LINH BẢO ĐỊNH QUÁN KINH:
Kinh “Linh Bảo Định Quán” tức cuốn kinh chỉ dạy phép yên lặng để xét thấu Chân tâm thiêng liêng quý báu.
LINH BẢO ĐỊNH QUÁN KINH:"Phù dục tu Đạo, tiên năng xả sự".
Kẻ muốn tu Đạo, trước phải dứt bỏ lòng trần.
Giảng: Sửa đổi tâm tính gọi là “tu Đạo”, không nhiễm trần trược gọi là “xả sự”.
"Ngoại sự đa tuyệt, vô dữ ngỗ tâm".
Việc trần dứt hết, chẳng còn động tâm.
Giảng: “Ngoại sự” là việc ngoài đời, tức lục trần, cần phải tránh xa.
Lục trần gồm: sắc, thanh (tiếng), hương, vị, xúc (đụng chạm), pháp (phép). Không được nhiễm sáu thứ nói trên gọi là “đa tuyệt” (dứt sạch). Quên được tâm ở trong, và cảnh ở ngoài gọi là “vô dữ ngỗ tâm” tức không để cho tâm ngang ngược.
"Nhiên hậu an tọa, nội quán tâm khởi".
Rồi sau mới ngồi yên xét thấu Chân tâm.
Giảng: Các nỗi buồn phiền đã hết ngồi mới được yên. Nếu thấy một ý niệm dấy lên ắt phải lo trừ diệt ngay, để cho tâm được hoàn toàn yên tịnh. Tâm trí huệ bừng sáng trong nội giới gọi là “nội quán” tức xét thấu Chân tâm. Ý niệm chưa diệt trừ được hết gọi là “tâm khởi” tức tâm dấy động. Ý niệm trước dấy lên, cảm giác sau theo liền, do đó nếu diệt được tâm, ắt cảm giác mất ngay, nên gọi là “trừ diệt”. Phàm tâm không dấy là “an”, cảm tính không động là “tĩnh”, do đó gọi là an tĩnh.
"Kì thứ hữu tham trước, phù du, loạn tưởng diệc tận diệt trừ".
Kế đến có tham lam, trôi nổi, nghĩ xằng thảy diệt trừ hết.
Giảng: Tâm không dấy động, vọng niệm đã mất, vọng tưởng không sinh, không còn gì để mà tham nữa gọi là diệt trừ.
"Trú dạ cầm hành, tu du bất thế".
Đêm ngày chăm lo công phu, phút giây không ngừng nghỉ.
Giảng: Lời nói ban ngày trong, ban đêm đục, trong đục cả hai không còn, đêm ngày lo tu không có gián đoạn, nên gọi là “bất thế” tức không bỏ.
"Duy diệt động tâm, bất diệt chiếu tâm".
Chỉ trừ tâm động, không trừ tâm sáng.
Giảng: Nghĩ xằng phân biệt nọ kia là động tâm, nếu thức tâm đuổi được nó đi gọi là “diệt” tức dẹp bỏ. Tâm trí huệ luôn luôn chiếu sáng không chút gián đoạn nên gọi là “bất diệt chiếu tâm” tức tâm chiếu sáng đời đời.
"Đản ngưng không tâm, bất ngưng trụ tâm".
Chỉ chuyên chú tâm không, chẳng chuyên chú tâm trụ.
Giảng: “Ngưng” có nghĩa là chuyên chú, tâm chẳng dấy động, gọi là “không tâm” tức tâm trống rỗng. Không chấp trước bất cứ điều gì gọi là “bất ngưng trụ tâm”, tức không chuyên chú tâm trụ.
"Bất y nhất pháp, nhi tâm thường trụ".
Không ỷ lại vào bất cứ một pháp nào, mới mong tâm đứng vững hoài hoài.
Giảng: Nếu chỉ ôm riết một pháp là “trước tướng”, tức giữ mãi cái xác chết, mà bỏ mất cái hồn sống. Tâm phải không chấp pháp, mới khỏi ỷ lại, và tự đứng vững một mình. Hiện có mà vẫn lặng thinh coi như không có kêu là “thường trụ” tức mãi mãi còn đó.
