kinh “Kinh Kim Cang” bốn câu kinh ngôn, an hòa mà qua đời.

Trong Phật giáo “Đại Tập Kinh” có nói: “Nếu thế gian không có Phật mà thiện đãi cha mẹ tức là thiện đãi Phật”.

Cổ xưa có câu: “Trong mỗi nhà đều có hai vị Phật, không cần vàng kim đóng thành, tức là, cha mẹ hiện thời và cũng là Thích Ca Di Lặc, nếu được thành kính đối xử, chẳng cần cầu xin công đức khác”.

Phật trong “Bốn mươi hai chương kinh” có nói: “Kính thiên địa quỷ thần để cầu phước thì nên kính nể cha mẹ, hiếu thảo cha mẹ được phước nhiều, rất linh nghiệm”.

Từ những kinh văn Phật Pháp như trên và các luân ngôn thời cổ đức, có thể cho thấy Vô Tế Đại Sư khai thị với Dương Phổ, thiệt là có lý.

Hiện giờ, có rất nhiều người khi cha mẹ còn sống không hiếu kính nuôi dưỡng, vả lại còn làm nhiều việc bạc đãi bất hiếu với cha mẹ, để cho cha mẹ phải buồn lòng ưu sầu. Đến khi lúc cha mẹ mất đi lại hoang phí, bỏ ra khoản tiền lớn để xem phong thủy, xây mồ mả cho khang trang, cúng đốt nhiều giấy tiền vàng bạc và lễ vật, sát sanh động vật để cúng bái, những thứ này không những đều là hành vi ngược đời vô dụng, mà còn tăng tội lỗi cho song thân đã mất. Khi cha mẹ còn sống không ban một giọt nước, khi chết đi đào oan vạn trùng suối.

Các vị độc giả ngẫm thử xem có đúng không.

----------------           


Chương 6 - Mục 2: Hiếu thân báo ơn, tụ phước chánh đạo
Số từ: 490
Bách Thiện Hiếu Tiên Phước Tối Thắng
(Hiếu thảo là việc thiện được phước cao quý nhất)

Lâm Thành Mỹ người Phúc Kiến, lúc còn nhỏ đã mồ côi cha, người mẹ của anh nhất định không chịu tái giá, tận tâm nuôi dưỡng anh ta nên người. Khi Thành Mỹ lớn lên nghĩ đến công ơn của cha mẹ khó báo đáp, nên đã khóc suốt ngày đêm.

Có một ông thiền sư nói với anh ta: “Con hiếu thảo tưởng nhớ ơn thân, chỉ biết khóc thì ích gì, nên phải tìm cách đền đáp mới có ích, cổ nhân xưa có câu: “Thân làm việc thiện có ích, làm ác thì chỉ có ưu phiền”. Nếu muốn báo đáp song thân, chỉ có kiêng sát sanh mà đi phóng sanh, quảng tích âm đức, mới chính là hiếu đạo báo đáp”.

Thành Mỹ nghe được, cảm thấy rất có đạo lý, từ nay về sau, lập trí kiêng sát sanh mà phóng sanh, quảng tu các việc thiện để cứu thế thân. Sau này ông già được hưởng thọ đến 96 tuổi, con cháu đều học thành tài và có danh vọng.

Người cổ xưa thường xem ngày sinh nhật của mình gọi là “ngày mẫu nan” (ngày mẹ khổ), người mẹ mang thai 10 tháng, thân xác nặng nề đau đớn, trong lòng luôn lo âu cho thai nhi, ngày sanh đẻ biết bao đau đớn, càng sợ hãi và lo âu thêm nhiều. Cho nên, ơn nghĩa mẹ to lớn.

Kinh Phật có nói: “Những người còn từ mẫu là những người giàu có, từ mẫu đã mất là người nghèo nhất; từ mẫu còn sống ngày ngày trong sáng, từ mẫu đã mất như là mặt trời xuống núi”.

Trong kinh Phật còn nói với chúng ta: “Kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ như cúng Phật đều tậu được phước đức giống nhau”.

Không ít người đã tiêu khoản tiền lớn lặn lội đến cả ngàn dặm cây số cầu phước, cầu lộc hoặc cúng đông, vái tây để mong được số may vận đỏ. Lại không biết được, nhà nhà đều có một vị Phật, đâu cần phải lao tâm khổ tứ đi đâu xa để cầu xin.

Người trong thời đại hiện nay, mỗi khi đến ngày sinh nhật thì đua nhau giết mổ gà vịt, có cá có thịt để đãi khách chúc mừng. Đây chính là phản lại chỉ định của Thiên Đạo về đền ơn đáp nghĩa, làm như vậy không được tăng thêm phước lộc, mà ngược lại còn bị tiêu hủy phước báo và số mạng.

Cho nên, ngày sinh nhật nên đi mua động vật phóng sanh hoặc tưởng niệm lại công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ hoặc đi bố thí người nghèo khổ, in tặng sách thiện hoặc niệm kinh niệm Phật hành thiện, mới là chính đạo làm phước của Trời Đất.

----------------           

Chương 6 - Mục 3: Hiếu kính cha mẹ, con được phước báo
Số từ: 518
Bách Thiện Hiếu Tiên Phước Tối Thắng
(Hiếu thảo là việc thiện được phước cao quý nhất)

Thôi Hảo, từ nhỏ đã có tính bẩm sinh là hiếu thảo. Cha của anh ta qua đời rất sớm, người mẹ vì thương nhớ ưu sầu, khóc nhiều quá dẫn đến bị bệnh mắt. Thôi Hảo bán hết gia tài trong nhà, đi khắp nơi tìm bác sĩ đến chữa bệnh cho mẹ nhưng vẫn vô hiệu quả, đôi mắt bị mù.

Từ đó, anh ta rất thành kính phụng dưỡng người mẹ, ba mươi năm như một ngày. Tất cả các thứ đồ dùng ăn mặc của mẹ, đều sắm theo thời tiết nóng lạnh, đời sống sinh hoạt của người mẹ rất thoải mái, không có thiếu thốn chút nào. Mỗi khi trời đẹp không khí trong lành, nhất định dìu dắt mẹ đi ra ngoài du ngoạn, để được hít hơi thở trong lành của thiên nhiên. Tuy đôi mắt của người mẹ bị mù, không được chiêm ngưỡng phong cảnh đẹp như tranh, ông Thôi miêu tả cảnh vật thiên nhiên như rồng bay phượng múa, kể cho người mẹ nghe rất hứng thú, mọi sự kiện tin tức phát sinh trong ngày, cùng bàn luận với mẹ trong tiếng cười vui nhộn, giải sầu cho tuổi già, quên đi đau khổ về đôi mắt mù, rất vui vẻ.

Sau này, ông Thôi tuổi càng lớn dần, quan vị được tôn vinh, còn tự tay cùng với con cháu trồng những cây hoa quả trong vườn như đào, mận, hồng và các loại cây khác để bốn mùa đều có quả tươi ăn. Khi người mẹ qua đời, để báo đáp ơn nghĩa cho mẹ, đến dần cuối đời chuyển ăn chay trường.

Do ông Thôi hành đức cao thượng, cho nên làm được chức quan lớn, con trai ông Nhược Phôi, cũng thành một đại tướng trong đời sau.

Trong tập “Cảm ứng ký sự” có nói:

Hiếu thảo song thân, không nên lạnh nhạt với cha mẹ, không nên để cho cha mẹ già phải bận tâm lo âu, không nên để cho cha mẹ phải sợ hãi, không nên để cho cha mẹ phải buồn phiền, không nên để cho cha mẹ có tâm sự khó nói ra, không nên để cho cha mẹ có lòng oán hận. Nếu làm được hành vi hiếu thảo như vậy, thiên địa nhân quỷ đều tôn kính chúng ta.

Làm phận con cái, dùng vật chất để cung dưỡng, tinh thần chăm lo để ổn định tâm trí người già, là việc hiếu thảo căn bản nhất; cố gắng học tập, chăm chỉ làm việc, phấn đấu thành tài để có ích cho xã hội, cho quốc gia, ấy là đại hiếu; dẫn dắt cha mẹ học tập chính đạo Phật Pháp, khuyên cha mẹ niệm câu thánh ngôn “Nam Mô A Di Đà Phật” để cầu đến tịnh thổ thế giới Tây Phương cực lạc, vĩnh viễn thoát khỏi đau khổ của sự luân hồi, là một đại hiếu viên mãn nhất trên thế gian.


----------------           


Chương 6 - Mục 4: Hiếu đạo mẹ chồng, cả nhà hóa giải dịch bệnh
Số từ: 569
Bách Thiện Hiếu Tiên Phước Tối Thắng
(Hiếu thảo là việc thiện được phước cao quý nhất)

Thời Thanh Triều tháng ba năm Giáp Ngọ, huyện Võ Tiến tỉnh Giang Tô, cư dân của Thành Đông, con trai Ngụy Thành cưới cô Thị Tiền làm vợ. Có một lần, Thị Tiền về nhà thăm song thân, không bao lâu, địa phận phía bên nhà chồng phát sinh dịch bệnh cấp tính, truyền nhiễm rất rộng, bệnh gây chết rất nhiều người, người nào cũng sợ bị truyền nhiễm, bà con thân thiết cũng không dám thăm hỏi, lo tháo chạy tránh dịch không kịp. Ngụy Thành không may cũng bị nhiễm dịch, sau này cả gia đình họ tám người, đều bị nhiễm dịch bệnh.

Thị Tiền tại bên làng gái nghe tin ba mẹ chồng đều bị nhiễm dịch bệnh, nóng lòng muốn về nhà hỏi thăm bệnh tình, cha mẹ cô thương con, sợ con gái về nhà chồng sẽ bị nhiễm bệnh, nên khuyên con gái không nên về nhà chồng vào lúc này. Nhưng Thị Tiền thấu hiểu đại nghĩa, cô ta nói: “Chồng cưới vợ về là muốn để vợ mình phụ chăm lo cho cha mẹ chồng. Bây giờ cha mẹ chồng đang bệnh nguy kịch, nếu như tôi nhẫn tâm không về, như vậy đâu khác biệt với cầm thú!”.

Cuối cùng không nghe sự phản đối của cha mẹ, không sợ sự truyền nhiễm của dịch bệnh, tự mình về nhà chồng. Khi Thị Tiền về đến nhà chồng, vợ chồng Ngụy Thành và cả tám người nhà đều kỳ tích đột nhiên khỏi bệnh. Những người trong nhà lúc ấy, đều cho rằng cả nhà Ngụy Thành được thoái khỏi sự chết chóc của dịch bệnh là do sự hiếu thảo của Thị Tiền, cảm động đã nhận được sự cảm ứng của thần linh.

Hiện giờ, trong xã hội có con cháu biết hiếu thảo với cha mẹ rất ít mà cầu có nàng dâu biết hiếu thảo với cha mẹ chồng còn khó thêm. Nguyên do của bệnh tật là do vi khuẩn cảm nhiễm, nhưng chức năng miễn dịch trong cơ thể con người bị hạ thấp cũng là một nguyên nhân quan trọng.

Đại học Michigan của nước Mỹ đã tiến hành thử nghiệm theo dõi điều tra trong vòng 14 năm đối với 2700 người, phát hiện những người thường xuyên làm việc thiện bản năng có hệ thống miễn dịch rất cường tráng.

Đại học Havard bên nước Mỹ nghiên cứu, đã từng để học sinh xem một bộ phim ký sự, nội dung nói về một phụ nữ người Mỹ cả đời đi đến Ấn Độ cứu trợ các người nghèo và bệnh tật. Học sinh bị ký sự này làm cho cảm động, tiếp theo là nhà khoa học này đã lấy nước bọt của mỗi học sinh tiến hành thí nghiệm, phát hiện tiêu chuẩn của bạch cầu miễn dịch tăng cao kỷ lục nhiều hơn so với trước khi xem phim.

Trong câu chuyện trên, nhờ Thị Tiền có chính khí vĩ đại, dũng cảm, hiếu thảo, đã tăng cường sức đề kháng của cả gia đình (thông qua dòng điện sinh học của mỗi người) làm cho vi khuẩn dịch bệnh bị tiêu diệt. Loại chuyện nhân quả này thật sự là phù hợp nguyên lý của khoa học.

----------------           


Chương 7 - Mục 1: Mắng Thiên nhục Thần, quả báo nhãn tiền
Số từ: 782
Tôi là người Sơn Đông, từ nhỏ đã rất thông minh, sinh ra nhìn rất kháu khỉnh và khả ái. Tuy gia cảnh nghèo nàn nhưng có khí chất và cá tính khác so với những con nít xung quanh, thành tích học tập luôn đạt hạng nhất, tôi luôn là tiêu điểm của thầy giáo, bạn học và hàng xóm. Không ít những thầy bói toán nổi tiếng, xem tướng đều cùng chung nhận định, đời tôi sẽ giàu sang phú quý thuận lợi an nhàn.

Nhưng từ năm 1988 trở đi, không biết tại sao, vận mạng của tôi xuống cấp trầm trọng như là rớt xuống ngàn vạn dặm vực sâu. Tôi bắt đầu lâm bệnh, trí nhớ giảm dần, đầu tắt mặt tối, thân xác đau nhức cả người. Cơn bệnh đột phát đã đi cùng tôi trải qua suốt 15 năm. Cho dù có lên đại học hay công tác tại đơn vị, đều rất gian nan và khó khăn, 15 năm nay, tôi tìm đủ mọi cách làm đủ thứ chuyện nhưng vẫn không thành, những việc có liên quan đến tương lai của tôi cho dù cố gắng hết mình vẫn không hiệu quả, không thể thực hiện được.

Những năm gần đây, tôi cứ suy nghĩ mãi, tại vì sao mà vận mạng của tôi lại tối tăm đến như thế?

Sau khi quy y Tam Bảo, do tinh tấn tu trì, cũng có chút thay đổi tốt về nhưng nói chung về cơ bản vẫn không có chuyển biến, tôi bắt đầu tự an ủi, số phận của tôi chắc là do nhân quả kiếp trước của mình gây nên.

Sau này đọc được Kinh Địa Tạng biết được Địa Tạng Bồ Tát có thần uy lớn, có thể tạo cho chúng sinh biết được nhân quả của kiếp trước để tiêu trừ nhân nghiệp. Nên từ tháng ggiêng năm 2003, tôi bắt đầu siêng năng niệm Kinh Địa Tạng và đã khóc trước mặt Địa Tạng Bồ Tát than vãn sự đời đau khổ của mình trong 15 năm nay, xin Bồ Tát giúp cho tôi được tỉnh ngộ.

Sau 20 ngày trong trí nhớ của tôi đột nhiên hiện lên một việc tôi đã làm 15 năm trước, ký ức cũng khá rõ ràng nhưng tôi lại không dám chắc chắn lắm. Cho đến tháng 11 năm 2003, tôi vừa niệm xong 200 lần của Kinh Địa Tạng, trong ngày đó tôi gặp một tu sĩ đưa cho tôi cuốn sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu, xem xong, tôi như tỉnh giấc mộng, bỗng nhiên hiểu rõ sự tình. Cuối cùng, tôi đã tìm ra nguyên do 15 năm nay tôi phải chịu dày vò trong sự đau khổ, gian khó của tôi không phải do ác nghiệp từ kiếp trước gây nên, chủ yếu là do, trong đời này tôi đã phạm vào bất tôn trọng với thần linh thiên địa mà gây ra.

Vào một buổi chiều tháng 8 của 15 năm trước, tôi bị kích động một chuyện trong gia đình, không giải quyết được, chạy ra ngoài sân, tay chỉ lên trời chân dậm xuống đất, dùng hết những loại thần chú câu từ tôi biết được để chửi bới trời đất.

Từ lúc ấy, không đến 100 ngày sau, tất cả thân xác tôi đau nhức hết, bắt đầu 15 năm vận xui của mình. Tính từ ngày bắt đầu lâm bệnh đến tháng 11 năm 2003 vừa tròn 15 năm. Thời gian mười mấy giây chửi thiên mắng thần, đổi lại 15 năm xui xẻo tột cùng. Thật là ghê sợ! Tôi chỉ có cúi đầu nhận tội, sám hối và quyết tâm quyên góp tiền in tặng truyền bá sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu, cung kính thần linh. Không ngờ khi những tâm niệm nảy lên trong lòng, nguyện chung thân thiện tâm.

Không đến thời gian 1 tuần, đơn vị nơi làm việc có ra văn bản, tôi được thăng chức. Kể từ khi tôi bắt đầu làm việc tính đến nay đã là 8 năm. Kỳ lạ hơn, hai hôm trước lòng bàn tay của tôi phát ngứa, lúc đầu tôi tưởng bị muỗi chích gây ra, nhìn kĩ lại phát hiện chỉ tay đã đứt của mình 15 năm qua nay đã kết nối lại, thật là quá thần kỳ và linh nghiệm, không thể ngờ! Tôi không có hướng về Bồ Tát và Thần linh cầu xin việc gì, chỉ là quyết tâm sám hối và phát nguyện in tặng sách thiện và truyền bá sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu.

Ngọc Lịch Bửu Phiêu đúng là một quyển sách kỳ lạ!

----------------           


Chương 7 - Mục 2: Tiến trình linh nghiệm của Thần Táo Quân
Số từ: 876
Sự kiện như trên là một ví dụ đích thân tôi cảm nhận sự linh nghiệm trong nội dung của cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Còn chuyện dưới đây là sự linh ứng về ngày vía của chư Thánh được ghi trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Ngày cúng vía Thần Táo Quân là một trong năm ngày cúng vía trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, đến nay trong dân gian và người Hoa tại hải ngoại cũng thịnh hành. Tại quê cũ của tôi ở Sơn Đông, lưu truyền “Tết nhỏ nhằm ngày hai mươi ba”. Mùng một Tết là Tết lớn, còn nhằm ngày 23 tháng chạp là một ngày Tết nhỏ, khi sáng sớm tỉnh dậy, giấc mộng của ngày hôm đó sẽ đại diện cho vận mạng của năm sau. Nhà nhà đều tự làm một loại đường rất ngọt, tên gọi là đường táo hoặc có tên là chè trôi nước để cúng Thần Táo Quân, để nhờ thần Táo Quân lên gặp Ngọc Hoàng thì nói tốt cho vài câu.

Một mùa đông năm 1994, tôi sắp thi tốt nghiệp đại học, đang lo chuyện định hướng sự nghiệp sau khi tốt nghiệp. Có một lần, tôi gặp một quan chức cao cấp ở Bắc Kinh, sau khi trao đổi, ông ta có ấn tượng rất tốt đối với tôi, cảm thấy tôi có nhiều ưu điểm và tôi cũng bày tỏ mong muốn được vào làm việc tại cơ quan Nhà Nước. Tôi vốn là con cái nhà nghèo, lại không có mối quan hệ nào tốt, hoàn toàn do nhân duyên phước báo mới có được một cơ hội tốt như vậy.

Vào tháng 8 năm 1988, tôi đã từng chỉ lên trời chửi Thiên mắng Thần, không ngờ như thế mà công danh của mình bị “cô lập”, dù có cơ hội tốt nữa, cũng không làm nên trò trống gì, cuối cùng tôi cũng không thể tới Bắc Kinh.

Sau này, ông ta sắp xếp cho tôi làm tại một thủ phủ ở xứ dân tộc thiểu số, được giữ chức quan tại một đơn vị có phước lợi rất tốt mà người trong bản xứ mơ ước không được. Nhưng mà, do sự ác báo về khẩu nghiệp chửi thiên mắng thần, tôi thường hay bị lãnh đạo của đơn vị cậy thế gây áp lực và chèn ép, tiền thưởng bị hạ xuống bậc thấp nhất, thường xuyên bị chỉ trích và gây khó khăn. Tôi bị áp lực về tinh thần nặng nề và một lần nữa cảm nhận được thần minh rất đáng kính. Ai dám kháng lại trời, khinh bỉ thần linh thì sẽ phải hứng chịu đau khổ trên trần gian do sự “Kháng lại cõi trên” và tình hình như thế liên tục kéo dài đến bảy năm trời.

Tất cả các sự việc xảy ra hiện lên trong giấc mộng của ngày 23 tháng chạp năm 1994 đã làm tôi thức giấc. Trong giấc mộng, tôi leo lên một cái tháp rất cao, sắp lên đến tầng cao nhất, ở dưới đứng đầy người, toàn bộ nhìn với cặp mắt rất ngưỡng mộ. Lúc ấy, không biết ở đâu một người khổng lồ đi đến, cao khoảng hai mươi tầng lầu, nắm lấy tôi kéo xuống, vứt xuống nền, vứt tôi xuống một đống mảnh chai, vả lại còn biến thành một con sâu bọ bị gãy chân. Tôi sợ hãi tỉnh dậy, giấc mộng này để lại ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi.

Nhưng đến bây giờ tôi mới hiểu được, giấc mộng trong buổi sáng ngày 23 tháng Chạp năm 1994, không chỉ dự báo trước vận mạng của tôi trong năm sau mà còn chỉ ra vận mạng của tôi trong tháng tám năm sau này. Trong đó “leo lên tầng cao nhất” tức là tôi gặp được quý nhân sắp đi được tới Bắc Kinh, bị ném xuống đống mảnh chai là dự báo tôi bị một số người ganh ghét, hành hạ trong quá trình làm việc; biến thành con sâu bọ bị gãy chân, dự báo là tôi bị người khác gây sức ép và chà đạp đến không chỗ đứng, còn thân mạng thì bệnh tật. Người khổng lồ ấy là thần linh chấp pháp đến trừng phạt, phá hoại việc tốt của tôi.

Từ đó, tôi bỏ thân ra thuyết pháp, khuyến cáo chúng sanh trên trần gian, cung kính Phật Bồ Tát và Thánh hiền Thần linh, kính ngưỡng “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, không nên để thân khẩu ý gây nghiệp, hành thiện tích đức nhiều hơn, tự sẽ được phước mà xua tan tai họa.

Các Phật tử không kiêu ngạo vào bản thân mà đi châm biếm cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, không biết các cao tăng đại thành đều tôn trọng với các thần linh hộ pháp, nếu như có các Phật môn đệ tử dám ỷ thế mà coi thường, khinh bỉ “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thậm chí chỉ trích, nhất định sẽ bị quả báo. Vả lại phỉ báng Ngọc Lịch Bửu Phiêu chính là phỉ báng Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát.

----------------           


Chương 7 - Mục 3: Bản chất kính Thần và đạo lý của Quỷ Thần
Số từ: 778
Trước mắt, chúng ta đều biết con người sinh tồn đều dựa trên trạng thái lưỡng cực: có Thiên thì có Địa, có mặt trời thì có mặt trăng, có ban ngày cũng có ban đêm, có đàn ông thì có đàn bà, có sống thì có chết, nếu có dương trần thì có âm phủ, có người sống thì có Quỷ Thần, có quan phủ trên trần gian thì có Diêm Vương dưới địa phủ. Âm dương cân bằng với nhau mới có thể tạo ra vạn vật, đây là đạo lý của tự nhiên, cũng là nguyên tắc sinh tồn tự nhiên của đất trời vạn vật.

Chuyện về Thần linh, tuy nhìn bề ngoài thì thấy không rõ ràng nhưng lịch sử từ xưa đến nay có rất nhiều sự kiện chứng minh là có thật, không thể không tin. Người thông minh thực sự là người biết tôn kính Thần minh, tôn kính nhân cách tinh thần để giáo dục cho con cháu đời sau, đó sẽ là những món ăn tinh thần phong phú. Thời xưa, những người có nhân cách cao thượng, có cống hiến to lớn cho tổ quốc, cho nhân dân, sau khi họ mất thì được lập tượng xây đền để tưởng nhớ, có ý nghĩa giáo dục tích cực, đồng nghĩa với việc thời nay xây đền nhà, tượng đài tưởng niệm, chỉ cần con người biết có luân hồi chuyển kiếp và linh hồn bất diệt thì sẽ hiểu được đạo lý kính Thần sẽ được Thần phù trợ.

Tại các nước phương Tây phát triển, đến 95% người có tín ngưỡng tôn giáo, họ cũng lập tượng đài những người anh hùng kiệt xuất tại công viên, đền thờ để tưởng nhớ. Ở phương Đông theo tập tục xưa nay thường hay xây miếu chùa sử dụng phương thức đốt nhang cúng bái. Cho nên, từ xưa đến nay việc thuyết giáo đạo Thần vẫn tồn tại trên dân gian, lập tượng xây chùa tạo cho người biết tôn kính mà noi gương, là tư tưởng cao thượng chân chính, cộng thêm có các sự kiện phát sinh chứng nghiệm khiến cho lòng người phải tuân theo phong tục để giáo hóa chúng sinh, không phải chỉ vì cầu phước mà cúng bái, cũng không vì không đốt nhang cúng bái mà phạm tội. Chỉ cần toàn tâm tôn kính trong lòng thì chính là:

Còn tâm hành ác không hối cải
Thắp hương cúng bái cũng bằng không;
Tu tâm tích đức kính Thần Phật,
Không cầu không bái cũng được linh.

Cổ nhân xưa có câu: “Kính Thần như Thần hiện!” Cho nên, không ít người đem thực phẩm, nhang đèn, giấy tiền đến chùa cúng để tỏ lòng thành tâm. Nhưng mà, dựa theo sách kinh mà nói, cách cúng bái thần Phật tốt nhất là lấy họ làm gương mà học tập, lấy hành động cụ thể để thực hiện những chỉ dẫn của họ, học tập họ mang tinh thần từ bi, quên mình vì chúng sinh. Học tập họ giác ngộ nhân sinh, cống hiến trí tuệ của nhân loại, học tập họ nâng cao đức hạnh trung hiếu chân chánh.

Như vậy mới nhanh chóng có thể nhận được sự phù hộ của Thần Phật, tiến bước đề cao đạo đức Giác Ngộ của chính mình, trở thành một người cao thượng, một người thoát ly được sự hứng thú hạ cấp, một người có ích cho thế nhân, mang tinh thần như có thần linh hiện, cảm nhận và đồng tâm, là một phương thức cầu phước tuyệt đối chính xác và hiệu nghiệm.

Người thời đại hiện giờ cho là thiện ác báo ứng không phải do tác dụng Thần Quỷ, chỉ là người ác gặp ác báo là do mình tự gây tự chịu, chứ không phải do sự trừng phạt của Thần linh. Dựa theo lý luận của Phật pháp mà nói, đây quả nhiên là một chân lý, nhưng tự làm tự chịu không mâu thuẫn với sự trừng phạt của Thần minh. Ví dụ, một người phạm tội bị bắt vào tù giam, nói về mặt bản chất quả nhiên là do hắn tự chịu, nhưng không thể phủ nhận sự tố giác của người bị hại hoặc tư pháp lập án điều tra và sự phán quyết của tòa án. Không thể phủ nhận việc bị trừng trị vậy là sai lệch hết ý nghĩa.

Cho nên “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là một cuốn sách đi cùng với thiên và địa đồng tôn thủ quy tắc với nhau “Thiên điều Địa luật”.

----------------           


Chương 7 - Mục 4: Tôn giáo tương hỗ, đoàn kết cứu thế
Số từ: 1026
Hiện nay, một số phật tử của Phật giáo chỉ chấp nhận là có Phật Đà, không chấp nhận có Thần, Tiên, Thiên, trong sách kinh nói người tu trên thập thiện nghiệp sau khi chết sẽ thành Thiên Thần và Thần Tiên. Cũng còn có một số Phật tử không biết được tinh thần tự giác, giác ngộ của Phật Bồ Tát, cảnh giới cao hơn Thiên Thần mà xem Phật với Thiên Thần cùng đẳng cấp. Quan điểm sai lầm bất phân biệt Thần, Tiên, Phật này dẫn đến hệ lụy làm cho Phật giáo bị xuống cấp, hiểu lầm và gây phản cảm trong xã hội.

Kinh sách nhà Phật nhiều lần đã phân biệt rõ các tầng thứ của Tiên, Thiên, lục đạo Thần minh. Cao tăng Ấn Quang đại sư nhiều lần thuyết giải với đại chúng là phải biết kính nể Quỷ Thần, Thiên Địa, Thần, Tiên, Phật, Bồ Tát,… cho thấy một Phật tử chân chính của Phật giáo không bao giờ không kính nể đạo lý của thiên địa Thần minh. Cho nên, giữa Thiên và Địa vô hình có quy tắc pháp luật tự nhiên, làm sao mà ta không tin tưởng? Phật là đứng đầu các cõi, sao còn không mau quy y?

Ngoài ra, một số tín đồ hay thích khinh bỉ chê bai, mà còn chửi bới nhục mạ các tôn giáo khác, thường cho là “ngoại đạo”, thậm chí còn sai lầm hiểu ngoại đạo đồng nghĩa với tà đạo. Khi Thích Ca Mâu Ni lúc chưa thành Phật đã từng theo học 96 loại ngoại đạo để cầu giải thoát, sau này rốt cuộc tỉnh ngộ được “Tâm ngoại vô pháp” mới chánh giác thành Phật. Lúc người đang tu hành đạo Bồ Tát, đã từng nhiều lần sử dụng hình ảnh của Bà La Môn, hình tượng của Tiên nhân để độ hóa chúng sinh. Nghĩa là bất luận tín đồ của Phật giáo hay các tôn giáo khác, nếu không từ nội tâm hạ công phu mà tu hành thì mới gọi là ngoại đạo. Tôn giáo chân chính thường hay chỉ bảo người hành thiện tích đức, cứu nhân độ thế, chỉ có khác biệt về phương pháp, phương tiện, nguyện lực và nhân duyên mà thôi.

Phật Đà đối xử với các nhân sĩ của các tôn giáo khác, tuyệt đối không bao giờ khuyên họ nên từ bỏ tôn giáo mà mình đang tín ngưỡng mà đến theo học Phật Pháp (trừ khi là tà giáo) mà là hành vi thế phàm, thuyết giảng chân lý, tuyên ngôn giáo hóa. Phật Pháp là dựa trên cơ sở trả ơn cha mẹ, sau khi học Phật càng phải kính hiếu với cha mẹ hơn, ái mộ thêm Thượng Đế của tôn giáo mình và biết kính trọng người hướng đạo, vậy mới là Phật Pháp.

Cho nên Phật Pháp được tất cả các loài người tôn trọng, Phật Tổ được tôn vinh là “Thế Tôn”. Trong cuốn “Tỳ Lô Giá Na Bồ Đề Tập” Phật nói:” Nếu người nào chà đạp lên những tôn giáo khác, tức là xa rời điểm Tỳ Lô Giá Na (tức là nhân duyên thành Phật)”.

Tôn sư sáng lập Tịnh Độ Tông Phật Giáo tại Trung Quốc là Huệ Viễn pháp sư tại Đông Thổ Lô Sơn, ông đã từng cùng Tôn sư của Đạo giáo hiện thời là Tôn sư Lục Tịnh Tu, Nho giáo danh lưu Đào Khuyến Minh rất là thân thiết, hay thường lui tới, cùng đàm thoại uyên bác, lưu lại trong lịch sử lưu câu chuyện “Hổ Khe Tam Tiếu”. Ông không chỉ giảng luận Phật lý, còn giảng dạy kinh điển của Nho giáo, đi sâu nghiên cứu tích yếu về gia đạo, suốt đời không ngừng nghiên cứu Nho đạo.

Đường triều cao tăng, Hoa Nghiêm thiền sư của Mật Tông Ngũ Tổ Quy Phong trong cuốn Nguyên Nhân Luận có nói: “Khổng, Lão, Thích Ca đều là chư Thánh, tùy thời ứng vận, thuyết giáo thụ đồ, nội ngoại tương tự, cùng lợi quần sinh”.

Ông cao tăng thời nay - pháp sư Ấn Quang, pháp sư Đàm Thư đối với các tôn giáo chánh phái và các Thần minh đều tôn kính bình đẳng, Mật Tông Đại thành tựu Trần Kiến Dân thường tu cùng đạo Tin lành, đạo Thiên chúa, Đạo giáo, Nho giáo tại khắp nơi nước Mỹ.

Hiện nay, ở Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ, các đại tôn giáo thường cùng tổ chức các hoạt động từ thiện để cùng nhau giao lưu, đạo Tin lành, đạo Thiên Chúa giáo, Đạo giáo mời nhân sĩ của Phật giáo đến các nhà thờ, lễ đường hoặc cung quan để tụng “Kinh Địa Tạng”, “Kinh Kim Cang” và trình diễn các bài Phật nhạc, Phật tử Phật giáo cũng đọc các sách “Thánh Kinh”, “Mã Thái Phúc Âm”, “Đạo Đức Kinh”, “Thái Thượng Cảm Ứng Tập”,… giống như bà con thân thiết lui tới với nhau, hài hòa thiện hữu nhưng trong lúc tu hành thì vẫn đạo giáo nào tu đạo pháp đó.

Từ đây cho thấy, hàng trăm năm nay, mọi người đều biết Thần hộ pháp của Tứ đại danh sơn - Cửu Hoa Sơn là vị Thần nổi tiếng của Đạo giáo “Ngọc Quy Hỏa Phủ Thiên Tướng” - Linh Quan Vương, tượng Thần này có lập tại các nơi trong Cửu Hoa Sơn và Tì Viên Tự, Cam Độ Tự để cúng bái tôn kính.

Nhìn theo pháp giới để nói: Phật với chúng sinh là vô nhị vô biệt, tất cả chúng sinh (bao gồm Thần, Tiên, và các sinh linh) đều có Phật tánh, tòng sanh bình đẳng. Đến như một sinh linh nhỏ bé như con kiến vẫn được nhìn nhận bình đẳng, huống chi đối xử với các tôn giáo và Thần minh vốn lấy thiện làm bản chất như vậy. Vì phước lộc của chúng sinh, giữa các giáo phái phải từ bỏ mâu thuẫn thời trước, khoan dung rộng lượng, tương trợ lẫn nhau mới là con đường đúng đắn.

----------------           

Chương 7 - Mục 5: Cung kính Thần và cầu phước
Số từ: 970
Hiện nay, các nơi trên toàn đất nước có không ít các loại đền miếu lớn nhỏ (không phải nói về chùa Phật Bồ Tát), đến ngày viếng Thần hay phô trương giết mổ súc sinh, dùng phương thức vừa thịt vừa cá để cúng phước. Vậy là trên cơ bản đã làm trái với đạo giáo, sai lệch ý nghĩa Thiên đạo của Phật giáo.

