Prajna Paramita extraction applying
Hello everyone!
Welcome to our webpage
Translate this page in your preferred language:
You can translate the content of this page by selecting a language in the select box (The translation is not very exactly because of the automatic machine limitation).
Bát nhã ba la mật đa
Bát nhã ba la mật đa.
Tu-bồ-đề ngôn: “Phất dã, Thế Tôn. Hà dĩ cố? Thật vô hữu pháp danh A-la-hán.
Thế Tôn, nhược A-la-hán tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo. Tức vi trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
“Thế Tôn, Phật thuyết ngã đắc Vô tránh Tam-muội, nhân trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A-la-hán. Ngã bất tác thị niệm:
Ngã thị ly dục A-la-hán.
“Thế Tôn, ngã nhược tác thị niệm: Ngã đắc A-la-hán đạo, Thế Tôn tắc bất thuyết:
Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh giả. Dĩ Tu-bồ-đề thật vô sở hành, nhi danh Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh.”
Phật cáo Tu-bồ-đề: “Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp hữu sở đắc phủ?”
“Thế Tôn, Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc.”
“Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ Tát trang nghiêm Phật độ phủ?”
“Phất dã, Thế Tôn. Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.”
“Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ Tát ma-ha-tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm: Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
“Tu-bồ-đề, thí như hữu nhân, thân như Tu-di sơn vương. Ư ý vân hà, thị thân vi đại phủ?”
Tu-bồ-đề ngôn: “Thậm đại, Thế Tôn. Hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân thị danh đại thân.
….. ……
….. ……
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quan Như Lai.”
Nhĩ thời Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.”
“Tu-bồ-đề! Nhữ nhược tác thị niệm:
Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Tu-bồ-đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A-nậu-đa-la Tam miệu Tam-bồ-đề.
“Tu-bồ-đề! Nhược tác thị niệm: Phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả thuyết chư pháp đoạn diệt tướng. Mạc tác thị niệm.
“Hà dĩ cố? Phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng.
“Tu-bồ-đề! Nhược Bồ Tát dĩ mãn Hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo bố thí. Nhược phục hữu nhân tri nhất thiết pháp vô ngã đắc thành ư nhẫn. Thử Bồ Tát thắng tiền Bồ Tát sở đắc công đức. Hà dĩ cố? Dĩ chư Bồ Tát bất thọ phước đức cố.”
….. ……
….. ……
“Vân hà vị nhân diễn thuyết? Bất thủ ư tướng, như như bất động. Hà dĩ cố?
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng ảo bào ảnh,
Như lộ diệc như điển.
Ưng tác như thị quán.”
Phật thuyết thị kinh dĩ, Trưởng lão Tu-bồ-đề, cập chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu bà-tắc, ưu-bà-di, nhất thiết thế gian, thiên, nhân, a-tu-la… văn Phật sở thuyết giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Tập thứ nhì.
LUẬN A-ĐÀ-NA THỨC.
Ngài Thái Hư Pháp sư giảng.
Sa môn Thích Thiện Hoa dịch nghĩa.
Tên A-đà-na thức, xuất xứ từ đâu?
– Trong Kinh Giải Thâm Mật có bài tụng rằng:
Nguyên văn chữ Hán:
A-Đà-Na thức thậm thâm tế
Tập khí chủng tử như bộc lưu
Ngã ư phàm ngu bất khai diễn
Khủng bỉ phân biệt chấp vi ngã.
Nghĩa là: Thức A-đà-na rất thậm thâm và tế nhị; các tập khí (1) chủng tử của nó sinh diệt như dòng nước thác. Ta (Phật) đối với chúng phàm phu và Nhị thừa, không giảng nói thức này; vì sợ chúng phân biệt chấp làm Ngã.
Trong kinh Đại Phật Đảnh Thủ lăng nghiêm nói:
Nguyên văn chữ Hán:
Đà na vi tế thức,
Tập khí thành bộc lưu,
Chân, phi chân khủng mê,
Ngã thường bất khai diễn.
Nghĩa là: Thức A-đà-na rất là vi tế; các tập khí như dòng nước thác. Vì sợ chúng phàm phu và Nhị thừa chấp thức này là “chân” hay “phi chân”, nên Ta (Phật) chẳng hề giảng nói thức này cho chúng nghe.
Nay chúng ta căn cứ theo câu văn và nghĩa lý của bài tụng trên mà quan sát – Trong bài tụng nói chữ “Phàm” là chỉ cho loài dị sinh (chúng sinh); nói chữ “Ngu” là chỉ chung cả phàm phu và Nhị thừa (chữ ngu là mê lầm).