"Nhiên tắc phàm tâm tháo cạnh, kì thứ sơ học tức tâm thậm nan, hoặc tức bất đắc, tạm đình hoàn thất".
Phàm tâm luôn tranh giành, kẻ mới học đạo trừ nó rất khó, hoặc trừ không nổi, nhưng nếu bỏ qua, coi như không có, ắt nó tự mất đi.
Giảng: Tính quen phiền não, tuy có thể diệt trừ, song kẻ mới học đạo, sức định thần chưa có, nên trừ diệt nó rất khó. Nếu như biết tạm ngưng sự cố gắng diệt trừ nó, thì tự nhiên nó mất đi.
"Khứ lưu giao chiến, bách thể lưu hành".
Tranh giành qua lại đẻ ra trăm cái xấu.
Giảng: Tâm mới chớm nhiễm cảnh, cảnh đã nhào tới trói buộc tâm, thành ra tâm và cảnh cùng bị nhiễm. Ý niệm tham dục và Đạo đức, cả hai đều khó cắt đứt, khó ruồng bỏ, nên tánh đó luôn luôn giao chiến với nhau. Tánh vọng niệm nếu như không trừ được, tự nhiên nó đẻ ra hàng trăm ngàn tánh xấu khác, nên gọi là “bách thể lưu hành” muôn thứ tánh hoành hành.
"Cửu tinh tư, phương nãi điều thực, vật dĩ tạm thu bất đắc, toại phế thiên sinh chi nghiệp".
Kiên nhẫn suy nghĩ kĩ càng, mới có thể thuần thục chín chắn, chẳng thể vội vã thâu lượm kết quả, để rồi ngàn muôn đời nghiệp đạo chẳng thành.
Giảng: Định được tâm không để cho nó động ắt là khế hợp được nó với Chân lí thường tại. Không dứt tuyệt được ý, sự nghiệp tu Đạo có cả ngàn kiếp cũng phế bỏ. Tu Đạo giống như xào rau, lửa thiếu, nước muối không nêm ắt sẽ nhạt nhẽo, sống sượng tất nhiên phải làm lại một cách cẩn thận mùi vị mới thơm ngon. Nếu như không kiên nhẫn nổi tức là tự hủy hoại muôn ngàn đời nghiệp đạo chẳng thành.
"Thiểu đắc, tĩnh kỉ".
Mình còn thiếu thanh tĩnh.
Giảng: Mới thanh tĩnh chưa phát được huệ cho nên gọi là “thiểu đắc tĩnh kỉ” tức mình thanh tĩnh chưa đủ mức.
"Tắc ư hành lập, tọa ngọa chi thời".
Vẻ uy nghi được biểu lộ vào những lúc đi đứng nằm ngồi.
Giảng: Đi đứng nằm ngồi là những cử chỉ biểu lộ bốn tư thế của kẻ tu hành.
"Thiệp sự chi xứ, huyên náo chi sở".
Chốn giao tiếp, nơi ồn ào.
Giảng: Sự giao tiếp biểu lộ rõ các vẻ của tính. Mọi tâm đều dấy động gọi là chốn gây huyên náo.
"Giai tác ý an".
Phải làm cho ý yên định.
Giảng: Bỏ loạn theo yên gọi là “tác ý” tức dẹp “ý” vì “ý” là thức thứ bảy hay phân biệt nghĩ ngợi. Đạt được sự hòa nhã gọi là “an” tức yên tịnh.
"Hữu sự vô sự, thường nhược vô tâm xứ. Xứ tĩnh, xứ huyên, kì chí duy nhất".
Cái có cái không đều trở về cõi hư vô. Chốn yên chốn động cuối cùng hợp làm một.
Giảng: Có và không ràng rịt lẫn nhau, lặng thinh được thì cả hai đều tan biến, muôn pháp không hai duy chỉ một.
"Nhược thúc tâm thái cấp, tắc hữu thành bệnh, khí phát cuồng điên, thị kì hậu dã".
Nếu như bó buộc tâm gắt quá ắt sinh bệnh, uất khí thành điên cuồng, đó là nguyên do.