“Thượng Thiên có đức háo sanh”, trong cuốn kinh điển có tiếng của Đạo giáo “Tập Thái Thượng Cảm Ứng” có khuyến cáo nhân loại không được “bắn chim” rượt thú, phá tổ lấp ổ, hại thai giết trứng, không được “giết rùa đánh rắn”, “sát hại côn trùng”. Ngoài ra còn còn nói rõ nếu có thể “từ tâm với vật, không sát sanh, chắc chắn sẽ được Trời Đất phù hộ, phước lộc kéo về, Thần linh bảo vệ”.

Trong “Trung Bản Khởi Kinh” Phật nói: “Sát sanh giỗ Tổ, không tậu được phước, Thiên Thần không ăn, kẻ sát có tội”. Tại sao Thiên Thần không ăn? Tại vì Thiên Thần trú tại cung điện trên cõi Trời là xây bằng thất bảo, ăn toàn các mỹ vị ngọt ngào như cam lộ, làm gì mà phải ăn những thứ thịt của súc sinh vừa hôi tanh, dơ bẩn, xấu xí. Khi Thiên Thần không đến ăn thì sẽ không cầu được phước, kẻ sát sanh để làm giỗ cúng bái còn phải gánh thêm tội sát sanh, là tự gây phiền phức cho mình. Cho nên, sát sanh để cúng Thần là một chuyện ngộ nhận, một hành vi vô công mà có tội.

Trong cuốn “An Sĩ Toàn Thư” có ghi lại một câu chuyện “Thần Sông Thụ Giới”: Ở tỉnh Giang Tây, có con sông nước chảy mạnh rất nguy hiểm, có tên gọi “không gió ba thước sóng”. Bản xứ này có một miếu Long Vương, được xem là rất linh ứng, các thương gia vãng lai, thường hay sát sanh cúng bái, thì hàng hóa lưu thông mới được bình an, trường kỳ như vậy vì cúng bái không biết đã sát hại biết bao súc sinh không thể tính nổi. Đến thời Minh Triều, có một vị pháp sư có đức hạnh rất cao siêu từ đâu đi ngang qua, trước một ngày ông đến, người quản lý của miếu Long Vương, mơ thấy Thần Long Vương đến nói với ông “ngày mai sẽ có một vị đại hòa thượng đến đây, ông ta kiếp trước tu hành đã bái cùng một sư phụ xuất gia với tôi, ông tu hành không nguôi, kiếp này đã trở thành cao tăng, tôi chỉ sai lệch một bước, đã tọa lạc thành một Thần ăn vật máu tanh (dùng sát sanh súc vật để làm cúng bái cho các Thần), nghiệp tôi sát sanh tội rất nặng, tương lai nhất định phải vào đại địa ngục chịu khổ báo. Ngày mai, nhờ ông thay tôi cầu xin pháp sư truyền tôi Phật giới, sau này các người lai vãng đến cúng bái tôi, nhất định không được dùng rượu thịt!”.

Qua ngày hôm sau, ông chủ quản miếu đi dò xét, quả nhiên gặp được một pháp sư giống vậy nên đã nói rõ nguyên do cho ông ta nghe và mời ông ta đến miếu Long Vương để thuyết pháp. Từ nay về sau, sóng gió bên sông rất bình yên, người qua lại không cần phải sát sanh để dâng cúng. Cho nên, ngay cả Thần linh nếu tham hưởng thức ăn có mùi tanh cũng phải chịu sát giới, cũng phải vào địa ngục chịu quả báo.

Trên thế gian thật sự là có chuyện sát sinh để cúng bái Thần Quỷ cho việc cầu phước, chúng ta nên hiểu rõ, Thần Quỷ không phải thật sự tu hành để trở thành một Thánh linh đại từ đại bi, cũng có lúc phạm qua lỗi lầm, vả lại thật sự có không ít tà ma ác quỷ yêu ma háo thịt máu tanh, hành động tác quái trên thế gian. Nếu mà Thần tham hưởng máu tanh, nhận cúng lễ máu thịt của bạn rồi sau ban cho bạn được phước mà bạn không đáng có, giúp bạn làm những chuyện không nên làm thì đây là một hành vi mua chuộc vừa phạm nghiệp tội sát sinh và nghiệp trộm cắp, sau này sẽ tự hứng chịu quả báo. Vì vậy, ngoại trừ phải cùng gánh chịu nghiệp tội sát sanh còn phải chịu sự khổ báo do cưỡng cầu mà có, phải biết có trốn được một thời mà không trốn được vĩnh viễn, hưởng những phước báo mà mình không đáng được hưởng, ai biết được có khi nào do tà ma ác Thần xoay chuyển cho mình hưởng trước những phước lộc mà mình đáng được, như vậy có gì để đáng vui mừng?

Dựa trên cho biết, sát sanh cúng bái, đối với Thần hoặc người, cả hai đều có hại. Cho nên “Kinh Pháp Cú” có nói: “Yểu nghiệp thấy phước, vì ác chưa đến, khi ác chín muồi, tự chịu tội hình”

Như vậy, chúng ta cầu phước phải sử dụng phương pháp thanh tịnh từ bi như phóng sinh, ăn chay, tụng kinh, kính hiếu trưởng bối, cứu trợ người già neo đơn và người có hoàn cảnh khốn khổ, hỗ trợ trẻ em nghèo thất học, niệm Phật, cúng tăng, cúng dưỡng Phật Tam Bảo, tuyên dương sự việc nhân quả báo của thiện ác. Trợ giúp tiền in sách thiện truyền bá nhân loại mới chính là phương thức chánh đạo để cầu phước. Nếu như cúng Phật thì phải dùng hoa quả, thực phẩm chay, chỉ cần thành tâm đều được cảm ứng.


----------------           

Chương 7 - Mục 6: Niệm hồng danh Địa Tạng Vương Bồ Tát tránh được tai nạn
Số từ: 414
Cô Vương Tú Phân 18 tuổi, từ nông thôn lên thành thị làm việc, đêm tối hay thường bị ác mộng thức giấc, gây cho tinh thần bị rối loạn. Cô nghe nói niệm bảy chữ hồng danh “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” có thể ngủ yên lành, vả lại còn có thể tăng thêm phước vận, tiêu họa trừ hung. Nên mỗi ngày sử dụng 20 phút thời gian niệm 1000 lần. Đêm hôm đó quả nhiên ngủ rất yên lành, từ đó ác mộng ngày càng giảm mất.

Vào một đêm tối, cô mơ thấy một đám ác đồ rất hung dữ, bắt cô và một số chị em chơi thân với nhau, nói là đưa họ đi làm gái điếm. Cô rất sợ hãi, lúc hoảng hốt thì niệm câu hồng danh “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”, mới niệm có mấy câu thì thấy có ông hòa thượng tay cầm gậy sắt đi đến, chỉ vào cô ta và nói với các ác đồ: “Cô ta là người của tôi, các ngươi không được bắt cô ta!”, nói xong thì đuổi hết bọn ác đồ đi và đưa cô về. Khi thức giấc cô cảm thấy giấc mơ này rất kì lạ.

Hai tháng sau, mấy cô bạn dưới thôn quê lên rủ cô cùng đi Phúc Kiến làm việc, mỗi tháng lương bổng hơn hai ngàn đồng, còn trả trước phí an cư một ngàn đồng, cô nghe xong động lòng đang chuẩn bị đi. Không ngờ qua ngày hôm sau bụng đau rất dữ dội, tiêu chảy không cầm nên không thể đi chung, đành bỏ lỡ cơ hội này.

Nửa năm sau, ở dưới quê truyền đến thông tin, mấy cô bạn kia đã bị xã hội đen “đại ca” dụ dỗ lừa sang Phúc Kiến, tiếp tục bán đi Đài Loan làm gái điếm. Lúc này cô mới nghĩ lại giấc mộng kì lạ ấy, nên càng tín ngưỡng hơn sức lực thần uy của Địa Tạng Vương Bồ Tát.

“Kinh Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn Nguyện Công Đức” có nói: “Mỗi ngày niệm hồng danh “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” 1000 lần, kiên trì 3 năm, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ cử Thần Thổ Địa và Thần Phúc Đức đến phù hộ, giúp cho hành giả không bao giờ gặp tai nạn họa hại, cuộc sống sẽ được bình an, cơm ăn áo mặc, phước lộc tăng trưởng”.


----------------           


Chương 7 - Mục 7: Quan Thánh chiến thắng ôn thần
Số từ: 631
Thời Dân quốc, các thành thị làng quê đều có tổ chức bang phái, lúc thời Thanh Triều còn gọi là Hội đồng hương, thời dân quốc gọi là Hội quán, người An Trưng có An Trưng hội quán, người Hồ Nam có Hồ Nam hội quán… chủ yếu là phòng thân không để cho người địa phương và người ngoài ăn hiếp. Khi có xảy ra sự cố thì hội quán sẽ đứng ra can thiệp.

Năm 1946, năm thứ 2 của đợt kháng chiến thắng lợi, ông Tôn Vịnh Trấn trưởng làng của hội quán người An Trưng đến mời cậu tôi là Huỳnh Hạc Ban vẽ cho họ một bức tranh lớn hình tượng ông Quan Công, cậu tôi là họa sĩ nổi tiếng tại Viễn Nam, có năng khiếu tạo hình lập thể nhân vật. Sau khi hai bên bàn bạc ổn thỏa việc tranh vẽ và tiền công. Năm ngày sau thì hoàn thành, người hội quán xem rồi khen tranh thật trang nghiêm và mở tiệc chiêu đãi tạ lễ. Trong lúc dự tiệc, cậu tôi hơi hiếu kì, trong địa phương có rất nhiều hội quán không thấy có tín ngưỡng thờ Quan Công, chỉ có hội quán của An Trưng chịu bỏ ra giá cao để vẽ tranh tượng Thần Quan Công, nhất định phải có nguyên do. Cho nên hỏi thăm, ông trưởng lão hội quán trả lời:

“Quan Công đã từng cứu bá tánh của toàn huyện chúng ta, nên đã kể ra câu chuyện như sau:

- Thời cuối Thanh Triều, Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh khiêu chiến với binh lính nhà Thanh tại An Trưng không bao lâu, Viễn Nam các huyện phát dịch bệnh (bệnh truyền nhiễm), chỉ độc nhất huyện Kinh không có bá tánh nào bị bệnh, nguyên nhân là do Quan Công hiện Thánh đuổi dịch bệnh ôn thần đi khỏi.

- Trưởng lão hội quán nói: cửa phía Nam của huyện chúng ta có thiết lập một cái miếu để cung phụng thánh Quan Công, trong miếu có một ông chuyên quản lý chăm sóc nhang đèn trong miếu (gọi là ông chay), trước dịch bệnh bùng phát 1 tháng, có một đêm Thánh Quan Công báo mộng cho ông chay và 2 người trong làng lân cận: “Ôn thần sắp giá lâm huyện này, vì để tránh sinh linh phải chịu tai họa, đêm mai ông phải đến miếu tôi gõ chuông, để trợ giúp thần uy, trục xuất ôn thần, có thể tránh khỏi nạn kiếp”.

Sáng ngày hôm sau, hai ông trong làng không hẹn mà đi đến miếu thông báo cho ông chay nghe, mới biết là ba người cùng mơ một giấc mơ. 11h đêm hôm đó, cả ba người đột nhiên nghe thấy trên trời cao có tiếng ngựa chạy và tiếng đánh kiếm thì lập tức gõ chuông, trong đêm khuya tiếng đánh kiếm càng quyết liệt, chỉ thấy các tượng Thần trong miếu tiết mồ hôi ra như mưa, ông chay không ngừng dùng khăn lau, ra lệnh hai ông trong làng mạnh tay gõ chuông, khoảng hơn 1 giờ đồng hồ sau, tiếng kim mã dần biến mất, đêm khuya trở lại im lặng, ba người quỳ xuống tạ ơn Thần, những người trong làng bị đánh thức giấc đã bu quanh dò hỏi nguyên nhân.

Sau chuyện này không bao lâu, toàn huyện phát ra dịch bệnh, trong 10 người chỉ còn giữ lại 3 người, độc nhất huyện Kinh không có bùng phát dịch bệnh, sau này người trong làng lập bia khắc lên sự tích Quan Công đuổi ôn thần lưu truyền trong miếu. Từ đó, người nào cũng biết đến, đều tín ngưỡng linh nghiệm của Quan Thánh Đế Quân.

----------------           


Chương 7 - Mục 8: Những quả báo khi hủy hoại tượng Thần và tham tiền từ thiện
Số từ: 647
Thị trấn Bắc Hải tại Quảng Tây có một ngôi miếu cổ, có tên gọi là “Phổ Độ Chấn Cung”. Vào năm 1988, ông Chu người quản lý của miếu này có mướn một người nông dân đến để khiêng một tượng Thần khắc bằng gỗ, do tượng quá lớn không tiện di dời, phải sử dụng cưa từ chỗ lưng ra thành hai khúc, sau đó chuyển đi. Cách chuyện xảy ra 10 năm sau, năm 1998, ông Chu bị một chiếc xe mô tô phóng nhanh đụng vào bị thương nặng, làm gãy nhiều ống xương và gãy lưng, những chỗ bị gãy y như vị trí lúc cưa tượng Thần.

Sau đó, ông Chu phải điều trị một thời gian mới xuất viện. Tiếp đó, người nông dân nọ cũng phải chịu quả báo, trong lúc ông vớt bánh ú, bánh ú trong nồi kẹp lại một tấm lá khi kéo lên đã vẩy nước sôi lên mặt, gây cho nửa mặt ông ta bị phỏng rất nặng, còn bị phá tướng trên mặt.

Từ xưa đến nay, việc phá hủy tượng Thần Phúc Đức Chánh Thần đều gặp phải chuyện không tốt lành. Theo chúng tôi điều tra, thời kỳ đại cách mạng văn hóa, những người tham gia hủy chùa chiền và phá hoại tượng Phật không có người nào có quả báo tốt lành, đây là một sự thật. Chỉ cần chúng ta thâm nhập, điều tra phỏng vấn, làm một người có tâm, nhất định sẽ chứng thực nhân quả báo có thật không hư và không nơi nào không tồn tại.

Nguyên “Phổ Độ Chấn Cung” có ông quản lý thường hay ăn cắp tiền của các thiện nam tín nữ đến cúng dường, đem về nhà riêng tiêu xài cho riêng mình, quả báo của ông ta là hai đứa con gái của ông, một thì nghiện ngập ma túy, một thì bán dâm.

Những người đi đến miếu chùa cúng dường thường là những người gặp nạn hoặc có nguyện, có tin hướng đến phước đức của Thần linh mà quyên góp tiền cúng dường, cúng dường để tai qua nạn khỏi và tậu phước lộc, khoản tiền này đáng lẽ chỉ có thể sử dụng cho việc xây miếu chùa và tu hành hoặc chỉnh trang tượng Thần Phật, hoặc in tặng kinh văn, hoặc cứu trợ người nghèo đơn chiếc và các chuyện công ích từ thiện, làm như thế mới có thể tạo cho người quyên góp tiền đạt được nguyện vọng và được chứng thật nếu không thì sẽ gặp ác báo.

Khi mình lấy cắp tiền cúng dường cho Thần linh để lập công đức, nhất định phải thay thế người ta tiêu tai ban phước, Quỷ Thần sẽ đưa phước đức của mình âm thầm chuyển hồi hoàn thưởng cho người quyên góp tiền cúng dường, nên mình sẽ bị bạc phước, vận xấu nghèo khổ vô tận; nếu như phước đức, tinh khí của mình không đủ để bù đắp cho công đức của người quyên góp tiền thì thân tâm sẽ bị suy nhược lâm bệnh. Ngoài ra, còn vi phạm điều nghiêm cấm là trộm cắp tiền thập phương, sau khi chết sẽ bị đẩy xuống địa ngục vô tận chịu cực khổ. Tham ô tiền công đức cúng dường của chùa miếu, thực sự là một điều không thể làm. Nếu có những người như vậy, mau đến sám hối cải thiện, nhất là những người quản lý trong chùa và những người xuất gia phải đặc biệt cẩn thận.

Người muốn làm công đức quyên góp tiền cúng dường cũng không nên quá hồ đồ, nên chọn đúng điểm thật cần để ban phát công đức cho thiên hạ, giải quyết được những vấn đề thiết thực. Nếu không sẽ hại người, hại thân vô ích.

----------------           


Chương 7 - Mục 9: Tịnh Không Pháp sư luận cung dưỡng
Số từ: 572
Phật môn thường nói: “Một hạt gạo của thí chủ lớn như núi Tu Di, hôm nay không hiểu đạo, chăn bông vất xó nhà” Cho nên, tiền cúng dường làm sao có thể đem đi hưởng thụ. Nếu như người cúng dường có lòng làm công quả thì nên tiếp nhận, tiếp nhận xong thì phải chuyển làm cúng dường.

Ấn Quang Pháp sư đều đưa tiền tài cúng dường của tín đồ sử dụng vào việc in sách kinh và cứu trợ từ thiện, đưa phước nguyện của thí chủ chuyển thành hiện thực. Như là xây chùa lập miếu, người trong chùa phải thật sự hoằng pháp lợi sinh thì sự cúng dường của thí chủ mới có được công đức.

Có một số Pháp sư do được tín đồ khen ngợi, cúng dường mà sa đọa, sau này phải chịu quả báo, những tín đồ này cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Hiện giờ, một số tín đồ cúng dường cả nhà cửa, thứ gì tốt đều đem đi cung dưỡng cho Pháp sư, đời sống của Pháp sư quá sung sướng, thế giới Tây Phương cực lạc cũng không muốn đi nữa - nơi đây cũng tốt vậy, đâu cần phải cực nhọc làm chi? Tâm thành Phật đạo, tâm độ chúng sanh thoát ly sinh tử cũng không còn, thật là tai họa lớn! Pháp sư xuất gia thì đâu còn gia đình, tặng cho họ một ngôi nhà, tức là kêu họ nhập gia, họ có quyền sở hữu, lại có tài sản, tiêu rồi! Họ lại trở lại như xưa! Vậy do ai hại họ như thế? Tín đồ hại chết pháp sư.

Những người như vậy không hiểu được là mỗi ngày đang phá hoại Phật pháp, tổn hại Tam bảo, còn tưởng mình làm được nhiều việc công đức, nhiều việc tốt lành. Đến cuối đời xuống địa ngục gặp Diêm Vương, còn phân biệt không được sự tình thật hư ra sao, lúc ấy phải làm gì đây?

Phật Tổ năm xưa cùng với đệ tử ngày ăn dưới nắng, ngủ dưới cây qua những tháng ngày cực khổ. Người tu hành trẻ tuổi thì phải chịu tu luyện gian khổ, chỉ có “dị khổ vì sư” mới thật sự sanh ra tâm đạo chính chánh, có tấm lòng kiên cố siêu xuất thế gian này. Tự mình không chịu được cực khổ, nhìn thấy người khác chịu cực thì phát lòng tôn kính, không nên kéo họ đi lùi. Phật Tổ chỉ bảo chúng ta cúng dường cho pháp sư lương thực, quần áo, thuốc thang (lúc bệnh), vật dụng sinh hoạt cơ bản thì đủ rồi, nếu như pháp sư thật sự hứng thú muốn lo việc lợi ích cho chúng sanh thì nên lo theo tùy hỷ, ưa thích bố thí.

Đối với người mà bách gió thổi bất động, đáng để cho mình ra sức khen ngợi và cung dưỡng. Những người này mình khen ngợi họ, họ không sanh lòng vui sướng; vu khống họ, họ không nổi tâm âu sầu, tâm trạng họ vĩnh viễn bảo tồn yên tịnh, những người như thế mới thật sự đáng khen ngợi. Vì sao? Khen ngợi cung dưỡng không hại được họ, cho nên phải trợ giúp tuyên dương họ, tạo cho càng nhiều người biết đến, thì họ sẽ càng đắc độ chúng sanh càng nhiều.

----------------           


Chương 8 - Mục 1: Phụ thân của Mai Lan Phương
Số từ: 389
Thiện Ác có quả báo

Cha của Mai Lan Phương là người có danh tiếng trong nghề diễn kịch nghệ thuật. Lúc thời niên thiếu, ông học kéo đàn, học xong thường đến hoàng cung biểu diễn. Sau mấy năm, ông đã tiết kiệm được năm ngàn mấy bạc tiền đồng, gia đình hối thúc ông ta về quê thành hôn. Một ngày nọ, ngồi xe ngựa về quê, khi đi ngang qua Nam Kinh, ông thấy rất nhiều túp lều đều là những người tị nạn cư trú. Vì năm hạn hán mất mùa, dân đói khát lũ lượt đến.

Nhìn thấy cảnh đói khổ, lòng ông rất thương xót. Lòng từ bi nổi dậy, ông nghĩ trong lòng, mình có 3 ngàn lượng, nếu như bố thí 3 ngàn lượng cứu trợ cho người nghèo đói, còn lại 2 ngàn lượng cũng đủ để kết hôn. Nên ông đem ba ngàn lượng cứu trợ cho người nghèo đói nhưng vì dân nghèo đói quá nhiều, không đủ phân phát, ba ngàn lượng xài hết mà còn quá nhiều dân cầu cứu, lòng Mai quân thật không đành lòng, nên bỏ luôn hai ngàn lượng còn lại, đồng tiền xương máu của mình tích lũy mấy năm qua hoàn toàn tiêu sạch trong một ngày.

Trong lòng rất an lòng, nhưng lần này về quê lấy vợ thì không thành rồi. Nghĩ trong lòng, mấy năm sau mình thành hôn cũng được nên quay lại Bắc Kinh. Các đồng nghiệp hỏi ông ta sao lại quay về mau vậy. Ông Mai Quân kể lại chuyện bố thí cứu nạn, rất nhiều người đều nói ông ta ngu dại. Mai Quân lại làm việc thêm ba năm mới quay về quê lấy vợ.

Tại vì có một chuyện đại công trên trần dương nên trời ban cho ông ta con cái quý. Con gái ông Mai Lan Phương lừng danh trên toàn thế giới, giàu sang cao quý. Tuy không phải là hạng cao sang quý tộc nhưng đời sống sinh hoạt của ông thật là đầy đủ, sung túc, tôn vinh cho tổ tiên, lưu danh cho thế hệ sau, ông và con ông đều là đại sư có tiếng trong làng nghệ thuật. Thật ra, ông Trời đã ban cho ông một quả phước báo không nhẹ.

----------------           


Chương 8 - Mục 2: Những quả báo khi Tào Thiết Âu cưỡng hại điên cuồng
Số từ: 405
Thiện Ác có quả báo

Sỡ dĩ, Tào Thiết Âu có tiếng, không phải chỉ vì bà ta là vợ Khang Sanh mà là do bà ta với Khang Sanh đều cùng là sát thủ có tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ, đều sát hại điên cuồng. Ở một số mặt, bà ta còn hiểm độc gian tà hơn Khang Sanh. Tào Thiết Âu lúc còn sống đã từng bị một chứng bệnh đặc biệt.

Sau khi Khang Sanh mất, Tào Thiết Âu từ Bắc Kinh dọn đến Mộc Dị Tỳ lầu số 22. Nhà lầu này chuyên xây cho các cán bộ cấp Bộ Trưởng ở, Vương Quang Mỹ và rất nhiều cán bộ cao tuổi đều sống qua tại đây, bị Khang Sanh và Tào Thiết Âu cưỡng hại.

Sau khi Tào Thiết Âu chuyển về nhà lầu này ở, thường có cảm giác như đang sống trong ngục tù sự chửi bới của dân chúng, gây cho bà ta sợ hãi, lo âu, đau khổ, căng thẳng và bất an. Bà ta sợ tiếng gõ cửa, sợ tiếng ồn, càng sợ người hơn. Đặc biệt là sợ những người già đã từng bị bà ta cưỡng hại, bà ta thường hay nằm ác mộng suốt ngày và đêm, mơ thấy rất nhiều người kỳ quái hung dữ muốn giết hại, rượt đuổi bà ta. Thậm chí, sau này ban ngày cũng nhìn thấy ưu hồn đến đòi mạng sống của bà ta. Cho nên, bà ta rất hoang mang.

Vào một buổi tối, cháu gái của bà ta vừa bước vô nhà, bà ta tức thì quỳ xuống trước mặt cháu gái khóc òa lên: “Hiện giờ, có người muốn đến trả thù ta, muốn hãm hại ta, mau cứu ta với, nếu không ta sẽ không sống nổi!”

Cô cháu gái không cảm thấy kinh ngạc vì những năm gần đây, Tào Thiết Âu như điên điên khùng khùng, nói năng lung tung, nói những câu nói, làm những chuyện bậy bạ và đã là chuyện thường ngày, vả lại càng ngày càng nghiêm trọng… Năm 1991, bà ta kết thúc cuộc đời của mình trong sự hoang mang, sợ hãi.

Đây chính là một Tào Thiết Âu bệnh hoạn lúc cuối đời. Tức là lúc sau khi mất hết quyền thế, Tào Thiết Âu cuối đời bị hàng vạn người căm thù nguyền rủa và chết trong nhục nhã.

----------------           

Chương 8 - Mục 3: Đầu thai thành lợn vì quả báo sát sanh
Số từ: 434
Thiện Ác có quả báo

Một tỉnh nọ tại Dư Thiều, Triết Giang, có một ông đồ tể họ Tôn, vào các ngày lễ Tết thường có người mời ông đi mổ heo. Khi ông quy y Phật giáo, biết được nghiệp sát sanh là tội nặng thì không còn giết mổ heo thay người.

Đến cuối năm, người bà con nhất quyết phải nhờ ông ta mổ cho bằng được. Chỉ vì nể về mặt tình cảm khó xử, ông ta lại phải giết mổ thêm hai con heo.

Qua tháng ba năm sau, vào một đêm, ông Tôn đại tiện sau nhà, thấy từ xa có một đám người đi tới. Có bảy người nam, tám người nữ toàn bị trói lại như là đang bị áp giải. Ngoài ra, còn có một số người tay cầm súng. Chạy gần, ông Tôn thấy trong đó có một người ông ta quen biết, đó là tên ác bá ở cách làng mười dặm. Người này cấu kết với thổ phỉ, ăn hiếp người nghèo, không việc ác nào mà không làm. Ông Tôn nghĩ thầm, ông ta có thể đã bị quan lính bắt giữ, không sao lại bị trói. Từ từ đi về đến nhà, chỉ nghe đám người đó cứ đi theo hướng nhà kế bên bán tạp hóa. Cách tường lắng nghe, chỉ cảm thấy tiếng người náo loạn, đèn nhà sáng trưng, nghe một hồi sau đó mới yên tĩnh lại.

Ông Tôn thức dậy lúc canh năm trời chưa sáng, đi ra ngoài tiệm tạp hóa, chờ gần nửa ngày mới thấy cửa tiệm mở ra. Ông Tôn hỏi, hôm qua nhà ông có chuyện gì mà sao nhiều phạm nhân đến nhà ông vậy. Chủ nhà này nói hôm qua chẳng có người nào đến nhà tôi cả nhưng con heo nhà tôi đẻ được mười mấy heo con.

Ông Tôn nói: “Tôi còn nhìn thấy ông ác bá nọ cũng bị trói trong đó mà”.

Ông chủ kia nói: “Chắc ông đã gặp ma rồi. Ông ác bá đó tháng trước đã bị bắn chết rồi”.

Ông Tôn quá sợ hãi, ông đi đến chuồng heo, thấy có 7 heo đực, 8 heo cái, phù hợp với số lượng người mà hôm qua ông thấy. Ông Tôn sợ quá, chạy đến Phật đường sám hối, xin thề thanh khẩu ăn chay.

Sau này mới biết, tên ác bá nọ lúc còn sống thường hay đến tiệm tạp hóa kia đòi nợ tiền mãi lộ nên sau khi chết phải đầu thai nhà đó để trả nợ.


----------------           


Chương 8 - Mục 4: Họa phước công bằng, đủ duyên mới đến
Số từ: 1374
Thiện Ác có quả báo

Vào năm Thuận Trị thời nhà Thanh, tại huyện Thuận Nghĩa, Bắc Kinh có một đại gia đình họ Cung, nhà có ruộng đất cả trăm mẫu, lừa ngựa cả đàn. Lúc trung niên, họ sanh được một cậu con trai, đặt tên cúng cơm là Khánh Hữu. Trong lúc này, ông Lý làm quản gia quản lý việc tá điền cho nhà họ Cung cũng sanh được một thằng con trai, đặt tên là Lý Phúc.

Đợi Cung Khánh được 7 tuổi, Cung đại gia mời một gia sư đến dạy học cho con trai. Lý quản gia thấy con trai của Cung đại gia được học sách, nên cầu xin ông Cung đại gia cho con mình học cùng với Cung Khánh, được Cung đại gia đồng ý. Tháng ngày qua mau, lúc Lý Phúc đến 14 tuổi thì cùng Cung Khánh tá túc tại học viện, tức ngày thì học chung, đêm thì ngủ chung.

Có một đêm, Lý Phúc đang ngủ ngon, mơ thấy trên trời mở một cổng lớn, từ trên trời hạ xuống hai ông Thần, hạ đúng trong học viện, có một ông Thần chỉ ngón tay đến Cung Khánh Hữu, còn ông Thần kia nói: “Anh ta ra sao?”. Ông Thần kia nói: “Anh ta là người toàn phước, năm 17 tuổi đậu tú tài, 19 tuổi đậu cử nhân, tương lai sẽ thăng quan đến cấp nhị phẩm, suốt đời hưởng vinh hoa phú quý”.

Ông Thần nọ lại chỉ vào Lý Phúc, hỏi ông thần kia: “Còn anh kia?”. Ông Thần kia nói: “Người này thuộc mạng khổ vô công danh, vô phận nghèo suốt đời”. Nói xong, hai ông Thần bay về Trời.

Sau khi hai ông Thần đi vào cửa Trời, cửa Trời đóng lại như trước. Lý Phúc tỉnh dậy, cảm thấy kỳ lạ liền kể hết chuyện trong mơ cho cha mẹ và những người khác nghe.

Đợi đến khi Khánh Hữu năm 17 tuổi, quả nhiên thi đậu tú tài, lúc này Lý Phúc không còn học nữa. Nhà có ruộng đất, Lý Phúc tuy canh tác nhưng luôn để ý đến hành vi của Khánh Hữu, anh ta thấy Khánh Hữu có tính độc đoán, luôn làm chuyện ác, tàn nhẫn bạo hành, không làm việc tốt. Sau khi Khánh Hữu thi đậu tú tài và tiếp tục thăng tiến, đúng là thăng chức đến làm đại quan nhị phẩm.

Nhưng Khánh Hữu làm quan thì tham nhũng, tàn độc với bá tánh, đánh người trung lương. Hành vi của Khánh Hữu, trong lòng của Lý Phúc xem đó là tội ác, cảm thấy Khánh Hữu sau này phải chịu quả báo. Ai ngờ, Khánh Hữu sống thọ đến năm 71 tuổi vẫn nhân tài song vượng, con cháu đầy nhà. Không chỉ có vậy, Khánh Hữu còn có thể biết được mình lúc nào chết, lúc ông chưa chết, ông nói với con trai làm sao lo hậu sự cho ông.

Nhưng hành vi của Lý Phúc lại khác biệt hoàn toàn so với Khánh Hựu, Lý Phúc sống rất cần kiệm, đối xử với người dân rất kỹ lưỡng, hướng thiện mà đi, không làm chuyện độc ác. Đối với loại người ác độc như Khánh Hữu lại được hưởng phước trọn đời, còn biết trước ngày mình mất. Trong lòng ông ta cảm thấy bất bình, cảm thấy dưới âm phủ cũng có chuyện mua chuộc hối lộ, quyết tâm cùng Khánh Hữu đến Diêm Phủ hỏi cho ra lẽ. Nên ông nói với con trai của ông là sẽ chết vào ngày tháng đó, chuẩn bị lo cho hậu sự của ông. Ông Lý Phúc muốn đi cùng Khánh Hữu đến âm phủ xem như thế nào, nhất thiết phải xem rõ ràng cho bằng được.

Lý Phúc nói với con trai là mình chết vào lúc nào, không phải vì ông ta tự biết ngày giờ chết mà là ông ta mua sẵn một gói thuốc độc. Nếu như Khánh Hữu thật sự chết vào ngày ông ta nói thì ông sẽ uống thuốc độc để chết theo Khánh Hữu đi xuống âm phủ gặp Diêm Vương. Không ngờ, Khánh Hữu đến ngày đó thật sự chết đi, ông Lý Phúc cũng uống thuốc độc chết theo để đi xuống âm phủ mới kịp nhìn thấy Diêm Vương đi ra đón Khánh Hữu. Diêm Vương xử lý xong công việc của Khánh Hữu mới ra gặp Lý Phúc, nói: “Sao ngươi cũng đến vậy?”.

Lý Phúc trả lời: “Tôi vì Khánh Hữu mà đi xuống đây. Trên trần gian, người người sợ quyền thế, kính chủ tài, tại sao Diêm Vương dưới âm phủ cũng phải sợ quyền thế và chủ tài sao? Tôi nghĩ ông Khánh Hữu sống trên trần gian, tàn nhẫn độc ác, làm việc ác vạn lần, ông ta lúc trên trần gian không phải chịu ác báo, đến âm phủ, chắc phải chịu hình phạt, không ngờ trần gian với âm phủ cũng như nhau”.

Diêm Vương nói: “Ông ráng chờ một lát thì sẽ hiểu”. Diêm Vương ra lệnh cho phán quan mở ra cuốn sổ sanh tử thiện ác để xem, trên tên của Cung Khánh Hữu có một hàng chữ. Diêm Vương nói: “Vì kiếp trước Khánh Hữu làm rất nhiều việc thiện to lớn, kiếp này tuy làm ác, đã tiêu hao không ít công thiện của kiếp trước nhưng vẫn còn dư rất nhiều việc thiện to lớn, chuyển đến kiếp sau vẫn được hưởng phước, nhưng không có lớn như kiếp trước nữa.