Đại ý hai bài tụng nói: A-đà-na rất thâm sâu và tế nhị, tóm chứa các tập khí chủng tử từ vô thủy đến nay. Nó làm chủ giữ gìn báo thân của chúng hữu tình sống trong một thời kỳ. Xem in tuồng như “chân”, song nó hư vọng sinh diệt rất là vi tế. Cũng như dòng nước thác, ở xa thấy như điềm tịnh, mà kỳ thật nó chảy rất mau.
Chẳng những chúng phàm phu (Dị sinh) (2) không biết mà hàng Tiểu thừa Thanh văn chấp pháp (ngu pháp) cũng mê lầm thức này. Phật đối với hai hạng này chẳng hề giảng nói đến thức A-đà-na, vì sợ họ mê lầm chấp làm “Ngã”.
Chúng phàm phu mê lầm chấp ngã thì thêm khổ sinh tử; còn hàng Nhị thừa tuy có thể lìa được khổ sinh tử, song nếu mê lầm chấp ngã thì lâu chứng đạo quả; chi bằng chẳng cho họ nghe đến thức này còn hơn.
Bài tụng của kinh Lăng Nghiêm và kinh Giải Thâm Mật, hai câu đầu đồng nghĩa nhau. Trong câu thứ hai nói chữ “tập khí” tức là “chủng tử”. Đến câu thứ ba lại chia ra làm hai phương diện: Bên kinh Lăng Nghiêm đại ý nói: “Thức này rất rộng sâu và tế nhị, sinh diệt tương tục không gián đoạn. Bởi nó tương tục không gián đoạn cho nên in như “chân”; vì nó sinh diệt nên “không phải chân”.
Nếu người mê lầm chấp thức này là “chân” thì bị cái chấp “Tăng ích” (thêm), sẽ đoạ mãi trong sinh tử luân hồi. Còn người mê lầm chấp thức này là “phi chân”, thì bị cái chấp “Tổn giảm” (bớt); vì cho thức này là “vọng” rồi rời bỏ thức này để tìm cầu cái “chân thật” thì không thể được, nên cũng đoạ mãi trong sinh tử luân hồi.
Câu tụng thứ tư trong kinh Giải Thâm Mật, đại ý nói: “Phân biệt chấp thức này làm ngã”, tức đồng bên kinh Lăng Nghiêm nói: “Mê thức này chấp là chân”. Song mê lầm chấp thức này “phi chân” cũng là chấp Ngã. Vì sợ cho chúng phàm phu và hàng Nhị thừa mê lầm chấp thức này là “chân” hoặc “phi chân”, cho nên Phật chẳng hề giảng nói.
Trên bài tụng nói “chấp ngã”, tức là cố chấp thức này làm thật ngã, thật pháp. Bởi phàm phu và Nhị thừa đối với thức này hay khởi tâm phân biệt chấp là “chân” hoặc “phi chân”.
Đem hai bài tụng trên đây để đối chiếu mà quan sát; thì ý nghĩa đầy đủ. Song, bài tụng trong kinh Giải Thâm Mật có một nghĩa đặc biệt và rõ ràng hơn là: “Chúng phàm phu và Nhị thừa dễ khởi tâm phân biệt chấp làm Ngã”.
Dưới đây là Nguyên văn bài kệ Hán Việt ở quyển 5 của Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
Chơn tánh hữu vi không,
Duyên sanh cố như huyễn,
Vô vi vô khởi diệt,
Bất thật như không hoa,
Ngôn vọng hiển tri chơn,
Vọng chơn đồng nhị vọng,
Du phi chơn phi chơn,
Vân hà kiến sở kiến,
Trung gian vô thật tánh,
Thị cố nhược giao lô,
Mê hối tức vô minh,
Thác minh tiện giải thoát,
Giải kiết đồng sở nhơn,
Thánh phàm vô nhị lộ,
Nhử quán giao trung tánh,
Không hữu nhị cung phi,
Mê hối tức vô minh,
Bất minh tiện giải thoát,
Phược giải nhơn thứ đệ,
Lục giải nhất diệt vong,
Căng tuyển trạch viên thông,
Nhập lưu thành Chánh Giác,
Đà na vi tế thức,
Tập khí như bọc lưu,
Chơn phi chơn cũng mê,
Ngã thường bất khai diễn,
Tự tâm thủ tự tâm,
Phi huyễn thành huyễn pháp,
Bất thủ vô phi huyễn,
Phi huyễn diệt bất sanh,
Huyễn pháp vân hà lập,
Hữu thị Diệu Liên Hoa,
Kim cang vương bảo giác,
Như huyễn tam ma đề,
Đờn chỉ siêu vô học,
Thử A Tì đạt ma,
Thập phương bạt già phạm,
Nhất lộ Niết Bàn môn,
Dịch nghĩa:
Pháp hữu vi không có tự thể. Thật chất của nó là không. Vì nhơn duyên sanh cho nên có. Có mà không thật có cho nên gọi nó là “như huyễn” (huyễn là cái bóng).