Giảng: Tâm thiên lệch thành chấp trước nên gọi là “thúc” tức bó buộc. Tâm hướng ngoại bị hình danh sắc tướng bên ngoài lôi cuốn riết sinh điên cuồng, bởi vậy kẻ tu Đạo phải thâu tâm về, không được cố chấp tính nóng nảy, nếu làm sai ắt sinh bệnh.
"Tâm nhược bất động, hựu tu phóng nhiệm, khoan, cấp đắc sở".
Nếu tâm bất động, phải lo thả lỏng, mau chậm đúng lúc.
Giảng: Theo định phát huệ gọi là “phóng nhiệm” tức thả lỏng. Định và huệ cùng hòa hợp gọi là đắc sở tức thấu đạt.
Đạo tu tâm cần phải thâu mở tự nhiên.
"Tự hằng điều thích".
Luôn luôn tự điều hợp thích nghi cùng hoàn cảnh.
Giảng: Định nhiều tức ngu, huệ lắm tức điên. Định huệ được dùng đúng mức gọi là “điều thích” tức là tự mình điều hợp sao cho thích ứng được với mọi trạng huống.
"Chế nhi bất trước, phóng nhi bất động, xử huyên vô ố, thiệp sự vô não giả, thử thị chân định".
Gò bó mà không trói buộc, buông thả mà không động loạn, ồn ào mà không đáng ghét, phiền phức mà không chán nản, đó là chân định.
Giảng: Vắng lặng mà vẫn tỏa sáng, tỏa sáng mà vẫn vắng lặng, không dùng mà dùng luôn, dùng luôn mà không dùng tức là tới được ngọn nguồn của sự vắng lặng, đó mới là tính định chân thực.
"Bất dĩ thiệp sự vô não, cố cầu đa sự. Bất dĩ xử huyên ố, cưỡng cầu tựu huyên".
Không khiến được sự giao tiếp vui vẻ nên sinh lắm chuyện, vì muốn một cách gượng ép nên sinh rối rắm.
Giảng: Thói quen trần trược phải luôn luôn chế ngự nó, không được thả lỏng khiến sinh ra phiền phức.
"Dĩ vô sự, vi chân trạch, hữu sự, vi ứng tích".
Lấy sự không phiền toái làm nơi trú ngụ đích thực, gặp trở ngại phải giải quyết một cách êm xuôi.
Giảng: Thấy được bản tính hư không vắng lặng mới hết ồn ào phiền toái, và chỉ có nơi đó mới là căn nhà đích thực. Trí huệ sử dụng được hết mức thì gặp trở ngại nào cũng đều qua khỏi nên gọi là “ứng tích” tức ứng hợp đúng cách.
"Nhược thủy kính chi vi giám, tắc tùy vật nhi hiện hình".
Nếu lấy gương nước để soi ắt mọi vật đều hiện rõ.
Giảng: Bản tâm vắng lặng trong như gương nước, phản chiếu không cản trở, muôn vật đều lộ rõ gọi là hiện hình.
"Thiên xảo phương tiện, duy năng nhập định".
Mọi phương cách muốn giỏi chỉ nhập định mới có thể.
Giảng: Muôn pháp vốn trống rỗng, vắng lặng không chút lay động nên gọi là nhập định.
"Huệ phát trì, tốc, tắc bất do nhân, vật lệnh định trung, cấp cấp cầu huệ, cấp tắc thương tính, thương tắc vô huệ".
Huệ phát mau lẹ ắt chẳng bởi người, trong khi “định” chớ gấp gáp mong có huệ, gấp gáp ắt làm thương tổn tới “tính”, thương tổn ắt không có huệ.
Giảng: Muốn biết rõ một cách gấp gáp chân định liền mất, ham liên lụy các hình tướng tâm tính bị thương tổn, nên nói “vô huệ” tức không có trí huệ. Do đó phải thể hiện đạo một cách tự nhiên, đạo mới tự sống còn vậy.
"Nhược định bất cầu huệ, nhi huệ tự sinh, thử danh chân huệ".
Nếu như “định” mà không cầu huệ thì huệ mới sinh, đó gọi là chân huệ.
Giảng: Tâm vốn vắng lặng diệu dụng vô cùng, nên rất dễ phát sinh chân trí huệ.
"Huệ nhi bất dụng, thực trí giả ngu".