Với những chuyện ác mà ông ta đã làm, vẫn chưa đến thời kỳ thuần thục, Lý Phúc nhà ngươi vì kiếp trước không có làm việc thiện nên kiếp này phải chịu khổ. Nhưng vì do ông giác ngộ, một lòng làm việc tốt, cho nên ông sống trên đời tuy không hưởng phước nhưng ăn mặc không thiếu thốn gì, khi ông chuyển kiếp sau, ông sẽ hưởng phước thật là lớn”.

Lý Phúc cầu xin Diêm Vương lúc chuyển kiếp đừng cho ông ta uống nước mê hồn, để kiếp sau có thể xem được kết quả hành vi của Khánh Hữu. Diêm Vương đồng ý lời cầu xin của Lý Phúc.

Lý Phúc lại đi theo Khánh Hữu đi chuyển kiếp luân hồi. Vì ông ta chưa uống nước mê hồn, biết hết sự việc, biết được Khánh Hữu lại đầu thai đến một gia đình phú quý. Ông thì đầu thai đến một gia đình trung bình, vẫn tu hành giữ thiện. Khánh Hữu sau này trưởng thành, làm quan huyện trưởng, vẫn tàn ác với bá tánh, hoàn toàn không có một chút hối hận, dựa vào quyền thế tham nhũng, hãm hại dân lành. Vì ép buộc khẩu cung, đã móc đi hai con mắt của người ta; vì một vụ án, chém mất đôi chân của người khác, Khánh Hữu sống thọ đến hơn bảy mươi mấy tuổi, bị bệnh và qua đời.

Lý Phúc do có trí tu hành từ bi, đã tu đến ưu hồn có thể đi xuống âm phủ. Lý Phúc ngồi thiền, lúc này, ông ta nhìn thấy Khánh Hữu sau khi chết, linh hồn đi theo Khánh Hữu xuống gặp Diêm Vương. Lúc này khác với lúc trước, Diêm Vương tiếp đến Lý Phúc trước rồi mới xử Khánh Hữu sau.

Khi thấy dưới tên của Khánh Hữu trong sổ, phước thiện đã hoàn toàn tiêu hao hết. Lúc làm quan, móc mắt người ta, chém đôi chân người khác, hai sự việc này, chỉ có thể lấy thân mà trả nợ, phán quyết Khánh Hữu kiếp sau đầu thai đến một gia đình nghèo khổ, đôi mắt mù lòa, tàn tật hai chân, mỗi ngày ra mặt đường ăn xin, khổ hết biết.

Khi Lý Phúc nhìn thấy Khánh Hữu có quả báo của ba kiếp, trong lòng sợ mất đi bản tính mà phải tọa lạc sự luân hồi, nên kiên trì tu hành, độ kỷ độ nhân, cuối cùng công quả thành tựu, đạt được chánh quả, vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau của sự luân hồi.

----------------           


Chương 8 - Mục 5: Bất hiếu mẫu thân, bị rắn cắn chết
Số từ: 289
Thiện Ác có quả báo

Huyện Vĩnh Phúc tại Quảng Tây, ở xóm Đại Tân có một người họ Quý, năm nay 24 tuổi, tính tình rất hung dữ, người trong xóm làng đều rất sợ hắn. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1998, sau khi gã Quý đánh bạc xong về nhà, mẹ hắn chỉ trách móc mấy câu, tự nhiên hắn nổi cơn giận, cầm cây đánh bà mẹ, đánh bà mẹ đến bầm tím máu chảy đầm đìa, khóc òa lên.

Mẹ hắn nói: “Mày là đứa con bất hiếu, nếu không bị xe cán chết, cũng sẽ bị rắn cắn chết”. Hàng xóm láng giềng phải dẫn bà mẹ của Quý đi bệnh viện cấp cứu mới thoát cơn nguy kịch.

Ngày 27 tháng 8, tên Quý đến làng Tam Hoàng công tác, sau khi cơm no bụng đầy, tự nhiên ma đưa lối quỷ dẫn đường hắn lại đến một tiệm bán rắn. Hắn lấy tay gõ vào rào chắn trong rổ rắn, không ngờ con rắn nhắm vào ngón tay cái của ông cắn một phát, lúc ấy chỉ cảm thấy bị ngứa thôi. Một giờ đồng hồ sau, Quý cảm thấy cổ họng bị khô, sây sẩm mặt mày, liền đi đến bệnh viện chữa trị, bác sĩ truyền dịch cho hắn ta nhưng hiệu quả không tốt lắm.

Quý cảm thấy vô hiệu nên rút ống kim truyền dịch ra và bỏ đi nơi khác tìm cách khác chữa trị. Lúc 7 giờ tối, cảm thấy tim đau thắt lại, mắt Quý hoa lên, lảo đảo bước vào bệnh viện nhưng đã đêm khuya, đến 9 giờ 10 phút thì tử vong, đúng như ứng nghiệm lời nói của người mẹ.

----------------           


Chương 8 - Mục 6: Ngược đãi mẫu thân, sét đánh vợ chồng
Số từ: 334
Thiện Ác có quả báo

Thị trấn Hà Quang Minh Sơn làng Liên Ninh, có một nông dân tên là Vương Tử Thịnh, mất cha lúc ba tuổi, do mẹ cần cù cực khổ nuôi lớn thành người. Vào những năm 60, do chính phủ điều đến xưởng gang thép làm công nhân tại xứ Phù Dung, thời ấy làm công chức của nhà nước, trong làng cảm thấy rất là hãnh diện.

Cưới vợ và sanh con xong, hai vợ chồng đi làm, thiếu người chăm con và nấu cơm, nên rước người mẹ ở làng quê lên, làm việc chăm con và nấu cơm. Vừa có “bảo mẫu” lại không cần phải trả tiền công, đáng lẽ phải đối xử hòa hợp với nhau, để an ủi cuối đời cho người mẹ. Nào ngờ cưới được vợ lại quên người mẹ, người vợ đối xử không tốt với bà mẹ chồng, con trai lại nghe theo vợ, cùng ngược đãi bà mẹ già.

Nếu “chăm sóc” không như ý con và dâu, bị mắng chửi và đánh đòn. Năm tháng ngày qua, người mẹ không thể chịu đựng nổi được nữa, đã nói: “Số tôi khổ như vậy thà chết còn sướng hơn”.

Người dâu nói: “Bà chết được sao? Nếu bà chết thật tôi sẽ đem thịt bà ra chợ bán”, dám nói những câu bất hiếu với bà mẹ chồng, cho thấy bình thường ngược đãi bà như thế nào rồi.

Vào một đêm tối, mưa gió tầm tã, sét đánh ầm ầm, một tia sáng đỏ vụt qua cửa sổ, “xẹt” một tiếng lớn, thiên lôi đã đánh trúng đôi vợ chồng, lúc ấy trong buồng nằm tổng cộng năm người của ba đời; Vương Tử Thuận, hai vợ chồng ngủ hai phía, chính giữa là bà mẹ già và đứa cháu nội đều vô sự.

Thiên lôi đánh người, lại nhắm chuẩn đến thế. Đây là chuyện thời năm 1964, người trong làng ai ai cũng biết cả.

----------------           

Chương 8 - Mục 7: Tham lam thất đức, táng gia bại sản
Số từ: 355
Thiện Ác có quả báo

Ông Vương Mậu là công nhân viên chức chính phủ tại thành phố Huyện Hiển, là một quan chức văn phòng, dựa vào ngòi bút chuyên thay người xử lý kiện tụng, thừa cơ lợi dụng tống tiền. Nhưng mà, mỗi lần ông kiếm được một món tiền tài từ việc bất nghĩa thì nhất định ông lại bị một chuyện khác bất ngờ tiêu hao hết món tiền đó. Đúng là người tính không bằng trời tính.

Trong miếu Thành Hoàng gần đó có một chú tiểu sống. Một đêm hôm nọ, khi đi ngang qua hành lang, chú chợt nghe được tiếng đánh bàn tính và tiếng người nói chuyện thì ngừng lại lắng tai nghe. Trong đó, một vị nói: “Ông Vương Mậu năm nay vơ vét tiền tài thật không ít, tìm cách cho tiêu hao đi mới được!”.

Một người khác nói: “Không cần phải suy tính nhiều cho mệt, chỉ cần một Thúy Vân thì đủ cho hắn mệt rồi”.

Trong miếu Thành Hoàng thường nói có ma nên chú tiểu cũng quen rồi, không sợ hãi gì. Chỉ không biết là hai người đó nhắc đến tên Thúy Vân là ai, người như thế nào?

Không bao lâu, tại quán lầu xanh trong thành Huyện Hiển, có một cô bán hoa mới đến tên là Thúy Vân, ông quan đó thì bị nhan sắc của cô Thúy Vân này mê muội đến mất hồn, tiền tài kiếm được từ việc bất nghĩa cũng sắp tiêu hao hết 70 đến 80% trên thân cô gái đó. Sau này còn bị nhiễm bệnh lậu ác tính đầy người, ông mời bác sĩ tìm thuốc chữa trị vẫn không hết được, đã tiêu tan hết tất cả tài sản tích lũy.

Có người tính một bài toán giùm cho ông Vương, tính từ các khoản tiền do ông ta tống tiền và tham nhũng mà có, có khoảng ba bốn chục ngàn lượng. Nhưng sau này, ông bị một trận bệnh lớn, đột ngột qua đời, kể cả tiền mua hòm còn không có để mua.


----------------           


Chương 8 - Mục 8: Tài sản bất chính, con cháu phá hết
Số từ: 405
Thiện Ác có quả báo

Ông Dương Quỵ Đình nói: “Quê làng của ông có một ông quan lớn, mãn nhiệm vinh quang trở về xóm làng, khép cửa tạ khách, đối với chuyện gì không liên quan đến ông ta đều không ngó ngàng tới, an phận hưởng thụ, nhàn nhã ẩn cư. Chỉ khi nghĩ đến tuổi già, không có con cháu, trong lòng lại âu sầu. Không bao lâu, phu nhân của ông sanh được một con trai, hai vợ chồng rất là an vui, xem như là châu báu trong đời, thương yêu hết mình.

Sau này, người con trai bị bệnh, tính mạng nguy kịch, làm cho hai ông bà già phải lo âu hết lòng. Ông nghe nói tại Dư Sơn có ông đạo sĩ bói toán có thể đoán trước được tương lai nên đích thân ông tìm đến cầu bái hỏi thăm. Sau khi đạo sĩ nghe lời tường thuật thỉnh cầu của ông ta xong, chỉ mỉm cười nói: “Thằng quý tử của ông còn nhiều điều chưa làm, làm sao mà có thể chết sớm như vậy?”.

Ông nghe xong lòng thật buồn bã, không biết là chuyện lành hay xấu. Đi về mời một thầy thuốc có tiếng, không ngờ lại trị hết bệnh cho con trai ông ta.

Công tử này lớn lên và trưởng thành, tính tình kiêu ngạo buông thả, hành vi sa đọa, cờ bạc rong chơi, không thiếu thứ nào, không bao lâu đã tiêu tan hết gia tài của cha ông để lại. Đến sau này, mất nhà mất của, phải gửi thân xứ người, giống như là ưu hồn ma quỷ, lưu lạc tứ phương không người cúng giỗ.

Bà con xóm làng bàn luận và nói: “Ông lão tiên sinh này không làm chuyện ác, tại sao lại đẻ ra con hư đốn này? Nghĩ lại trước kia, ông chỉ là một thư sinh nghèo nàn, khi lên chức làm quan, nhiệm kỳ chưa đến 10 năm, đột nhiên thành một tỷ phú. Làm quan mà đột nhiên giàu nhanh như thế thì mọi người tự hiểu là bằng cách nào. Vì vậy có được quả báo như thế, cũng là thuận tình thuận lý”.

Người xưa thường có nói: “Nếu sử dụng thủ đoạn không chính đáng kiếm được tiền tài đó là sẽ không bền lâu, không kiên cố là ý như thế đấy”.

----------------           

Chương 8 - Mục 9: Cung kính vô ư, làm quan chánh nghĩa
Số từ: 788
Thiện Ác có quả báo

Ông Quan Tô Tiên tại Bắc Xuyên, một ngày kia thấy một giấc mộng, mơ thấy mình đi xuống Diêm phủ, nhìn thấy Diêm Vương đang xử án dưới âm phủ. Ông Quan Tô Tiên nhìn thấy một bà lão già ở xóm lân cận bị dẫn lên trước sảnh, sắc mặt của Diêm Vương trở nên nghiêm trang, đứng dậy bước đến bà lão đưa tay chào, mời bà ta lên ngồi, kêu người rót nước mời. Sau đó, lại ra lệnh quan thẩm phán và nói: “Đưa bà ta đến nơi phước lành đầu thai”.

Ông Quan Tô Tiên nhỏ tiếng hỏi thăm ông quan đứng ở kế bên: “Bà lão này lúc còn sống đã làm công đức gì mà Diêm Vương ưu đãi bà ta đến thế?”

Ông quan Diêm phủ nói: “Công đức của bà lão này là suốt cả đời không bao giờ có tồn tâm hại người lợi kỷ. Lòng hại người lợi kỷ hầu như người nào cũng có, cho dù là gia sư có học, người tu hành hoặc quan viên, cũng không thể tránh khỏi. Người khi có tâm này, nhiều ít cũng có tổn hại đến người khác. Cho nên, rất nhiều mánh khóe gian lận đều phát sinh ra; rất nhiều tội oán thù, cũng từ đó mà có, thậm chí còn gây nên chuyện tứ hải thông độc, hôi thối vạn niên. Tất cả những thứ này cũng là do người có lòng tâm hại người lợi kỷ mà gây ra, còn bà lão già này suốt cả đời cố gắng kiềm chế lòng, không hại người lợi kỷ, không làm việc gì vì lợi ích riêng mà tổn hại đến người khác, dựa vào phẩm đức của bà lão mà so sánh với những nho học thư sinh và quan viên miệng luôn đầy chữ Nho đạo nghĩa mà lòng có tà ý đầy trong lòng, sẽ không có chỗ cho họ dung thân! Nên Diêm Vương lễ phép đối xử với bà lão, thì đâu có gì quá đáng?”

Ông Tô Tiên hồi tưởng lại và nói: “Trước khi bà lão này dẫn lên đại sảnh thì có một người mặc áo quan phục, hùng hổ bước lên sảnh, người này có nói với Diêm Vương: “Từ khi tôi làm quan đến giờ, đi đến các nơi đều chỉ uống một ly trà, không có hành vi nào tham ô hay hối lộ, nay đứng trước mặt các vị Quỷ Thần, tôi có thể không phải hổ thẹn!”

Diêm Vương nghe những lời nói của ông ta chỉ mỉm cười, nói: “Quốc gia, triều đình thiết lập quan chức để quản lý địa phương, chăm nom bá tánh. Kể cả các quan nhỏ chỉ đứng gác giao thông với quản lý đập nước cũng phải làm tốt trách nhiệm của mình. Nếu chỉ không tham lam, không ăn uống nhiều mà là quan tốt thì bộ máy chính quyền sinh ra để làm bù nhìn hết sao. Như thế, lập một người gỗ trong quan phủ, một ly trà nó cũng chẳng uống, không phải còn khá hơn cả ông sao”.

Ông mặc áo quan lại biện hộ mà nói: “Tuy tôi không có công lao nhưng tôi cũng chẳng làm gì nên tội mà”.

Diêm Vương nói: “Ông suốt đời chỉ cầu toàn cho riêng mình, chứ lợi ích của Quốc gia, địa phương và bá tánh ông không lo. Tất cả các vụ án, ông chỉ trốn tránh vì sợ bị liên lụy và tình nghi, không dám đứng ra tranh cãi, như thế không phải tổn hại cho bá tánh sao? Những việc trốn thuế, ông không cách mạng cải tiến mà còn sợ gây phiền phức cho chính mình, tăng thêm lượng công việc, ông lại sợ phải gánh trách nhiệm lớn, cố ý không thực thi. Như vậy, không phải làm tổn hại cho Quốc gia sao? Bao năm qua trách nhiệm của ông để ở đâu? Ông phải biết, nếu thân là quan, vô trách nhiệm tức là có tội”.

Người mặc áo quan sắc mặt hiện lên xấu hổ, cảm thấy đứng ngồi bất an nhưng khí sắc kiêu ngạo lúc nãy hoàn toàn biến mất.

Diêm Vương nhìn thấy sắc mặt ông ta, lại cười lên và nói: “Trách không được ông kiêu ngạo đến thế, thật lòng mà nói, ông cũng được xem là vị quan tốt thuộc loại hạng ba, hạng bốn rồi. Đừng bận tâm, kiếp sau ông vẫn còn có thể làm quan!” Lập tức phớt tay hạ lệnh lính quỷ đưa ông ta đến điện thứ mười gặp Chuyển Luân Vương để đi đầu thai.


----------------           

Chương 8 - Mục 10: Vu oan người trong sạch, con cháu vô phước
Số từ: 607
Thiện Ác có quả báo

Năm Hàm Phong, có một ông nọ họ Hoàng là người của Quý Châu, lấy thân phận tiến sĩ đảm nhiệm trưởng quan hành chính tại huyện Tiêu Ninh. Sau khi đảm nhiệm rồi, mỗi lần ngồi trên ghế thụ lý kiện tụng thì nói: “Kiếp trước vào năm Gia Khánh tôi đã từng đảm nhiệm chức trưởng quan hành chính tại huyện Tiêu Ninh, có một người phụ nữ thôn quê do nhiễm bệnh bụng chướng ứ nước, bị chồng nghi ngờ là ngoại tình có thai, tố cáo lên quan huyện. Lúc ấy, tôi đang thụ lý vụ án này, ngộ tin lời nói của ông làm vườn, tra hỏi cô ta có phải đang mang thai, làm cho cô ta xấu hổ, lấy dao tự rạch bụng mà chết”.

Ông Hoàng mỗi lần lên công đường làm việc thì đều ú ớ nói ra những lời đó. Chờ khi nào thụ lý xử án văn kiện xong, lại trở lại như thường. Các bộ phận cấp dưới của ông đều rất kinh ngạc nên âm thầm nhờ bên văn thư tra xét xem sự thật ra sao. Một quan văn thư lớn tuổi, sau khi tìm hiểu xong đã nói: “Không sai! Câu chuyện này phát sinh hồi năm Gia Khánh, lúc tôi còn trẻ, tôi đã làm văn thư cho phòng hành chính xử án rồi, sắp xếp văn bản văn thư, đã tận mắt chứng kiến chuyện này. Tôi đã xem xét qua vụ án này, trùng khớp với mỗi câu nói của ông Hoàng lúc lên xử đường đã nói”.

Lúc ấy, chuyện này đã truyền đến tai của trưởng quan, nghe thấy vụ án oan ức này quá ly kỳ, đồng thời thương hại cho ông ta tuổi trẻ có tài nên ra lệnh quan học (quản lý việc dạy học) phụ trách việc hòa giải, cho phép lập bảng công bố danh dự trinh tiết cho cô ta. Đồng thời, kêu ông Hoàng lập bàn thờ, suốt đời thờ cúng bà ta.

Xong chuyện rồi, có một lần ưu hồn của cô thôn nữ kia lại nhập vào xác ông Hoàng nói: “Dưới âm phủ rất chú trọng chuyện trinh tiết, đạo hiếu, ông Hoàng có ba đời đều đậu tiến sĩ, nay đã có thi đậu tiến sĩ rồi, đời sau vẫn còn có thể thi đậu tiến sĩ nữa. Vì suốt đời ông rất chú trọng đạo hiếu nên không bị tước đoạt đi sinh mạng, chỉ bị giảm bớt phước phần. Nếu không, dựa theo tội xử án lầm, ông ta phải chết oan ngoài phố. Tôi thuật lại luật hình dưới Diêm Phủ, không thể giải trừ tội hình cho ông Hoàng”. Học quan nghe xong, không thể nói gì.

Sau này, ông Hoàng quả nhiên do thay đổi giáo chức mà phải từ quan, trở về quê cố gắng hành thiện, để tu dưỡng phước phần cho kiếp sau. Chỉ vì do xử oan vụ án của một phụ nữ, đến đời thứ ba rồi, dù có thi đậu tiến sĩ cũng không được hưởng phước phần và phước lộc. May thay, ông Hoàng ngày thường rất hiếu thảo, kính nể với cha mẹ nên đã tránh khỏi chịu cảnh chết vì tai nạn. Giả sử ông Hoàng không có lòng hiếu thảo, gặp phải tội báo ứng của kiếp trước, còn có thể sống đến nay chăng? Nhà chồng của cô thôn quê kia vu khống cô ta và ông làm vườn nhận hối lộ kia làm nhân chứng giả cũng phải chịu quả báo rất nghiêm trọng.


----------------           

Chương 8 - Mục 11: Quả báo thành lợn của kẻ thấy chết không cứu
Số từ: 573
Thiện Ác có quả báo

Một tiệm vải lụa tại Hàng Châu, thành lập hơn mười mấy năm. Chủ nhân đã hơn 50 tuổi nhưng lại có lòng bất lương. Có một năm, nơi này phát sinh hỏa hoạn, tiệm tơ lụa cũng bị liên lụy. Đằng sau tiệm có căn hộ nghèo, cả nhà ba người, lấy nghề giặt vải làm mưu sinh, ra vào bắt buộc phải đi qua bên hông cửa tiệm tơ lụa. Khi lúc lửa cháy lan qua nhà hộ nghèo, cả nhà ba người dùng sức gõ cửa bên hông của tiệm vải la lớn: “Mở cửa, mở cửa đi!”, hy vọng có thể thoát ra từ cửa bên hông để bảo tồn sinh mạng. Đâu ngờ, chủ nhân của tiệm vải do muốn tiện lợi việc khiêng dọn tài sản của mình. Cho người dùng sức chặn cửa lại, không được mở cửa ra. Đợi khi hàng dọn xong, lửa cũng đã tắt, cả nhà hộ người nghèo bị thiêu chết trong biển lửa.

Trải qua một năm, chủ nhân của tiệm vải đột nhiên qua đời. Có một đêm, báo mộng về cho con trai và nói: “Tôi hại chết cả gia đình nhà hộ nghèo, Diêm phủ không cho phép tôi đầu thai làm người mà bắt tôi phải đầu thai thành heo, tôi bây giờ đã đầu thai vào nông trại một nhà có đàn heo đang sinh sản, tổng cộng có 4 con heo con, trên mình con heo có chấm là tôi đầu thai đó, con có thể đến nhà nông kia xin mua tôi về nhà nuôi, để tránh bị giết mổ”, nói xong thì òa lên khóc.

Con trai ông tỉnh dậy, cảm thấy mộng như thật và dựa theo địa chỉ trong mộng chỉ dẫn đi tìm, quả nhiên, nhà nọ có heo mới đẻ ra được mấy hôm, trong đó có một con heo có chấm đen, heo con nhìn thấy con trai đến, la hét lên, hiện lên bộ mặt tội nghiệp. Con trai bỏ tiền để mua con heo về nhà nuôi, ngoài ra chuẩn bị một căn phòng để cung dưỡng nó và mướn một người về chăm sóc. Mỗi ngày tắm cho heo, dùng thức ăn thượng đẳng nuôi dưỡng, y như cung dưỡng lúc cha còn sống trên đời. Lúc còn sống, ông rất thích hút thuốc, uống rượu nên con trai ông lúc nào cũng cho thuốc, rượu, cung phụng cho heo, mỗi bữa cơm đều uống đến mặt đỏ ngầu. Lúc ông hút thuốc, người làm tay cầm điếu thuốc đưa vô miệng, nuốt vô bụng như điên cuồng.

Như thế trải qua mấy năm, heo lại đến báo mộng cho con trai và nói: “Tôi còn sống đã tội ác vạn kiếp, chết đi đã đầu thai vô đạo súc vật, nếu như còn hưởng thụ như người sống trên trần gian, thì chỉ càng tăng tội lỗi cho tôi. Từ nay về sau, không cần đem thuốc lá, rượu, càng không nên mướn người để chăm sóc cho tôi, chỉ cần nuôi tôi bằng cơm là được rồi”.

Chuyện này xảy ra không có người nào trong thành mà không biết. Thông tin này có phát trên báo đài hồi năm dân quốc thứ 17 (năm 1928), vào ngày 1 tháng 4, trên Báo Tin Tức (Trung Quốc), trang 6, do Tiêu Sơn Ngụy ghi nhận chuyện này.


----------------           

Chương 8 - Mục 12: Lương tâm và Thiên lý
Số từ: 397
Thiện Ác có quả báo

Thời nhà Tống, có một ông tên là Vương Siêu, có tài có sức. Vì công danh, tâu lên Triều đình yêu cầu ra quân chiếm thổ địa Khoan Cương, tiến tới Cam Tiêu, dọc đường giết rất nhiều người. Sau này, ông được tôn làm an sĩ. Nhưng không hiểu tại sao, trong lòng ông bất an.

Có một ngày ông đi đến Cam Lộ Tự, gặp được cao nhân Tiêu Cảnh Thuận, ông hỏi: “Theo lệnh vương pháp của triều đình giết người, có tội hay không?”.

Trả lời: “Trước tiên, không nên hỏi có tội hay vô tội, chỉ cần biết có qua được lòng mình hay không”.

Vương Siêu lại nói: “Qua được”.

Tiêu Cảnh Thuần nói: “Nếu qua được thì không cần đến hỏi tôi, nghĩ lại mới cảm thấy không thể qua được lòng mình rồi!”.

Sau này Vương Tiêu bị bệnh, sợ hãi hay dùng đôi tay che bịt hai mắt, kêu ông buông hai tay ra để ăn cơm hoặc uống thuốc, ông hay nói: “Mở không được, trước mắt tôi có biết bao nhiêu người không đầu, không chân đứng trước mặt tôi!”.

Những người này đều là ưu hồn ma quỷ, lúc trước ông hạ lệnh giết chết. Lúc này, mới phát hiện, “Tâm không thể lừa, Quỷ Thần không thể lừa”.

Có người cho là tuân theo chỉ thị hoặc chính sách của Nhà nước làm việc gây ra hậu quả bất lương, thì người chấp hành không có lỗi mà đó là tội của người ban hành, xem ra cũng có chút đạo lý nhất định. Nhưng phải xem người chấp hành trong lòng có phải theo lệnh ban hành hay lạm dụng chức quyền để gây xáo trộn chính sách, xem có tham nhũng ngang ngược lộng hành không. Có người lợi dụng mình có chức quyền, mượn danh nghĩa chính sách và chỉ thị của cấp trên, hà hiếp dân lành, kết bè chia phái… Nếu như vậy, nhất định phải chịu nhân quả báo.

Lương tâm tức là Thiên lý. Tâm là Thần, Thần là tâm, nếu như gạt tâm, tức là gạt Thần. Phận làm quan, phải lấy tâm tự hỏi, có phải hại người lợi mình? Có phải giả công việc riêng? Có qua được lương tâm? Thì quả báo thiện ác sẽ tự hiểu.


----------------           


Chương 8 - Mục 13: Nhận hối lộ hại người, con cháu bần tiện
Số từ: 434
Thiện Ác có quả báo

Dư Tân, tại huyện Giang Âm, có danh tiếng gần xa. Năm Càn Long đời nhà Thanh, ông tham gia thi cử nhân, chưa làm bài xong, đã thu gom đồ dùng ra ngoài, sắc mặt xanh xao và hụt hẫng, một thí sinh cùng thi chung đi theo, nhiều lần thăm hỏi nguyên do, anh ta mới nói:

“Cha ta làm quan nửa đời người mới nghỉ hưu về nhà. Lúc ông lâm chung, kêu bốn anh em tôi đến bên cạnh ông, khóc lóc và căn dặn: “Tôi còn sống trên đời không có làm chuyện gì vô lương tâm, chỉ là lúc làm trưởng huyện, đã từng nhận hai ngàn lượng vàng tiền hối lộ, giết oan hai tù phạm. Đêm hôm qua, linh hồn của tôi đi xuống Diêm phủ để đối chiếu vụ án, trên pháp lý mà nói, đáng lẽ tôi phải tuyệt giống nối dòng. Do tổ tiên ông cố đã từng cứu người chết đuối nên lập được công đức, có thể để lại được một người con trai, nối dòng năm đời, nhưng đều phải chịu cảnh bần tiện suốt đời. Tội hình trong địa ngục tôi không thể tránh khỏi, nếu còn vọng tưởng con cháu có công danh, chỉ có tăng thêm tội cho tôi mà thôi, đại đại bất hiếu”. Nói xong, ông đã tắt thở.

Sau này mấy anh em chúng tôi lần lượt qua đời, chỉ còn sót một mình tôi. Tôi hai lần trước tham gia thi cử tại làng, đang thi tự nhiên làm dơ bẩn đề thi (thời ấy Quốc pháp quy định, làm bẩn đề thi giám thị không xem, không duyệt đề thi, xem như mình không có thi). Hôm qua, nửa đêm canh ba, đột nhiên thấy cha mình lật mành che lên mang giọng trách móc mà nói: “Ngươi không có làm những việc để tích đức, công đức chuyển đạt lên Trời để ta có thể giảm nhẹ tội hình, lại còn làm trái lời dặn của di chúc, làm cho ta tội càng chồng chất”. Nói xong, dùng dụng cụ còng trên tay làm tắt nến đèn.

Tôi không đành lòng, chỉ tiếc là đã để cho cha ôm hận bị giam cầm trong âm phủ: “Tôi sẽ vào núi xuất gia, học tập hiếu hạnh của Mục Kiền Liên cứu mẹ”.

Nghe xong người nào cũng kinh ngạc đến không nói ra lời. Cùng phòng trọ, có một thí sinh tên Trần Hộ Thanh, sáng tác một bài thơ “Quy Sơn” tặng cho anh ta.

----------------           


Chương 8 - Mục 14: Những quả báo thiện ác về cân gian đong thiếu
Số từ: 1292
Thiện Ác có quả báo

Sự kiện này phát sinh vào cuối năm Thanh Triều trong hộ Long Cảnh tại Kinh Đông, có ông lão viên ngoại tên gọi Thôi Đức Phương, ngày qua ngày sống rất sung sướng, nhân vượng tài vượng, đầy đủ sung túc, ông có ba người con trai, đều đã cưới vợ. Lúc ngày đại thọ 60 tuổi của ông lão viên ngoại, ông kêu ba người con trai đến trước mặt mình, nói:

“Con à, các con hãy nghe, lúc trước ta xuất thân nhờ tay trắng mà khởi nghiệp, để giành được gia nghiệp như hiện nay. Ta thành gia lập nghiệp chỉ nhờ một cái cân không tim, cân này trong ruột có đong thủy ngân, lúc nhà ta thu mua, có thể mua 20 lạng tính thành một cân (Chú thích: Trung Quốc thời này tính 16 lạng là 1 cân), lúc nhà ta bán, có thể tính 14 lạng thành 1 cân. Hai mươi năm trước, ta mua được mấy ngàn cân bông gòn, mỗi cân hơn 4 lạng, người bán bông gòn lỗ nặng, tức giận lên phát bệnh thương hàn mà chết. Đối với chuyện này, trong lòng ta rất hối hận và cũng có một ông bán thuốc bắc, cũng bị chuyện tính toán của ta mà tức chết đi. Hiện giờ, ta không chỉ có được phần gia sản, vả lại còn có con cháu đầy nhà, khi các con đứng trước mặt ta, ta sẻ hủy cái cân này, từ nay về sau cải ác hành thiện”.

Ba người con trai nghe được đều nói: “Cha đáng lẽ phải làm như thế mà”.

Sau khi ông lão viên ngoại hủy bỏ cái cân không tim đó, từ đó về sau ông cải ác hành thiện, ưa thích việc làm bố thí. Không ngờ, ông lão viên ngoại từ khi hủy cái cân rồi hay làm việc thiện, gia đình lại xảy ra nhiều chuyện không may. Không đến một tháng, con trai lớn của ông bị bệnh nặng mà qua đời, con dâu lớn đi lấy chồng khác; sau khi lão viên ngoại lo xong chuyện hậu sự của con trai lớn, con trai thứ cũng đột nhiên phát bệnh và qua đời, con dâu thứ cũng đi lấy chồng khác; ông lão viên ngoại vừa lo xong chuyện hậu sự của con trai thứ, lại đến con trai thứ ba cũng tựa như vậy luôn, dâu thứ ba vì đang mang thai nên không có bước thêm bước nữa. Gia đình gặp chuyện tang tóc liên tục làm cho Thôi Đức Phương rất đau buồn, ông nói với người ta:

“Tôi cân lớn biến thành cân nhỏ, gian lận lại có được con cháu đầy nhà, gia đình phát tài phát lộc. Nay tôi tích đức hành thiện lại mang đến cho gia đình sự tang tóc, vậy chuyện nhân quả báo thật sự có hay không?”, hàng xóm nghe được cũng nói là Trời không có mắt.

Vào ngày này, con dâu thứ ba sắp lâm bồn, không hiểu sao suốt 3 ngày 3 đêm vẫn chưa sanh con được. Mời biết bao nhiêu bà mụ đỡ đẻ cũng vô hiệu. Có người nói, nên giữ mẹ rồi bỏ con, người nói giữ con mà mất mẹ, ông Thôi nghĩ gia đình mình lúc này toàn chuyện không may, trong lòng càng buồn phiền hơn. Trong lúc đang bối rối, có một vị hòa thượng đi đến trước cửa hóa duyên. Lão quản gia từ trong nhà bước ra nói:

“Đại pháp sư, ông muốn hóa duyên thì xin đến nơi khác cho, cô Ba nhà tôi lâm bồn ba ngày ba đêm rồi mà vẫn chưa sanh được con, lão gia nhà tôi đang buồn phiền, không có tâm trí tiếp ông đâu, đạo tăng vô duyên rồi, không bố thí đâu”.

Hòa thượng nói: “Không sao cả, ông vô trình báo với lão gia nhà ông, tôi có linh thuốc giục sanh, uống vào là sanh liền”.

Ông quản gia nghe được, không dám chậm trễ, vội đi trình báo với chủ gia, sau khi nghe được, ông vội mời vị hòa thượng vào nhà. Ông mời hòa thượng vào phòng sách, rồi hỏi thăm đại sư cư trú tại đâu. Hòa thượng nói: “Tôi là người giao du, không nơi cố định, nơi nào có duyên là tôi đi đến nơi đó”.