Vô Vi là nói để đối đãi với Hữu Vi. Tự tánh của Vô Vi vốn chẳng sanh chẳng diệt (vì nó là bảng thể của chơn như).
Pháp Hữu vi không thật có, giống như hoa đóm trong hư không. Vì anh bị bệnh mắt nên thấy có hoa đóm chứ nào có gì đâu. Pháp Hữu Vi và Vô Vi cũng vậy. Vì anh bị bệnh chấp ngã và chấp pháp nên mới thấy là có.
Vì anh còn chấp nên nói cái Vọng để hiển bày cái Chơn.
Nhưng nếu anh chấp là có cái Chơn, muốn bỏ Vọng để tìm Chơn thì anh đã sai rồi vì Vọng và Chơn cải hai đều là Vọng.
Tự thể của nó chẳng phải là Chơn cũng chẳng phải là Vọng. Nó là Như Vậy (Như Thị), muốn gán ghép cho cái gì cũng sai hết vì chấp có cái Chơn hay Vọng cũng đều lọt vào biến kế sở chấp.
Chơn và Vọng cũng chẳng phải thì làm sao có được cái gọi là năng kiến và sở kiến?
Thức ở giữa Căn và trần sanh ra sự phân biệt vốn không có thật tánh.
Vậy nên giống như hình 2 cây lau gác nhau.
Cột để sanh ra phiền não vô minh hay là mở để có được sự giải thoát cũng đồng dựa trên 6 căn.
Anh làm chủ được 6 căn thì anh là thánh. Anh không làm chủ được 6 căn thì anh là phàm phu.
Muốn mở 6 gút (tiêu biểu cho 6 căn) đã cột thì phải mở theo từng thứ lớp.
Nhưng khi 6 gút đã mở hết rồi thì cái một cũng chẳng còn (nào có 1, 2, 3, 4 gì nữa đâu).
Trong 6 căn của ông, chỉ cần chọn 1 căn nào nhẹ nhất để tu hành để sớm được viên thông.
Khi đã được quả Nhập Lưu là xem như đã thành Phật.
Thức A đà na rất vi tế.
Tập khí chúng sanh lại quá sâu dày.
Ngại chúng sanh thường hay chấp Chơn và Vọng.
Vì ý nghĩa thâm sâu khó hiểu, nên Như Lai ít nói đến thức này.
Tự tâm mình là Phật nhưng còn chấp lấy tìm cầu tâm, cầu Phật ở bên ngoài,
Nên các pháp vốn chẳng phải huyễn (Chơn) điều trở nên pháp huyễn (Vọng).
Nếu không chấp trước và tâm thanh tịnh rồi,
Chơn còn không có thì làm sao có cái gọi là Vọng?
Quán được như vậy gọi là “Như Huyễn Tam Ma Đề” nghĩa là pháp tu thiền, quán vạn pháp duyên sanh như huyễn.
Có được pháp tu này quý báu và chắc chắn ví như vua của các loài kim cương,
Là thanh tịnh như Diệu Liên Hoa,
Khảy ngón tay trong một sát na liền vượt qua hàng vô học (bật A La Hán trở lên),
Khắp mười phương Chư Phật cũng đều dựa vào pháp tu quán này,
Để cùng đi trên con đường đến thành đô Niết Bàn!!
Tôi cho rằng toàn bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm đã được Phật tóm gọn trong bài kệ này. Nó cũng ăn qua với Kinh Duy Ma Cật (ví dụ như Chơn và Vọng là Bất Nhị), kinh Kim Cang (ví dụ như chấp có cái Chơn nào đó thì đã lọt vào tứ tướng), kinh Pháp Hoa (ví dụ như ở đoạn Thập Như Thị) và kinh Hoa Nghiêm (ví dụ như ở đoạn Tâm, Phật và Chúng Sanh không hai không khác).
“Nắng mữa là chuyện của trời,
chứ đâu phải chuyện của người thế gian!!!”
Find us at:
No comments:
Post a Comment