Có huệ mà không dùng tới, thực biết rõ mà như dốt.
Giảng: Hiểu được “vô phân biệt” tức không so đo nên gọi là “bất dụng” tức không dùng tới; ẩn giấu tài năng nên gọi là “nhược ngu” tức coi giống như đần. Kẻ tu Đạo phải đạt tới mức đại trí mà giống như ngu đần có thể đếm được.
"Ích tư định huệ, song mĩ Vô Cực".
Định huệ gia tăng cùng đẹp vô vàn.
Giảng: Im lìm và sáng tỏ cùng hòa hợp, lay động và tĩnh mịch đều giống nhau cho nên nói “song mĩ Vô Cực” tức cùng đẹp muôn vàn.
"Nhược định trung niệm tưởng, đa cảm chúng tà, yêu tinh bách mị, tùy tâm ứng kiến".
Nếu như trong lúc định còn nghĩ ngợi vẩn vơ, quyến luyến tà khí, vấn vương trăm mối, yêu ma sẽ theo đó mà xuất hiện liền.
Giảng: Nếu như đem tâm cầu hình tướng, các hình tướng liền ứng hiện, tà ma thảy đều giành nhau tới nhiễu loạn.
"Sở kiến Thiên Tôn, chư Tiên, Chân Nhân, thị kì tường dã".
Được thấy Thiên Tôn, chư tiên, Chân Nhân thì là điềm tốt lành vậy.
Giảng: Nếu như thấy các đấng Thiên Tôn, Tiên chân, Thần tướng xuất hiện tuy là điềm tốt lành song không được hí hửng mon men tới gần.
"Duy lịnh định tâm chi thượng, khoát nhiên vô phú. Định tâm chi hạ, khoáng nhiên vô cơ".
Trước khi định phải làm sao cho tâm trống vắng không gì che phủ. Sau khi định, tâm rỗng rang không gì ngăn cản.
Giảng: Ý niệm trước không sinh gọi là “vô phú” tức không nảy nở, ý niệm sau không dấy gọi là “vô cơ” tức không mầm mống.
"Cựu nghiệp nhật tiêu, tân nghiệp bất tạo".
Nghiệp cũ ngày một tiêu tan, nghiệp mới chẳng gây thêm.
Giảng: Thói tật kiếp trước đều diệt trừ được hết gọi là nghiệp cũ ngày một tiêu tan. Tâm không còn động nên gọi là nghiệp mới không gây.
"Vô sở quái ngại, huýnh thoát trần lung".
Không còn chỗ trở ngại, thoát xa cái lồng trần thế.
Giảng: Nhất quyết không nhiễm nên nói là không còn chỗ trở ngại. Cởi gỡ mọi trói buộc nên gọi là thoát xa cái lồng trần thế giam giữ.
"Hành nhi cửu chi, tự nhiên đắc đạo".
Chịu khó thực hành những điều vừa nói trên lâu tự nhiên đắc Đạo.
Giảng: Không ngừng để trí theo dõi cùng quyết tâm thực hành những điều đã chỉ dẫn gọi là “hành nhi cửu chi”. Đúng lẽ hợp Chân lí gọi là “đắc đạo”.
"Phù đắc Đạo chi nhân, phàm hữu thất hầu".
Phàm những kẻ đắc đạo tất có được bảy điểm như sau
Giảng: Phàm những kẻ đắc đạo, tâm lộ rõ bảy điểm tượng trưng như sau:
1._"Giả tâm đắc định, dị giác chư trần lậu".
Kẻ tâm đạt định dễ thấy được các tính trần hiện ra.
Giảng: Tâm đạt thanh tĩnh, thấy được hết các ý nghĩ phàm tục.
2._"Giả túc tật phổ tiêu, thân tâm khinh sảng".
Kẻ trừ hết những thói tật kiếp trước, thân tâm nhẹ nhõm sảng khoái.
Giảng: Chân khí thanh nhẹ được như chân khí của bào thai còn nằm trong bụng mẹ, tất cả những tật xấu vô phương sửa chữa từ trước tới giờ thảy đều diệt trọn, tâm đạo hợp Chân lí, thân mình nhẹ nhõm không già.