Sau đó, vị hòa thượng lấy thuốc ra. Thôi viên ngoại liền kêu người mang xuống phòng sanh, tiếp tục nói chuyện với vị hòa thượng. Đang nói chuyện có người đến báo, nói con dâu thứ ba sau khi uống thuốc của hòa thượng thì sanh ra được thằng con trai. Thôi Đức Phương sau khi nghe được mình đã có cháu nội, mừng lắm, nói với hòa thượng: “Tăng Thánh đúng là Thần Tiên”. Nói xong, ông lập tức ra lệnh cho người hầu làm tiệc ăn mừng.

Sau khi làm tiệc xong, ông Thôi viên ngoại mời vị hòa thượng tham gia nhập tiệc. Trong tiệc, lão viên ngoại nói: “Thánh tăng, tôi có một việc không rõ, muốn hỏi thánh tăng”.

Thôi Phương Đức nói: “Tôi có một cái cân không tim làm ác mà khởi nghiệp, mấy tháng trước, tôi hủy bỏ cái cân đó, quyết tâm cải ác hành thiện nhưng không hiểu tại sao thời gian chưa đến nửa năm, ba người con trai của tôi đều qua đời, hai người con dâu đã tái hôn với người khác, con dâu thứ ba này sanh được thằng cháu nội cho tôi, cũng may là tôi chưa tuyệt giống nối dòng. Tôi không hiểu, tôi hành thiện tại sao lại phải chịu ác báo đến thế?”

Vị hòa thượng cười lên và nói: “Ông không cần suy nghĩ nhiều, tôi nói với ông, con trai lớn của ông là người thương nhân bán thuốc bắc, ông hại ông ta chết thì ông ấy đầu thai làm con trai ông, đến đòi nợ ông đó; con trai thứ hai là đến phá gia bại sản, con trai thứ ba là đến gây tai họa động trời cho ông. Ông đến tuổi già phải bị bệnh đau đớn và đói khát chết đi nhưng vì ông đã cải ác hành thiện, ông Trời có mắt, đã thu hồi 3 người con trai bại gia của ông, ông được xem là người thiện số một”.

Thôi Đức Phương nghe rồi, người như từ mộng thức tỉnh, nói: “Đa tạ thánh tăng chỉ bảo, bây giờ tôi đã có một cháu nội, có thể nuôi thành không?”

Hòa thượng nói: “Cháu nội này của ông sẽ mang cho gia đình và tổ tiên vinh quang, thay đổi môn đình”. Thôi Đức Phương nghe được, rất vui mừng.

Hòa thượng lại nói: “Thôi viên ngoại, ông biết tại sao cân phải dùng là 16 lạng?”

Thôi Đức Phương nói: “Nguyện nghe thánh tăng chỉ bảo”.

Hòa thượng nói: “16 lạng này đại diện cho Bắc Đẩu Thất Tinh, Nam Đẩu Lục Tinh, ngoài ra thêm Phước, Lộc, Thọ tổng là 16. Ông đưa thiếu cho người ta một lạng thì hao Phước, thiếu 2 lạng thì hao Lộc, thiếu 3 lạng thì hao Thọ, ông càng đưa cho người ta càng ít thì càng tổn hại cho mình càng nhiều. Ông nghĩ xem, một cái cân ác tâm đã gây ra biết bao nhiêu nghiệp?”

Ông Thôi Đức Phương nghe được, cảm thấy người toát mồ hôi lạnh, lại thêm lần nữa đa tạ sự chỉ bảo của hòa thượng. Từ đó, ông tin vào tính phân minh của quả báo thiện và ác, không một chút do dự.

----------------           

Chương 8 - Mục 15: Chịu quả báo bại liệt vì xử oan người vô tội
Số từ: 701
Thiện Ác có quả báo

(Câu chuyện này được trích trong cuốn sách “Địa Ngục Biến Hiện Ký” của Liên Sanh Hoạt Phật - Lư Thắng Ngạn)

Có một quan chức (Đài Loan) ngồi trên xe lăn đến gặp tôi. Ông ta nói: “Không hiểu vì sao, hai chân của tôi đột nhiên không có một tí cảm giác nào, hoàn toàn vô lực?”

Tôi hỏi: “Đã đến bệnh viện kiểm tra chưa?”

Ông ta trả lời: “Đã kiểm tra toàn thân, nhưng không tìm ra nguyên nhân bệnh”.

Tôi bèn nhắm hai mắt lại, kỹ lưỡng quan sát toàn thân ông (xin chú ý, nhắm hai mắt để nhìn), tôi lờ mờ trông thấy hai chân ông này bị trói chặt lại bởi một sợi thừng đen từ trên xuống dưới. Tôi nói: “Hai chân của ông bị một sợi dây thừng đen trói chặt lại rồi”.

Viên quan nói: “Sao tôi chẳng trông thấy gì cả vậy?”

Tôi cười đáp: “Nếu ông có thể trông thấy, thì đến kiếm tôi làm gi?”

Viên quan lại nói: “Xin Lư Sư Tôn hãy giúp tôi mau mau cởi trói!”

Tôi nói:” Hãy chậm rãi, sợi dây thừng đen này là vật của Hắc Thằng Địa Ngục (Điện thứ 3 - Tống Đế Vương phụ trách), ngày mai ông trở lại đây, tôi sẽ giải đáp cho ông”.

Ngay đêm hôm ấy, tôi tới “Hắc Thằng Địa Ngục”, hỏi Minh Vương về sự việc viên quan kể trên, 2 chân bị trói bởi sợi dây thừng đen. Minh Vương nói: “Viên quan ấy đã phán xét oan một người”.

“Có phải người ấy bị tù oan không?” - “Đúng vậy”. - “Làm sao giải quyết được việc này?”

“Người bị phán xử oan lấy cái chết để chứng minh mình vô tội và đã treo cổ tự tử. Một người do số mệnh, một người do vận hạn,
vậy làm sao mà giải đây?”

Tôi nói với Minh Vương: “Treo cổ tự vẫn thì mệnh đã không còn nữa, nhưng dây thừng đen trói 2 chân phải có phương pháp giải quyết chứ”.

Minh Vương nói: “Tôi không có phương pháp nào giải quyết. Nhưng do Ngài hỏi, nhờ lực uy thần của Ngài, siêu độ luân hồi cho người đã chết, oan của người chết tự động giải. Về phương diện viên quan, Ngài yêu cầu ông ta hãy ấn tống 5 ngàn quyển “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, tự mình đọc tụng “Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh” 49 lần thì chẳng cần sử dụng tay, sợi dây thừng đen sẽ tự động được tháo gỡ”.

Ngày hôm sau, viên quan trở lại gặp tôi, tôi bèn bá cáo với ông ta nguyên nhân vì sự việc nghi phạm đã tự vẫn. Viên quan này nghe xong hoảng hồn, quả nhiên là có câu chuyện này, đúng thực là: “Sợ tội nên tự sát”.

Viên quan này tỏ vẻ sám hối. Tôi nói với viên quan rằng tôi tất nhiên siêu độ cho người chết giải tỏa oan khí, nhưng viên quan phải in ấn 5 ngàn cuốn thiện thư, niệm Địa Tạng Kinh 49 lần. Viên quan thật tình sợ hãi, tự nguyện in ấn 2 vạn cuốn thiện thư, tụng Địa Tạng Kinh 108 lần. Tôi nói rằng nên tụng càng nhiều càng tốt.

Vị quan này nói rằng thật lạ lùng, vào ngày in ấn xong sách, nhà in báo cho ông ta toàn bộ đã đóng thành sách, viên quan bước xuống khỏi xe lăn, bước bước đầu tiên, sau đó từ từ điều chỉnh và cuối cùng thì hai chân hoàn toàn được khôi phục lại như thường.

“Hắc Thằng Địa Ngục” trong 8 đại địa ngục được xếp hạng thứ 2, thứ tự là:
1/ Đẳng Hoạt địa ngục, 2/ Hắc Thằng địa ngục, 3/ Chúng Hợp địa ngục, 4/ Khiếu Hoán địa ngục, 5/ Đại Khiếu Hoán địa ngục, 6/ Nhiệt Não địa ngục, 7/ Đại Nhiệt Não địa ngục, 8/ Vô Gián địa ngục. Trong 8 địa ngục thì Vô Gián địa ngục là địa ngục cực kỳ đau khổ, Vô Gián địa ngục hay thường gọi là A Tỳ địa ngục.


----------------           


Chương 8 - Mục 16: Đức năng thắng số
Số từ: 799
Thiện Ác có quả báo

Vào triều Bắc Tống, ở một làng nọ có một cậu bé tàn tật chừng mười tuổi, gãy chân, sống một cuộc sống ăn xin nghèo khổ. Trước làng là một con suối lớn. Vì không có cầu, nên dân làng muốn qua suối là phải lội, rất bất tiện, nhất là đối với những người già vào mùa nước lũ. Nhiều năm đã qua đi như vậy, cho đến một hôm người ta thấy cậu bé ăn xin què quặt gom những tảng đá về bên suối. “Cháu muốn xây cầu để mọi người đi lại thuận tiện”, cậu giải thích. Người làng cho đó là chuyện khôi hài của một cậu bé khùng nên không để ý đến.

Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm. Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù đã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng.

Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ. Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn mày đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây.

Bấy giờ đúng lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo ra kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết “宁行恶勿行善” (ninh hành ác vật hành thiện: thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện).

Trở về Kinh thành sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy trong lòng không thoải mái, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không tâu lên Hoàng thượng về sự kiện hy hữu đó. Hoàng thượng hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Hoàng thượng cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc.

Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là “宁行恶勿行善” (ninh hành ác vật hành thiện: thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện). Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì.

Hoàng thượng rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Hoàng thượng xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tấu trình. Hoàng thượng bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc.

Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời: Đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù lòa, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù. Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời.

Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn được chuyển sinh làm đương kim Thái tử, hưởng thụ phúc phận của Thiên tử”.

Việc thiện nên làm, việc ác nên tránh. Lành thay! Lành thay! “Đức năng thắng số” là vậy!

----------------           

Chương 8 - Mục 17: Truyện Nhân Quả báo ứng thời hiện đại
Số từ: 1743
Thiện Ác có quả báo

Truyện thứ nhất:

Trưa hôm đó, có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở các khu nhà để kiếm tiền đi học. Bụng đói cồn cào mà lục túi chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi, cậu liều xin một bữa ăn tại một căn nhà gần đó. Nhưng cậu giật mình xấu hổ khi thấy một cô bé ra mở cửa. Và thay vì xin gì đó để ăn, cậu đành xin một ly nước uống. Cô bé trông cậu có vẻ đang đói nên bưng ra một ly sữa lớn.

Cậu bé uống xong, hỏi “Tôi nợ bạn bao nhiêu?”. “Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt”. Cậu bé cám ơn và đi khỏi. Lúc này, Howard Kelly thấy tự tin hơn nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều.

Nhiều năm sau, cô gái đó bị căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong vùng bó tay và chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia chữa trị. Tiến sĩ Howard Kelly được mời khám. Khi nghe tên địa chỉ của bệnh nhân, một tia sáng loé lên trong mắt ông. Ông đứng bật dậy và đi đến phòng bệnh nhân và nhận ra cô bé ngày nào ngay lập tức. Ông đã gắng sức cứu được cô gái này.

Sau thời gian dài, căn bệnh của cô gái cũng qua khỏi. Trước khi tờ hoá đơn thanh toán viện phí được chuyển đến cô gái, ông đã viết gì đó lên bên cạnh. Cô gái lo sợ không dám mở ra, bởi vì cô chắc chắn rằng cho đến hết đời thì cô cũng khó mà thanh toán hết số tiền này. Cuối cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá đơn...

“Đã thanh toán đủ bằng một ly sữa”. Ký tên, Tiến sĩ Howard Kelly.

Nước mắt vui mừng cứ thế dâng trào và lời từ trái tim cô gái thốt lên trong nước mắt: “Cảm ơn ông!”.

Đây là câu chuyện có thật. Dr. Howard Kelly là một nhà vật lý lỗi lạc, đã sáng lập ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895.

Truyện thứ hai:

Đây là một câu chuyện có thật xảy ra vào năm 1892 tại trường đại học Standford. Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho. Cậu và một người bạn quyết định tổ chức một buổi hòa nhạc tại trường để gây quỹ kiếm tiền trả học phí cho cả hai. Họ tìm đến nhà dương cầm nổi tiếng Ignacy J. Paderewski. Ông bầu của nhạc sĩ yêu cầu các cậu phải đảm bảo thanh toán một khoản thù lao là 2.000$ cho buổi độc tấu dương cầm.

Ngày trọng đại đó rồi cũng đến. Paderewski biểu diễn tại Standford. Nhưng không may, hai bạn trẻ không thể xoay sở để bán hết số vé. Tổng số tiền mà họ thu được chỉ vỏn vẹn 1.600 $. Thất vọng, họ tìm đến Stanford để giải thích hoàn cảnh của họ. Hai cậu sinh viên trao hết 1.600$ cho Paderewski cùng tấm chi phiếu 400$ cho khoản tiền còn thiếu với lời hứa rằng họ sẽ tranh thủ thanh toán tấm séc này sớm nhất.

Paderewski nói, “Không, việc này không thể chấp nhận được”. Ông xé tấm chi phiếu, đưa lại 1.600$ cho hai cậu sinh viên và nói: “Đây là 1.600$. Hãy thanh toán mọi chi phí mà các bạn còn thiếu nợ, giữ số tiền mà các bạn cần để thanh toán học phí, tôi chỉ lấy phần tiền còn dư”. Hai cậu sinh viên ngạc nhiên và rối rít cám ơn Paderewski.

Nó chỉ là một nghĩa cử nhỏ bé thể hiện một tấm lòng tử tế, nhưng rõ ràng cho thấy rằng Paderewski là một con người có nhân cách lớn. Tại sao ông ta phải giúp hai thanh niên mà ông chẳng hề quen biết. Chúng ta ai cũng tình cờ gặp những tình huống như vậy trong đời mình. Và hầu hết chúng ta chỉ nghĩ: “Nếu giúp họ, ta sẽ được gì?”

Nhưng những con người vĩ đại thì lại nghĩ rằng: “Nếu ta không giúp, điều gì sẽ xảy ra với họ?” Họ giúp và không mong có sự đền đáp. Họ làm điều đó vì họ cảm thấy rằng đó là một việc đúng cần phải làm.

Paderewski sau đó trở thành Thủ tướng của Ba Lan. Ông là một nhà lãnh đạo tài ba nhưng không may, chiến tranh Thế giới xảy ra, Ba Lan bị tàn phá. Hơn 1,5 triệu người dân trong nước lâm vào cảnh đói và không có tiền để cung cấp cái ăn cho họ. Paderewski không biết cầu cứu ở đâu, ông quyết định tìm đến Tổ chức Cứu trợ Lương thực Hoa Kỳ để xin giúp đỡ. Lãnh đạo của tổ chức này lúc bấy giờ là Herbert Hoover, sau này trở thành Tổng thống Hoa Kỳ.

Hoover đồng ý giúp và nhanh chóng gửi hàng tấn ngũ cốc để cứu trợ cho người dân Ba Lan. Thảm họa được đẩy lùi. Thủ Tướng Paderewski cảm thấy nhẹ nhõm. Ông quyết định sang Mỹ gặp Hoover để đích thân cảm ơn. Khi Paderewski bắt đầu nói lời cảm ơn Hoover vì nghĩa cử cao thượng của ông, thì Hoover vội cắt ngang và nói:

“Ngài không cần phải cảm ơn tôi, thưa Thủ Tướng. Có lẽ ngài không còn nhớ câu chuyện này, nhưng nhiều năm trước, ngài đã giúp hai cậu sinh viên trẻ tuổi tiếp tục học đại học tại Hoa Kỳ, và tôi là một trong hai sinh viên ấy”.

Truyện thứ ba:

Câu chuyện bắt đầu từ một người nông dân nghèo tên Fleming ở Scotland. Một ngày nọ ông đang làm việc để nuôi gia đình thì bỗng nghe tiếng kêu cứu từ cái đầm lầy gần đó. Ông vội chạy đến nơi thì nhìn thấy một cậu bé bị sa lầy trong ao, sình ngập đến đầu. Cậu đang giãy giụa gào khóc. Người nông dân liền lập tức cứu cậu bé lên bờ.

Hôm sau, một cỗ xe sang trọng đi tới căn lều của Fleming. Một quý ông ăn mặc sang trọng bước ra, tự giới thiệu mình là Randolph Henry Spencer Churchill, cha của cậu bé được ông cứu sống ngày hôm qua. Ông ta nói: “Tôi đến để cảm ân và hậu tạ anh đã cứu mạng con trai tôi”.

Ông Fleming đáp: “Không có chi. Đây là chuyện nên làm và ông không cần phải hậu tạ, thưởng công. Tôi quyết không nhận đâu.”

Ngay lúc đó, cậu con trai khoảng 10 tuổi của Fleming bước vào lều. Ông nhà giàu hỏi: “Đây là con trai anh phải không?”.

“Vâng” - Ông Fleming trả lời đầy vẻ tự hào.

Nhà quý tộc ân cần hỏi cậu bé: “Khi lớn lên, cháu muốn làm gì?”

Cậu bé nhỏ nhẹ thưa: “Thưa ông, chắc cháu sẽ tiếp tục nghề làm ruộng của cha cháu”.

Nhà quý tộc lại gặng hỏi: “Thế cháu không còn ước mơ nào lớn hơn nữa sao?”

Cậu bé im lặng cúi đầu một lúc rồi mới trả lời: “Dạ thưa bác, nhà cháu nghèo thế này thì cháu còn biết ước mơ điều gì nữa đây?”

Lại tiếp tục một câu hỏi chân tình: “Nhưng bác muốn biết, nếu cháu được phép mơ ước thì cháu sẽ ước mơ điều gì?”

Và lần này cũng lại là một câu trả lời thật thà: “Thưa bác, cháu muốn được đi học, cháu muốn trở thành một bác sĩ!”.

“Vậy thì cho phép tôi đề nghị như thế này anh Fleming, hãy để tôi chu cấp việc học cho con trai anh hệt như tôi đã lo cho con trai mình. Nếu con trai anh mà giống tính cha nó thì tôi tin rằng ngày sau này cậu ấy sẽ trở thành một người mà cả hai chúng ta đều hãnh diện”.

Ông Fleming nhà nghèo nghe vậy thì đồng ý. Thế là từ đó cậu con trai của Fleming được theo học tại những trường danh tiếng và tốt nghiệp đại học Y khoa Stainte-Marie ở London. Nhờ có hoài bão lớn lao, không ngừng phấn đấu, cuối cùng tài năng của cậu cũng được cả thế giới công nhận.

Cậu chính là bác sĩ lừng danh Alexander Fleming. Vào năm 1927, bác sĩ Alexander Fleming là người đã chế ra thuốc kháng sinh Pénicilline cứu mạng được không biết bao nhiêu người trên thế giới.

Vài năm sau, người con trai của quý ông được cứu sống khỏi đầm lầy ngày xưa bị bệnh viêm phổi. May nhờ chính thuốc Pénicilline này đã cứu cậu thoát chết. Tên cậu chính là Winston Churchill, sau này cậu trở thành một vĩ nhân, là người mà cả nước Anh đều tự hào và hãnh diện. Đó chính là thủ tướng trứ danh của nước Anh - Winston Churchill.

Điều thú vị là Ngài Winston Churchill và bác sĩ tài danh Alexander Fleming là đôi bạn rất thân của nhau trong suốt cuộc đời. Bác sĩ Alexander Fleming mất năm 1955 tại London ở tuổi 74 và Thủ tướng Winston Churchill mất năm 1965 ở tuổi 91 tại London. Cả hai ông đều yên nghỉ trong cùng một nghĩa trang.

Điều này chứng minh rằng: “Hành thiện nhất định sẽ gặp thiện báo. Tất cả những gì ta cho đi đều sẽ được nhận lại. Bạn đừng lo sẽ mất đi, những gì bạn đã cho, tặng cho người khác bằng cả trái tim thì nhất định sẽ không mất”.

Vì vậy đừng quá coi trọng đồng tiền, mà hãy tô bồi phẩm hạnh, đạo đức. Vì đức hạnh và lòng tốt của bạn sẽ tạo ra Thiên Đường cho chính bạn và những người xung quanh... Xin hãy gởi câu chuyện này đến tất cả bạn bè của bạn. Mong rằng cuộc sống tất cả chúng ta đều tươi sáng, tốt đẹp hơn. Hãy mở rộng tấm lòng, tích đức tu thiện để cải tạo vận mệnh cho chính mình.


----------------           


Chương 9 - Mục 1: Chuyện ly kỳ chuyển kiếp của sơn ca
Số từ: 901
Năm 1997, trong nước có rất nhiều hãng thông tin cử phóng viên đến nhà ông Mã ở 4803 đường Thị Lầu, thị xã Đông Đài, tỉnh Giang Tô để phỏng vấn về chuyện được xem là sự kiện ly kỳ có thật về chuyển kiếp luân hồi.

Ông Mã là một công nhân của nhà máy thực phẩm, phu nhân của ông là công nhân của xưởng bao bì. Năm 1983, mới 18 tuổi, con gái duy nhất của ông bị bệnh bạch huyết. Đối mặt với khoản tiền trị bệnh rất lớn, trường học của con gái và bảo trợ xã hội đều muốn quyên góp trợ giúp nhưng con gái của ông không cho phép chuyện đau buồn này đăng công khai trên báo chí, còn an ủi cha mẹ và nói sau khi chết đi mình sẽ đến nhà này “đầu thai”, xin cha mẹ đừng buồn. Không bao lâu, con gái ông do điều trị vô hiệu quả đã qua đời.

Vào ngày 12 tháng 3 năm 1995, một ngày đẹp trời. Buổi sáng sớm, ông Mã đi đến nhà máy sớm hơn mọi lần, trong nhà người vợ Thị Đơn đang rửa mặt. Lúc này, ngoài sân không biết từ đâu bay đến một con chim, đậu vào phía đông của nhà bếp, đầu hướng vào Thị Đơn hót không ngừng, Thị Đơn lấy ghế leo lên thử, hoàn toàn không tốn công sức đã bắt được con chim. Buổi trưa, ông Mã về nhà thấy có con chim sơn ca, vui mừng và liền chạy đến chợ mua về cái lồng chim và thức ăn. Nuôi khoảng được thời gian hai tháng, cả nhà không ai dạy cho cách nói chuyện nhưng không ngờ con chim lại biết nói và biết kêu tên của ông Mã là “Mã Tam Mao”.

Tiếp đó, chim ngày càng nói được càng nhiều, vả lại còn nói được rất nhiều tiếng làng của Đông Đài, phát âm rất chuẩn, dựa theo chứng thực của ông Mã và hàng xóm, tiếng nói giống y như tiếng con gái ông đã mất hồi hai năm trước. Thật là kỳ lạ, có mấy cô học sinh trung học kể: kể cả chủ nhân của con chim này nuôi bấy lâu nay mà còn dạy nó phát âm kêu tên mình mà còn không được, vậy mà bây giờ nó có thể kêu tên từng bạn học của chúng nó, không bị sai chút nào.

Theo lời ông Mã nói: ông chưa từng nói trước mặt con chim về mình và bà con thân thiết của mình, tên của hàng xóm nhưng không hiểu sao con chim sơn ca này biết kêu được ông Mã, tên của hàng xóm và bà con. Tự nhiên, con chim cũng hay thường kêu tên cúng cơm của Thị Đơn “Tiếu Phụng”.

Con chim sơn ca này rất hiểu biết chuyện, có một lần ông Mã cùng bà con đến khuôn viên góc phải chơi mạc chược, trong lúc đang chơi hứng, con chim sơn ca ở ngoài cửa nói ra hai câu “Trời sắp đổ mưa, còn không đến dẹp mền”. Chủ nhân nhìn lên, quả nhiên thấy trời đang âm u, liền đi thu dọn mền. Vào một ngày, chủ nhân lại cùng bạn chơi mạc chược, chưa đặt lên bàn, con chim đã nói: “Không được đặt tiền, ở ngoài đang bắt!”. Thậm chí, nó còn có thể nói với khách chơi cờ là: “Hôm nay, sắc mặt của ngươi không hên, sợ sẽ bị thua tiền”. Không những thế, cả từ ngữ của mạt chược nó đều thuộc lòng hết.

Chỉ cần trong nhà điện thoại reo, chim sơn ca sẽ hét lên: “Điện thoại, điện thoại, Mã Tam Mao nghe điện thoại” hoặc “Tiếu Phụng nghe điện thoại”, thường hay sắp đến giờ nấu cơm, chim sẽ nhắc nhở: “Mã Tam Mao nấu cơm!”, rất nhiều người từng kêu ông Mã đem con chim ra trung tâm triển lãm. Năm 1997, ông Mã đem con chim ra trung tâm thu vé vào cửa, chỉ một ngày thôi mà thu hơn một ngàn đồng.

Nhưng mà, tính tình của con chim cũng “cường”, chủ nhân thấy nó biết nói chuyện, nhiều lần dạy nó nói: “Cung Hỷ Phát Tài” các câu nói cát tường, nhưng nó không hề nói ra. Ngược lại, khi nhà của ông Mã có khách đến, nhiều khi là ba mẹ của ông Mã, không cần biết tuổi tác lớn hay nhỏ, con chim đều gọi tên cúng cơm của người đó, nhiều khi có ông đã ngoài năm sáu chục năm không nghe người gọi rồi mà lại phát từ miệng con chim kêu ra.

Theo ông Mã nói: từ khi con gái ông mất, họ thật sự không có nhìn thấy như chuyện dân gian thường hay nói “Thần Quỷ” nhưng trong nhà có con chim này thật sự làm cho nhiều người xung quanh khó mà lý giải. Con chim này sao tiếng nói của nó lại giống y như cô chủ đã mất? Là sự trùng hợp chăng? Nhìn lại mà nói: cho dù là cô chủ có “đầu thai” sao lại biết được tên của bà con và hàng xóm? Nếu như không phải là cô chủ hóa thân, các bạn học của cô con chim đều kêu được từng tên của họ.

----------------           


Chương 9 - Mục 2: Người cai quản luân hồi trong Âm phủ
Số từ: 263
Cư sĩ Lý Bách Nông nói: có một người họ Lăng, làm giáo sư thông dịch tiếng Anh tại Hồng Kông, tính người này rất là trung thực, sống có nghĩa đạo. Lăng quân mỗi tháng đều phải ngủ suốt bảy ngày bảy đêm, ông nói là đi làm chức vụ dưới Âm phủ, cai quản chuyện luân hồi, người người không thể tin. Hỏi ông ta trong bảy ngày thả ra bao nhiêu vong linh? Ông ta nói có khoảng 100 mấy ngàn, lại hỏi có bao nhiêu người cộng sự với ông? Ông ta nói rất nhiều. Hỏi ông ta trên cõi Trời có nhiều người đầu thai đến thế sao?

Ông nói: “Người Hồng Kông, Quảng Đông thích ăn bồ câu non, một ngày sát sanh vô số, những vong linh của số bồ câu và động vật này thường sống sống chết chết trong vòng mấy mươi ngày là thường phải chịu luân hồi, cũng đi qua tay của chúng tôi”.

Còn nói hai người đồng nghiệp có đại nạn, một là do bất hiếu, hai là do tham nhũng oan pháp, sẽ phân biệt chết theo dưới vùng biển lửa, kêu hai người không nên đến tỉnh thành trong lúc này. Hai người không tin, vừa lúc ấy, hai người đi đến nhà bà con tại tỉnh thành vui chơi, không ngờ mấy ngày này bị lũ lớn, cửa Tây lại bị cháy lớn, một người chết trong nước lũ, một người chết trong lửa cháy.

Lăng quân còn nói dưới âm phủ chú trọng Phật Pháp nhất.

----------------           


Chương 9 - Mục 3: Hai chị em bên nước Anh biết được chuyện kiếp trước
Số từ: 410
Theo thông tin của báo chí, tại Anh có một cặp chị em bị tai nạn giao thông chết trên xe hơi, cùng nhau đi đầu thai chuyển kiếp, trở thành một cặp song sinh của người mẹ mình! Cô Tony 11 tuổi và Jacky Lan 6 tuổi, mấy năm trước bất hạnh bị tai nạn tại nước Anh và qua đời, ông bà Porocat là cha mẹ của hai đứa vô cùng đau thương, quyết định rời khỏi nơi thương tâm này.

Nửa năm sau, bà Porocat có thai lần nữa, thuận sanh ra một cặp con gái sinh đôi, phân biệt đặt tên con gái là Jeny và Kalin, chuyện lạ từ đó liên tiếp xảy ra. Jeny có một cái bớt trên trán màu trắng, giống với vị trí vết thương của Jacky Lan lúc chết, ngoài ra trên mông của cô bé có cái bớt cũng giống vị trí với Jacky Lan.

Ba năm sau, ông bà Porocat dẫn cặp song sinh này trở về thăm khu ngôi nhà cũ, tại đây cũng là nơi Tony và Jacky Lan mất. Khi lái xe hơi vào khu nhà, Jeny và Kalin hét lên nói: “Chúng mình trước kia thường hay đến đây chơi, trường của tụi mình ở gốc bên kia nè, đây là cầu tuột chúng mình hay chơi đó”, chúng nó còn có thể chỉ ra địa điểm của ngôi nhà cũ.

Năm 4 tuổi, cặp song sinh này được Porocat quyết định cho chúng chơi những đồ chơi của hai chị đã mất để lại, Jeny lập tức biết kêu tên của hai con búp bê. Jeny và Kalin không có gì khác biệt với những đứa trẻ khác nhưng chúng chỉ là không quên được sự thảm họa của kiếp trước mà thôi, rất nhiều lần, nửa đêm hay bật khóc lên vì sợ hãi, ôm ấp nhau, hét lên “Chiếc xe kia đang đi đến đụng mình kìa!” Đồng thời, Kalin còn cầm cái đầu của Jeny, vừa khóc vừa hét lên nói máu của nó đang chảy ra.

Vợ chồng ông Porocat chưa từng nói chuyện tai nạn của hai đứa con trước kia cho chúng nó nghe, chuyên gia bệnh tâm thần phụ trách điều tra sự việc này, chỉ có sự đầu thai và chuyển kiếp luân hồi là có lý do, ngoài ra không còn lý do gì hợp lý nhất để giải thích cho sự kiện này.

----------------           

Chương 9 - Mục 4: Bé gái biết nói ngôn ngữ của tám quốc gia
Số từ: 338
Một cô gái mang quốc tịch Bungari, chưa đầy hai tháng tuổi lại có thể nói ra ngôn ngữ của tám quốc gia: ngôn ngữ Bungari, nước Anh, nước Pháp, Latin, Tây Ban Nha, Nga, A-rập, Bồ Đào Nha, tất cả ai ai nói đều nghe hiểu hết, sự kiện này gây cho giới các nhà khoa học và chuyên gia về ngôn ngữ học đều kinh ngạc, không tài nào giải thích được, chuyện không thể ngờ này là có nguyên nhân ra sao.

Bé gái này tên là Sofia-Pahafun, ra đời trong gia đình trí thức bình thường, nay đã hai tháng tuổi, chỉ nặng 10 pound, khuôn mặt rất chững chạc như người thành niên. Bé gái mới ra đời khoảng 2 tuần tuổi, đã biết nói hoàn chỉnh một câu từ, thậm chí còn sử dụng được mấy thứ tiếng. Các nhà khoa học nổi tiếng tại Bungari sau khi xem xét xác nhận là khoảng tuổi như Sofia chỉ có thể phát ra những âm thanh đơn giản thôi, chứ không tài nào có thể nói như Sofia, chưa từng thông qua học tập mà nói ra được những thứ tiếng như trên.

Căn cứ theo lời bật mí của cha mẹ Sofia, bé lúc một tháng tuổi có thể nói chuyện với họ được, thủ thỉ về cảm xúc cuộc đời ngắn ngủi của nó Matxico và Liên Xô, “hội tái sinh thuyết học” ông Kaoria, sử dụng quan điểm “mật mã trí tuệ di truyền”, để giải thích việc này, tiếp nhận được biết bao sự ủng hộ của các học sĩ, cũng có một số chuyên gia phản đối nhưng trong đời người khó mà có thể có ai trả lời hoàn hảo về sự kiện này.

Chỉ dựa vào vì kiếp trước của cô bé này là một người biết nói nhiều thứ ngôn ngữ mà kiếp này vẫn còn duy trì theo sự chuyển kiếp luân hồi, như vậy có thể là sự giải thích hoàn hảo nhất.


----------------           

Chương 9 - Mục 5: Tin tức về chuyện luân hồi
Số từ: 248
Thông tin của Phật giáo Đài Châu thông báo kỳ thứ 8 của năm 1991, về một chuyện luân hồi: vụ án này phát sinh tại tỉnh Triều Châu.

Ông Dương Thu Thủy là một nhân viên xây dựng công trình, cư trú tại lộ Thái Bình, thị xã Triều Châu, đã qua đời 8 năm trước, hưởng thọ sáu mươi mấy tuổi. Đầu năm nay, cô con gái của ông đã lấy chồng tên Dương Thục Phương đã nằm mộng, trong mộng người cha nói với cô: “Tôi phải đi chuyển kiếp”.

Cô con gái hỏi: “Chuyển đến đâu?”

Ông nói: “Phải chuyển đi làm hàng xóm của con”.

Con gái hỏi: “Như vậy có cần làm đám giỗ cho cha nữa không?”

Người cha trả lời: “Vẫn còn phải làm. Con phải mua những thứ mà ta thích ăn lúc còn sống”.

Do tình cảnh trong mơ rất rõ và chi tiết, ngày hôm sau, Thục Phương đến địa chỉ mà cha cô chỉ dẫn thăm viếng. Nào ngờ, chủ của nhà này là bạn cũ của cô hồi xưa, cô bạn này đúng ngày hôm qua sanh được một cháu trai. Hẻm nhà cô bạn này cách nhà cô không xa lắm nhưng vì sau khi có gia đình, mạnh ai nấy bận việc nhà gia đình, rất ít qua lại với nhau. Cho nên, chuyện giấc mộng này không phải do ban ngày hay nghĩ mà tối nằm mơ gặp những chuyện giống nhau.


----------------           

Chương 9 - Mục 6: Cựu tổng thống Sirilanca đầu thai chuyển kiếp
Số từ: 283
Khoảng thời gian ngày 18 tháng 1 năm 1999, các báo chí của nước Sirilanca có đăng tải chi tiết chuyện đầu thai chuyển kiếp của cựu tổng thống nước Sirilanca, ông Panoima, ở trong nước, các báo chí đều đăng tải sự kiện này.

Căn cứ theo thông báo của địa phương: một người con trai 22 tuổi được xem là đầu thai chuyển kiếp của cựu tổng thống Sirilanca. Mấy trăm ngàn người vì muốn xem tận mắt người con trai này có khuôn mặt giống y như Tổng thống, đã đều đi đến thị trấn Hancualan, nơi sinh sống của người con trai này. Ông Tổng Thống do bị một người xung kích cầm mìn gây nổ giết hại, đã chết vào tháng 5 năm 1993.

Căn cứ theo lời thông báo: người con trai này xuất thân trong một gia đình nông dân. Cha mẹ đặt tên cho cậu ta là “Uykibahua” nhưng mà anh ta cứ tự xưng hô mình là “Panoima”. Người con trai này thậm chí còn xem người nhà của Panoima như là người nhà của mình. Uykibahua có nhắc đến chuyện mình bị một người nam tên là Babu sát hại. Vả lại, hung thủ sát hại ông Tổng Thống đúng là có tên Babu.

Căn cứ theo thông tin đưa ra, mỗi buổi sáng Uykibahua thức dậy lúc 3 giờ sáng, làm nghi lễ Phật giáo giống y như cố Tổng Thống đã làm. Một người chỉ có tuổi đời một tuổi mấy chưa biết chữ mà lại biết được nhiều chuyện như vậy, không thể không nói có lẽ là người của kiếp trước chuyển kiếp đầu thai luân hồi trở về.


----------------           

Chương 9 - Mục 7: Thân trâu xuất hiện tên người
Số từ: 316
Vào ngày 28 tháng 1 năm 1958, tại Đài Trung, Văn Tín Nhật Báo đăng tải tin tức như sau:

“tại huyện Triển Đông có con bò cái, mới đẻ ra con bê trên lưng hiện lên ba chữ “Lâm Tân Giáo”, chủ chăn nuôi của con bò này tên là Ưu Vạn Kim, ông ta có một cậu con trai tên là Ưu Vạn Đạt, gia đình rất nghèo khổ. Lúc huyện này chưa phát triển, ông ta làm thuê cho một y sư Lâm Tân Giáo.

Không may, gia đình họ Lâm bị mất cắp hai ngàn mấy cân lúa, sự thật số lúa này là do ông ta tự lấy cắp nhưng lại đổ tội vu khống cho là Ưu Vạn Đạt lấy cắp. Do lúc ấy, viên cảnh sát hình sự có đánh đập khi tra hỏi, Ưu Vạn Đạt không chịu được tra hình, bị đánh bức công, lòng căm thù ôm hận, đã tự vẫn để minh bạch sự trong sạch cho mình.

Không bao lâu, Lâm Tân Giáo cũng qua đời, thời gian nhanh như gió, trải qua mười năm, trong trại chăn nuôi của Ưu Vạn Kim có con bò mới đẻ ra con bê trên lưng lại xuất hiện ba chữ Lâm Tân Giáo.

Chuyện này được con trai của Lâm Tân Giáo là Lâm Vinh Quang hay biết, lập tức sang nhượng với chủ trại chăn nuôi bên hàng xóm, đồng ý bỏ ra mười ngàn năm trăm đồng mua con bê con về nhưng ông chủ chăn nuôi từ chối”.

Sau khi tin tức này truyền ra, gây xôn xao dư luận “Chuyện lúc còn sống gây chết oan một mạng người” sau khi chết hiện tên trên lưng bò, xảy ra tại huyện Triển Đông, Đài Loan, rất nhiều người hay biết. Có thể minh chứng cho việc luân hồi là có căn cứ.


----------------           

Chương 9 - Mục 8: Đi đầu thai lưng vẫn có dấu bớt
Số từ: 130
Nhà họ Hoàng tại thôn Liên Xứ, huyện Vĩnh Xuân, mấy tháng trước chết một đứa con trai, họ Hoàng thương xót con quá, lấy viết đỏ vẽ trên lưng con hai hàng chữ; xong mới đem đi chôn cất.

Ba ngày sau, thôn bên kia gia đình họ Lâm sanh được một cậu con trai; trên lưng có ghi hai hàng chữ màu đỏ, giống y như hàng chữ mà họ Hoàng ghi trên lưng con trai, lấy khăn chùi càng rõ hơn, có người nói lúc tắm rửa cho con mời cha của kiếp trước của đứa trẻ đến lau bỏ hàng chữ thì mới có hiệu quả.

Nhà họ Lâm sai người đến mời và cho phép con trai làm con cháu đời sau cho hai họ.


----------------           


Chương 9 - Mục 9: Bé 3 tuổi nhớ lại tiền kiếp, nhận dạng kẻ sát nhân và chỉ ra nơi chôn thi thể
Số từ: 598
Một đứa trẻ 3 tuổi ở khu vực Golan Heights gần biên giới Syria và Israel nói rằng cậu đã bị sát hại bởi một cây rìu trong kiếp trước. Cậu chỉ cho các bậc lão niên trong làng nơi kẻ sát hại chôn cậu, và quả thật họ đã tìm thấy bộ xương của một người đàn ông ở đó. Cậu cũng cho các bậc lão niên xem nơi chôn giấu hung khí, và khi đào lên, họ thật sự đã tìm được một cái rìu ở đó.

Trong quyển sách của ông, “Những Đứa Trẻ Đã Từng Sống Trước Đây: Đầu Thai Thời Hiện Đại” (Children Who Have Lived Before: Reincarnation Today), Nhà trị liệu người Đức Trutz Hardo kể lại câu chuyện của một cậu bé, cùng với nhiều câu chuyện của những đứa trẻ khác dường như nhớ lại được các kiếp sống trước của mình với độ chính xác đã được kiểm chứng.

Tiến sỹ Eli Lasch đã chứng kiến câu chuyện của cậu bé này, Lasch rất nổi tiếng vì đã phát triển hệ thống y học ở Gaza thành một phần trong hoạt động của chính phủ Israel vào những năm 60. Tiến sỹ Lasch mất vào năm 2009, và đã kể lại những trường hợp đáng kinh ngạc này cho Hardo.

Cậu bé thuộc nhóm dân tộc Druze, và nền văn hóa của cậu tin tưởng vào luân hồi. Dù vậy câu chuyện của cậu vẫn làm chấn kinh cộng đồng nơi đây. Cậu chào đời với một vết chàm dài màu đỏ trên đầu. Giống như trong một số nền văn hóa khác, người Druze tin rằng vết chàm có liên quan đến cái chết trong kiếp trước. Khi đã đủ lớn để có thể nói chuyện, cậu kể với gia đình rằng cậu đã bị sát hại bởi một nhát rìu vào đỉnh đầu.

Theo phong tục ở đây, các bậc lão niên sẽ dẫn trẻ con lúc 3 tuổi về nhà cũ trong kiếp trước nếu đứa bé có thể nhớ lại. Cậu bé biết được ngôi làng nơi cậu từng sinh sống, vì vậy họ đi tới đó. Khi họ tới nơi, cậu đột nhiên nhớ lại được tên của mình trong kiếp trước.

Một người dân làng nói rằng người đàn ông mà cậu bé cho rằng là kiếp trước của mình đã mất tích bốn năm trước đây. Gia đình và bạn bè nghĩ rằng có thể anh ta đã đi lạc vào một khu vực nguy hiểm gần đó, như một vài vụ việc tương tự thi thoảng vẫn xảy ra trước đó.

Cậu bé cũng nhớ lại được tên đầy đủ của kẻ đã sát hại cậu. Khi cậu đối mặt với người này, mặt hắn tái mét, Lasch kể với Hardo, nhưng hắn ta không nhận tội. Sau đó cậu bé nói cậu có thể dẫn các bậc lão niên đến nơi thi thể cậu được chôn cất. Ở chính nơi đó, họ tìm thấy một bộ xương của người đàn ông với một vết thương ở trên đầu, trùng khớp với vết chàm của cậu bé. Họ cũng tìm thấy chiếc rìu, hung khí dùng để sát hại cậu. Đối diện với bằng chứng này, kẻ sát nhân thừa nhận tội lỗi của mình.

Tiến sỹ Lasch, người duy nhất không thuộc dân tộc Druze, đã có mặt ở đó trong suốt diễn biến sự việc. Để đọc thêm về các câu chuyện của Hardo, hãy đọc quyển sách của ông, “Những Đứa Trẻ Mà Đã Từng Sống Trước Đây”.

----------------           


Chương 9 - Mục 10: Một cậu bé mới 5 tuổi lại có thể kể rõ ràng cuộc sống kiếp trước của mình
Số từ: 646
Cậu bé Ryan, 5 tuổi, sống ở bang Oklahoma, nước Mỹ khiến dư luận xôn xao khi có thể vanh vách câu chuyện hồi kiếp trước của mình. Dù mới 5 tuổi nhưng cậu bé này lại có thể kể ra những câu chuyện từ rất lâu và hoàn toàn đúng sự thật.

Khi xem những trang sách cũ về những nhân vật Hollywood trước đây Ryan có thể đọc tên từng người nổi tiếng đồng thời nói đó là... bạn của mình. Ryan cũng có thể kể được những chi tiết về những bộ phim đen trắng từ rất lâu và thậm chí cậu bé còn có thể nói được những bí mật hậu trường mà không phải ai cũng biết.

Mẹ của Ryan là Cindy vô cùng kinh ngạc về việc con mình có thể biết được những chuyện ở kiếp trước. Cindy kể rằng Ryan đã có lần chỉ vào một bức ảnh của bộ phim Night After Night được chụp vào năm 1932 và nói rằng: “Mẹ ơi, đây chính là con. Con đã tìm thấy chính bản thân mình!”. Sau đó Ryan còn mô tả cho mẹ một cảnh trong phim có một tủ quần áo chứa rất nhiều súng đạn. Cindy đã xem bộ phim và khẳng định có cảnh phim như Ryan kể lại.

Cindy đã gửi thư cho Tucker B Jim, người nổi tiếng với những cuốn sách nói về kiếp trước. Tucker đã tìm ra người đàn ông trong kiếp trước của Ryan, đó là Marty Martyn, một người nổi tiếng ở Hollywood trước đây. Marty sống ở Los Angeles và qua đời vì ung thư vào năm 1963.

Ryan kể rằng mình chết trong một căn phòng với rất nhiều con số trên cửa. Sự thật là Marty đã qua đời trong căn phòng ở bệnh viện có đánh số. Ryan cũng kể lại rằng chị em gái và mẹ của mình có tóc xoăn màu nâu, gia đình có căn biệt thự tại Los Angeles hay những chuyến đi đến Pháp... Ryan còn cho biết mình đã nhìn thấy Marilyn Monroe tại một bữa tiệc nhưng chưa kịp tiến lại gần ngôi sao này thì đã bị một vệ sĩ tặng cho một cú đấm vào mắt. Ryan nói rằng Marty muốn quay về để chuộc lỗi vì trong quá khứ người đàn ông này quá yêu công việc và không có thời gian dành cho gia đình.

Về phía Ryan, cậu bé đôi khi rất mệt mỏi, Ryan cũng được gặp con gái của Marty, tuy nhiên sau khi gặp Ryan rất thất vọng và nói rằng: “Tại sao cô ấy lại quá già, cô ấy không còn là một cô gái trẻ như xưa nữa”. Tuy nhiên, con gái của Marty cũng đã xác nhận những gì Ryan kể lại là đúng sự thật. Thế nhưng sau một vài tháng tiếp xúc với con gái của Marty, những kí ức về kiếp trước của Ryan bỗng lu mờ dần.

Tucker cho biết, trẻ con thường chỉ bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc sống hiện tại và Ryan có một khả năng đặc biệt. Ngoài những câu chuyện về kiếp trước, Ryan còn có thể nói ra những điều mà ít người biết như bà ngoại mình có một người con đã chết ngay khi mới chào đời hay biết được ai đang gọi điện thoại trước khi có người nhấc máy... Tucker cho rằng, Ryan có được những thông tin không thể xuất phát từ hoạt động thông thường của bộ não và có những dạng lưu giữ thông tin vượt qua giới hạn của con người.

Tucker là tác giả của cuốn sách Return to life. Cuốn sách kể về những đứa trẻ tin rằng mình được đầu thai và có thể kể lại những câu chuyện ở kiếp trước.

Theo Dailymail

----------------           

Chương 10 - Mục 1: Liên Sanh Hoạt Phật kể chuyện quả báo do sát sanh
Số từ: 770
(Trích từ sách “Địa Ngục Biến Hiện Ký của Liên Sanh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn)

Từng có một người nữ mắc bệnh “thiên đầu thống” lâu cả 10 năm rồi, đã tìm gặp các bác sĩ trong cũng như ngoài nước, nhưng trước sau không cách nào làm thuyên giảm bệnh. Có thể nói các bác sĩ đã bó tay, vô phương cứu chữa. Bà này đến quy y tôi. Trì “Thượng Sư Tâm Chú” cả trăm vạn lần, liên tục tụng niệm.

Có một lần, bà đến gặp nói với tôi: “Sư Tôn, con thực sự có việc muốn cầu xin nên mới quy y Ngài, hy vọng Ngài tha lỗi cho con”.

Tôi nói: “Tôi không để ý gì đâu, rất nhiều người đến quy y, tôi đều xem như nhau cả”.

Tôi hỏi: “Bà cầu xin gì vậy?” Lúc này bà mới nói ra nguyên do quy y là vì muốn Sư Tôn trị bệnh thiên đầu thống cho bà. Khởi đầu tôi dùng “gia trì lực”, “phù chú lực” giúp bà ta, nhưng trước sau không đúng yếu điểm. Cuối cùng tôi dùng Thiên nhãn quan sát, lúc này tôi đột nhiên phát hiện ra trên đầu bà bị cấy một cây đinh vô hình làm đau. Đinh màu tím, dài 5 tấc, xúc chạm làm đau dây thần kinh. Tôi kinh hãi biết rằng cây đinh vô hình làm đau này là từ âm phủ mà ra, do đó tôi phải tìm sự chỉ giáo của Diêm Vương.

Tôi đã hỏi Diêm Vương việc gì đã liên quan đến cây đinh vô hình làm đau của bà đệ tử này. Diêm Vương nói:

“Đệ tử của Ngài khi còn trẻ rất thích ăn loại gà đồng, ếch, lúc ăn ếch thì lấy dầu đốt nướng ếch, số ếch bị nướng chết vô số kể, đã
vượt qua phước báo của mình, cho nên Âm phủ mới cho phát ra cây đinh làm đau này để trừng phạt”. - “Lý do như thế, bây giờ làm sao để giải cứu?”

Diêm Vương đáp: “Chỉ có phóng sanh và trì Vãng Sanh chú”

Tôi nói: “Tôi sẽ khuyến khích bà ta phóng sanh và trì chú Vãng Sanh. Trước mắt bà ấy đã trì cả trăm vạn Thượng Sư tâm chú rồi”.

Diêm Vương nói: “Như thế cây đinh làm đau sẽ tự nhiên biến mất thôi”.

Phải nói điều thật kỳ lạ là chuyến đi Âm phủ gặp Diêm Vương xong thì bệnh thiên đầu thống của bà đệ tử như không có cánh mà bay, sau một giấc ngủ tỉnh dậy, bệnh bà không còn đau gì nữa, cơn đau giống như được nhổ ra khỏi đầu, khác trước kia một trời một vực, đau đớn hoàn toàn được giải trừ. Tôi lại sử dụng Thiên nhãn xem thì không còn trông thấy cây đinh làm đau nữa.

Tôi hỏi: “Bà thích ăn ếch lắm phải không?”

Bà ta trả lời: “Sư Tôn biết cả rồi!” - “Ăn tất cả bao nhiêu con?”

“Tôi đi chợ mua về nướng ăn không biết là bao nhiêu nữa”.

“Bây giờ thì không được ăn nữa, thấy rồi đó, mua mà phóng sanh, niệm cho thật nhiều chú Vãng Sanh, như thế thì bệnh thiên đầu thống sẽ không tái phát” - “Xin tuân lệnh Sư Tôn”.

Nữ đệ tử này, từ đó không ăn thịt ếch nữa mà ngược lại chỉ lo phóng sinh ếch, niệm chú Vãng Sanh cả trăm vạn lần. Lấy sự linh cảm đến với mình báo cho nhiều người biết, dẫn rất nhiều người đến quy y tôi.

Cứ theo tôi biết rằng có rất nhiều người bị cây đinh làm đau tháp (cấy) vào người rồi. Những cây đinh này là từ Địa Ngục phát xuất có tác dụng trừng giới, có người bị đau vai, người bị đau lưng, người bị đau đầu, người bị đau các khớp xương, có những người bị đau răng, đau chân, đau ngón tay, vân vân. Cũng có thể không nhất định từ Minh phủ tạo ra, nhưng hy vọng mọi người làm việc phóng sanh thật nhiều, đọc chú Vãng Sanh thật nhiều. Tiêu trừ nghiệp chướng!

Tôi xin thực sự bá cáo với mọi người, phúc đừng hưởng cho hết tận, hưởng hết phúc ắt sinh ra tai ương. Chúng ta là những người học Phật phải biết quý trọng phúc, tạo ra phúc mới đúng. Phật từng đã dạy chúng ta “phải buông xả”, thử hỏi câu “phải buông xả” là buông xả cái gì nào? Hãy trả lời xem.


----------------           

Chương 10 - Mục 2: Đầu bếp đổi nghề, cả nhà được phước
Số từ: 599
Nghề nghiệp của A Dung là một đầu bếp một nhà hàng, ông ta chuyên phụ trách giết mổ cầm thú, gia súc. Không cần suy tính, lương cũng tương đối, trong túi lúc nào cũng đầy tiền. Chỉ tiếc là 16 năm nay không tiết kiệm được đồng nào, mẹ, vợ, người thân thường hay bị bệnh nên tiền đều tiêu hết vào để chữa trị bệnh cho người thân, bệnh tình còn không có chiều hướng tốt.

Trong lòng ông ta mong muốn có đứa con để bế bồng và nối dòng thờ cúng nhưng cầu xin thế nào cũng đều vô hiệu, đã trạc tuổi trên 40 rồi vẫn biệt tâm vô tức.

Khi xem cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” mới biết mình đã làm chuyện sát sanh trong thời gian quá lâu dài, sát sinh cũng có rất nhiều nguyên do nhưng trong thời gian ngắn không có cách nào chuyển nghề được. Đứng trước tấm thớt chặt thịt quen rồi, trong giấc mộng cũng toàn thấy mình chặt thịt. Có mấy lần mơ thấy mình đứng chặt toàn thịt người. Cho nên thường hay thức giấc giữa đêm khuya. Tuy nhiên đối với công việc sát sinh của mình có sự kinh sợ nhưng vì phải duy trì đời sống của gia đình, ông ta vẫn tiếp tục hành nghề như thế, không bao lâu vợ ông ta có thai, ông rất vui mừng.

Một đêm nọ, ông đang nằm cơn ác mộng, mơ thấy mình đi đến một hố sâu thẳm, lơ lửng đi trên một cây cầu treo, bưng rất nhiều cánh tay, bàn chân, thịt người, bưng hoài không hết. Lúc này ông bị vợ đánh thức giấc mộng vì bà ta sắp lâm bồn nên đau bụng dữ dội, ông liền đưa vợ đến bệnh viện, bác sĩ chúc mừng ông vì vợ sanh được một thằng con trai nhưng vì sanh sớm hai tháng nên cháu bé phải ngủ trong lồng kính, A Dung mỗi ngày đứng cách lồng kính nhìn vào một sinh vật nhỏ đang vật lộn với ranh giới sống chết lòng đau như dao cắt, cuối cùng cũng xuất viện về nhà nhưng ẵm về nhà một cháu bé yếu ớt xanh xao, tay trái chỉ có bốn ngón tay, ngón cái tụ máu nên đã bị hoại tử, như là bị dao cắt, người vợ mặt xanh xao nhìn ngơ ngác, ông nhìn thấy đau lòng đến rơi nước mắt.

Ông thề nguyện trong lòng, trong vòng một năm ông nhất quyết phải đổi nghề và cầu xin Bồ Tát chỉ dẫn.

Người có thiện nguyện, Thiên nhất tòng tri, A Dung cuối cùng cũng được một thầy giáo thiện tri giới thiệu đến một quán ăn chay làm đầu bếp. Một tháng nay, ông luôn niệm Phật ăn chay, những ác mộng như trước nay và sự bất an đã từ từ không còn. Kỳ diệu nhất là đứa con cưng của ông, một tháng nay không cần uống thuốc, không còn bị bệnh, chỉ lâu lâu bị cảm nhẹ mà thôi và sức khỏe của người mẹ và vợ cũng dần bình phục khỏe lên, cả nhà sống trong không khí hòa thuận vui mừng, ông cảm thấy hiện giờ mới thật là một gia đình hạnh phúc.

Trong Kinh Phật nói: “Trong tất cả các hành vi tội ác, sát hại sinh mạng là tội ác lớn nhất, nghiêm trọng nhất; trong tất cả các công đức hành thiện, không sát sinh và phóng sinh là công đức lớn nhất”.


----------------           

Chương 10 - Mục 3: Ra sức phóng sanh, bệnh tật được lành
Số từ: 243
Ông Diệp Hồng Ngũ tại Tiền Đường, Triết Giang, lúc 9 tuổi, mơ thấy “Thần mặt xanh” dẫn ông ta đến một cung thành có cổng tường to cao, rồi cho ông ta vào trong cung có cổng màu đỏ. Ông nhìn thấy trong cổng có một vị đang ngồi “Thần mặt vàng”, nhìn ông ta bằng khuôn mặt rất giận dữ, nhìn một hồi thật lâu lại gật đầu liên tục, “Thần mặt xanh” kéo ông ta ra ngoài cung rồi tát một chưởng trên lưng, ông sợ quá đã thức giấc mộng, ói máu ra đầy giường.

Mời bác sĩ đến chữa trị cả năm trời cũng không hết bệnh, máu vẫn không cầm được. Bé trai của nhà họ Diệp này lúc nhỏ rất thông minh, trong gia tộc ai ai cũng đều thương yêu nó, thường ngày hay cho tiền và đã tích lũy được số tiền lớn. Bây giờ thì bị bệnh đến như vầy, bà nội dùng tay chỉ vào mặt cháu mà nói: “Con bệnh đến không thể bước xuống giường những số tiền đâu còn có ích gì đối với con? Đưa hết những số tiền bày để ta mua động vật đi phóng sanh thôi”. Đợi khi nào những số tiền này chi tiêu hết cho việc phóng sanh thì khi ấy con mới có thể hết bệnh.

Sau này, Diệp Hồng Ngũ trở thành một thương gia có tiếng trong thành Triết Giang.


----------------           

Chương 10 - Mục 4: Con lươn hiện linh báo mộng
Số từ: 253
Ông Ninh Ni là luật sư có tiếng tại Nam Xương, trong giấc mộng thấy 7 người đầu đội nón nhọn màu vàng, lật đật đi đến trước mặt ông ta cúi đầu xuống đất cầu bái và cùng hét lên “Cứu mạng!”

Ông nhìn thấy lòng từ bi nổi lên, trả lời: “Được, được!” biểu thị là tìm cách cứu trợ. Những người này lại hét lên lời cảm tạ rồi đi.

Qua buổi sáng ngày hôm sau ông Ninh thức dậy đi rửa mặt, suy lại chuyện ly kì trong giấc mộng ngày hôm qua, không hiểu lý do gì. Vừa lúc ấy, ông đầu bếp đến nói: “Tiên sinh, hôm trước ông mua về những con lươn để chuẩn bị đãi khách, hôm nay có nấu ra ăn không?”, ông trả lời: “Từ từ, để tôi xem sao”.

Quả nhiên có 7 con lươn đang lội trên thau nước như là đang cầu cứu với ông ta, thấy vậy ông mới hiểu rõ giấc mộng của đêm hôm qua và đã kể lại chuyện giấc mộng cho cả nhà nghe, kêu đầu bếp đem toàn bộ số lươn ra sông phóng sanh, thực hiện lời hứa trong giấc mộng.

Chiêu chiêu Phật tính, động vật như nhau. Lươn như linh hồn, báo mộng cầu cứu với chủ nhân, để miễn bị nạn chém giết cùng nghĩa với văn chương phóng sanh của Liên Trì Đại Sư “trong nạn cầu sanh, hiện áo vàng mà nhập mộng” cùng ý với nhau.


----------------           


Chương 10 - Mục 5: Phóng sanh hóa giải dịch bệnh, cả nhà bình an
Số từ: 168
Những nông dân trên đảo Thái Hồ, chuyên làm nghề bắt cá, làm lò mổ giết thú vật. Chỉ có Thẩm Văn Bửu không làm nghề này, cả nhà hay làm việc thiện, khi thấy những người bắt được những con cá và chim hay mua lại để phóng sanh. Rất nhiều người chê cười ông ta làm những chuyện này là không thích hợp với thời đại nhưng ông Thẩm Văn Bửu vẫn không sợ gian khó đi làm chuyện này.

Sau này, làng thôn này phát lên dịch bệnh. Người trong làng mơ thấy “Thần ôn dịch” tay cầm một cây cờ, nói với lũ ma quỷ: “Ngoại trừ nhà họ Thẩm chuyên làm việc phóng sanh hành thiện, tất cả các nhà đều phải lui tới, đều phải cầm cờ dịch bệnh”.

Không đầy mấy ngày, một làng 300 mấy gia đình, bị nhiễm bệnh dịch chết hết khoảng một nửa số người, chỉ có gia đình họ Thẩm là không ai bị nhiễm bệnh.

----------------           

Chương 10 - Mục 6: Phóng sinh cá được Quý tử, đời đời bình an
Số từ: 128
Thời nhà Tống, ông Trương Toàn là người huyện Tiền Đường. Lúc bé, dùng dao nhỏ cắt cá, không chú ý bị cắt tay nên đã cảm nhận ra mà nói: “Tôi chỉ bị thương ở một ngón tay đã đau đớn dữ dội, con cá mà bị xẻ bụng thì sẽ đau đến cỡ nào?” nên đã đem nguyên rổ cá đổ xuống sông lại.

Từ đó, ông hay kiêng sát sanh mà thích phóng sanh. Sau này, mơ gặp một người tặng cho ông một con cá lớn, vợ của ông ta không bao lâu thì sanh được một cậu quý tử, khi thanh niên đã thi đậu bằng tiến sĩ, lại làm quan tại Vĩnh Châu, đời đời sống rất hạnh phúc và phú quý.


----------------           


Chương 10 - Mục 7: Kiêng sát sanh mà phóng sanh, gieo nhiều nhân quả
Số từ: 216
Tại thành Hàng Châu, thôn Hằng Sơn có một cái chùa Dương Thự, trong chùa thờ cúng thần rất linh nghiệm. Cho nên người đến cúng vái rất đông. Ngụy Ngọc Thụ tại Triệu Hưng đến chùa cầu xin được sanh con trai, hứa nguyện nếu sanh được con trai, nhất định đem heo, cừu, gà, ngỗng, rượu và lễ vật đến tạ lễ, còn nói sẽ hát tuồng để đa tạ Thần minh.

Ngọc Thụ đêm hôm đó mơ thấy Thần linh nói với ông: “Ông dự định khi sanh được con trai, lập nguyện vọng giết mổ thú cầm để tạ lễ Thần linh, tôi tuy là Thần nhân không ăn chay nhưng không thể nào tùy tiện để cho ông sát sanh, tham ăn lễ vật của ngươi? Ông Ngụy mau quỳ xuống cúi đầu bái, cầu xin thần linh chỉ thị”.

Thần nói: “Ông mong có con trai, các động vật khác cũng mong muốn có con, trong động vật tôm và ốc sanh đẻ rất nhiều, ông nên suy nghĩ lại phải làm sao”.

Từ đó về sau, ông nhìn thấy những người bắt tôm mò ốc thì mua lại để thả xuống sông phóng sanh. Sau này, vợ ông ta sanh liên tiếp cho ông ta mấy cậu con trai.

----------------           


Chương 10 - Mục 8: Cứu nhiều sinh linh, tăng thêm tuổi thọ
Số từ: 216
Tại Tống Vi có một ông thương nhân rất giàu có tên là Dương Tự, lúc năm 28 tuổi, ông mơ thấy một Thần nhân nói với ông: “Ông sống thêm 10 ngày nữa thì phải chết. Nhưng nếu ông cứu được 10 ngàn sinh mạng, có thể miễn chết”.

Dương Tự nói: “Trong thời gian mười ngày ngắn ngủi phải cứu sống 10 ngàn sinh mạng, sợ không thể dễ mà làm đủ con số đó”.

Thần nhân nói: “Trong Kinh Phật có nói, trứng của cá chỉ cần không qua ướp muối, cho dù trải qua thời gian ba năm vẫn có thể sinh đẻ thành cá con, tại sao ngươi không suy tính về vấn đề này?”.

Từ đó, ông Dương Tự dựa vào lời nói của Thần nhân mà viết ở khắp nơi trên đường và trên tường, để người người biết được không dùng muối ướp trứng cá; còn khi nào thấy người giết cá thì xin lại trứng cá, cho xuống hồ nước.

Một tháng sau, ông lại mơ thấy Thần nhân lúc trước nói: “Ông đã cứu sống lại cả tỷ con sinh mạng rồi, số lượng đã đủ, mạng sống của ông sẽ được kéo dài “.

Sau này ông sống thọ đến 90 tuổi mới qua đời.

----------------           

Chương 10 - Mục 9: Ký sự trả báo của người nổ cá tài giỏi
Số từ: 274
Nhà tôi (Lý Kiến Quốc) ở cách xa Tương Giang 3 km, thường hay nghe thấy tiếng pháo nổ trên bờ. Đây là một thanh niên 26 tuổi tên là Đường Phú Lai, kiếm sống bằng nghề phát nổ để đánh bắt cá.

Mỗi ngày từ sáng đến tối đem những quả mìn đã cột sẵn trèo ghe ra ngoài sông đi nổ cá. Anh ta rất có khiếu trong nổ cá đã được người dân địa phương đặt tên là tay nổ cá tài giỏi, những con cá bị hắn nổ chết, đâu chỉ hàng ngàn hàng vạn con, cho nên hắn đã có được một khoản tiền lớn.

Thường hay có câu: “Thiện ác đến cùng sẽ có báo”. Năm 1970, một buổi sáng mùa hạ đẹp trời, anh ta đem theo thuốc nổ chèo ghe ra sông nổ cá, đột nhiên thấy một con cá lớn nhảy lên mặt nước, anh ta nghĩ thời cơ đã đến, liền dùng khoanh nhang muỗi đang cháy, mồi vào ống thuốc nổ đang cầm trên tay. Đột nhiên, mắt miệng cứng đơ, quỷ mê hồn vía, giống như bị ai khống chế, tay cầm ống thuốc nổ đang cháy mà không chịu buông tay ra, hắn cũng không nghe thấy, lập tức đùng một tiếng lớn, người nổ cả máu thịt bay tứ tung, chết thảm tại nơi mình nổ cá, vợ và con chạy đến đau xót khóc thảm thiết, bà con hàng xóm chỉ lắc đầu than thở.

Quả báo của sát sinh rất là thảm kịch lại nhanh đến thế! Những người sau này noi gương để mà kiêng sát sinh.


----------------           


Chương 11 - Mục 1: Đạo tâm kiên cố
Số từ: 228
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Đạo tâm kiên cố

Căn cứ theo lịch sử nhân loại đời trước, đồng thời quan sát biến hóa sự việc của đời này, có thể xác định được rằng đạo lý cảm ứng âm dương – nhân quả là hoàn toàn có thực, chỉ là cảm ứng đó đến nhanh hay chậm mà thôi.

Con người ngày nay thực sự không có bước tiến nào trong việc nghiên cứu phạm trù này. Những người trẻ tuổi thường không có lòng tin, chỉ khi nào đã từng trải qua, mới từ từ tỉnh ngộ. Lúc đó tuổi đã già, nghiệp tội đã gây, muốn tận dụng tuổi cuối đời để mà tiêu trừ hết những tội nghiệp cũng như dùng nước nhỏ mà muốn dập tắt một đống lửa cháy dữ dội.

Cho nên, khi người nào có đọc qua cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, phải phát lòng tin tưởng mãnh liệt, dựa vào một niệm lòng tin làm hạt giống, nuôi dưỡng thành một niệm chồi non có thiện căn, cuối cùng, tu đến niệm niệm cũng là hạt giống của lòng tin, niệm niệm cũng là thiện căn. Tiểu tín sanh tiểu phước, đại tín sanh đại phước, nếu như bán tin bán nghi thì sẽ tự sinh tự diệt.

----------------           

Chương 11 - Mục 2: Nắm bắt cơ duyên
Số từ: 210
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Nắm bắt cơ duyên

Ai có sở hữu cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đọc qua sách này hoặc là có nghe qua nội dung câu chuyện của cuốn sách này thì tương đương như là đang có một vé để đi đến con đường thắng lợi và thành công.

Phải nắm bắt cơ hội, cố gắng tích tụ phước đức và uy lực của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, nhanh tay vì sự nghiệp thành công của cá nhân, vì may mắn bình an của người nhà, vì sức khỏe trường thọ của cha mẹ, vì bài ưu giải nạn cho người thân, vì thịnh vượng phát đạt cho công ty, vì chúng sanh được thoát khỏi khổ đau mà được vui lạc và tích cực hành động liền, chớ nên đợi khi có tai nạn hoặc mắc bệnh mới đi làm công đức.

Phải nghĩ đến cơ hội rất khó nắm bắt, thiện duyên khó gặp, phước đức khó tu. Cuộc sống người đời khó trồng, hiện giờ đã gặp phải kỳ duyên nên trân trọng mà nắm bắt, kịp thời trợ giúp in ấn lưu truyền, chớ nên để mất cơ hội.