3._"Giả điền yểu tổn, hoàn niên phục mệnh".
Kẻ tự bồi bổ để khỏi chết sớm, sẽ hồi sinh trẻ lại.
Giảng: Xương cứng cáp tủy tràn đầy là “điền bổ yểu tổn” giữ gìn dung nhan khiến cho khỏi già gọi là “hoàn niên phục mệnh”.
4._"Giả diên số vạn tuế, danh viết Tiên nhân".
Kẻ số mạng dài cả mười ngàn năm gọi là người tiên.
Giảng: Sống lâu không chết, số mệnh kéo dài cả vạn năm, tên được ghi vào sổ tiên nên gọi là “Tiên nhân” tức người cõi tiên.
5._"Giả luyện hình vi khí, danh viết Chân Nhân".
Kẻ luyện hình chất thành khí lực gọi là “Chân Nhân” tức người thành đạo.
Giảng: Đạt được nguyên khí ban đầu gọi là “luyện hình vi khí” tức luyện hình chất thành khí lực. Tính tình chân chính vô vi gọi là “Chân Nhân” tức người đắc đạo.
6._"Giả luyện Khí thành Thần, danh viết Thần nhân".
Kẻ luyện khí thành thần gọi là “thần nhân” tức người đạt đạo.
Giảng: Chân khí thần thông, âm dương không thể đo lường, nên gọi là “thần nhân” tức người thông suốt đạo.
7._"Giả luyện thần hợp đạo, danh viết Chí nhân".
Kẻ luyện thần hợp làm một với đạo gọi là “Chí Nhân” tức người thành đạo.
Giảng: Tinh thần Chân chính hòa hợp được với đạo gọi là “Chí Nhân” tức người đắc đạo, còn gọi là Kim Tiên, Như Lai.
"Kì ư giám lực, tùy hậu ích minh".
Sức đạo soi càng mạnh, hỏa khí càng sáng rỡ.
Giảng: Cái sức soi rọi kêu là “giám lực” tức chiếu sáng hoài không dứt. Sự sáng gia tăng gọi là “ích minh” tức sáng mãi không ngừng. Tóm lại sức đạo càng mạnh, hỏa khí càng sáng rỡ vậy.
"Đắc chí Đạo thành, huệ nãi viên bị".
Tu tới mức thành Đạo, trí huệ ắt tròn đầy.
Giảng: Nếu như bổn tính đạt đạo, trí huệ sáng sủa tròn đầy, muôn pháp đều thông.
"Nhược nãi cửu học định tâm, thân vô nhất hậu, xúc linh uế chất, sắc tạ phương không, tự vân huệ giác, hựu xưng thành đạo giả, cầu đạo chi lí, thực sở vị nhiên".
Nếu như học định tâm đã lâu mà không có được một chút thanh điển, tuổi tác thêm cao, thể chất suy nhược, sắc diện phai tàn mà còn tự cho là mình mở huệ giác cùng đắc Đạo thì quả thực chẳng hợp lí chút nào.
Giảng: Thần sáng suốt hợp với lẽ đạo ắt đạt được Chân lí, tâm cảm thấy không còn thân xác, xa rời sống chết. Kinh Tây Thăng (về "Tây Trúc" tức cõi Phật) có nói: “Nếu như quên mất gốc rễ sinh thành, làm sao có thể biết cội nguồn lí Đạo?”. Bởi vậy kẻ học đạo mãi mà chẳng thấy có được chút Thanh điển, hẳn là công lực chưa tới mức, sự sáng đã mất tiêu, tuổi tác thêm cao, thân thể suy nhược, còn tự cho là mình mở huệ và đắc Đạo, thì quả thực chẳng thể có được. Bởi vậy phải nắm lấy thời gian, dũng mãnh tinh tiến.
Thơ:
“Trí” khởi sinh “U cảnh”,
“Hỏa” phát sinh “ư duyên”,
Các cụ “Chân” chủng tính,
Thừa lưu “thất” đạo nguyên,
Khởi tâm “dục”: tức tri,
Tâm khởi “tri”: cánh phiền,
Liễu tri “tính” bản không,
Tri tắc “chúng” diệu môn.
No comments:
Post a Comment