----------------           

Chương 11 - Mục 3: Không ngừng tu trì
Số từ: 76
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Không ngừng tu trì

Người đọc sách này, phải có tiến triển dũng mãnh.

Phải biết: Quỷ Thần bay khắp nơi nơi, giám sát rất chặt chẽ. Phải luôn luôn suy lại những gì mình nghĩ, mình làm, việc làm nào cũng phải theo lý mới làm, mới không phụ lòng kiếp này mình có được cơ duyên như thế.


----------------           


Chương 11 - Mục 4: Kiên nhẫn
Số từ: 143
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Kiên nhẫn

Tiểu thiện báo ứng thì nhanh, đại thiện báo ứng hơi lâu dài; phước báo ứng cận thì nhẹ, phước báo ứng xa thì phước hậu.

Thời hiện đại tin tưởng về nhân quả báo không phải là không có, chỉ là kiên trì, lâu dài thực hiện từng ít. Sau khi làm vài chuyện việc thiện, ngẫu nhiên gặp phải công việc, gia đình, học tập, sinh hoạt không ưng ý, thì ngộ nhận là Thiên lý bất minh, nhân quả bất thật, những việc thiện trước đã từng làm lập tức tiêu tan hết.

Đình chỉ, đây cũng là do mình đòi hỏi phước báo nhanh chóng, lòng ham muốn phước báo nhanh chóng đã hại chính mình.

Khuyến người phải kiên nhẫn.

----------------           

Chương 11 - Mục 5: Thành tâm
Số từ: 71
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Thành tâm

Những người nào cứu trợ giúp người, phải rất thành tâm thiết thực.

Khi phát tâm phải kiên trì mà sự phù hộ của thần minh, nhất định không sai lệch.

Chỉ một niệm chân thành, có thể cảm động Thiên Địa, đây toàn là nguyên do của sự thành tâm thành ý.


----------------           

Chương 11 - Mục 6: Quảng vị tuyên thuyết
Số từ: 370
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Quảng vị tuyên thuyết

Tình hình trả báo của thiện và ác, trong cuốn sách này có ngăn cấm rất chính xác và minh bạch, đây là Bồ Tát mở lòng từ bi, cũng là chân đạo minh trí của Ngọc Hoàng Thần Thánh, còn là vụ án chính xác dưới Diêm Phủ. Những người mà biên soạn, in ấn phát hành, lưu thông không nhất định phải lưu tên, vì không muốn nhờ thiện hành này để tạo dựng tên đẹp cho mình, bán sách này cũng chớ nên nghĩ đến lợi nhuận, không dám tận dụng công đức hành thiện này để mưu lợi nhuận.

Ngoài sự tồn tại của cuốn sách này là địa điểm sinh ra thiện duyên, nên đưa thiện duyên này truyền bá khắp nơi, như vậy mới có thể tích thiện thành đức, tích đức thành phước, nhanh thấy linh nghiệm. Cho nên, có thể lưu truyền cho một người, tương đương làm được 10 việc thiện; lưu truyền đến tay 10 người, tương đương làm được 100 việc thiện; lưu truyền đến tay người đại phú quý, được xem như là người đại hào kiệt trong hành thiện.

Người phát tâm sức lực lớn, công thiện của người đó xem như ngàn lần thiện, có thể quảng bá để lưu truyền, lại in ấn thì tương đương là hành thiện vạn lần. Có thể thuyết giảng đạo lý khuyên giải hóa của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thường hay khuyên người hồi tâm hướng thiện, tạo cho người trên thế gian hay biết mà cảm động, chuyển hóa hành ác, đổi mới hành thiện, nhất định thiện duyên sẽ vô biên, phước duyên cũng sẽ vô biên.

Trong quá trình lưu truyền và ấn tống cuốn Ngọc Lịch Bửu Phiêu này, rất nhiều điềm lành đã đến với các đạo hữu phát tâm đóng góp. Sau này nếu có bất kỳ linh ứng nào xin quý đạo hữu chia sẻ tại hòm thư ngoclichbuuphieu@gmail. com để đóng góp cho sách ngày một cập nhật và gần gũi với mọi người hơn.

Xin chân thành cảm ơn!


----------------           

Chương 11 - Mục 7: Nghèo mà kiên trì, không sa thải thiện trí
Số từ: 230
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Nghèo mà kiên trì, không sa thải thiện trí

Người nghèo khổ không có tiền hoặc không có điều kiện để in ấn sách, có thể đưa cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho người khác mượn để đọc (hoặc tuyên truyền cho người khác nghe) có thể xem như là in ấn được 1 cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, hoàn toàn không có trở ngại về công đức này. Nếu có thể hóa giải thành công thuyết phục người khác quyên góp in ấn sách để lưu truyền. Công đức càng lớn.

Những ai đã đọc qua Ngọc Lịch Bửu Phiêu cần hiểu rõ, Nhân Quả tường minh chỉ là chờ đến nhân duyên phù hợp thì mới trổ. Vả lại đã biết chết không phải là hết, sau khi chết còn có những cảnh giới khác.

Do vậy, cho dù nghèo khó, vất vả cũng không thể làm việc sai quấy, không ngừng kiên trì tu tâm tích đức, thuyết giảng về sách quý thiện thư. Có thể đi làm việc có ích cho chúng sanh trong thiên hạ là công đức hành thiện, như thế phước báo sẽ vô lượng mà tính. Đời này tuy chưa được hưởng nhưng con cháu đời sau nhất định sẽ được nở mày nở mặt.


----------------           

Chương 11 - Mục 8: Cảnh báo người phát tâm in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”
Số từ: 473
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Cảnh báo người phát tâm in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”

1. Nếu muốn in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có thể dùng cuốn sách này làm bản gốc, cuốn sách này là bản đã chỉnh sửa chính xác, đối chiếu, phiên dịch nghiêm túc, dễ đọc dễ hiểu. Vả lại, đã chính chỉnh nhiều lần sự sai lệch trong cuốn sách này, có đầy đủ chuyện của xưa kia và thời nay, nội dung phong phú muôn ngàn, tài liệu có thật và khả tin.

2. Cuốn sách này có nhiều chương, người muốn in ấn có thể xóa và giảm bớt, nhưng trực tiếp liên quan đến nội dung của cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là từ chương 1 đến chương 5, xin không được xóa bỏ. Ngoài ra những chương khác có thể xóa bớt nội dung, xem tình hình tài chính của người in ấn sách mà quyết định.

3. Nếu có tìm hiểu và điều tra được những sự kiện linh nghiệm sau khi in ấn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” có thể biên soạn vào trong cuốn sách này.

4. Nếu như muốn soạn lại bản mới để in ấn cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” người chủ trì nếu không có năng khiếu, tốt nhất là mời một người có trình độ nhất định để biên soạn, người thiện sĩ có trách nhiệm đọc lại nhiều lần, đối chiếu, tuyệt đối không để thiếu xót xảy ra, để tỏ lòng nghiêm túc kính trọng.

5. “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là một cuốn sách có thiên pháp luật Diêm Phủ của Thần Thánh, người chủ trì nên chọn xưởng in ấn có trách nhiệm, thiết kế, chất liệu giấy, in ấn, đóng sách đều có khả năng đạt tiêu chuẩn chất lượng. Đạt được nghiêm trang, rõ rệt, lâu bền, có vẻ mỹ quan và hiệu quả, tạo cho người khi nhìn, khi đọc có lòng tin và cảm giác tôn kính.

6. Nếu vốn có hạn, in ấn số lượng không nhiều (trong vòng 500 cuốn) có thể sử dụng phương thức in ấn là “bản thủy tinh” (không cần phơi bản lụa), chất lượng hơi kém. Nếu yêu cầu in nét chữ rõ ràng thì tốt nhất đến các hãng chuyên in ấn sách đặt in, giá cả phải chăng và tiện lợi.

7. Người có điều kiện, có thể chuyên in ấn cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cung cấp bán và tặng cho các giới thiện sĩ, vừa có thể thu lại chi phí in ấn để duy trì xoay sở. Tuy lợi nhuận hơi ít nhưng quảng bá kết duyên thiện, trời nhất định ban phước lành phú quý, đây là một công đức lớn.


----------------           

Chương 11 - Mục 9: Phương pháp sám hối tiêu trừ nghiệp chướng
Số từ: 911
Biện pháp muốn bài trừ những khổ nguy trong cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” đã nêu

Phương pháp sám hối tiêu trừ nghiệp chướng

“Tại sao người thời nay hay phát sanh nhiều chứng bệnh lạ kỳ như vậy? Nói tóm lại một câu, đó là từ sát sanh mà ra. Quý vị giết mạng chúng sanh, thì chúng sanh sẽ tìm đến quý vị để đòi mạng. Đối với những thứ bệnh tật kỳ quái đó, bác sĩ cũng đành bó tay thôi. Thế thì quý vị nên làm sao đây? Tức là quý vị phải nên thành tâm sám hối, sửa đổi lỗi lầm để làm lại con người mới và làm nhiều việc công đức có lợi ích cho chúng sanh, như thế mới có thể tiêu trừ được các tội nghiệp từ xưa nay. Nếu quý vị không làm như thế, e rằng quý vị sẽ không dễ gì lành bệnh được. Đây là chân lý chứ không phải là mê tín”. (HT. Tuyên Hóa)

Phương pháp sám hối mong bài trừ khổ nguy, tiêu trừ nghiệp chướng, ung thư, bệnh tật hiểm nghèo hoặc gửi gắm những ước nguyện quan trọng cần có các phần sau:

1. Hàng ngày thành tâm tụng kệ sám hối và lạy Phật cầu tiêu
trừ nghiệp chướng:

Chọn giờ an tĩnh trong ngày để thực hành phép sám hối. Giờ tốt nhất là từ 4-7 giờ mỗi buổi sáng. Trước khi làm phép Sám Hối nên tắm rửa thay y phục sạch sẽ. Sau đó thắp ba nén hương thơm, thỉnh (gõ) 3 tiếng chuông (nếu có), và quỳ gối khấn:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần):

Đệ Tử con tên… Pháp Danh (nếu có)… tuổi… sinh ngày… tháng… Năm…, Tụng kệ sám hối: (3 lần, mỗi lần một lạy)

Nay con xin chí thành sám hối
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp
Đều bởi vì tam độc tham sân si
Do thân khẩu ý phát sinh ra.
Từng phạm tội thập ác ngũ nghịch
Vô lượng vô biên chư trọng tội
Hết thảy nay con xin sám hối.
Cầu Phật từ bi thương tiếp nhận
Xin đừng xa lìa con đến khi con thành Phật.

Sau đó niệm thần chú “Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn” (7 lần, mỗi lần một lạy): “Li pô li pô tê. Khìu hố khìu hố tê. Thổ lổ nỉ tê. Nỉ hố lả tê. Pê lê nê tê. Mô hô tre tê. Chân lỉnh trẻn tê. Sô Ha”.

Trì niệm Thần chú này không ngừng, bất cứ lúc nào có thể, càng nhiều càng tốt. Lúc rảnh rỗi phải ưu tiên lạy Phật miên mật, ít nhất mỗi lần lạy từ 21-50 lạy. Tư thế lạy Phật: đứng thẳng chắp tay trên trán, cúi xuống từ từ hai tay chạm đất đỡ người quỳ xuống, từ từ đưa ngực xuống sát đầu gối, trán chạm đất. Mỗi lần lạy là một lần niệm: “Nam Mô Tam Thập Lục Vạn Ức Nhất Thập Nhất Vạn Cửu Thiên Ngũ Bách Đồng Danh Đồng Hiệu ADiĐà Phật”.

2. Ấn tống kinh sách:

Tiến hành ấn tống kinh sách, thiện thư và hồi hướng công đức cho nguyện giải nghiệp, oán thân trái chủ hoặc cho lành bệnh. v. v.
Kinh sách ấn tống có thể là “Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh”, “Kinh ADiĐà”, “Kinh Dược Sư”, “Kinh Quán Vô Lượng Thọ”, “Cao Vương Kinh “… ; Thiện thư có sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, “Liễu Phàm Tứ Huấn” hoặc tùy hỷ có duyên với kinh sách nào thì ấn tống kinh sách đó.

Trong trường hợp cầu nguyện do nạo phá thai thì nên ấn tống kinh “Phật Thuyết Kinh Diệt Tội Trường Thọ và Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni” rồi hồi hướng cho bố mẹ và thai nhi được giải oan cắt kết, tiêu trừ nghiệp chướng.

Trong trường hợp hồi hướng cho khỏi bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư thì ngoài những kinh sách trên, nên ấn tống thêm kinh “Phật Thuyết Liệu Trĩ Bệnh Kinh” (Kinh trị ung thư - Nội dung xin xem trang cuối).

Số lượng ấn tống tùy thuộc vào mức độ nhận thức nặng nhẹ và điều kiện kinh tế của hành giả. Nếu như tài chính khó khăn có thể chia ra làm nhiều đợt.

3. Phóng sanh:

Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn”.

Chúng sanh đáng quý nhất chính là sinh mạng, chư Phật thương yêu nhất chính là chúng sanh. Chính vì thế phóng sanh tức là hoàn thành tâm nguyện của chư Phật, sẽ được chư Phật tán thán, công đức vô lượng.

Bởi vậy nếu muốn gia tăng tuổi thọ, bệnh tật tiêu trừ quý vị hãy phóng sanh ngay mỗi khi có thể. Sau khi thực hiện cần hồi hướng công đức phóng sanh đó cho sức khỏe được phục hồi, bệnh tật tiêu tán.

Nếu như người bệnh quá mệt mỏi không thể đi lại được thì phải ở trên giường mà chắp tay khấn nguyện, niệm chú. Toàn bộ những công việc cần phải di chuyển thì người nhà có thể làm thay rồi hồi hướng công đức cho người bệnh.

Thượng tọa: Thích Tục Bách
(Trụ trì chùa An Biên - Vẻn ĐC: 244 Tô Hiệu, Lê Chân, Hải Phòng)


----------------           


Chương 11 - Mục 10: Phật thuyết liệu trĩ bệnh kinh
Số từ: 460
Phật thuyết liệu trĩ bệnh kinh

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: một thời đức Bạc-già-phạm (Đức Thế Tôn) cùng năm trăm vị tì-kheo ưu tú an trú tại Trúc lâm, thành Vương Xá. Bấy giờ trong chúng có nhiều tì-kheo bị các bệnh trĩ nội ngoại và ung nhọt khiến thân thể ốm gầy, đau đớn bức bách, ngày đêm vô cùng lo buồn, khổ não.

Cụ thọ A-nan-đà thấy vậy, vội đến trụ xứ của Thế Tôn, đảnh lễ nơi chân Ngài rồi đứng qua một bên thưa: Bạch đức Thế Tôn! Ngày nay trong thành Vương Xá có nhiều tì-kheo bị bệnh trĩ, khiến thân thể ốm gầy, đau đớn bức bách, ngày đêm vô cùng lo buồn, khổ não. Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để chữa trị căn bệnh này?

Đức Phật dạy: Này A-nan! Ông hãy lắng nghe kinh Liệu trĩ bệnh rồi lãnh thọ, đọc tụng, ghi nhớ kĩ không để quên sót, rồi sau đó thuyết lại cho mọi người cùng nghe. Như thế tất cả các chứng bệnh trĩ sẽ lành. Đó là các bệnh trĩ do phong, trĩ do nhiệt, trĩ do tâm, trĩ do cả ba hợp lại gây ra; hoặc là trĩ từ máu; hay các ung nhọt trong bụng, trong mũi, trong răng, trong lưỡi, trong tai, trên đỉnh đầu, trên tay chân, trong xương sống, trong đường phân tiểu, ung nhọt xuất hiện trên toàn thân. Các bệnh trĩ và ung nhọt như vậy nhất định sẽ khô lành, rơi rụng, tiêu trừ. A-nan-đà! Ông hãy lãnh thọ và trì tụng bài thần chú này.

Đức Phật liền tuyên thuyết: Đát điệt tha, át lan đế, át lam mê, thất lị tì, thất lí thất lí, ma yết thất chí, tam ma bạt đô, sa ha.

Này A-nan-đà! Trên dãy Đại Tuyết sơn vương ở phương bắc có cây sa-la Nan Thắng rất cao lớn. Hoa của nó có ba thời kì: một là lúc mới trổ, hai là lúc nở tròn đầy, ba là lúc khô héo. Bệnh trĩ này khô rụng cũng giống như hoa kia đến lúc héo khô rồi rơi rụng vậy, không bao giờ chảy máu hay tuôn mủ nữa. Tất cả đều khô lành,vĩnh viễn không còn đau đớn.

Nếu người nào thường xuyên tụng kinh này sẽ được trí Túc mạng, nhớ được những việc trong bảy đời quá khứ, thành tựu chú pháp. Sa ha! Thế Tôn thuyết thần chú: Đát điệt tha, thiêm mê thiêm mê, xả thiêm mê, thiêm một nễ, xả thiêm nê, sa ha.

Nghe Đức Phật thuyết kinh này xong, cụ thọ A-nan-đà và đại chúng vui vẻ tin nhận và cung kính hành trì.

Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn

----------------           


Chương 11 - Mục 11: Cao vương quan thế âm chân kinh
Số từ: 791
Cao vương quan thế âm chân kinh

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng. Phật quốc hữu duyên, Phật Pháp tương nhân. Thương lạc ngã tịnh. Hữu duyên Phật Pháp.

Nam Mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, thị Đại Thần Chú.
Nam Mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, thị Đại Minh Chú.
Nam Mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, thị Vô Thượng Chú.
Nam Mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, thị Vô Đẳng Đẳng Chú.

Nam Mô Tịnh Quang Bí Mật Phật. Pháp Tạng Phật. Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật.
Phật cáo Tu Di Đăng Vương Phật, Pháp Hộ Phật, Kim Cương Tạng Sư Tử Du Hí Phật, Bảo Thắng Phật, Thần Thông Phật, Dược Sư Lưu Li Quang Vương Phật, Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật, Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật, Quá Khứ thất Phật, Vị Lai Hiền Kiếp thiên Phật, thiên ngũ bách Phật, vạn ngũ thiên Phật, ngũ bách Hoa Thắng Phật, bách ức Kim Cương Tạng Phật, Định Quang Phật.

Lục phương lục Phật danh hiệu. Đông phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu Tôn Âm Vương Phật. Nam phương Thụ Căn Hoa Vương Phật. Tây phương Tạo Vương Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc phương Nguyệt Điện Thanh tịnh Phật.

Thượng phương vô số Tinh Tấn Bảo Thủ Phật. Hạ phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô lượng chư Phật, Đa Bảo Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, Di Lặc Phật, A Sơ Phật, Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh, tại Phật Thế Giới trung giả, hành trú ư Địa thượng, cập tại hư không trung, từ âu lo nhất thiết chúng sinh, các lệnh an ổn, hưu tức. Trú dạ tu trì, tâm thường cầu tụng thử kinh, năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại.

Nam Mô Đại Minh Quán Thế Âm, Quán Minh Quán Thế Âm, Cao Minh Quán Thế Âm, Khai Minh Quán Thế Âm, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Bảo Sơn ức vạn Bồ Tát, Phổ Quang Vương Như Lai, Hóa Thắng Bồ Tát.

Niệm niệm tụng thử kinh, thất Phật Thế Tôn tức thuyết chú viết:

Li Bà Li Bà Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà La Ni Đế, Ni Ha La Đế, Bì Li Ni Đế, Ma Ha Già Đế, Chân Linh Càn Đế, Thoa Ha. (07 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát

Hướng Dẫn

Mười phương Quán Thế Âm, toàn thể chư Bồ Tát thệ nguyện cứu chúng sinh. Xướng danh tất được giải thoát. Nếu có bậc trí giả thành tâm cầu giải thoát lại có nhân duyên, đọc tụng không ngưng nghỉ và đọc được đầy đủ đúng nghìn (1000) lần, niệm niệm không dứt thì lửa cháy không làm thương tổn, đao binh lập tức ngưng chiến, nóng giận đổi thành hoan hỉ, người phải chết được cứu sống. Chớ nói điều này là không có, chư Phật không bao giờ vọng ngôn. Cao Vương Quán Thế Âm có khả năng cứu mọi khổ nạn.

Trong lúc nguy cấp, người phải chết được sống lại. Chư Phật không nói chơi. Vậy nên phải đảnh lễ và hãy trì tụng kinh đủ nghìn (ngàn) lần, thì trọng tội ắt tiêu diệt. Người phúc đức hãy kiên trì tin tưởng, chuyên tâm trì đọc kinh này.

Nguyện đem công đức của kinh này phổ biến đến tất cả: Đọc tụng kinh đủ nghìn (ngàn) lần thì trọng tội đều phải tiêu tan.

Hồi Hướng

Đệ tử:.. (tên tuổi)..............., xin kính cẩn hồi hướng công đức đọc tụng kinh này đến............ (toàn thể chúng sanh trong tam ác đạo, các vong linh còn chưa siêu thoát, còn đang ở cõi trần và dương, và con xin hồi hướng tới tất cả mọi người trên trái đất này gồm có ông bà tổ tiên nhà con họ... . ông bà cha mẹ anh em bạn bè v.v..................... Công đức viên mãn!

Ghi lại số lần đã đọc, đủ 1000 lần đem hóa và khấn hồi hướng.

OM MA NI PAD ME HOM

----------------           


Ngôn Lộc Của Chư Thánh
Số từ: 286
Ngôn Lộc của Chư Thánh

Thiên địa vô tư, thần minh giám sát, không vì cúng bái mà ban phúc, không vì thất lễ cho ban họa, người có chức thế không hưởng trọn, không hưởng trọn khi có phước, không ăn hiếp người nghèo khổ, ba hạng người là thiên vận tuần hoàn, một ngày hành thiện, phước tuy chưa đến, họa tự xa dần; một ngày hành ác, họa tuy chưa đến, phước dần trôi xa.

Những người hành thiện, như cỏ trong vườn xuân, không thấy trưởng dài, ngày một tăng trưởng; những người hành ác, như đá mài dao, không thấy hư hại, ngày một hao mòn, hại người lợi kỷ, phải nhất thiết cải bỏ!

Đông Nhạc Đại Đế - Hồi sinh bửu luyện

Khát vọng cầu vinh, vinh dự không dương, cay nhiệt làm giàu, con cháu tử nạn; hành huệ bố đức, phước lộc giá lâm; ước vọng đạm nhạt, bình an vạn thọ; không gạt người đơn côi, không mờ mịt tam quang; tâm hồn chân thật, thần linh kề vai; tai qua nạn khỏi, phù hộ vô biên.

Chân Võ Đế Quân

Súc sinh bổn là người làm ra, người và súc vật luân hồi từ muôn thuở đến nay; Không nên đội lông và treo sừng, khuyên người chớ nên nổi tâm súc sinh.

Phổ Am Sư Tổ

Phước họa vô cửa, do người tự mang; thiện ác trả báo, như bóng theo hình;

Thái thượng cảm ứng thiên

Thiện có thiện báo, ác có ác báo, đừng nghĩ chưa báo, thời khắc chưa đến; Nhà tạo phước tích thiện, nhất định may mắn; nhà không tạo phước tích thiện, luôn có tai họa.




----------------           


Mười Công Đức Của Việc Ấn Tống Kinh Sách
Số từ: 304
Mười Công Đức Của Việc Ấn Tống Kinh Sách

1. Đã lỡ phạm tội, nếu tội nhẹ thì liền được tiêu tan, nếu tội nặng thì được chuyển thành nhẹ.

2. Thường được thiện thần ủng hộ, tránh khỏi tất cả ôn dịch, đao binh, giặc cướp, tù tội, lửa cháy, nước trôi v.v…

3. Nhờ chánh pháp mà những kẻ oán thù với mình trong kiếp trước được giải thoát nên tránh được sự khổ sở về tội báo thù.

4. Ác Quỷ Dạ xoa không thể xâm phạm, cọp đói, rắn độc không hại được.

5. Tâm được yên ổn, ngày không có sự nguy hiểm, đêm không có ác mộng, nhan sắc sáng sủa tươi tắn, khí lực dồi dào, việc làm
tốt, lợi.

6. Hết lòng phụng sự chánh pháp, tuy không mong cầu nhưng cơm ăn áo mặc tự nhiên đầy đủ, gia đình hòa thuận phước thọ miên trường.

7. Lời nói và việc làm, trời, người đều hoan hỷ; đến nơi nào cũng được nhiều người kính mến.

8. Nếu ngu si thì chuyển thành trí huệ, bệnh tật chuyển thành lành mạnh, nguy hiểm chuyển thành yên ổn, nếu là đàn bà sau khi chết sẽ chuyển thành đàn ông.

9. Xa lìa các đường dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), được sanh vào các cõi thiện (người, trời) tướng mạo đoan chánh, thông minh, xuất chúng phước lộc hơn người.

10. Đủ năng lực để gây căn lành cho chúng sanh, lấy tâm chúng sanh làm ruộng phước và sẽ thâu hoạch được nhiều quả tốt. Sanh vào chỗ nào cũng được thấy Phật, nghe pháp; ba thứ trí huệ (văn, tư, tu) mở rộng, chứng được sáu thần thông (thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, thần túc và lậu tận thông).

----------------           

Nhân Duyên Ấn Tống
Số từ: 1031
Nhân Duyên Ấn Tống

Viên Liễu Phàm là một danh sĩ sống vào đời nhà Minh. Sinh thời, ông tinh thông Phật pháp và để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá trị về thực hành thiền định. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Liễu Phàm Tứ Huấn (có bản đề là “Môn Học Lập Mệnh” hoặc “Làm Chủ Vận Mệnh”).

Sách này kể về chính cuộc đời ông. Khi còn trẻ ngài gặp Khổng lão tiên sinh, là người tinh thông đoán mệnh, xem trăm lần trăm trúng, cả cuộc đời của Viên Liễu Phàm từ học hành, thi cử, chức tước, bổng lộc đều được chỉ rõ không có sai lệch. Chiêm nghiệm trong hơn 20 năm, Viên Liễu Phàm hoàn toàn tin tưởng số mệnh đã được an bài, chẳng cần cố gắng.

Một lần tình cờ được gặp Vân Cốc thiền sư, Viên Liễu Phàm được ngài khai thị phương pháp cải đổi số mệnh. Phương pháp này thực sự là việc dễ dàng trong tầm tay của mọi người, không nằm ngoài: khiêm tốn, nhìn nhận lỗi lầm, lập công bồi đức, năng làm việc thiện, khuyên người làm việc thiện, kính trên nhường dưới… Viên Liễu Phàm như được vén mây mù để thấy lại trời xanh. Ông triệt để thực hành thiện pháp, giúp người, giúp đời, tích đức cải mệnh. Toàn bộ cuộc đời của ông những năm sau đã thay đổi hoàn toàn, từ công danh sự nghiệp cho đến tài vận, con cái cũng được hưởng phúc lớn…

Đầu tháng 03 năm 2014, một Phật tử đến vãn cảnh tại Chùa An Biên (Vẻn 244 Tô Hiệu Hải Phòng). Khi cúi xuống vái lạy tượng ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, người này thấy bên dưới chân tượng một cuốn sách có tựa đề: “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”. Anh thỉnh về nhà đọc.

Thì ra “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là sách khuyến thiện, dạy con người biết Nhân Quả - Luân Hồi bằng những câu chuyện thực tế có niên đại từ thời nhà Minh - Thanh (Trung Hoa) trở về đây. Ngoài ra các cảnh giới quả báo khủng khiếp của địa ngục cũng được tường thuật lại rất rõ ràng, chi tiết.

Nhận thấy giá trị của cuốn sách, anh phát nguyện in 100 cuốn nhưng do điều kiện kinh tế chưa cho phép, anh này khấn xin rằng:” con xin in 10 cuốn trước để trên Chùa Vẻn, xin chư vị thần thánh có linh thiêng thì phù hộ cho con được hoàn thành tâm nguyện”.

Buổi tối hôm đó (29/03/2014), Kim Cang Thượng Sư Thích Liên Chiếu - Chân Phật Tông có buổi giảng pháp tại Chùa Vẻn. Khi đi ngang qua tủ sách ấn tống, ngài cầm một cuốn mang vào pháp hội. Đó chính là “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, thì ra trước đây ngài cũng từng có một nhân duyên lớn với cuốn sách này.

Năm 1977, Thượng Sư Thích Liên Chiếu (là người Việt gốc Hoa, khi đó chưa thọ tỳ kheo giới) trên biển Đông. Không may tàu bị cháy máy, trôi vô định trên biển nhiều tuần, hơn bảy mươi người không còn đồ ăn thức uống, chỉ nằm chờ chết, có lúc xung quanh thuyền còn bị bao vây bởi rất nhiều cá mập. Trong lúc thập tử nhất sinh ấy ngài chợt nhớ lại cuốn kỳ thư đã đọc từ thuở nhỏ, thành tâm khấn xin Quán Thế Âm Bồ Tát cứu nạn và phát nguyện in 500 cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”.

Khi mọi người đã mất hết hy vọng, thì phép màu xảy ra. Ngay ngày hôm sau một tàu lớn tình cờ đi ngang qua đã thả dây xuống kéo và tiếp tế cho thuyền. Tuy nhiên đêm đó, biển động dữ dội, sóng nước cực lớn. Thuyền nhỏ có thể bị đắm bất kỳ lúc nào. Đúng lúc đó Thượng Sư Thích Liên Chiếu nhìn thấy toàn bộ con thuyền được bao bọc bởi một vầng sáng trắng. Chính nhờ vầng sáng này thuyền giữ được thăng bằng trong gió bão và an toàn cập cảng Malaysia. Mười năm sau, Thượng Sư Thích Liên Chiếu định cư tại Úc Châu, mới hoàn thành phát nguyện ấn tống sách này.

Trước đây, khi đọc cuốn sách “Môn Học Lập Mệnh” của Viên Liễu Phàm, chúng tôi từng có ý định sao chép ấn tống. Nhưng vì sách vốn có niên đại khá xa nên chúng tôi có ý tìm kiếm câu chuyện nào đó gần gũi hơn. Nay nhân duyên đã tới, chúng tôi biên soạn lại cuốn sách “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, giữ nguyên phần gốc, ngoài ra thêm vào một chương: “Truyện nhân quả luân hồi ở Việt Nam”. Trong đó bao gồm những chuyện nhân quả luân hồi chân thực, gần gũi với đầy đủ hình ảnh, tên tuổi và địa chỉ của nhân vật tại Việt Nam nhằm tăng thêm tính thuyết phục của cuốn sách.

Được sự ủng hộ của Thượng Tọa Thích Tục Bách (trụ trì chùa An Biên - Vẻn) cùng thiện nam tín nữ gần xa, trong lần ấn tống đầu tiên, hàng ngàn cuốn sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu đã được in.

Nếu ai có duyên vì tha nhân mà quảng vị tuyên thuyết thời được công đức vô lượng. Nếu ai phát tâm mà in sách này thời cũng được công đức chẳng thể nghĩ bàn. Nguyện công đức ấn tống sách này xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều trọn thành Phật đạo, tất cả các Phật tử đạo tâm kiên cố, gặp dữ hóa lành, thân thể được khỏe mạnh, tu hành được viên mãn thành tựu. Nguyện công đức ấn tống sách này xin hồi hướng cho đất nước Việt Nam quốc gia hưng thịnh, mưa thuận gió hòa, kinh tế vững mạnh, người người được hoan hỷ, nhà nhà được an cư lạc nghiệp.

Liên Hoa Thái Dương
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vƣơng Bồ Tát
Nam Mô Phật Nam Mô Pháp Nam Mô Tăng


----------------           

Thiện Niệm Không Ngừng Thay Đổi Số Phận
Số từ: 1384
Thiện Niệm Không Ngừng Thay Đổi Số Phận

Thiệu Tử Kiến tiên sinh tại Triết Giang có viết lời giới thiệu cho cuốn sách khuyên người hành thiện Ngọc Lịch Bửu Phiêu như sau:

Tục ngữ có câu “Ám thất khuy tâm, thần mục như điện, nhân gian tư ngữ, thiên vấn nhược lôi” nghĩa là khi làm những việc xấu, dù không ai biết nhưng thần tiên trên trời đều thấy rõ, lời nói tưởng chừng không ai nghe được nhưng Thần Tiên trên Trời nghe rõ như sấm bên tai, điều này cho thấy không việc gì có thể che giấu được Thần Tiên, mà quỷ thần không có nơi nào không tồn tại.

Không thể vì một lần thành tâm hành thiện mà được thần tiên khen thưởng, cũng không thể vì một lần hành ác thì lập tức bị trời phạt, họa hay phúc đều phụ thuộc vào hành vi thiện ác, hành ác sẽ gặp quả ác, hành thiện sẽ gặp quả thiện, đó là nhân quả báo ứng, mà gốc rễ của nó chính tại nội tâm mỗi người.

Cái gọi là phúc điền, tâm tức là điền, trồng tức là nhân, thu hoạch tức là quả, thiên đạo rõ ràng, tơ hào không sai, cũng không cần phải đàm luận về đạo lý nhân quả báo ứng, mà bản thân báo ứng vốn đã tồn tại ở bên trong.

Nho gia cho rằng nhân quả báo ứng hay thiên đàng địa ngục là quan điểm hoang đường, phi thực tế, mê hoặc phụ nữ trẻ em, ngay cả những cuốn sách kinh điển như: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Đan Quế Tịch, Quan Thánh Giác Thế Kinh và những bảo thư của Thần Tiên khác cũng bị Nho gia cho là thần đạo thuyết giáo (đạo về thần linh), nhưng họ đâu hiểu rằng, thần đạo có thể bổ sung cho những thiếu sót của thánh hiền, vương đạo (tư tưởng thờ vua của Nho gia) vốn là đạo thế nhân, huống chi thần đạo vượt trên cả vương đạo. Làm việc mà thấy tâm an, không hổ thẹn với Trời Đất, thì thánh hiền cũng khen ngợi, Tiên Phật cũng khen ngợi, nếu thực sự có thượng đế thì Thượng Đế cũng khen ngợi.

Một tấc vuông linh đài (tâm thiện) cũng như là cung điện hoàng kim, thế giới lưu ly, phú quý phúc lộc, cầu gì được nấy… Đến những bậc Thánh Hiền không thẹn với lòng, quân tử oai phong lẫm liệt, cũng chỉ sợ không giữ được thiện tâm kiên định, gây ra họa mà vô phương cứu vãn, đắc tội với Trời Đất.

Thế giới đen tối ngày nay đầy những gian trá hiểm ác, để cho nhân tâm tìm được một tia sáng, một lối đi thoát khỏi mọi sự đau khổ, thì duy nhất chỉ có Ngọc Lịch Bửu Phiêu.

Ba năm trước đây tôi có đọc Ngọc Lịch Bửu Phiêu, sau khi đọc xong cảm thấy đây là cuốn sách đại thiện, giúp đỡ rất nhiều cho thế giới nhân tâm. Đọc cuốn sách này, tôi hiểu được cái quyết tâm cứu người của Thần Tiên, do vậy tôi đã trợ tiền in sách tặng cho mọi người, cũng kêu gọi người có thiện tâm giúp đỡ trợ tiền in ấn, trực tiếp thông qua nhà sách Thụy Thành ở Đài Trung để mua sách kính tặng người khác, những cuốn sách tôi đã tặng, có trên cả ngàn cuốn. Đọc cuốn sách này tôi có cảm tưởng như sau:

Thứ nhất: Đây là cuốn bảo thư nhận định rằng địa ngục có thật, trước khi cuốn sách này ra đời, không có một người nào miêu tả chi tiết, tường tận tình hình địa ngục như vậy. Có thể nói cuốn sách này đã tiết lộ thiên cơ. Vốn dĩ không được nói tình trạng địa ngục, bởi vì địa ngục là chân lý “Có Không”, có thể nói là có, có thể nói là không, luôn luôn biến đổi không ngừng, hình ảnh địa ngục hoàn toàn dựa theo biến hóa của lòng người mà ra. Tôi là một người tin có địa ngục, vì sao tôi thừa nhận điều này, bởi vì ngay lúc tôi sống này, đã thấy địa ngục khổ ải của nhân gian rồi, nhân gian đã có địa ngục, đương nhiên âm gian cũng có địa ngục.

Thứ hai: Những nhà đại học vấn, đại khoa học hay người tự nhận mình là thiên tài và rất nhiều người không tin rằng có thiên đường địa ngục, cho rằng đó là sự bịa đặt của tôn giáo, mê hoặc người già trẻ nhỏ, là thần đạo thiết giáo, là không thực tế. Không biết họ có nghĩ rằng, con người khi làm việc thiện thì tâm sẽ thấy bình an, khi làm việc ác tâm sẽ bất an, hình tượng của tâm an là thiên đường, hình tượng của tâm bất an chính là địa ngục, trong bóng đêm có quỷ thần, mà quỷ thần thực tế chính là cảm giác và biến hóa của tự tâm.

Thứ ba: Nhà Phật tuy không nói đến định mệnh, nhưng vì tồn tại quy luật nhân quả, vận mệnh của con người như khuôn mặt vậy, mỗi người đều có khuôn mặt khác nhau, thậm chí vừa sinh đã khác người. Trong mắt tôi, vận mệnh của con người một nửa do Trời định, do vậy tôi mới có được ngày hôm nay, tôi tin sự tồn tại của vận mệnh, bởi vì vận mệnh của tôi đích thực cảm giác như đã biết trước. Có nhiều người tìm tôi muốn thay đổi vận mệnh, tôi luôn nói với họ rằng:

“Muốn thay đổi vận mệnh, tất cả nằm trong tay của chính mình, không cần phải mong cầu thay đổi vận mệnh, chúng ta cả đời làm việc, chỉ cần không thẹn với lòng mình, chỉ cần tâm an là được rồi, không ngừng hành thiện sẽ thay đổi được vận mệnh, muốn biết cái đạo lý này, thì xem cuốn Ngọc Lịch Bửu Phiêu, hoặc xem cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn. Vận mệnh vốn dĩ do mình tạo ra, đương nhiên chỉ có mình mới có thể thay đổi được nó, như hôm nay tôi chỉ có thể nói cho mọi người, không ngừng hành thiện sẽ thay đổi vận mệnh, bạn mong muốn người khác thay đổi vận mệnh cho bạn, chẳng khác nào lên cây bắt cá".

Thứ tư: Đọc những lời mở đầu của Thiệu Tử Kiến tiên sinh, tôi thấy nhân quả tuần hoàn dù sao cũng là báo ứng không xác định, mà thiên đường địa ngục, thiện ác tất cả biến hóa trong tâm của mỗi người, tôi đã khô họng kiệt sức cố gắng khuyên người hành thiện, mà bản thân vẫn bị người ta chê cười, lòng người thế gian sắp luân lạc rồi, luân lạc rồi!

Tôi viết:

“Đại thiện năng cách thiên, bởi vì trời có mắt, vì thế vận mệnh có thể thay đổi, nếu vận mệnh không thể thay đổi, thì cần gì đến vận mệnh nữa? Sự nghiệp cần có tâm, có trí thức.

Vận mệnh cần có chính có thiện Hành thiện không ngừng, ắt sẽ được trời giúp. Vận mệnh vốn chỉ là nhất thời như tiếng sấm trong mưa, như sương, như điện (lóe lên rồi vụt mất), muốn thoát khỏi vận mệnh, muốn vượt qua vận mệnh thì thân tâm đừng chịu sự trói buộc của vận mệnh.

Tất cả các pháp thuật phải xuất phát từ thiện, vì hành thiện Trời ắt tương trợ. Ngược lại, nếu xuất phát từ ác, đó là tà đạo, Trời ắt giáng họa. Địa ngục có thực, xin quý vị đọc Ngọc Lịch Bửu Phiêu, xin hãy xem cuốn Linh Thư này”.

Tôi viết bài kệ như sau:

“Thánh triết thiện công chuyển thiên thu
Thần minh quang hoa tâm khả thu
Mệnh vận chân lý đương bất hoặc
Đại thiện đức hành bất tu ưu”.

(Liên Sanh Hoạt Phật - Pháp Vương Lợi Thắng Ngạn -
Chân Phật Tông bình luận về sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu vào
khoảng năm 1977 tại Đài Loan)



----------------           


Lời Chia Sẻ Của Người Dịch Sách
Số từ: 704
Dịch cuốn sách này là cô Thạch Mỹ Nghi (Pháp Diệu), người Việt gốc Hoa, sống tại Q10 - TP Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình phiên dịch, cô đã được trải nghiệm rất nhiều điều kỳ diệu. Sau đây là lời cô chia sẻ:

“Giữa tháng 7 - 2005 tình cờ cô phát hiện trong ngực có cục hạch, nên cô đi khám và được bác sĩ chuẩn đoán là mình bị ung thư. Lúc đó trời như sập xuống, tất cả niềm hy vọng được sống đều tan biến hết, tuyệt vọng và tuyệt vọng.

Nhưng cô là người rất lạc quan, biết chấp nhận sự thật. Cô vẫn bình tĩnh phiên dịch hết hồ sơ cho công ty rồi bàn giao công việc rõ ràng, thỏa thuận với công ty rồi bắt đầu lộ trình để giành lại sự sống cho mình. Trong thời gian điều trị cô vẫn đi làm, thường thì hóa trị xong là cô nghỉ 5 ngày rồi lại đi làm bình thường…

Một hôm đồng nghiệp người Trung Quốc tặng cô cuốn sách Ngọc Lịch Bửu Phiêu bằng tiếng Hoa. Sẵn thời gian nghỉ bệnh 5 ngày cô đọc hết cuốn sách, trong đó có nhiều đoạn nhắc đến việc “in hoặc đọc sách cho nhiều người thì sẽ khỏi bệnh hiểm nghèo”. Cô nghĩ sách tiếng Hoa đã có nhiều, nếu như có thể dịch ra tiếng Việt thì quá hay. Vì sách được lưu truyền tại Việt Nam thì sẽ có nhiều người đọc và hưởng ứng hơn. Cô quyết định dịch thử.

Trong thời gian dịch sách, có nhiều lần cô định bỏ cuộc vì dịch cuốn sách này từ tiếng Hoa sang tiếng Việt so với năng lực của cô là quá khó, cô ngừng dịch. Nhưng hình như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy, cô lại dịch tiếp và cứ như vậy lặp đi lặp lại, ngừng rồi lại dịch kéo dài trong 2 năm thì hoàn thành. Để có động lực tiếp tục dịch sách, không thể không kể đến những điều kỳ lạ đã xảy ra:

Đầu tiên là lúc mới dịch sách cũng là lúc khó khăn kinh khủng về tài chính, một toa thuốc hóa trị tốn 13 triệu đồng, vào thời điểm năm 2005 đó là một khoản tiền rất lớn. Khi cô đang không biết lấy tiền đâu mà điều trị thì tình cờ một người bạn hảo tâm đã tự nguyện giúp đỡ cô về tài chính.

Sau đó có những chuyện mà cô chỉ thầm ước trong lòng thôi mà cũng được toại nguyện rồi. Đó là việc chồng cô tự nhiên bỏ thuốc lá mà cô không hề nói gì. Hoặc có lần mấy người hàng xóm đánh nhau vì mâu thuẫn. Cô đứng ra can ngăn, người hàng xóm đã dùng gậy gỗ chạy ra đập thẳng vào đầu cô, gậy sắp đập đến rồi, cô nghĩ rằng nếu mà trúng đầu thì cô không chết cũng vỡ đầu. Vậy mà người này tự dưng bị vấp ngã còn cô thì không hề hấn gì.

Năm 2007 cô được chẩn đoán ung thư tái phát nhưng nhờ phát hiện sớm đã được chữa khỏi. Tổng cộng cô trải qua 2 lần phẫu thuật, 1 lần xạ trị, hóa trị và hoàn toàn khỏe mạnh cho đến nay. Khi vừa dịch sách xong vào năm 2008, cô nằm mơ thấy Phật Tổ Như Lai ban cho cô 2 bàn tay đầy là xá lợi 7 màu. Cô nghe nói chỉ cần nhìn thấy xá lợi là có phước lắm rồi vậy mà cô được cho đầy cả 2 nắm tay. Năm 2012 cô gặp tai nạn trên đường đi làm, xe ôtô bị đâm nát đầu nhưng cô hoàn toàn không bị sao. Ngoài ra còn rất nhiều khó khăn nữa trong cuộc sống đều suôn sẻ vượt qua một cách kỳ lạ, khi nào nhớ ra cô sẽ kể thêm… ”

----------------           


Thiện Pháp Trân Quý
Số từ: 299
THIỆN PHÁP TRÂN QUÝ

“Ngọc Lịch Bửu Phiêu” là một cuốn “luật âm” được truyền xuống nhân gian nhờ lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Ngọc Hoàng Đại Đế nên còn có tên gọi khác là “Từ Ân Ngọc Lịch”. Cuốn thiện thư này vốn được truyền chép lâu năm, tác giả đầu tiên là vị cao tăng đắc đạo có tên Đạm Si.

Sách từng được ghi nhận trong kinh điển Phật giáo Trung Hoa cổ đại, ngoài ra trong kinh điển của Đạo giáo “Thần Tiên Thông Giám” cũng có ghi chép. Thời nay cao tăng pháp sư Tịnh Không rất coi trọng công đức khuyến hóa của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, đã tận tay viết sách để tôn sùng. Liên Sanh Hoạt Phật - Lư Thắng Ngạn cũng suốt một đời khuyên người đọc và in ấn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu, bản thân ngài cũng từng in hàng ngàn cuốn để tặng cho tha nhân. Năm 1933 tại Việt Nam, sách từng được xuất bản với tựa đề “Ngọc Lịch Minh Kinh”.

Để tạo cho cuốn sách ngày càng dễ đọc dễ hiểu, chúng tôi nhiều lần đối chiếu với sách bản cổ xưa, trích dịch hoàn thiện, chỉnh sửa và tăng thêm những câu chuyện nhân quả có thực gần đây để mở rộng thêm. Nội dung lại đính kèm phương pháp sám hối hóa giải khổ đau, khuyến khích độc giả đọc xong giới thiệu bạn bè, gần xa linh ứng, rung động lòng người. Hy vọng những thiện tín có duyên tái bản in ấn, lưu truyền đại chúng, cứu người giúp đời, cùng dẫn dắt chúng sanh đi trên con đường tươi sáng Chân - Thiện - Mỹ.

Trân trọng!
Ban Ấn Tống

----------------           

Trình Tự Giá Lâm Phù Hộ Của Đế Quân
Số từ: 595
Trình Tự Giá Lâm Phù Hộ Của Đế Quân

Hiện tại nhân loại trên xã hội, hành vi và bản tính ngày càng nông cạn, không mấy chút thì làm việc xấu, dẫn đến phong khí đạo đức ngày một tha hóa, tỷ lệ phạm tội cũng không ngừng tăng cao khiến cho xã hội càng thiếu ổn định, lòng người bất an.

Từ bi Bồ Tát Địa Tạng Vương và các vị Thần minh cùng nhau thảo luận, muốn đưa sự thật về Quả Báo Luân Hồi viết thành một cuốn sách lưu truyền đến nhân gian, để cho loài người hiểu biết chuyển ác thành thiện, tu nhân tích đức, giúp ổn định xã hội và lòng người. Trên trời từ bi, rất nhanh phê duyệt báo cáo này và soạn vào trong “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” ban phát để thông báo cho thiên hạ: Tất cả tuân thủ nội dung của “Ngọc Lịch Bửu Phiêu”, những người nào biết sám hối và tu sửa lỗi lầm, được đặc biệt khoan dung, miễn giảm trừng phạt. Hy vọng loài người giác ngộ chân lý, bỏ dữ làm lành, tu sửa thân tâm, tích phúc cải mệnh.

Hiện nay, loài người cũng không biết được, cứ mỗi ngày Canh Thân của âm lịch, các chủ quản của thần linh ở các thành thị ấp xã - Thần Thành Vương và Thần Thổ Địa, sẽ đều phái các thần linh như Trú Du Thần, Dạ Du Thần, Thần Táo Quân… đến các địa điểm và các hộ để tuần tra, khảo sát và ghi lại những hành vi thiện ác của loài người trên thế gian và tình hình tuân thủ “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” để trình báo lên thiên đình.

Tất cả ai quyên góp tiền hoặc ra sức in ấn cuốn Bửu Điển này mở rộng truyền bá, trên trời sẽ ban phước cho họ, để cho người đó đời đời hưởng thụ vinh hoa phú quý; cũng vì các bệnh nan y và dị bệnh đã trị lâu ngày không khỏi mà in ấn truyền bá cuốn sách này, sẽ cho người đó được khỏi bệnh, sức khỏe an lành; nếu có tình trạng như vợ chồng không hòa, bà con oán hận, số vận không tốt, con cháu bất hiếu… nếu chịu in ấn và truyền bá cuốn sách này, gia đình sẽ thuận hòa, số vận cũng sẽ chuyển tốt; nếu như muốn xuất ngoại kinh doanh, cầu học hoặc đi đến nước khác làm công việc, nếu được in ấn cuốn sách này hoặc thuận đường truyền bá thì sẽ tránh khỏi các nguy hiểm giao thông và cướp giật dọc đường… những sự kiện bất lợi, và công việc sẽ thuận lợi; nếu vượt được núi sông, đi vào các thôn xóm ở vùng núi sâu xa, mở rộng lưu truyền và khuyến cáo loài người tuân thủ ý nghĩa và nội dung cuốn sách này, các thứ yêu ma quỷ quái, rắn độc, thú dữ đều không dám xâm phạm, vả lại công đức vô lượng, phước hỷ chóng đến.

Công đức của sự lưu truyền, in ấn, tuyên dương cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” không chỉ có thể siêu thoát linh hồn của tổ tiên và có thể miễn giảm trừng phạt trong Diêm Phủ về những tội lỗi mình đã từng vi phạm mà còn có thể tạo cho người đang sống trên trần gian được các thứ phước đức lợi ích, đây là một việc rất được vui mừng hoan hỉ cho loài người.


----------------           

Nguyên Tự Của Người Hàn Chân Khuyến Dâng "Ngọc Lịch Bửu Phiêu"
Số từ: 1108
Nguyên Tự Của Người Hàn Chân Khuyến Dâng "Ngọc Lịch Bửu Phiêu"

Trong sâu xa của vũ trụ, Phật, Bồ Tát và các chư vị Thần Linh đã để lại cho chúng sanh rất nhiều kinh điển để độ hóa, nhiều cuốn mang nội dung đề cập đến quả báo và biến hóa của địa ngục. Tuy vậy, không có cuốn nào giống như cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” cho thấy chi tiết về những việc loài người đã từng làm và những sự việc quả báo tương ứng và cũng không cuốn nào có thể như “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này đề cập đến các chuyện bi thảm lớn nhỏ trong địa ngục và những tình trạng đau khổ có thật.

Nội dung của sách đủ để cho người tỉnh giấc, tu sửa những lỗi lầm. Cuốn sách có công đức rất lớn đối với thế gian này. Tâm tính của loài người trên thế gian này chênh lệch không đều. Những người có trí tuệ cao thượng đều hiểu rõ đạo lý nhân quả, về thiện báo, về ác báo, cố gắng tu dưỡng đạo đức, để cho tâm linh của chính mình được thanh tịnh, triệt để giác ngộ chân lý, vượt qua tam giới. Những người này không cần phải tuyên giảng đạo đức phước họa với họ mà họ biết tự giác tuân theo quy luật nhân quả mà tạo phước hưởng thụ.

Những người có trí tuệ trung cấp, do quá xem trọng vật chất mà chưa biết, chưa hiểu, chưa chứng thực, chưa nhận thức ra phi vật chất của thế giới tâm linh, thậm chí còn nhầm lẫn xem là mê tín dị đoan, không hiểu đó là một phần tất yếu của vũ trụ, nên có những cử chỉ nói năng tùy tiện, không ngại ngần làm chuyện ác, hành sự không có lương tâm, không hiểu được quả báo đau khổ nhận được khi hạ địa ngục?

Từ xưa đến nay, tướng quân, vương hầu, cũng thường vì sai lệch trong tích tắc mà phải hứng chịu sự hành hạ của quả báo. Ví dụ như: danh tướng Bạch Khởi của triều đình nhà Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc, tại chiến khu Trường Bình đã giết chết bốn trăm ngàn quân hàng quân địch. Cho nên, đến kiếp sau ông đầu thai trần gian làm gà, rắn, con rít đều bị sét đánh chết. Thân xác đều có tên ông “Bạch Khởi”. Lúc tại địa ngục, ông thường xuyên bị ngâm mình trong phân uế, chịu đủ các loại cực hình, những thứ này đều được khảo chứng.

Quan Tể Tướng Lý Lâm Bù của nhà Đường, xây phòng “Uyển Nguyệt” tại nhà để sát hại các vị quan khi bất đồng ý kiến. Khi hắn chết đi, bảy kiếp làm gái điếm, chín kiếp làm trâu, đời đời sau này đầu thai làm động vật dưới nước cho người giết mổ, trêu đùa và nấu ăn.

Tướng quân nhà Tống, Tào Hàn, sau khi chiếm lĩnh thành thị đã giết biết bao bá tánh vô tội trong thành. Khi chết, ông nhiều lần báo mộng cho dân chúng trong thành biết: “Tôi một thời oai phong nhưng đã giết chết bá tánh toàn thành cho nên trong trăm kiếp, tôi phải đầu thai làm gà cho người ta giết mổ. Sau khi quả báo này kết thúc, tôi còn phải đọa lạc vào địa ngục”. Than ôi! Thời gian một đời người không dài lắm, nhưng nửa giờ trong địa ngục cực kỳ dài và khó qua. Trong Kinh Phật nói súc sinh, quỷ đói, địa ngục, một lần quả báo trong tam ác đạo lâu như ngàn kiếp, những chúng sinh đầu thai vào đó thật là đáng thương hại.

Đạo Nho, đạo Thiên Chúa, đạo Phật đều hướng dẫn con người quy thiện làm cơ bản, có thể khống chế những suy nghĩ bất lương, phân biệt sự khác nhau giữa thánh nhân và kẻ ác. Ba tôn giáo này đều mang tư tưởng thương xót chúng sinh, từ bi độ thế.

Khổng Tử đã từng nói: “Chuyện không tốt không nên xem, nghe, bàn luận và truyền đạt thì càng không nên làm. Đây chính là mấu chốt để quyết định một người trở thành một dân hiền hoặc dân tục”. Khổng Tử còn nói: “Không nên vì lợi ích cho riêng mình, nếu thực sự làm được việc này thì người đó không còn là dân hiền mà là thánh nhân”.

Mạnh Tử nói: “Quan niệm của Khổng Tử rất là quý báu!” Những quan niệm này định ra sự khác biệt của nhân loại và loài cầm thức. Nếu như thường xuyên làm việc thiện, kiếp sau nhất định được phát đạt thịnh vượng, kiếp này thuận lợi cát tường.

Trong Phật giáo nói, tất cả mọi việc đều do nhân duyên, cuối cùng qui về không tính, quán xét tâm tính mà được tỉnh ngộ; phương pháp của đạo giáo là tuân thủ trung dung chi đạo, kiên trì noi theo quy luật nguyên tắc khách quan mà không theo ý tưởng chủ quan của chính mình mà hành động. Tóm lại, trong đời người, tham vọng, dục vọng và khống chế, kiểm soát chúng là mấu chốt quyết định sống, chết và họa phước sở tại. Cho nên, nhân loại có thể không đọc, chấp hành, tuân thủ “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” và cảnh giác với sự nhân quả ác báo?

Trên Trời có đức háo sanh, đặc biệt phê duyệt cho giáo chủ Diêm phủ Địa Tạng Vương Bồ Tát công bố một số điều khoản liên quan đến nhân loại sám hối lỗi lầm, ban cho “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” lưu truyền thế gian, đồng ý cho những người đã phạm sai lầm tu chỉnh làm người, sau khi chết cũng có thể lên thiên giới hoặc thanh nhàn hưởng phước. Cho nên, cuốn sách này cũng được gọi là “Từ Ân Ngọc Lịch”. Người trên thế gian căn cứ năng lực của mình, trước mặt thần Táo Quân trong nhà bếp (nếu chưa thờ thần Táo quân thì có thể thờ trong nhà bếp bất cứ hướng nào), hoặc trong phòng sạch sẽ, hoặc Phật đường, hoặc ngoài trời, bất kể mùng một, rằm mười năm, hoặc ngày ba mươi, thành tâm phát nguyện in ấn, truyền bá, tuyên truyền cuốn sách này, để cho đại chúng đều biết được, người người bỏ ác hành thiện. Như vậy, xã hội sẽ an lành ổn định, gia đình và chính mình cũng được thịnh vượng phát đạt.


----------------           


Bồ Đề Chân Nhân Giáng Tự
Số từ: 410
Bồ Đề Chân Nhân Giáng Tự

Thánh hiền cứu giúp và độ hóa tâm nguyện của chúng sinh, giống như thiên địa vũ trụ không có đường cùng, vô biên! Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát và các Chư Thần thập điện Diêm Vương thương xót chúng sinh hứng chịu những sự đau khổ trong địa ngục, nên đã trình báo Đại Đế Ngọc Hoàng để cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này được lưu truyền trên thế gian, để đánh thức thế nhân tu thiện tích phước. Khi đọc cuốn sách này, dường như thân tại trong địa ngục, xung quanh đều là những phán quan, lính quỷ, những cảnh thảm họa trong địa ngục. Như thế không thể không tạo cho người thức tỉnh; sống chết luân hồi là không thể tránh được, kẻ làm chuyện xấu phải chịu báo ứng thảm ác là tuyệt đối không sai.

Cuốn sách nói lên những đạo lý sự kiện có thật, dù trải qua thời gian bao lâu cũng không thay đổi. Sách nói rõ trong Phật giáo, Đạo giáo, Đạo nho với những tư tưởng về nhân quả báo ứng của thiện ác và sự kiện quan niệm về từ bi hóa độ, tạo cho những người làm việc thiện nhiều trong kiếp này hoặc kiếp sau được hưởng phước báo, vừa có thể ân xá cho những người đã từng phạm lỗi lầm tu sửa và sám hối, đấy là nội dung căn bản của cuốn sách này. Cho nên, cuốn sách này có khác biệt với những cuốn sách thiện khác, có một số người không hiểu biết, xem cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” này là tà kiến, cho là như người thời xưa thường nói câu: “Bất vi bằng cớ” (không đủ bằng chứng), hoặc cho là một cuốn sách mang tính chất mê tín dị đoan. Thực tế, những thứ người thiếu hiểu biết, coi thường và khinh bỉ thần linh không có chí hành thiện thì rất dễ đọa vào địa ngục.

Hiện nay, đối với thiện tín đang muốn hướng nguyện được biên soạn lại và xuất bản cuốn sách này thường nói: người in và truyền sách thiện, vạn sự đại cát tường; đời đời kiếp kiếp hưởng phước báo, huống chi là in ấn lưu truyền cuốn “Ngọc Lịch Bửu Phiêu” bửu điển như vậy? Người phát lên thiện tâm thiện ý thì sẽ thăng hoa đạo đức, thấu tận trời xanh.


----------------
LÊ ANH MINH

Lần cập nhật cuối Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 21/02/2010

BIỆN CHỨNG 辯 證 – THẮNG BẠI 勝 敗
376. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện hĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy. [Đạo Đức Kinh, chương 2]
天下皆知美之為美,斯惡已﹔皆知善之為善,斯不善矣。故有無相生,難易相成,長短相形,高下相傾,音聲相和,前后相隨。《道德經 • 第二章》
【Dịch】 Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, là vì đã có cái xấu; đều biết tốt là tốt, là vì đã có cái không tốt. Cho nên có và không sinh ra nhau, khó và dễ thành tựu cho nhau, dài và ngắn tạo hình thể cho nhau, cao và thấp làm nghiêng nhau, âm và thanh hoà nhau, trước và sau theo nhau.

377. Khúc tắc toàn; uổng tắc trực; hóa tắc doanh; tệ tắc tân; thiểu tắc đắc; đa tắc hoặc. [Đạo Đức Kinh, chương 22]
曲則全,枉則直,窪則盈,敝則新,少則得,多則惑。《道德經 • 第二十二章》
【Dịch】 Cái gì khiếm khuyết sẽ được làm cho toàn vẹn. Cái gì cong sẽ được làm cho ngay. Cái gì trũng sẽ được làm cho đầy. Cái gì cũ sẽ được làm cho mới. Có ít sẽ được thêm. Có nhiều sẽ mê muội.

378. Trọng vi khinh căn. Tĩnh vi táo quân. [Đạo Đức Kinh, ch. 26]
重為輕根,靜為躁君。《道德經 • 第二十六章》
【Dịch】Nặng là gốc của nhẹ. Tĩnh là chủ của xao động.

379. Thiện hành vô triệt tích. Thiện ngôân vô hà trích. Thiện số bất dụng trù sách. Thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai. Thiện kết vô thằng ước, nhi bất khả giải. [Đạo Đức Kinh, chương 27]
善行,無轍跡﹔善言,無瑕謫﹔善數,不用籌策﹔善閉,無關楗而不可開﹔善結,無繩約而不可解。《道德經 • 第二十七章》
【Dịch】 Giỏi đi thì không lưu dấu vết xe. Giỏi nói thì không để bị chỉ trích. Giỏi đếm thì không dùng que đếm. Giỏi đóng cửa dù không có then chốt mà không ai mở được. Giỏi thắt dây dù không có dây nhợ mà không ai cởi được.

380. Vật tráng tắc lão. [Đạo Đức Kinh, chương 30]
物壯則老。《道德經 • 第三十章》
【Dịch】Vật lớn mạnh ắt già.

381. Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. [Đạo Đức Kinh, chương 36]
將欲歙之,必故張之﹔將欲弱之,必故強之﹔將欲廢之,必故興之﹔將欲奪之,必故與之。《道德經 • 第三十六章》
【Dịch】 Muốn làm cho cái gì chùng, trước hết phải căng nó ra cho thẳng. Muốn làm cho cái gì suy yếu, trước hết phải giúp cho nó mạnh thêm. Muốn vứt bỏ cái gì, trước hết phải làm cho nó hưng vượng. Muốn tước đoạt cái gì của nó, trước hết phải tặng nó cái gì đó.

382. Quí dĩ thiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. [Đạo Đức Kinh, chương 39]
貴以賤為本,高以下為基。《道德經 • 第三十九章》
【Dịch】Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền.

383. Minh Đạo nhược muội. Tiến Đạo nhược thoái. Di Đạo nhược lỗi. Thượng Đức nhược cốc. Đại bạch nhược nhục. Quảng đức nhược bất túc. Kiến đức nhược thâu. Chất chân nhược du. Đại phương vô ngung; đại khí vãn thành; đại âm hi thanh; đại tượng vô hình. Đạo ẩn vô danh. [Đạo Đức Kinh, chương 41]
明道若昧,進道若退,夷道若纇,上德若谷,大白若辱,廣德若不足,建德若偷﹔質真若渝,大方無隅,大器晚成,大音希聲﹔大象無形。道隱無名。《道德經 • 第四十一章》
【Dịch】 Đạo sáng, dường như tăm tối. Đạo tiến, dường như thoái lui. Đạo bằng phẳng, dường như gồ ghề. Đức cao tột dường như hang cốc. Trắng tinh dường như hoen ố. Đức dầy dăn dường như khiếm khuyết. Đức chắc khoẻ dường như mềm yếu. Chất phác trinh thuần dường như biến đổi. Hình vuông lớn không góc. Vật dụng lớn lâu hoàn thành. Tiếng lớn nghe không thấy. Tượng lớn không có hình. Đạo ẩn nơi không tên.

384. Chính phục vi kỳ, thiện phục vi yêu. [Đạo Đức Kinh, chương 58]
正復為奇,善復為妖。《道德經 • 第五十八章》
【Dịch】Cái ngay thẳng lại biến thành gian trá, cái thiện lại biến thành gian tà.

385. Phù khinh nặc, tất quả tín. Đa dị tất đa nan. [Đạo Đức Kinh, chương 63]
夫輕諾必寡信,多易必多難。《道德經 • 第六十三章》
【Dịch】Những kẻ hứa hẹn bừa bãi, sẽ khó giữ được lời. Coi cái gì cũng dễ, sẽ gặp nhiều cái khó.

386. Dĩ kỳ bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. [Đạo Đức Kinh, chương 66]
以其不爭,故天下莫能與之爭。《道德經 • 第六十六章》
【Dịch】Chính vì thánh nhân không tranh với ai, nên trong thiên hạ không có ai tranh với ngài.

387. Duy vô dĩ thiên hạ vi giả khả dĩ thác thiên hạ dã. [Trang Tử, Nhượng Vương]
唯無以天下為者可以托天下也。《莊子 • 讓王》
【Dịch】Chỉ ai không màng cai trị thiên hạ là mới đáng được giao thiên hạ cho mà thôi.

388. Đại bạch nhược nhục, thịnh đức nhược bất túc. [Trang Tử, Ngụ Ngôn]
大白若辱,盛德若不足。《莊子 • 寓言》
【Dịch】Trắng tinh phải làm như bị hoen ố; đức dày phải làm như còn khiếm khuyết.

389. Chung thân ngôn, vị thường ngôn; chung thân bất ngôn, vị thường bất ngôn. [Trang Tử, Ngụ Ngôn]
終身言,未嘗言;終身不言,未嘗不言。《莊子 • 寓言》
【Dịch】Cả đời nói, mà chưa từng nói gì; cả đời không nói, mà chưa từng không nói gì.

390. Nhất xích chi chủy, nhật thủ kỳ bán, vạn thế bất kiệt. [Trang Tử, Thiên Hạ]
一尺之捶,日取其半,萬世不竭。《莊子 • 天下》
【Dịch】Gậy dài một thước, mỗi ngày chặt một nửa, chặt hoài suốt đời cũng không hết cây gậy này.

391. Trường giả bất vi hữu dư, đoản giả bất vi bất túc. [Trang Tử, Mã Đề]
長者不為有餘,短者不為不足。《莊子 • 駢拇》
【Dịch】Cái đã dài thì ta đừng cho là quá dài; và cái đã ngắn cũng đừng cho là quá ngắn.

392. Vật vật giả dữ vật vô tế, nhi vật hữu tế giả, sở vị vật tế giả dã. Bất tế chi tế, tế chi bất tế giả dã. [Trang Tử, Trí Bắc Du]
物物者與物無際,而物有際者,所謂物際者也。不際之際,際之不際者也。《莊子 • 知北游》
【Dịch】 Cái tạo ra vật (tức Đạo) không có sự hạn chế với vật, nhưng vật có sự hạn chế. Đó gọi là sự hạn chế của vật. Cái giới hạn của cái không giới hạn là cái không giới hạn của cái giới hạn.

393. Phàm ngoại trọng giả nội chuyết. [Trang Tử, Đạt Sinh]
凡外重者內拙。《莊子 • 達生》
【Dịch】Ai có bề ngoài trịnh trọng thì bên trong vụng về kém cỏi.

394. Tự kỳ dị giả thị chi, can đảm Sở Việt dã; tự kỳ đồng giả thị chi, vạn vật giai nhất dã. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
自其異者視之,肝膽楚越也;自其同者視之,萬物皆一也。《莊子 • 德充符》
【Dịch】 Về mặt khác nhau mà xét thì vạn vật [khác nhau] ví như gan với mật, hay nước Sở với nước Việt. Về mặt giống nhau mà xét thì vạn vật đều là một.

395. Khả dĩ ngôn luận giả, vật chi thô dã; khả dĩ ý trí giả, vật chi tinh dã; ngôn chi sở bất năng luận, ý chi sở bất năng sát giả, bất kỳ tinh thô yên. [Trang Tử, Thu Thủy]
可以言論者,物之粗也;可以意致者,物之精也;言之所不能論,意之所不能察者,不期精粗焉。《莊子 • 秋水》

【Dịch】 Cái mà ta bàn luận được là phần thô của vật; cái mà ta dùng ý niệm để đạt được là phần tinh tuý của vật. Cái không thể bàn luận được của lời nói và cái không thể đạt được của ý niệm thì không liên can phần tinh hay thô của vật.

396. Dĩ đạo quan chi, vật vô quý tiện; dĩ vật quan chi, tự quý nhi tương tiện; dĩ tục quan chi, quý tiện bất tại kỷ. Dĩ sai quan chi, nhân kỳ sở đại nhi đại chi, tắc vạn vật mạc bất đại; nhân kỳ sở tiểu nhi tiểu chi, tắc vạn vật mạc bất tiểu. [Trang Tử, Thu Thủy]
以道觀之,物無貴賤;以物觀之,自貴而相賤;以俗觀之,貴賤不在己。以差觀之,因其所大而大之,則萬物莫不大;因其所小而小之,則萬物莫不小。《莊子 • 秋水》
【Dịch】 Theo phương diện Đạo mà xét, vật chẳng quý chẳng tiện. Từ bản thân của vật mà xét, mỗi vật tự cho mình quý và coi vật khác là tiện. Từ quan điểm thế tục mà xét, quý và tiện không nằm tại bản thân sự vật. Từ sự khác biệt của vật mà xét, do tầm cỡ lớn mà cho rằng chúng lớn thì vạn vật chẳng thứ nào mà không lớn; do tầm cỡ nhỏ mà cho rằng chúng nhỏ thì vạn vật chẳng thứ nào mà không nhỏ.

397. Chí tinh vô hình, chí đại bất khả vi. [Trang Tử, Thu Thủy]
至精無形,至大不可圍。《莊子 • 秋水》
【Dịch】Cái cực tinh tế thì vô hình, cái cực lớn thì không thể bị [cái khác] vây bọc được.

398. Niên bất khả cử, thời bất khả chỉ. Tiêu tức doanh hư, chung tắc hữu thủy. [Trang Tử, Thu Thủy]
年不可舉,時不可止。消息盈虛,終則有始。《莊子 • 秋水》
【Dịch】[Chỉ có] thời gian trôi đi thì không thể bắt đầu lại và không thể dừng lại, [còn các thứ nào] tiêu vong và phát khởi, đầy và rỗng, hễ chúng tận cùng thì sẽ trở lại ban đầu.

399. Nhân kỳ sở nhiên nhi nhiên chi, tắc vạn vật mạc bất nhiên. Nhân kỳ sở phi nhi phi chi, tắc vạn vật mạc bất phi. [Trang Tử, Thu Thủy]
因其所然而然之,則萬物莫不然。因其所非而非之,則萬物莫不非。《莊子 • 秋水》
【Dịch】 Theo xu hướng thiên hạ cho điều gì là đúng mà ta bảo là đúng, thì vạn vật cái gì cũng đúng; theo xu hướng thiên hạ cho điều gì là sai, thì vạn vật cái gì cũng sai.

400. Đa nam tử tắc đa cụ, phú tắc đa sự, thọ tắc đa nhục. [Trang Tử, Thiên Địa]
多男子則多懼,富則多事,壽則多辱。《莊子 • 天地》
【Dịch】Càng nhiều con trai, càng thêm lo sợ. Càng giàu có, càng lắm sự sinh. Càng sống lâu, càng thêm nhục.

401. Tri kỳ ngu giả, phi đại ngu dã; tri kỳ hoặc giả, phi đại hoặc dã. [Trang Tử, Thiên Địa]
知其愚者,非大愚也;知其惑者,非大惑也。《莊子 • 天地》
【Dịch】Biết mình ngu tức không phải là quá ngu; biết mình bị dối lừa tức không bị lừa dối nhiều.

402. Thiên chi tiểu nhân, nhân chi quân tử; nhân chi quân tử, thiên chi tiểu nhân dã. [Trang Tử, Đại Tông Sư]
天之小人,人之君子;人之君子,天之小人也。《莊子 • 大宗師》
【Dịch】Tiểu nhân của Trời là quân tử của người; quân tử của người là tiểu nhân của trời.

403. Nhân mạc giám vu lưu thủy nhi giám vu chỉ thủy, duy chỉ năng chỉ chúng chỉ. [Trang Tử, Đức Sung Phù]
人莫鑒于流水而鑒于止水,唯止能止眾止。《莊子 • 德充符》
【Dịch】 Người ta không soi bóng vào mặt nước trôi chảy, mà chỉ soi bóng vào mặt nước yên tĩnh. Chỉ có nước yên tĩnh mới có thể làm mọi người dừng lại để tìm sự yên tĩnh.

404. Phương sinh phương tử, phương tử phương sinh; phương khả phương bất khả, phương bất khả phương khả; nhân thị nhân phi, nhân phi nhân thị. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
方生方死,方死方生;方可方不可,方不可方可;因是因非,因非因是。《莊子 • 齊物論》
【Dịch】[Bất cứ vật gì] đang sống là đang chết, đang chết là đang sống; có thể là không thể, không thể là có thể. Nguyên do đúng là nguyên do sai, nguyên do sai là nguyên do đúng.

405. Phân dã giả, hữu bất phân dã; biện dã giả, hữu bất biện dã. [Trang Tử, Tề Vật Luận]
分也者,有不分也; 辯也者,有不辯也。《莊子 • 齊物論》
【Dịch】Trong mỗi sự phân tích có cái không phân tích được; trong mỗi sự biện luận có cái không biện luận được.

406. Xử minh giả bất kiến ám trung nhất vật, xử ám giả năng kiến minh trung khu sự. [Quan Doãn Tử, Nhất Vũ]
處明者不見暗中一物,處暗者能見明中區事。《關尹子 • 一宇》
【Dịch】 Người ở nơi sáng sủa không thấy được vật gì trong bóng tối; người ở nơi tối có thể thấy được sự vật rất bé nhỏ trong ánh sáng.

407. Chuyên dụng thông minh, tắc công bất thành; chuyên dụng hối muội, tắc sự tất bội; nhất minh nhất hối, chúng chi sở tái. [Doãn Văn Tử Dật Văn]
專用聰明,則功不成;專用晦昧,則事必悖;一明一晦,眾之所載。《尹文子佚文》
【Dịch】 Chỉ thuần thông minh sẽ không thành công; chỉ thuần tối tăm sẽ gặp việc trái ý muốn. Vừa sáng vừa tối là cách làm mọi việc.

408. Mục tương miểu giả, tiên đổ thu hào; nhĩ tương lung giả, tiên văn nhuế phi, [...] cố vật bất chí giả tắc bất phản. [Liệt Tử, Trọng Ni]
目將眇者,先睹秋毫;耳將聾者,先聞蚋飛,…故物不至者則不反。《列子 • 仲尼》
【Dịch】 Mắt sắp mờ thì trước tiên hãy nhìn vật cực bé, tai sắp điếc thì trước tiên hãy nghe tiếng muỗi bay vo ve. [...] Cho nên sự vật chưa phát triển đến chỗ cùng cực thì chưa quay trở lại.

409. Dục cương, tất dĩ nhu thủ chi; dục cường, tất dĩ nhược bảo chi. [Liệt Tử, Hoàng Đế]
欲剛必以柔守之;欲強必以弱保之。《列子 • 黃帝》
【Dịch】Muốn nó cứng thì lấy mềm giữ nó; muốn nó mạnh thì lấy yếu bảo vệ nó.

410. Thiên hạ lý vô thường thị, sự vô thường phi. Tiên nhật sở dụng, kim hoặc khí chi; kim chi sở khí, hậu hoặc dụng chi. [Liệt Tử, Thuyết Phù]
天下理無常是,事無常非。先日所用,今或棄之;今之所棄,後或用之。《列子 • 說符》
【Dịch】 Sự và lý trong thiên hạ không bao giờ đúng mãi hay sai mãi. Có thứ ngày trước áp dụng mà nay có người bỏ đi; cái ngày nay bỏ đi thì ngày sau có người áp dụng.

411. Đắc điểu giả, la nhất mục; nhất mục chi la, bất khả đắc điểu. [Doãn Văn Tử]
得鳥者,羅一目;一目之羅,不可得鳥。《尹文子》
【Dịch】Bắt được chim là nhờ ở một mắt lưới; nhưng cái lưới chỉ có một mắt lưới thì không thể bắt được chim.

412. Nhập thủy tăng nhu, hoài xú cầu phương, bất khả đắc dã. [Doãn Văn Tử]
入水憎濡,懷臭求芳,不可得也。《尹文子》
【Dịch】Vào nước ghét bị ướt, ôm giữ cái hôi thối cầu mong được thơm tho, điều đó là không thể.

413. Nhật bất tri dạ, nguyệt bất tri trú, nhật nguyệt vi minh nhi phất năng kiêm dã. [Hoài Nam Tử, Mậu Xưng Huấn]
日不知夜,月不知晝,日月為明而弗能兼也。《淮南子 • 繆稱訓》
【Dịch】 Mặt trời không biết đến đêm tối, mặt trăng không biết đến ban ngày. Mặt trời và mặt trăng cho ánh sáng nhưng không thể cùng biết ban ngày và ban đêm của nhau.

414. Thủy tuy bình, tất hữu ba; hành tuy chính, tất hữu sai. [Hoài Nam Tử, Thuyết Lâm Huấn]
水雖平必有波;衡雖正必有差。《淮南子 • 說林訓》
【Dịch】Nước mặc dù yên tĩnh nhưng cũng có lúc gợn sóng, cái cân mặc dù thăng bằng nhưng cũng có lúc sai lệch.

415. Đắc vạn nhân chi binh, bất như văn nhất ngôn chi đáng; đắc Tuỳ Hầu chi châu, bất nhược đắc sự chi sở do; đắc Oa thị chi bích, bất nhược đắc sự chi sở thích. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]
得萬人之兵,不如聞一言之當;得隋侯之珠,不若得事之所由;得咼氏之璧,不若得事之所適。《淮南子。說山訓》
【Dịch】 Có được quân binh vạn người không bằng nghe được một lời nói đúng đạo lý; có được ngọc châu Tùy Hầu không bằng có được nguyên do của sự việc; có được ngọc bích của họ Hoà không bằng có được sự thích đáng của sự việc.

416. Hoặc dự nhân nhi thích túc dĩ bại chi, hoặc hủy nhân nhi nãi phản dĩ thành chi. [Hoài Nam Tử, Nhân Gian Huấn]
或譽人而適足以敗之,或毀人而乃反成之。《淮南子 • 人間訓》
【Dịch】Có khi tán dương ai mà làm cho hắn bị thất bại; có khi hủy báng ai mà làm cho hắn được thành công.

417. Sự hoặc đoạt chi nhi phản dữ chi, hoặc dữ chi nhi phản thủ chi. [Hoài Nam Tử, Nhân Gian Huấn]
事或奪之而反與之,或與之而反取之。《淮南子 • 人間訓》
【Dịch】 Sự đời, có khi tước đoạt ai cái gì thì trái lại làm cho họ được tặng cái khác; có khi cho ai cái gì thì trái lại ta nhận được cái khác.

418. Sơn sinh kim, phản tự khắc; mộc sinh đố, phản tự thực; nhân sinh sự, phản tự tặc. [Hoài Nam Tử, Thuyết Lâm Huấn]
山生金,反自刻;木生蠹,反自食;人生事,反自賊。《淮南子 • 說林訓》
【Dịch】 Núi sinh vàng, trái lại nó bị tổn hao (do người ta khai thác vàng); gỗ sinh mối mọt, trái lại nó bị mọt ăn mòn; người phát sinh sự rắc rối, trái lại tự làm hại bản thân.

419. Dĩ cận luận viễn, dĩ tiểu tri đại. [Hoài Nam Tử, Phạm Luận Huấn]
以近論遠,以小知大。《淮南子 • 氾論訓》
【Dịch】Căn cứ cái gần mà suy luận ra cái xa xôi, căn cứ việc nhỏ mà biết việc lớn.

420. Nhất điều chi khô, bất tổn phồn lâm chi ông ái. [Bão Phác Tử, Bác Dụ]
一條之枯,不損繁林之蓊藹。《抱朴子 • 博喻》
【Dịch】Một cây khô không làm mất dáng vẻ sum suê um tùm của rừng cây dày đặc.

421. Giang hà chi lưu, bất năng doanh vô để chi khí dã. [Bão Phác Tử, Cực Ngôn]
江河之流,不能盈無底之器也。《抱朴子 • 極言》
【Dịch】Nước sông ngòi không thể đổ đầy một đồ vật để chứa nước mà không có đáy.

422. Tiểu tì bất túc dĩ tổn đại khí. [Bão Phác Tử, Bác Dụ]
小疵不足以損大器。《抱朴子 • 博喻》
【Dịch】Tì vết nhỏ không đủ để làm hại đồ vật lớn.

423. Tục hữu kiến du vân tây trì, nhi vị nguyệt chi đông hành. [Bão Phác Tử, Tắc Nan]
俗有見游雲西馳,而謂月之東行。《抱朴子 • 塞難》
【Dịch】Kẻ kiến thức thiển lậu hễ thấy mây bay về hướng tây thì nói mặt trăng đi về hướng đông.

LÊ ANH MINH

----------------           







Chỉ có tâm mới xây nên ngôi tiên vị phật

Hườn Cung Đàn, Tý thời 29 rạng Mùng 1 tháng 4 Nhâm Dần (3.5.1962)

Tiếp điển :

THI


NGỌC kinh mở cửa đợi chờ ai ?

LỊCH lãm đường trần chớ trả vay;

NGUYỆT rạng ven Trời, tinh đẩu rạng,

Mừng chư đệ muội cách bao ngày.


Bần Đạo chào chư Thiên Mạng, chào chư liệt vị lưỡng phái đàn trung. Bần Đạo muốn mượn linh cơ trong một đàn đông đủ chư hiền để cùng nhau bàn luận về đạo. Chư hiền hãy an tọa nghe Bần Đạo phân đây. Chư hiền ôi !

BÀI


Khuôn Tạo Hóa in hình nhơn loại,

Lò thiên nhiên đúc dải sơn xuyên;

Thú cầm thảo môc căn nguyên,

Một bầu vũ trụ cơ Thiên sắp bày.

Khí âm dương hình hài un đúc,

Chất tinh ba cốt nhục dưỡng sanh;

Từ trong tam giới ngũ hành,

Cũng đều riêng một máy linh đất Trời.

Lỡ mang một kiếp người trên thế,

Trót hẹn cùng bốn bể năm châu;

Trải qua cay đắng dãi dầu,

Nhớ chăng tiếng khóc buổi đầu sơ sanh.

Tạo Hóa đã riêng dành nhơn loại,

Nhơn loại còn oằn oại núi sông;

Đỉnh thần một chủ nhơn ông,

Tâm linh một quả ngự trong hình hài.

Tâm chúa tể trong ngoài bĩnh trị;

Tánh với tình sự lý tể khanh;

Thất tình lục dục bao quanh,

Quân binh sĩ tốt giữ gìn bản thân.

Thân sanh giữa hồng trần trọng trược,

Tâm là nguồn họa phước tạo nên;

Tâm là ngôi phật thánh tiên,

Cũng là quí tiện nghiệp duyên thú cầm.

Tâm cho vững định cầm linh tánh,

Tánh với tình hùng mạnh cố kiên;

Đóng bền sáu cửa khóa then,

Quân minh thần dũng giữ yên sơn hà.

Trường huấn luyện phong ba khói lửa,

Lớp thí sinh mài giũa chạm trau;

Tâm linh sáng suốt dồi dào,

Chớ cho vọng động, chớ xao khí thần.

Luyện nguơn tinh, tinh thuần hóa khí,

Khí vận hành, hành kỷ Thiên cơ;

Nguơn thần an trụ kịp giờ,

Xây dựng đấp móng để chờ vị ngôi.

Hiểu Chơn Đạo Ta, Trời có một,

Thuận nghịch hành, tiên tục hóa hai;

Bởi chưng sáu cửa không gài,

Bảy tên tướng cướp bên ngoài xâm lăng.

Tâm danh lợi tham tàn khát vọng,

Tâm tước quyền hách hống tự cao;

Mắt nhìn tâm lại động xao,

Tánh tình khó nỗi đón rào ma tham.

Tâm tật đố tài nhơn lánh mặt,

Tâm điêu ngoa hạnh phúc giảm suy;

Tai nghe lòng đã lỗi nghì,

Để hai tướng cướp sân si lộng hành.

Tâm tư dục ham danh mến sắc,

Tâm vọng cầu vật chất đỉnh chung;

Mũi kia ưa hửi mùi nồng,

Lưỡi hay nếm vị não nùng đắng cay.

Sắc không bén giết ngay cân não,

Rượu không say lộn đảo hình dung;

Được mừng, mất giận, lung tung,

Hai ma hỉ nộ buông lung dấy loàn.

Tâm đấu tranh gây oan chác nghiệt,

Tâm bạo tàn tiêu diệt trầm luân;

Muốn đem giả lợi vào thân,

Ý mong dệt cảnh mộng trần trong mơ.

Ma ai lạc chực chờ sẵn đó,

Kẻ thường vui lạc ngỏ lầm đường;

Cũng vì vui, cũng vì thương,

Mở toang sáu cửa vô thường để chân.

Đem ra một bản thân suy luận,

Với hai đường thối tấn đạo đời;

Nghe chăng hỡi bạn trần ơi !

Đã vào phận sự đổi dời sao đang.

Bịnh đã trót vương mang bất trị,

Thuốc thần đây mấy vị trừ căn;

Cõi đời vật dục lăng xăng,

Mấy ai giữ đặng nguyên căn của mình ?

Xem những bực tiền trình thánh đức,

Muốn cho đời thiết thực yêu thương;

Chánh tâm tu kỷ lo lường,

Mới mong nhà nước an khương thái bình.

Đời như thế, đạo in như thế,

Nhiệm vụ đâu, mà thể thống đâu ?

Tâm linh thấu triệt cơ mầu,

Bịnh trần lấp lửng khá mau trị lành.

Tâm bác ái hy sinh vật chất,

Tâm từ bi đùm bọc thương yêu;

Nhẫn kiên un đúc sớm chiều.

Thủ trì hành sự là liều thuốc hay.

Chữa những bịnh chua cay thắc mắc,

Dằn những cơn phẫn uất ưu phiền;

Muốn nên ngôi vị phật tiên,

Đừng cho sóng tục đánh nghiêng tâm lành.

Đây là bài học cho các em nam cũng như nữ, vì đề tài chữ Tâm rất quan hệ đối với người tu hành, vì chỉ có Tâm mới định được mọi việc chính cho đường tu. Nếu các em hiểu tường thì tâm chính là một chánh điểm quyết định cho sự thành tiên tác phật của kẻ tu hành.

Đề tài nầy cũng là một khởi điểm cho nền chơn đạo. Nếu em nào thấy cần tu học và phát nguyện thì lần lần sẽ được giáo truyền.


TIẾP BÀI

Lời tha thiết của anh cặn kẽ,

Bước đường dài thương Mẹ đợi trông;

Em ôi ! Mình giống Tiên Long,

Phải đâu cánh én mênh mông phương trời.

Cơ thử thách đổi dời chua chát,

Thấy nhơn tình sắc bạc như vôi;

Nhủ ta thôi chớ nhìn người,

Nhìn người ở chỗ chung Trời thương yêu.

Tâm cho vững, lái lèo cho vững,

Chí nam nhi cho xứng hiếu nhi;

Thành công thất bại quản gì,

Trên đường sứ mạng thủ trì mới ngoan.

Chia sớt nhau trên đành hành sự,

Thông cảm nhau cư xử bại thành;

Tình nhơn loại, nghĩa em anh,

Muốn cho bao quát phải dành nghĩa nhơn.

Cơ Thống Nhứt Trung Ương đã định,

Nhưng cuộc đời gặp cảnh tang thương;

Chi nên chuyển hướng lập trường,

Cho cơ Đại Đạo biểu dương cứu đời.

Pháp chẳng gia cho người quân tử,

Luật bao giờ chấp đứa tiểu nhơn;

Tánh hà thủy, tâm thái sơn,

Mới là đáng mặt vi nhơn cõi trần.


Bần Đạo để ít lời các em cần hiểu.

Bần Đạo cũng nhắc lại để các em nhớ, chỉ có tâm mới xây nên ngôi tiên, vị phật, trường sanh bất lão.

Hơn nữa, các em nhớ : liều thuốc ngủ không làm cho bịnh nhơn ngũ yên lành vì bịnh tâm tư; đạo không đắc quả cho người trường chay tuyệt dục là do tâm động.

Các em hiểu chăng ? Cười…
NGỌC LỊCH NGUYỆT


----------------           

Đức Ngọc Lịch Nguyệt dạy chữ TÂM (trước 1975)


THI
NGỌC kinh mở cửa đợi chờ ai ?
LỊCH lãm đường trần chớ trả vay;
NGUYỆT rạng ven Trời, tinh đẩu rạng,
Mừng chư đệ muội cách bao ngày.
Bần Đạo chào chư Thiên Mạng, chào chư liệt vị lưỡng phái đàn trung. Bần Đạo muốn mượn linh cơ trong một đàn đông đủ chư hiền để cùng nhau bàn luận về đạo. Chư hiền hãy an tọa nghe Bần Đạo phân đây. Chư hiền ôi !
                                
THI
Nhớ buổi khi xưa những ngậm ngùi,
Duyên trần nghiệp tục bấy nhiêu thôi;
Hai mươi năm chẳng xây nền đạo,
Mười sáu thu qua tránh cuộc đời.
Chiếc áo Thiên phong chưa rủ cánh,
Nỗi lòng kẻ sĩ dễ- gì nguôi;
Đã sang bến giác còn lưu lại,
Nỗi bạn tình ta tỏ khúc nôi.

  Dẫu cho tấm lòng nhiệt huyết của chư hiền đến đâu đâu cũng phải phai mờ khi gặp cơn khảo đảo.
Hỡi chư hiền sứ mạng ôi ! Trải qua thời gian khai đạo trên khoảnh đất Việt Nam nầy, có phải chăng toàn thể sứ mạng cũng như nhơn sanh, lòng đạo muốn già hơn tuổi đạo. Chư hiền hãy suy nghiệm lại thì thấy, vì ở đời muốn tìm ngọc phải dày sành đạp sỏi, muốn tìm vàng phải chịu nỗi phong ba, muốn cho thoát được cõi trần la thì phải vận hết tâm tánh hồn nhiên của Tạo Hóa thì mới mong thấy vàng ròng ngọc tốt, mới mong tìm được cảnh tự tại thung dung.

Nói tóm lại, hiện cảnh của đời là một trường của những vở tuồng danh vọng tước quyền đấu tranh tiêu diệt, thì trong trường Đại Đạo, ai là những thí sinh đã chịu khó nhọc với bao công phu đèn sách thì phải bình tâm định tánh trước khúc nhạc bi quan hòa lẫn với những tiếng diễn viên quyến rũ, để đạt thành nguyện vọng của những bực môn đệ Chí Tôn. Hễ là nguyên nhân Phật Thánh thì mau tránh cảnh đổi bá thay vương, bao giả tạm của cuộc đời. Ôi ! vì lẽ đó, đối với cơ đạo và đối với nhiệm vụ của các Thiên Mạng trong giờ phút này, Bần Đạo không có chi hơn, đem đề tài chữ “ Tâm: hiến cho các em học theo lịnh GIÁO TÔNG.”
                           
BÀI
1.Khuôn Tạo Hóa in hình nhơn loại,
Lò thiên nhiên đúc dải sơn xuyên;
Thú cầm thảo môc căn nguyên,
Một bầu vũ trụ cơ Thiên sắp bày.

2.Khí âm dương hình hài un đúc,
Chất tinh ba cốt nhục dưỡng sanh;
Từ trong tam giới ngũ hành,
Cũng đều riêng một máy linh đất Trời.

3.Lỡ mang một kiếp người trên thế,
Trót hẹn cùng bốn bể năm châu;
Trải qua cay đắng dãi dầu,
Nhớ chăng tiếng khóc buổi đầu sơ sanh.

4.Tạo Hóa đã riêng dành nhơn loại,
Nhơn loại còn oằn oại núi sông;
Đỉnh thần một chủ nhơn ông,
Tâm linh một quả ngự trong hình hài.

5.Tâm chúa tể trong ngoài bình trị;
Tánh với tình sự lý tể khanh;
Thất tình lục dục bao quanh,
Quân binh sĩ tốt giữ gìn bản thân.

6.Thân sanh giữa hồng trần trọng trược,
Tâm là nguồn họa phước tạo nên;
Tâm là ngôi Phật Thánh Tiên,
Cũng là quí tiện nghiệp duyên thú cầm.

7.Tâm cho vững định cầm linh tánh,
Tánh với tình hùng mạnh cố kiên;
Đóng bền sáu cửa khóa then,
Quân minh thần dũng giữ yên sơn hà.

8.Trường huấn luyện phong ba khói lửa,
Lớp thí sinh mài giũa chạm trau;
Tâm linh sáng suốt dồi dào,
Chớ cho vọng động, chớ xao khí thần.

9.Luyện nguơn tinh, tinh thần hóa khí,
Khí vận hành, hành kỷ Thiên cơ;
Nguơn thần an trụ kịp giờ,
Xây dựng đấp móng để chờ vị ngôi.

10.Hiểu Chơn Đạo Ta, Trời có một,
Thuận nghịch hành, tiên tục hóa hai;
Bởi chưng sáu cửa không gài,
Bảy tên tướng cướp bên ngoài xâm lăng.

11.Tâm danh lợi tham tàn khát vọng,
Tâm tước quyền hách hống tự cao;
Mắt nhìn tâm lại động xao,
Tánh tình khó nỗi đón rào ma tham.

12.Tâm tật đố tài nhơn lánh mặt,
Tâm điêu ngoa hạnh phúc giảm suy;
Tai nghe lòng đã lỗi nghì,
Để hai tướng cướp sân si lộng hành.

13.Tâm tư dục ham danh mến sắc,
Tâm vọng cầu vật chất đỉnh chung;
Mũi kia ưa hửi mùi nồng,
Lưỡi hay nếm vị não nùng đắng cay.

14.Sắc không bén giết ngay cân não,
Rượu không say lộn đảo hình dung;
Được mừng, mất giận, lung tung,
Hai ma hỉ nộ buông lung dấy loàn.

15.Tâm đấu tranh gây oan chác nghiệt,
Tâm bạo tàn tiêu diệt trầm luân;
Muốn đem giả lợi vào thân,
Ý mong dệt cảnh mộng trần trong mơ.

16.Ma ai lạc chực chờ sẵn đó,
Kẻ thường vui lạc ngỏ lầm đường;
Cũng vì vui, cũng vì thương,
Mở toang sáu cửa vô thường để chân.

17.Đem ra một bản thân suy luận,
Với hai đường thối tấn đạo đời;
Nghe chăng hỡi bạn trần ơi !
Đã vào phận sự đổi dời sao đang.

18..Bịnh đã trót vương mang bất trị,
Thuốc thần đây mấy vị trừ căn;
Cõi đời vật dục lăng xăng,
Mấy ai giữ đặng nguyên căn của mình ?

19.Xem những bực tiền trình thánh đức,
Muốn cho đời thiết thực yêu thương;
Chánh tâm tu kỷ lo lường,
Mới mong nhà nước an khương thái bình.

20.Đời như thế, đạo in như thế,
Nhiệm vụ đâu, mà thể thống đâu ?
Tâm linh thấu triệt cơ mầu,
Bịnh trần lấp lửng khá mau trị lành.

21.Tâm bác ái hy sinh vật chất,
Tâm từ bi đùm bọc thương yêu;
Nhẫn kiên un đúc sớm chiều.
Thủ trì hành sự là liều thuốc hay.

22.Chữa những bịnh chua cay thắc mắc,
Dằn những cơn phẫn uất ưu phiền;
Muốn nên ngôi vị Phật Tiên,
Đừng cho sóng tục đánh nghiêng tâm lành.

Đây là bài học cho các em nam cũng như nữ, vì đề tài chữ Tâm rất quan hệ đối với người tu hành, vì chỉ có Tâm mới định được mọi việc chính cho đường tu. Nếu các em hiểu tường thì tâm chính là một chánh điểm quyết định cho sự thành tiên tác phật của kẻ tu hành.
Đề tài nầy cũng là một khởi điểm cho nền chơn đạo. Nếu em nào thấy cần tu học và phát nguyện thì lần lần sẽ được giáo truyền.

TIẾP BÀI

23.Lời tha thiết của anh cặn kẽ,
Bước đường dài thương Mẹ đợi trông;
Em ôi ! Mình giống Tiên Long,
Phải đâu cánh én mênh mông phương trời.

24.Cơ thử thách đổi dời chua chát,
Thấy nhơn tình sắc bạc như vôi;
Nhủ ta thôi chớ nhìn người,
Nhìn người ở chỗ chung Trời thương yêu.

25.Tâm cho vững, lái lèo cho vững,
Chí nam nhi cho xứng hiếu nhi;
Thành công thất bại quản gì,
Trên đường sứ mạng thủ trì mới ngoan.

26.Chia sớt nhau trên đành hành sự,
Thông cảm nhau cư xử bại thành;
Tình nhơn loại, nghĩa em anh,
Muốn cho bao quát phải dành nghĩa nhơn.

27.Cơ Thống Nhứt Trung Ương đã định,
Nhưng cuộc đời gặp cảnh tang thương;
Chi nên chuyển hướng lập trường,
Cho cơ Đại Đạo biểu dương cứu đời.

28.Pháp chẳng gia cho người quân tử,
Luật bao giờ chấp đứa tiểu nhơn;
Tánh hà thủy, tâm thái sơn,
Mới là đáng mặt vi nhơn cõi trần.

Bần Đạo để ít lời các em cần hiểu.Bần Đạo cũng nhắc lại để các em nhớ, chỉ có tâm mới xây nên ngôi Tiên, Vị Phật, trường sanh bất lão.
Hơn nữa, các em nhớ : liều thuốc ngủ không làm cho bịnh nhơn ngũ yên lành vì bịnh tâm tư; đạo không đắc quả cho người trường chay tuyệt dục là do tâm động. Các em hiểu chăng ? Cười…
Thôi thì giờ quá ư nhặt thúc. Bần Đạo nhờ chư phận sự Trung Ương ban truyền đàn này cho tất cả các em trong những Thánh Thất còn đương chiêm ngưỡng Bần Đạo. Nếu có thể ban hành rộng hơn càng tốt.
NGỌC LỊCH NGUYỆT
----------------           

THÁNH GIÁO ĐỨC MẸ & ĐỨC ĐẠO TỔ

Lần cập nhật cuối Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 11/01/2010

Do đâu có hòa bình an lạc cho thế giới?
Đức Vô Cực Từ Tôn:

"Kìa con ! Đời đang loạn lạc, người người mong vọng hòa bình, tôn giáo đang chia rẽ, tín đồ đạo hữu mong vọng điều hiệp nhứt, mà hòa bình do nơi đâu hỡi con ? Hòa bình hay hiệp nhứt, Đức Thượng Đế đã ban cho mỗi con từ khi mới đến trần gian. Con hãy tìm đem ra mà sử dụng. Tâm con hòa bình, thế giới sẽ hòa bình, tâm con hiệp nhứt, tôn giáo sẽ hiệp nhứt. Các thứ ấy con không thể cầu ở tha lực tha nhân mà có đâu con ![1]

Đức Đạo Tổ:

"Đã học đạo, hành đạo,  tất biết đạo hằng  có trong vạn vật.  Vạn vật sinh tồn trong lý đạo. Những phương pháp, phương châm, bí quyết để con người được biết rõ chính mình và biết sống trong lý đạo để bảo trì nhân bản trên xã hội nhân loại này đều tóm vào một ý  nghĩa của mùa  xuân, bởi xuân  là mùa lập  lại qua cuộc  sanh trưởng thâu tàng, biết hòa dịu để lưu hành trưởng dưỡng. [. . .]

"Nếu toàn thể những người được đứng  trong khuôn viên tôn  giáo đạo đức, đều  đồng lòng hòa hợp  lại trong tinh thần vô cố, vô chấp, vô ngã, vô công, vô danh thì có lo chi không giải được sự cộng nghiệp của chúng sanh, đem lại thanh bình an lạc chung cho thế giới nhân loại."[2]



[1]Thánh Thất Bình Hòa, 14 rạng Rằm tháng 8 Canh Tuất (14-9-70)
[2]MLTH,mùng 4 tháng Giêng, năm Át Mão 
THÁNH GIÁO ĐỨC MẸ & ĐỨC ĐẠO TỔ


----------------           























Find us at:
Share on facebook: You don't have to be worried about the FACEbook Robots Auto Blocking Servers anyway. Bạn hãy nhấn nút sau để chia sẽ liên kết trang web mới này trên FACEBOOK. Xin các bạn cứ yên tâm mà chia sẽ vì sẽ không bị các chương trình auto robot servers kiểm tra tin rác ngăn chặn được đâu. Xin cám ơn FACEBOOK, INC,. and many others. Cheers! From Yours friends!!! Hi! Please click these buttons to share these links (these new other sites) on FACEBOOK. (You don't have to be worried about any FACEBOOK firewall automatic spam checking robot servers anyway, it is our warranty now. Thanks to our FACEBOOK. INC,. and many others. Cheers! From Yours friends!!! Hi!)
You can also find us at:
Trang Web Site 1: 
You can also find us at Web Site #1: 
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
or
Trang Web Site 2: 
You can also find us at Web Site #2: 
Click this button to Share on FACEBOOK: site02232d1
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
ANOTHER ONE AT:
Trang Web Site 3: 
You can also find us at Web Site #3:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn
or:
Trang Web Site 4:
You can also find us at Web Site #4:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
or:
Trang Web Site 5:
You can also find us at Web Site #5:
Please click this link to see more.
Xin các bạn hãy nhấn vào liên kết trên để xem nhiều thông tin hơn.
Namah Shakya Mouni Buddha. Nam mo Awalokiteshwara Bodhisattwa Mahasattwa maha karunikaya karuna Tadyatha. Aum, Mouniye, Maha Mouniye, Swaha.

No comments:

Post a Comment

Feature Post Co Thuoc

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are just exactly some cold or flu influenza) Smart Curing Therapy Treatment _ Toa Thuoc dieu tri benh Corona hieu qua nhat hien nay

Corona Virus (exactly flu influenza or high /low blood pressure syndrome statement, the corona or covid-19 pandemic are j...

Popular post Co Thuoc: